1 tháng 12, 2015

TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRẦN BẠT

   
( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ) :Nguyễn Trần Bạt (sinh năm 1946 ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, Việt Nam) - doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả, nhà sáng lập InvestConsult Group (công ty tư vấn chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam về đầu tưkinh doanh ngay sau khi Việt Nam ban hành chính sách "Đổi mới" vào năm 1987. Hiện nay (2010) ông đang là Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc công ty này. Công ty InvestConsult Group có doanh thu hàng triệu USD mỗi năm. Ông đã được nêu danh trong các cuốn sách Barons "Who’s Who in Vietnam"[1], "Who’s Who in Asia Pacific"[2], "Who’s Who in the World"[3] và "The Global 500 Leaders for the New Century"[4] như một luật sư và nhà tư vấn xuất sắc.[5][6][7] Ông đã từng nhiều lần tư vấn cho Chính phủ Việt Nam về các vấn đề kinh tếchính trị.[8]

Tiểu sử :

Nguyễn Trần Bạt sinh năm 1946[5] ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.[9] Cha ông từng học ở Hà Nội và đã đỗ Tú tài. Cha ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám, nhưng vì ông nội và ông ngoại của ông là các địa chủ nên cha ông đã bị tạm dừng sinh hoạt Đảng cho tới năm 1960.[7]
Năm 1954, ông theo mẹ ra Hà Nội. Tại đây ông phải vất vả kiếm sống. Ông từng phải bán nước chè dạo ở ga Hàng Cỏ.
Năm 1963, ông tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1973, ông tốt nghiệp kỹ sư xây dựng cầu đường trường Đại học Xây dựng.
Ông tiếp tục phục vụ quân đội cho đến năm 1975.[9]
Ông còn có bằng cử nhân luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.[5]
Năm 1975 đến 1984, Ông từng giữ quyền chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải.
Năm 1984, ông thôi việc Nhà nước.[6]
Năm 1987, Nguyễn Trần Bạt khởi xướng việc thành lập Văn phòng Xúc tiến các hoạt động sở hữu công nghiệp Việt Nam, tiền thân của Công ty Sở hữu Công nghiệp INVESTIP thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Năm 1989, dưới sự bảo trợ của Viện Khoa học Việt Nam, ông cùng với một số đồng nghiệp đã thành lập Công ty Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao Công nghệ (có tên giao dịch là InvestConsult Ltd). Kể từ đó, InvestConsult Ltd. chuyển hướng sang cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài và trở thành một trong những tổ chức đầu tiên của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này.[10]

Suy tưởng cùng Nguyễn Trần Bạt
 
 
Nguồn Vietnamne

Với hơn 1000 trang viết được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành thành ba cuốn sách gây xôn xao dư luận, bạn đọc biết đến Nguyễn Trần Bạt với tư cách là một người viết, một người nghiên cứu triết học hơn là một nhà kinh doanh. Là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc InvestConsult Group, một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, đồng nghiệp coi ông là một doanh nhân thành đạt.

Một buổi sáng tháng Ba, chúng tôi đến thăm Nguyễn Trần Bạt ngay tại đại bản doanh của Investconsult Group tại quận Đống Đa - Hà Nội. Đó là một khu dinh thự trên một khuôn viên rộng cả ngàn mét vuông, sang trọng náu mình trong một con ngõ nhỏ ở phố Thái Hà. Những hàng cau vua xanh ngắt quanh năm bao quanh trang điểm thêm cho hai tòa nhà xây theo lối kiến trúc cổ châu Âu thời Phục hưng.

Tiếp chúng tôi còn có những cộng sự thân tín của ông, là những người nắm giữ các trọng trách trong Investconsult Group. Câu chuyện trao đổi diễn ra quanh chủ đề về công cuộc đổi mới của đất nước và vai trò của kinh tế tư nhân. Bằng quan điểm uyên bác và cái nhìn sâu sắc, mạch văn hấp dẫn và tinh tế, Nguyễn Trần Bạt đã xới lên và gợi mở các giải pháp một cách thuyết phục cho những chủ đề nóng hổi, thiết thực và sống còn của dân tộc.

Cách đặt vấn đề của ông cởi mở, theo kiểu bàn tròn, nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn, không né tránh. Câu chuyện của chúng tôi không chỉ dừng lại ở một chủ đề kinh tế mà được đề cập đến một phạm vi khá rộng, bao gồm cả hệ thống chính trị, vai trò của Đảng, của tôn giáo và các nhân tố trong việc chấn hưng đất nước. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi chia cuộc nói chuyện thành 9 chủ đề nhỏ. Suy tưởng là tên của một cuốn sách mà ông đã xuất bản, chúng tôi lấy nó làm đầu đề để đặt cho chùm bài viết này.  
I. Cùng tư duy để giải quyết những vấn đề của đất nước 
Trước những vấn đề nóng bỏng và nhạy cảm của thời đại như: làm thế nào để dân chủ hoá đất nước? Có nhất thiết phải đa nguyên đa đảng hay không? Đảng có vai trò như thế nào trong lộ trình dân chủ hoá? Nguyễn Trần Bạt đã bày tỏ quan điểm của mình như một người trong cuộc cùng tham gia tháo gỡ những vướng mắc.

Ông cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục là người lãnh đạo quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ Việt Nam.

"Không hài lòng với thực trạng kinh tế hiện nay"
PV: Chúng tôi được biết ông vừa mới xuất bản một số tác phẩm về cải cách và phát triển được nhiều bạn đọc đánh giá cao. Hiện nay Vietnamnet đang có chuyên mục: "Chân dung" với quan điểm là cổ vũ những nhân tố mới, tiến bộ. Khi những nhân tố mới được cổ vũ thì cái cũ phải lùi dần đi. Chúng tôi rất muốn trao đổi với ông về những vấn đề đổi mới của đất nước.

Nguyễn Trần Bạt (NTB): Cũng giống các anh, tôi không bằng lòng với thực trạng Việt Nam hiện nay. Là người hoạt động quốc tế đã hơn 20 năm, từ ngày Đảng ta đưa ra chương trình đổi mới và mở cửa, tôi đã đến những chỗ cần đến trên thế giới, có lẽ cũng tiếp xúc với những người cần tiếp xúc và có thể tiếp xúc được, đã tham gia các cuộc thảo luận quốc tế mà tôi có điều kiện và cảm thấy cần thiết trên thế giới. Số lượng khách nước ngoài mà tôi tiếp có lẽ không ít hơn số khách của một bộ.

Với một trải nghiệm như vậy, tôi thuộc vào nhóm không hài lòng lắm về thực trạng Việt Nam hiện nay. Theo tôi, có nhiều cách tiếp cận, có cách của những người chống đối, có cách của những người đồng chí nổi giận, có cách của những người trong cuộc tìm cách tháo gỡ trạng thái “bê trễ” hiện nay. Tôi thuộc nhóm thứ ba. Tôi cố gắng đi tìm những lý giải cơ bản về các hiện tượng tiêu cực của xã hội chúng ta. Một người có trí khôn trước hết là một người phải biết chấp nhận các thực trạng chính trị. Tình hình hiện nay là một thực trạng chính trị, nó tồn tại khách quan ngoài ý muốn của rất nhiều người, nhiều lực lượng khác nhau trong xã hội, kể cả những người cộng sản cấp tiến hay bảo thủ cũng vậy.

Lịch sử Việt Nam hiện đại nói cho cùng là lịch sử diễn biến nóng của một cuộc chiến tranh lạnh lâu dài. Nó hình thành nhiều lực lượng, nhóm quan điểm và phải nói rằng cực kỳ phức tạp. Sự phức tạp ấy không chỉ diễn ra từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Sự phức tạp ấy diễn ra từ trước, cho nên giai đoạn cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là giai đoạn kế tục và tiếp tục những rắc rối và mâu thuẫn có trong xã hội Việt Nam từ trước đó, thậm chí có trong phong trào Cộng sản quốc tế. Vì vậy, để gỡ những câu chuyện như thế này cần phải suy nghĩ một cách rất công phu và phải đặt trên bình diện xã hội.

Nếu không đặt vấn đề giải quyết thực trạng Việt Nam trên quy mô xã hội thì liệu một mình những người cộng sản Việt Nam có giải quyết được không? Tôi nghĩ rằng không ai có thể giải quyết bài toán lịch sử Việt Nam, bài toán phát triển Việt Nam một mình được, Cho nên, giải quyết những tồn tại của thực tế chính trị, xã hội, kinh tế Việt Nam trên quy mô xã hội không phải là công việc của riêng một lực lượng nào, kể cả lực lượng đang lãnh đạo đời sống chính trị Việt Nam. Nhân dân phải góp công vào đấy, giới trí thức phải góp công vào đấy, phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Tôi nghĩ chống đối không phải cách tốt nhất bởi chống đối tạo ra cái cớ để các thế lực bảo thủ tồn tại và phát triển. Cần phải tạo ra hòa khí giữa các lực lượng khác nhau của xã hội để cùng nhau suy nghĩ về các vấn đề thiết thực của đời sống Việt Nam. Đó là quan điểm chính trị của tôi.

“Đổi mới II”- Pháp chế hoá nền kinh tế thị trường"
PV: Là người thường xuyên đọc Vietnamnet, ông có những suy nghĩ gì về Đổi mới II?

NTB: Tôi có nghe nói về ý tưởng "Đổi Mới II". Tôi đã từng trả lời phỏng vấn nhiều tờ báo lớn trên thế giới như Foreign Affairs, Times, The USA Today, Los Angeles Times, Washington Times, Far Eastern Economic Review... nên cũng có một chút kinh nghiệm. Chúng ta có thể thảo luận những vấn đề này một cách có ích. Tôi nghĩ rằng "Đổi Mới II" là việc tất yếu phải làm, vì "Đổi Mới I" là gì? Là cởi trói, tức là chúng ta tự trói gô mình. Chỉ có 5% đất đai của Việt Nam là có tự do trong thời kỳ bao cấp, gọi là đất 5%, và về cơ bản là người dân hay là xã hội dân sự của Việt Nam chỉ tồn tại trên 5% đất đai ấy. 95% còn lại là nền kinh tế kế hoạch và thực tại toàn thế giới đã chứng minh rằng nền kinh tế kế hoạch đã thất bại.

Ai đó nói là Chủ nghĩa xã hội đã thất bại nhưng tôi muốn nói một cách thận trọng hơn là bộ phận kinh tế của nó đã thất bại trên phạm vi toàn cầu, bộ phận chính trị của nó thất bại ở một số các quốc gia quan trọng và gặp khó khăn ở một số quốc gia khác. Một khi bộ phận chính trị của nó vẫn còn tồn tại ở một số quốc gia, hay nói cách khác, nó còn thoi thóp thở thì chúng ta chưa nói đến cái chết được. Nhưng về mặt kinh tế thì có thể khẳng định nó đã thất bại trên phạm vi toàn cầu. Ngay cả ở những nước như chúng ta người ta cũng đã bài xích cái gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung. Cho nên đã có kết luận vừa chính thống, vừa phổ biến, vừa có cơ sở khoa học về sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch. Tất cả những ai còn có âm mưu định làm sống lại nền kinh tế này thì chắc chắn là không bình thường về mặt sinh học.

Giai đoạn "Đổi Mới I" là giai đoạn mà chúng ta tự cởi trói mình. Chúng ta cởi trói nhưng chúng ta hoàn toàn chưa có chương trình hành động một cách nhất quán để phát triển. Sự phát triển mà chúng ta có là sức sống bản năng của xã hội. Sức sống bản năng của xã hội không phải tồn tại từ sau khi cởi trói mà nó đã tồn tại ngay cả trong thời kỳ bao cấp, ngay cả trong chiến tranh, ngay cả những lúc khốc liệt nhất của đời sống chính trị của chúng ta như cải tạo tư sản miền Bắc, cải tạo tư sản ở miền Nam rồi sự trỗi dậy của cái gọi là cải tạo tư sản bằng cách tịch thu nhà cửa vào những năm 80... Ngay cả lúc ấy thì "nền kinh tế thị trường" vẫn tồn tại ở Việt Nam và nó tạo ra sự không chết bất đắc kỳ tử của nền kinh tế Việt Nam. 
"Đổi Mới I" chỉ đảm bảo hợp thức hóa về mặt lý luận chứ chưa phải hợp thức hoá về mặt pháp chế sự tồn tại của nền kinh tế tự do trong lòng một xã hội mà nền kinh tế kế hoạch thống trị. Từ hợp thức hóa về mặt lý luận chúng ta đang dần dần hợp thức hóa về mặt pháp chế. Chúng ta đang bàn đến sự thống nhất các Bộ Luật đầu tư, chúng ta đang bàn đến sự thống nhất của Bộ Luật doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là chúng ta đang trên quá trình pháp chế hóa nền kinh tế thị trường. Đấy là về mặt tinh thần, mặt lý luận, mặt pháp chế. Tuy nhiên, về mặt thuần túy chính trị thì chúng ta vẫn chưa để cho nền kinh tế thị trường có được địa vị thực sự vì chúng ta vẫn còn gọi nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng nền kinh tế này sẽ biến mất khi chúng ta đạt được chủ nghĩa xã hội. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có phải là biểu hiện kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội không và liệu Chủ nghĩa Xã hội có phủ định nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không? Đây là điều cần nghiên cứu cẩn thận.
Phải tiến hành đồng thời 4 cuộc cải cách PV: Ông vừa nói "Đổi Mới I" chỉ đảm bảo là làm hợp thức hóa về mặt lý luận chứ chưa phải hợp thức hoá về mặt pháp chế. Phải chăng, Đổi mới II chỉ là việc hợp thức hoá về mặt pháp chế cho nền kinh tế thị trường, tức là chỉ tiếp tục đổi mới về mặt kinh tế?
NTB: "Đổi mới II" có phải tiếp tục là đổi mới về kinh tế hay không? Tôi cũng nghiên cứu về cương lĩnh chính trị của Đại hội Đảng lần thứ X nhưng tôi khác với nhiều người khác là tôi không góp ý ở trên báo chí. Như các anh biết, tôi đã viết và xuất bản các quyển sách để nói về chuyện này. Về quan điểm của "Đổi Mới II" thì nó còn tiếp tục là một cuộc tranh luận. Tôi chưa tìm thấy ở đâu nói rõ bản chất của giai đoạn thứ hai của quá trình đổi mới là gì. Nếu chỉ là tiếp tục đổi mới kinh tế thì có được không? Có hiệu quả để xúc tiến sự phát triển không?
Bản chất của tất cả các quá trình chính trị chính là để tạo ra động lực của sự phát triển hay là tạo ra sự phát triển. Các chương trình xã hội mà không dẫn đến phát triển thì đều không có ý nghĩa gì cả. Nếu không phát triển thì chúng ta không xóa đói giảm nghèo được. Nếu không phát triển thì chúng ta không có cách gì làm cho xã hội chúng ta trở nên dân chủ, công bằng, văn minh được. Phát triển là lối thoát duy nhất cho tất cả các quốc gia, không chỉ cho Việt Nam, để tạo ra trạng thái lý tưởng của đời sống, trạng thái tích cực của đời sống. Vậy phát triển có phải là hệ quả của duy nhất cải cách kinh tế không hay phát triển là hệ quả của nhiều cuộc cải cách?

Tôi đã viết một tác phẩm rất công phu về cải cách và mối quan hệ biện chứng giữa cải cách và sự phát triển, thậm chí chúng tôi còn nghiên cứu cải cách như thế nào, cải cách những gì, cải cách đến đâu. Tôi sẽ không đi sâu vào những vấn đề đó vì nó đã nằm trong quyển sách rồi. Nhưng quan điểm rõ ràng của tôi là sự phát triển không thể và không phải là hệ quả của duy nhất cải cách kinh tế, thậm chí cũng không phải là hệ quả của duy nhất cải cách chính trị. Rất nhiều người sốt ruột muốn cải cách chính trị ví dụ như người ta bàn đến phải thay điều này, điều kia trong Hiến pháp, tạo ra trạng thái đa nguyên và đa đảng của đời sống chính trị... Tôi chưa có kết luận gì về chuyện này nhưng tôi cho rằng nếu đó là cái cần thiết thì cũng không phải là cái cần thiết duy nhất. Chúng ta hay các nước thế giới thứ ba là những dân tộc lạc hậu không chỉ về kinh tế, mà còn lạc hậu về chính trị, lạc hậu về văn hoá và đặc biệt là lạc hậu về giáo dục. Cho nên cải cách chính trị, cải cách kinh tế, cải cách văn hoá và cải cách giáo dục là 4 cuộc cải cách mà chúng tôi đã tập trung phân tích và thể hiện rất rõ ràng trong các tác phẩm của mình. Chúng tôi cho rằng phải tiến hành đồng bộ các cuộc cải cách này thì mới tạo ra được trạng thái mà tôi gọi là trạng thái tự nở ra của đời sống xã hội và của con người.

Hiện nay, tất cả các nước thế giới thứ ba đều cải cách theo gợi ý hoặc sức ép của các định chế quốc tế như IMF, WB, WTO hay những hiệp định như BTA chẳng hạn... Tôi nghĩ những việc đó cũng có một ý nghĩa nào đó nhưng nó không phải là tất cả các ý nghĩa. Đấy là cái mà tôi đã để rất nhiều năm để phân tích. Tôi cho rằng chắc chắn sự phát triển của giai đoạn sắp tới của Việt Nam sẽ buộc phải gắn liền với 4 cuộc cải cách như vậy. Đấy là 4 cuộc cải cách cơ bản. Thực ra nói là người Việt Nam không cải cách chính trị thì cũng không đúng mà người Việt Nam tưởng rằng có thể thay thế cải cách chính trị bằng những cuộc cải cách hành chính. Tôi cho rằng không phải. Có cải cách hành chính 100 năm nữa cũng không dẫn đến sự tiến bộ xã hội vì bản chất tội ác không nằm trong thủ tục hành chính mà thủ tục hành chính chỉ là biểu hiện của tội ác. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo quá trình dân chủ hoá.

PV: Trong bốn cuộc cải cách mà ông vừa đề cập có cải cách chính trị. Vậy vai trò của Đảng thế nào trong cuộc cải cách ấy?
NTB: Rất nhiều lực lượng muốn thay thế những người cộng sản Việt Nam bằng những người khác hay nói cách khác là đánh đổ những người cộng sản Việt Nam. Quan điểm dứt khoát của tôi là trong những thập niên trước mắt không làm việc ấy được và không được làm việc ấy. Tại sao lại như vậy? Vì xã hội không đủ khả năng dể trả giá đắt.
Vì vậy, cần phải động viên một cách quyết liệt sự đổi mới của những người cộng sản, hay nói rõ hơn, những người cộng sản phải tổ chức quá trình dân chủ hoá xã hội Việt Nam. Bởi vì dân chủ hoá xã hội Việt Nam vừa là sứ mệnh, vừa là nghĩa vụ, vừa là một món nợ tinh thần của những người cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam.

Tham vọng của tôi là tạo ra những cơ sở lý luận, tạo ra những góp ý có chất lượng chính trị để những người cộng sản Việt Nam hay Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục là người lãnh đạo quá trình tạo ra nền dân chủ cho đất nước. Đấy là quan điểm chính trị của tôi và là kết luận khoa học của những nghiên cứu của tôi.
 
 
Xemtiếp

 

Không có nhận xét nào: