Theo Nguyễn Trần Bạt, giữa
phát triển và dân chủ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dân chủ
là điều kiện cần cho phát triển và ngược lại, phát triển là điều
kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ. Dân chủ như là một nhu
cầu tất yếu của quá trình hội nhập và phát triển, muốn hội nhập
và phát triển phải đáp ứng nhu cầu đó.
Ông cho rằng, một chính phủ mà không muốn dân chủ thì nhân loại
sẽ bắt ép nó, sẽ cưỡng bức nó tạo ra nền dân chủ. Bây giờ không
phải là thời đại mà chúng ta có quyền bảo thủ.
Nhiệm vụ của nhà nước là giải quyết vấn đề vĩ mô
PV: Qua
câu chuyện với ông, chúng tôi khám phá ra nhiều ý kiến mới, độc
đáo và rất biện chứng. Biện chứng giữa lịch sử và hiện đại, giữa
Đông và Tây. Nhận định của ông về "Đổi Mới I" chúng
tôi hoàn toàn đồng ý. Nhưng ông vẫn chưa nói bản chất của "Đổi
mới II" có phải là đổi mới chính trị không?
NTB: Đổi
mới kinh tế một cách bản năng thì đến nay đã đi hết, còn để đổi
mới kinh tế một cách bài bản và có hệ thống thì buộc phải đổi
mới chính trị, đổi mới văn hoá, đổi mới giáo dục thì mới tạo ra
được năng lượng cho "Đổi mới II".
PV: Một
dân tộc muốn phát triển được thì phải kích hoạt được tất cả mọi
năng lực tiềm tàng vốn có mà cái quan trọng nhất của một dân tộc
là năng lực con người. Theo ông, nhà nước đóng vai trò thế nào
trong việc kích hoạt các năng lực con người?
NTB: Tôi
cho rằng nhiệm vụ của các nhà nước là giải quyết những vấn đề
vĩ mô. Các chính phủ không phải lo cho công ty nhà nước, các chính
phủ không phải điều hành các xí nghiệp, các chính phủ chỉ cần
có năng lực và chỉ nên điều hành một nền kinh tế.
Xuất khẩu lao động không phải là một chính
sách tốt
PV: Ở
Việt Nam hiện nay có khoảng 75% dân số sống ở nông thôn, nhưng
đời sống của một bộ phận lớn này gần như vẫn bế tắc. Chỉ một số
ít trong số đó là những người có nghề phụ hay tham gia vào các
dịch vụ là không bế tắc. Xuất khẩu lao động dường như là một lối
thoát cho bộ phận này. Theo ông đó có phải là một lối thoát tốt
không?
NTB: Tôi
e rằng xuất khẩu lao động sẽ là một thảm họa. Sự dịch chuyển của
các dòng lao động một cách tự nhiên thì rất tốt nhưng nếu có một
chính sách quốc gia về xuất khẩu lao động như chúng ta vẫn làm
thì đó là một thảm họa. Về mặt chính sách mà nói thì tôi không
hiểu được chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam.
PV: Ông có nghĩ
rằng nó vẫn có một chút ích lợi?
NTB: Đấy
là cách giải quyết một số bế tắc trước mắt chứ không phải là chính
sách. Chính sách không phải là để giải quyết bế tắc. Chính sách
là tạo ra các dòng chảy chính đáng một cách tự nhiên, phù hợp
với các quy luật của cuộc sống. Đấy là chính sách đúng còn nếu
chính sách là để gỡ các thế bí thì không phải chính sách. Xuất
khẩu lao động không nên coi là một chính sách. Gọi đó là một chính
sách thì đó là chính sách của một sự điều hành tồi chứ không phải
là một chính sách.
Tôi có nghe thông tin về những người lao động Việt Nam đến Hàn Quốc
sau đó bỏ hợp đồng. Vậy là họ không xuất khẩu lao động mà họ mượn
sự xuất khẩu lao động để tự xuất khẩu mình. Cái đấy có phản ánh
tính đúng đắn của chính sách xuất khẩu lao động không? Hầu hết những
người có hợp đồng lao động đến những nước lỏng lẻo về mặt quản lý
đều tìm cách trốn ra khỏi hợp đồng. Điều này tạo ra một hình ảnh
xấu về việc không tôn trọng hợp đồng của người Việt. Nếu hình ảnh
này được phổ biến ở khắp thế giới thì nước Việt Nam không thể có
ấn tượng tích cực trong cộng đồng quốc tế. Chính sách nào mà không
tạo ra được hình ảnh tích cực về một nền kinh tế, về một đất nước
thì chính sách ấy tồi.
PV: Tại sao nhà
nước lại không tạo ra chính sách để người dân có thể xuất khẩu chính
mình?
|
|
NTB:
Đấy lại không thuộc về lỗi của chính phủ nữa. Thật ra bây giờ
chính phủ không cấm chúng ta tự xuất khẩu nhưng chúng ta lấy tiền
đâu để tự xuất khẩu? Lấy kinh nghiệm đâu mà tự xuất khẩu? Cái
nhóm người nằm trong các hợp đồng xuất khẩu lao động là nhóm đầu
tiên để người Việt thử nghiệm hay là vượt qua cái kinh nghiệm
ngẩn ngơ của mình trong quá trình tự xuất khẩu mình mà thôi. Cho
nên, nếu mà chính sách này vẫn có ý nghĩa tích cực thì đó là tạo
điều kiện để người Việt Nam học những bài đầu tiên để tự xuất
khẩu mình.
Tiềm năng không biến thành phát triển
là một nỗi bất hạnh
PV: Tôi
đã chứng kiến một câu chuyện rất thương tâm. Cạnh nhà tôi có một
cậu, ngày xưa thì cậu ấy là một cầu thủ bóng đá, lấy một cô vợ
rất xinh, có thể coi là một cặp vợ chồng đẹp đôi. Tuy nhiên, ở
với nhau một thời gian rồi bế tắc. Việc nhà dồn hết vào cô vợ.
Anh chồng tối đến rảnh rang thường tụ tập đánh bài cho vui, có
một chút tiền không đáng kể, nhưng thứ nhất là mất thời gian,
thứ hai là nó động chạm đến kinh tế gia đình vốn đã eo hẹp. Vợ
chồng rầy la nhau một thời gian rồi li dị. Li dị xong bà vợ vẫn
đi làm, vẫn tiếp tục nuôi con. Thằng con mà ông chồng nuôi thì
cũng về ăn cơm nhà mẹ. Người đàn ông nhiều khi đi sớm về khuya,
không ăn uống điều độ, bà vợ thấy tội lại kêu về ăn cơm chung,
rồi lại đoàn tụ. Nhưng có lẽ anh ta có thấy bế tắc và khó xử của
một kẻ ăn bám vợ. Anh ta giải toả bằng cách tiếp tục đi đánh bạc
về muộn. Rồi trong xóm lại có tình trạng thỉnh thoảng mất cái
nọ, cái kia. Không biết anh ta có lấy cái gì không nhưng người
ta cứ chửi đổng. Một buổi sáng, anh ta đi vòng quanh xóm chào
từng gia đình bảo sắp đi làm ăn xa. Ngày hôm sau, người ta thấy
anh ta treo cổ trong nhà chết. Tôi thấy rất thương tâm vì họ bế
tắc hoàn toàn mà chưa tìm thấy lối thoát.
NTB: Câu
chuyện anh vừa nói là một ví dụ cá lẻ nhưng nó có dấu hiệu sẽ
trở thành một hiện tượng phổ biến, tức là hiện tượng bất hạnh
này không đến mức phải tự tử. Trước đây, chúng ta sống biệt lập,
khả năng giao lưu giữa các bộ phận của một xã hội và giữa các
xã hội với nhau là rất hạn chế, cho nên, người ta không thấy được
sự bất hạnh của những người khác. Nhưng khi người ta có điều kiện
so sánh thân phận của mình hay là cuộc sống của mình với những
thân phận khác thì người ta thấy hết sự bất hạnh, tức là sự bất
hạnh của mình không đơn lẻ, không cá lẻ. Nhưng đại bộ phận xã
hội, những người có tiềm năng, thì người ta thấy bất hạnh vì người
bất hạnh là người không thể biến tiềm năng trở thành sự phát triển.
Sự bất hạnh có trong con người là việc không biến nổi tiềm năng
của mình thành ra sự phát triển. Đấy là đối với mỗi một cá nhân.
Đối với một dân tộc, bất hạnh là người ta không biến nổi tiềm
năng của dân tộc trở thành sự phát triển thực tế. Việt Nam là
một dân tộc có tiềm năng mà không biến nổi tiềm năng đó thành
sự phát triển đích thực. Nỗi bất hạnh ấy như đám mây đen luôn
luôn rập rình dội lên đầu con người, do đó, các chính phủ phải
cẩn thận. Nếu không tiến hành "Đổi mới II" thì đám mây
đen của sự bất hạnh ấy sẽ dội lên đầu chúng ta. Vấn đề không phải
là chúng ta muốn đổi mới hay không mà là muốn phát triển thì phải
đổi mới.
Trong các cuốn sách của mình, tôi nói rằng trong thời đại của
chúng ta, không phải một chính phủ có thể muốn hoặc không muốn
nền dân chủ mà nếu một chính phủ muốn dân chủ thì chính phủ đó
phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại. Còn một chính phủ
mà không muốn dân chủ thì nhân loại sẽ bắt ép nó, sẽ cưỡng bức
nó tạo ra nền dân chủ. Đây không phải là thời đại mà chúng ta
có quyền bảo thủ. Đấy chính là đặc trưng chính trị quan trọng
nhất của cái gọi là thời đại toàn cầu hoá. Nếu ai đó không phát
hiện ra rằng, đặc trưng chính trị quan trọng nhất của thời đại
toàn cầu hoá là cưỡng bức sự phát triển dân chủ ở tất cả các góc
của thế giới thì người đó luôn luôn lạc hậu về chính trị. Cái
chân lý ấy cần phải phổ biến và không được chỉ trích. Điều tôi
vừa nói là một sự cảnh báo. Tôi không bao giờ chỉ trích chính
phủ nhưng tôi cảnh báo họ.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét