ngominh | 10 Apr, 2015, 04:54 |
1. Ảnh chân dung Hoàng Linh chụp năm 2008, 10 năm sau ngày được trả tự do.
TÔI BỊ BẮT GIAM NHƯ THẾ NÀO?
Nguyễn Hoàng Linh
QTXM-
Nguyễn Hoàng Linh là một cây bút báo chí mẫn cảm, sắc sảo và cương
trực. Anh là phó TBT báo Thương Mại khi tôi là phóng viên thường trú của
báo này tại miền Trung. Sau đó anh chuyển sang làm TBT báo Doanh Nghiệp
một thời gian thì bị bắt vì đã viết và cho in bài về 2 con tàu cao tốc
"dổm" của ngành Hải Quan. Vụ án Hoàng Linh là chuyện của bộ máy cường
quyền tham nhũng ra tay trừng phạt người chống tham nhũng.Nhưng sau khi
bị bắt uy tín và nhân cách Hoàng Linh trong giới báo chi càng tăng
lên.Đúng ngày xử Hoàng Linh, tôi tháp tùng bộ trưởng Trương Đình Tuyển
đi công tác ở Đồng Hới, ông Tuyển bảo:" Bắt Hoàng Linh là bậy bạ. Họ sẽ
xử án tù đúng thời gian tạm giam". Và đúng như thế thật. Mời bạn đọc
cùng Hoàng Linh hồi tưởng lại những ngày anh bị bắt. NGÔ MINH
Lược qua lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, có lẽ tôi là Tổng biên tập
duy nhất bị bắt giam. Cũng đã có nhiều nhà báo bị bắt giam và kết án
tù, nhưng với Tổng biên tập một tờ báo của Trung ương, một cán bộ của
Nhà nước có hàm Vụ trưởng, một Đảng ủy viên cơ quan cấp Bộ, quả là hy
hữu, là việc cực chẳng đã họ mới phải làm.
Sau
này ngẫm lại, tôi mới thấy rằng trừ một thứ danh có thể coi là bền vững
với cuộc sống như màu xanh của cây lá, đó là nhà báo, còn tất cả các
thứ danh khác như Tổng biên tập, Đảng ủy viên, Vụ trưởng… kia đều là hão
huyền. Người ta có thể dán những thứ đó vào ngực mình thì người ta cũng
có thể bóc được nó đi bất cứ lúc nào. Đôi lúc, những thứ danh hão ấy
trở thành những bức tường giam hãm chính số phận của mình mà không hay
biết. Còn đã là nhà báo chuyên nghiệp, những tố chất nghề nghiệp đã
thành máu thịt rồi thì không thể có ai tước đoạt nổi.
Thực
tình, tôi không hề muốn làm Tổng biên tập tí nào. Hồi ấy, năm 1992, Hội
đồng Trung ương các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời bởi sự hợp
nhất giữa Ban Quản lý HTXMB trung ương và Liên hiệp xã tiểu thủ công
nghiệp. Bác Hoàng Minh Thắng đang làm Bộ trưởng Bộ Thương mại được điều
về làm Chủ tịch Hội đồng. Tôi xưng hô với người anh hùng trận Núi Thành
vang lừng xưa kia ấy bằng bác và xưng em như đối với một người anh cả,
xuất phát từ lòng quý trọng và kính phục. Nguyên là Bí thư tỉnh ủy Quảng
Nam-Đà Nẵng, ngoài những tài năng thiên bẩm của người lãnh đạo, bác là
người chân tình, nhân hậu, luôn luôn gần gũi với anh em cấp dưới và đặc
biệt, rất quý mến các nhà văn, nhà báo. Khi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại,
bác đã ký quyết định đề bạt tôi làm Phó tổng biên tập báo Thương Mại
vào tháng 12/1990. Khi đó tôi 38 tuổi.
Cuối
năm 1992, bác Thắng cho một cán bộ tổ chức sang báo Thương Mại gặp tôi,
đặt vấn đề mời tôi sang làm Tổng biên tập tờ báo Sáng Tạo, là tuần báo
của Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp cũ. Tôi vốn biết mình khó có thể
gánh được chức Tổng biên tập một tờ báo vì tính cách đầy góc cạnh của
mình. Tôi có cái tật nhìn sự kiện gì cũng phải nhìn đa chiều, lại là
người hiếu động, không ngồi yên một chỗ được lâu bao giờ, nay phải đóng
vai một ông Tổng biên tập đạo mạo, đi đứng nói năng nghiêm chỉnh, phải
vặn vẹo tư duy để phù hợp với những quy định vốn khắc nghiệt của hệ
thống quản lý báo chí cấp trên thì quả thật là như trời đày. Chính vì
thế, tôi đã từ chối lời mời ấy.
Không
hiểu sao, ít ngày sau, người cán bộ tổ chức ấy lại sang nói ý kiến của
bác Thắng muốn thuyết phục tôi thay đổi quyết định và sang giúp Hội
đồng trung ương các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dựng lại tờ Sáng Tạo,
vì hiện nay đang nợ nần chồng chất và bị đình bản, Tổng biên tập cũ đã
chuyển công tác nơi khác. Tôi vẫn quyết định từ chối vì tin rằng chỉ có
mình mới hiểu chính mình. Thế nhưng dường như do trời định, chỉ vì một
câu nói của bác Thắng mà tôi đã phải thay đổi 180 độ về quyết định của
mình. Đó là cuộc gặp gỡ khi bác Thắng cho người đón tôi sang gặp bác tại
văn phòng của Hội đồng ở số 6 đường Láng Hạ (nay là khách sạn Fortuna).
Bác vẫn xưng hô thân mật “mi, tau” như hồi còn làm Bộ trưởng Thương
mại. Sau khi pha trà, rót nước, bác nói nhiều về ý tưởng của bác mong
muốn xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh có sứ mạng
chấn hưng nền kinh tế đất nước, mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bác bảo:
-
Hoàng Linh à, tau rất cần có một công cụ tuyên truyền cho các đối tượng
này. Nhưng tờ báo Sáng Tạo hiện nay không thể xuất bản được vì thiếu
người đứng đầu. Mi về đây với tau dựng nó dậy.
Tôi
lại phải giải thích với bác rằng năng lực mình có hạn, vừa mới lên chức
Phó tổng biên tập báo Thương Mại hơn một năm, kinh nghiệm lãnh đạo còn
quá thiếu. Phần nữa, cái tính cách “hay cãi cấp trên” e rằng không hợp
với chức Tổng biên tập. Bác lại bảo:
- Tau thấy mi làm được. Về đây đi. Tiền thì tau không có nhưng mi cần gì thì tau ký.
Trời
ạ, vực dậy một tờ báo mà không có tiền thì vực bằng kiểu gì đây? Tôi
biết bác đang nói rất thật lòng nhưng quả là không thể nhận lời được.
Thấy tôi từ chối, bác nhìn thẳng vào mắt tôi và nói:
-
Này tau hỏi thật mi, hồi tau còn làm bộ trưởng, anh em mình vui với
nhau vậy. Bây chừ tau đang khó khăn, cần đến mi, sao mi lại từ chối?
Một
câu hỏi vừa chân tình, vừa có ý trách móc như thức tỉnh trong tôi một
giá trình nhân văn cần có ở một con người. Nếu coi chức Tổng biên tập là
cái được, là một bước thăng tiến trong cuộc đời thì quả là tôi không
cần. Nhưng nếu đây là một thử thách, là việc nghĩa với một người mà tôi
vô cùng kính trọng thì quả là tôi không có đủ can đảm để từ chối. Ngẩn
tò te mất đến nửa phút, tôi nhận lời làm Tổng biên tập với hai điều
kiện: Một là đổi tên tờ Sáng Tạo thành tờ Doanh Nghiệp, hai là ra quyết
định thành lập mới Tòa soạn báo Doanh Nghiệp, mọi khoản nợ nần hơn 300
triệu đồng và các hậu quả khác để lại của tờ báo do Tòa soạn cũ chịu
trách nhiệm.
Sau
khi cân nhắc kỹ lưỡng, bác Hoàng Minh Thắng quyết định cấp cho tôi 40
triệu đồng để dựng nghiệp. Báo Doanh Nghiệp đã ra đời trong hoàn cảnh
như thế. Với tư tưởng chủ đạo dốc lòng xây dựng một đội ngũ doanh nghiệp
Việt Nam hùng mạnh có sứ mạng chấn hưng nền kinh tế đất nước, Hội đồng
cho ra đời 3 tổ chức mới theo thế chân kiềng: Ngân hàng các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh lo vốn liếng; Trung tâm hỗ trợ phát triển các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh lo tư vấn và đào tạo; báo Doanh Nghiệp lo quảng
bá và cổ vũ.
Với
tiêu chí cao cả ấy, với đối tượng phục vụ rõ như ban ngày và đầy tiềm
năng ấy, báo Doanh Nghiệp lớn nhanh như gió thổi với câu slogan: “Báo
Doanh Nghiệp-Người bạn của những ai có chí làm giàu”. Từ chỗ ra mỗi tuần
một kỳ báo 12 trang nhanh chóng lên 16 rồi 20 rồi lên 24 trang. Chẳng
bao lâu sau ra thêm tờ Doanh Nghiệp Chủ nhật, rồi ra tờ Doanh nghiệp
cuối tháng. Số phát hành đã lên đến con số 14.000 bản/kỳ, một ước mơ của
nhiều tờ báo ngành hồi đó. Các doanh nghiệp trong cả nước đã một thời
từng coi đây là người bạn đồng hành trong sự nghiệp làm giàu của mình.
Một trong những nội dung được bạn đọc ưa thích nhất là các phóng sự
điều tra chống tiêu cực. Sinh nghề tử nghiệp. Tôi bị bắt giam cũng vì
chuyên mục này.Câu chuyện không ngờ bắt đầu từ một sự kiện xảy ra ở một
nơi xa tít mù khơi, đó là việc Liên Xô tan rã. Tôi được một số bạn bè là
nhà khoa học nghiên cứu sinh ở Ucraina cho biết do muốn nhanh chóng tư
nhân hóa nền kinh tế, các Chính phủ mới trong SNG đã chủ trương đẩy mạnh
việc bán tài sản nhà nước, từ mỏ dầu, tàu vận tải biển, liên hợp xí
nghiệp công nghiệp khổng lồ, các thiết bị quân sự… đến tòa soạn báo
chí, trụ sở và phương tiện, máy móc đài phát thanh, đài truyển hình…
Một chiếc tàu chở dầu hay một chiếc tàu đánh cá đại dương giá không
dưới 10 triệu USD chỉ bán vài trăm ngàn Mỹ kim; một nhà máy luyện thép
vô giá, chỉ bán vài triệu USD. Hàng chục tàu tuần tiễu cũ thuộc hạm đội
Hắc Hải đã được thanh lý với giá rẻ chỉ trên dưới 600 ngàn USD một
chiếc. Chớp thời cơ ngàn năm có một ấy, một số anh chị em Việt Nam sang
làm luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ đã trở nên giàu có nhanh khủng khiếp
bởi thiết lập được đường dây mua bán các thiết bị quân sự cũ, trong đó
có cả máy bay, tàu chiến. Một đường dây tựa như mafia khai thác cơ hội
này đang được hình thành… Biết thì cũng để đấy thôi chứ không một nhà
báo Việt Nam nào lại dại dột dính vào những lĩnh vực thuộc bí mật quân
sự, vừa thiếu thông tin, lại vừa nguy hiểm. Tôi cũng thuộc vào loại đó.
Nhưng
rồi cái gì đã là định mệnh thì nó ắt phải đến. Hồi giữa năm 1996, Tòa
soạn báo Doanh Nghiệp đã nhận được những thông tin về vụ nhập tàu cao
tốc của Tổng cục Hải quan rằng có một đường dây “làm ăn” xuyên suốt từ
bộ phận chuyên lo vật tư của ngành Hải quan sang một đơn vị của quốc
phòng, sang Nga rồi tới Ucraina. Thông qua việc thanh lý tàu tuần tiễu
cao tốc của hạm đội Hắc Hải (Liên Xô cũ), cùng với việc Hải quan Việt
Nam được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư mua tàu cao tốc chống buôn
lậu, các mắt xích đã được móc nối với nhau. Tàu cũ được tân trang thành
tàu mới, các ụ súng chiến đấu bị cắt bỏ và được bán mua với giá như tàu
mới.
Đầu năm 1997,
Tòa soạn lại nhận được thông tin: cả 4 con tàu cao tốc nhập từ Ucraina
(hai chiếc nhập năm 1994, hai chiếc nhập năm 1996) đều chưa đăng kiểm.
Theo pháp luật, tàu chưa đăng kiểm là hoạt động trái phép. Một câu hỏi
đặt ra trong Ban biên tập: Tại sao 4 con tàu kia không chịu đăng kiểm?
Liệu có lý do mờ ám nào không? Nếu đúng như vậy, một khoản tiền lớn của
ngân sách quốc gia đang bị lợi dụng? Đến cuối tháng 4/1997, một nguồn
tin cho hay: hiện nay, 2 con tàu cao tốc đang sửa chữa tại xí nghiệp X46
của quân đội tại Hải Phòng và một con tàu cao tốc đã cháy máy, nằm tại
cảng Đà Nẵng.
Khi
đó, các mắt xích thông tin được nối lại: một đường dây làm ăn mờ ám –
tàu không đăng kiểm – hỏng hóc sửa chữa hàng loạt. Tôi liền đưa vấn đề
này ra bàn trong lãnh đạo Tòa soạn gồm anh Phạm Lê Tấn Phong, Phó tổng
biên tập, anh Nguyễn Quốc Thái, Tổng thư ký Tòa soạn, về việc quyết định
mở một cuộc điều tra về 4 con tàu cao tốc này. Trong nỗ lực chống tham
nhũng, tiêu cực, giữa chúng tôi bao giờ cũng có sự nhất trí cao nhưng
riêng đối với việc này, Ban biên tập đã băn khoăn, cân nhắc và thảo
luận rất kỹ. Liệu những con tàu cao tốc này có thuộc diện bí mật quốc
gia không? Những phóng viên nào có thể đảm nhận được một cuộc điều tra
quá khó khăn này? Quy trình duyệt bài phải phối hợp như thế nào để tránh
những sai sót đáng tiếc?... Sau một hồi phân tích, chúng tôi xác định
rằng ngành Hải quan là cơ quan dân sự và tự tin rằng “ hành vi tham
nhũng” không bao giờ thuộc về bí mật quốc gia. Chúng tôi cũng nhất trí
mời một cộng tác viên rất thân thiết với Tòa soạn là nhà báo “lão làng”
Phạm Thanh, nguyên Trưởng Ban Công nghiệp, Bí thư Đảng ủy báo Nhân Dân
vừa mới nghỉ hưu tham gia. Trong Tòa soạn, tôi sẽ trực tiếp chỉ đạo
“chiến dịch” này và phân công nhà báo trẻ Nguyễn Anh Dũng, phóng viên
thường trú vùng Duyên hải miền Bắc cùng tham gia. Thật may, bác Phạm
Thanh nhận lời ngay và với kinh nghiệm lâu năm trong nghề báo, bác đã
viết nhiều bài sắc sảo về vụ tầu cao tốc này. Nhanh nhẹn, tháo vát,
thạo về quay phim, chụp ảnh, phóng viên Nguyễn Anh Dũng cũng đã trổ hết
tài năng và đem về cho Tòa soạn những bức ảnh và băng ghi âm, ghi hình
quý giá.
Trong
quá trình hỏi cung, các điều tra viên của cơ quan an ninh luôn luôn
khẳng định và thể hiện ngay trên Bản kết luận điều tra rằng tôi đã
không thảo luận trong Ban biên tập, tự ý cho đăng những bài báo về những
con tầu cao tốc. Tôi thì chắc chắn họ đã nhầm vì trong Lãnh đạo Tòa
soạn, chúng tôi phân công người viết bài không bao giờ là người duyệt
bài để tránh những sai sót của tư duy chủ quan. Tất cả những bài viết về
vụ tàu cao tốc đều phải qua anh Quốc Thái trước, sau đó anh Tấn Phong
sẽ là người duyệt cuối cùng. Nhưng thôi, không sao. Tổng biên tập bao
giờ cũng phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tờ báo. Cái nhầm
lẫn ấy cũng không quan hệ gì nhiều đến bản chất vụ việc.Nhà báo Phạm
Thanh quả là một phóng viên điều tra tài ba. Chỉ trong vòng hơn một tuần
đi điều tra cùng với Nguyễn Anh Dũng từ Hà Nội đi Quảng Ninh, sang Hải
Phòng rồi vào Đà Nẵng, ông đã đem về cho Tòa soạn nhiều tài liệu quý
giá. Ông phát nhiện ra nhiều vấn đề mờ ám không chỉ trong việc mua 4 con
tàu của Ucraina mà còn cả trong việc đặt mua 4 con tàu của Úc.Với 4 con
tàu mua của Ucraina, việc sau hơn 2 năm cả 4 con tàu không đăng kiểm
được là chính xác vì thiếu đến 10 loại hồ sơ kỹ thuật. Trong 4 con tàu
thì 3 con phải vào xưởng sửa chữa, có con nằm đã hơn nửa năm không có
phụ tùng thay thế. Tháng 7/1995, Tổng cục Hải quan có công văn xin Thủ
tướng Chính phủ cho phép mua tàu cao tốc nhưng tàu đã được nhập về từ
tháng 1/1994, có thể coi là nhập lậu. Giấy phép nhập khẩu tàu cho phép
nhập của Nga nhưng những con tàu lại được mua của Ucraina. Số tiền 4,06
triệu USD xuất ra để mua tàu nhưng Vụ tài chính đối ngoại của Bộ Tài
chính không hay biết và được cấp bằng tiền Việt. Việc mua tàu không thực
hiện qua đấu thầu theo quy định của Nhà nước… Cùng với đó là những tấm
ảnh, băng ghi hình về thực trạng con tàu thật thảm hại. Chỉ mới hơn hai
năm sử dụng mà máy móc của tàu sét gỉ còn tồi tệ hơn cả máy móc của ô
tô, xe máy từ bãi rác của Nhật nhập về. Ngoài ra, trong băng ghi âm còn
ghi lại lời nói của một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật của xưởng sửa
chữa 2 chiếc tàu cao tốc ở Hải Phòng đánh giá rằng những con tàu này có
tuổi đời trên dưới 20 năm.
Về
4 con tàu nhập của Úc. Trong khi với 4 con tàu nhập về từ Ucraina thì
Tổng cục Hải quan mà lúc đó, ông Phan Văn Dĩnh là Tổng cục trưởng, luôn
luôn khẳng định đấy là những thiết bị kỹ thuật phức tạp, thuộc về bí mật
quốc gia nên phải nhập qua các đơn vị quân đội, nhưng khi nhập 4 con
tàu từ Úc, ông Phan Văn Dĩnh lại giao cho công ty cổ phần Hải Phát,
nguyên là một xí nghiệp đời sống của Hải quan TP.Hồ Chí Minh chuyên may
gia công. Một đơn vị kinh tế được tổ chức ra để lo cải thiện đời sống,
sau 8 tháng chuyển thành công ty kinh doanh hầu như không hoạt động gì
lại được giao tới 5,6 triệu USD mua một loại thiết bị hiện đại, đặc
chủng như tàu tuần tiễu cao tốc thì đó quả là một sự kiện hấp dẫn với
các nhà báo. Đặc biệt hơn, trong các cổ đông của công ty Hải Phát có
gương mặt của “đại gia” Phạm Huy Phước. Ai cũng biết rằng trong những
năm 90 của thế kỷ trước, cả nước chấn động với vụ án của “đại gia” Phạm
Huy Phước, Giám đốc công ty Tamexco. “Đại gia” này đã vay hàng trăm tỷ
đồng rồi nướng vào các sòng bài, vào việc bao gái và dùng nó để hối lộ
các quan chức. Khi vụ án bị phanh phui, Phạm Huy Phước đã bị tử hình,
kết thúc cuộc đời một "đại gia" đã gây thất thoát của Nhà nước hàng trăm
tỷ đồng. Nay có gương mặt “đen” này liên quan đến việc mua tàu cao tốc,
sự mờ ám lại thêm hiện rõ.
Quả thật lúc đó, những phát hiện của nhà báo Phạm Thanh khiến tôi cực
kỳ hạnh phúc vì đã tìm ra manh mối của những vụ làm ăn khuất tất xung
quanh những con tàu cao tốc này với hy vọng rằng, Đảng và Nhà nước sẽ
làm sáng tỏ vụ việc và có định ra những quy chế cần thiết để bịt những
lỗ hổng trong hệ thống quản lý tài chính quốc gia. Tuy nhiên, cẩn thận
hơn, tôi cùng nhà báo Phạm Thanh và Nguyễn Anh Dũng cùng về nhà máy
đóng tàu Bạch Đằng để hỏi thêm về giá đóng những con tàu tương tự ở Việt
Nam và đi thăm những con tàu đã sử dụng trên dưới 2 năm. Thật ngạc
nhiên là các anh lãnh đạo của nhà máy cho biết, nếu đóng con tàu như
thế, máy nhập ở những nước có công nghiệp đóng tàu nổi tiếng thì giá chỉ
chưa đến một nửa so với con tàu mà ngành Hải quan đã mua. Còn khi xuống
hầm tàu của những con tàu mới dùng được 2-3 năm thì tôi càng khẳng định
rằng tàu của ngành hải quan nhập về là tàu cũ, tàu “dởm” vì với những
con tàu được tham quan có tuổi thọ 2-3 năm, máy móc và thiết bị của nó
gần như mới tinh. Sau chuyến đi ấy, tôi gọi điện thông tin cho anh Tấn
Phong và anh Quốc Thái đang trực tại Sài Gòn và chúng tôi quyết định bắt
đầu đăng báo.
Sau
đây là cái tin ngắn đầu tiên đăng trên trang nhất Tuần báo Doanh Nghiệp
số 14-20/5/1997 với tựa đề “Ngành Hải quan nhập 4 con tàu cao tốc
“dởm”: “Theo nguồn tin từ cơ quan đăng kiểm Quảng Ninh, đến nay, cả 4
con tàu cao tốc chống buôn lậu của ngành Hải quan nhập từ năm 1994 đến
năm 1996 đều chưa đăng kiểm vì lý do không có tài liệu kỹ thuật. Các
nguồn tin khác cho hay, các con tàu này, máy được sản xuất năm 1969, hạ
thủy năm 1972 tại Liên Xô cũ đã được mua với “giấy khai sinh” năm 1992.
Giá mua 4 con tàu trên 50 tỷ đồng, song theo đánh giá của các chuyên gia
đóng tàu ở Hải Phòng thì mỗi con tàu tương tự được đóng mới, với chất
lượng quốc tế kiểm định chỉ 4-5 tỷ đồng/chiếc. Hiện nay, 3 trong 4 con
tàu đang nằm tại xưởng sửa chữa (1 chiếc tại Đà Nẵng, 2 chiếc tại Hải
Phòng). Như vậy, qua việc mua 4 con tàu cao tốc “dởm” này, ngành Hải
quan đã làm thất thoát trên dưới 30 tỷ đồng. Dư luận cho rằng một phần
trong số tiền này đã rơi vào túi cá nhân”.
Sau khi báo phát hành, nhiều bạn đọc trong ngành hải quan đã gọi điện
hoan nghênh và cung cấp thêm cho Tòa soạn những sự kiện và địa chỉ để
điều tra tiếp. Đặc biệt, có những tài liệu rất nội bộ của ngành Hải quan
liên quan đến vụ việc cũng được gửi tới. Nhóm nhà báo chúng tôi lại
tiếp tục lao vào vòng nguy hiểm mặc dù biết rằng ngành Hải quan đã có
những báo cáo bôi nhọ động cơ của chúng tôi với các cơ quan chức năng,
thậm chí cả với Ban Văn hóa tư tưởng, Thủ tướng Chính phủ. Họ vu rằng
chúng tôi đã ăn tiền của ai đó để phá hoại đoàn kết nội bộ, rồi kêu ầm
lên rằng chúng tôi vu khống họ. Có những lời nhắn nhủ đầy quyền lực rằng
Tòa soạn phải ngừng công việc điều tra ngay, nếu không sẽ phải trả giá.
Tuy vậy, các bài điều tra và bình luận về những con tầu cao tốc tiếp
tục được đăng với những bằng cứ xác đáng và tính thuyết phục cao. Khoảng
sau gần 10 bài được đăng thì tôi bị bắt.
Đó là vào buổi sáng một ngày đẹp trời 8/10/1997. Tôi đang ở Thư viện
Quốc gia lục tìm một số tư liệu thì nhận được một cú điện thoại. Người
gọi xưng là ở cơ quan an ninh điều tra, rất cần gặp tôi có việc quan
trọng. Tôi nghĩ ngay đến việc chẳng lành nhưng trong thâm tâm đã sẵn
sàng chấp nhận mọi rủi ro nên cũng không lo lắng lắm. Một khi đã động
đến “niêu cơm” của những kẻ đầy ắp quyền lực thì họ đâu có dễ dàng để
cho mình yên. Khi về tới phòng làm việc thì thấy 4 sĩ quan an ninh, sắc
phục chỉnh tề đã đợi sẵn. Họ bảo với tôi rằng có việc cần nhưng về nhà
mới bàn. Lúc này tôi linh tính rằng mình sẽ bị bắt giam. Đúng như dự
đoán, về đến nhà tôi ở Phố Vọng, người sĩ quan điều tra có quân hàm
trung tá tên là Nguyễn Mạnh đã đọc lệnh bắt giam và lệnh khám nhà đối
với tôi với 2 tội danh: Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước và tội lợi dụng tự
do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội. Tôi buột
một tiếng thở dài, vì số phận mình thì ít mà vì buồn cho nền đạo lý của
đất nước thì nhiều. Rõ ràng mình đang làm một việc thiện thì lại bị
đánh giá là kẻ có tội.
Sau một hồi lục soát từng chi tiết trong ngôi nhà cùng một gói tài liệu
được niêm phong, họ đưa tôi ra chiếc xe 4 chỗ sang trọng màu cánh chả
với thái độ ôn hòa và chuẩn mực. Tôi thầm nghĩ những con người này cũng
như mình thôi, nghề nào nghiệp nấy. Mình thực thi công vụ thì họ cũng
thực thi công vụ. Vào tù mình sẽ có thêm một mảng vốn sống nữa mà không
phải nhà báo nào cũng có được cơ hội ấy. Trông gương mặt của những viên
sĩ quan an ninh, tôi đoán là những người có học và chắc chắn ẩn sau
những gương mặt ấy là một trái tim, chỉ không đoán được độ lạnh của nó
mà thôi. Cả xe im lặng. Thấy vậy, tôi lên tiếng trước:
- Các anh thấy tôi đã hoàn thành nghĩa vụ công dân chưa?
Viên trung tá đáp:
- Cảm ơn anh đã cộng tác với chúng tôi.
- Tôi tin rằng từ trước đến giờ, các anh không hề có thù hằn đối với tôi, đúng không?
Cả 3 viên sĩ quan, trừ người lái xe, nhìn tôi ngạc nhiên và không trả lời. Tôi nói tiếp:
- Và các anh cũng nên tin rằng đến giờ, tôi cũng không có thù hằn gì
với các anh. Các anh làm công vụ, tôi đã tôn trọng. Tôi hy vọng rằng các
anh cũng tôn trọng nghề nghiệp của chúng tôi.Cả xe vẫn im lặng. Cuộc
độc thoại diễn tiếp:
- Tôi cho rằng do thông tin khác nhau, quan điểm nhìn nhận vụ việc khác
nhau nên chúng ta mới được gặp nhau ở đây và biết có nhau trên thế gian
này. Số phận đã như vậy, với tư cách con người với con người, tôi còn
một ít tiền trong túi, vào tù chắc không có cơ hội, tôi mời các anh ta
ghé vào đâu ta uống cùng với nhau một cốc bia.
Cả xe vẫn im lặng. Chiếc xe vẫn vun vút lao đi trên đường về phía Văn Điển. Tôi nói tiếp:
- Các anh đừng ngại. Nếu tôi có tội, đề nghị các anh cứ xử sòng phẳng. Nếu không sòng phẳng, chính tôi sẽ coi thường các anh.
Bỗng có một tiếng của ai đó:
- Thủ trưởng à, hay mình đi ăn một bữa thịt chó để giải đen đi.
Ngần ngừ một lúc, trung tá Mạnh tặc lưỡi:
- Ừ thì đi, đằng nào cũng đến bữa trưa rồi.
Thế là đi một đoạn nữa, chiếc xe rẽ qua đường tàu, chui vào chiếc ngõ
nhỏ và đậu trước một quán thịt chó. Các món ăn được bày ra cùng bia
Tiger. Câu chuyện thưa thớt giữa chúng tôi chỉ xung quanh chuyện gia
đình và học hành, không mảy may dính đến công việc. Khi thanh toán hết
144 nghìn đồng và tôi lặng lẽ lấy tiền thanh toán.
Vào đến trại giam thì đã đầu giờ chiều. Tôi làm thủ tục nhập trại khá
nhanh bao gồm kê khai và chụp ảnh. Chỉ một ít quần áo và đồ dùng cá nhân
được đem theo. Chiếc đồng hồ và cả chiếc nhẫn đeo tay nhỏ xíu cũng phải
gửi lại phòng lưu ký.Thực ra trong hơn 20 năm làm báo, tôi đã được đi
nhiều nơi, lùng sục nhiều chốn nhưng chưa bao giờ được bước chân vào nhà
giam, lại là nơi giam chính mình chưa biết ngày nào ra nên tôi ngắm nó
khá kỹ. Những bức tường dày lạnh lẽo, những hành lang khúc khuỷu, những
cánh của sắt nặng nề khiến tôi nghĩ nếu mình phải làm việc cả đời ở đây
thì cũng chẳng sung sướng gì. Thế mà những nhân viên an ninh sẽ gắn bó
cả cuộc đời công vụ của họ vào chốn này quả là đáng thông cảm.
Cánh cửa sắt ập lại sau lưng mấy giây sau tôi mới lờ mờ nhận ra hình
thù của buồng giam. Nó khoảng 6m2, tối đen và lạnh lẽo. Hai bên là hai
bệ xi măng làm giường ngủ, ở giữa là một lối đi nhỏ. Sát sau hai bệ xi
măng là một bể nước nhỏ và toa lét, được chắn bởi một bức tường ngăn.
Tôi hơi giật mình vì chợt phát hiện ra trên cái bệ xi măng bên trái là
một đống gì đen đen, ánh lên hai đốm sáng nho nhỏ. Khi hết quáng gà tôi
mới nhận ra đấy là người bạn tù đã bị bắt giam trước tôi ít ngày. Vì bài
viết này không phải là một đoạn của hồi ký nên chuyện về số phận những
người bạn tù không kể ra đây, nhưng tôi tin chắc rằng đó là những số
phận đầy chất mạo hiểm, ly kỳ và hấp dẫn.
Trong suốt 1 năm 13 ngày bị tạm giam, ngoài những buổi đi cung, tôi
không được ra ngoài, không tiếp xúc với ai trừ những người bạn tù được
thay đi đổi lại khoảng 3-4 tháng một lần. Trong các cuộc hỏi cung, các
điều tra viên hỏi rất nhiều thứ, nhưng tôi cho rằng hình như họ đã nhầm
lẫn trong việc quyết định bắt giam tôi.
Một hôm, khi tra xét về việc lộ bí mật quốc gia, trung tá Mạnh đặt
trước mặt tôi một văn bản đánh máy bằng giấy pơluya có đóng dấu đỏ chót
quy định về các danh mục thuộc bí mật quốc gia:
- Anh có biết cái văn bản này không?
Tôi lắc đầu:
- Lần đầu tiên tôi nhìn thấy văn bản này?
Anh ta nhăn mặt:
- Tại sao lại không biết? Làm Tổng biên tập thì anh phải biết chứ?
Tôi lại phải giải thích cho anh ta rằng người làm báo phải biết nhiều
thứ nhưng không có nghĩa là thứ gì cũng biết và văn bản này là tôi không
biết thật. Anh ta liền lướt ngón tay theo các danh mục trên văn bản,
dừng lại ở dòng “Kế hoạch mua tàu cao tốc của ngành hải quan” và nói:
- Tàu cao tốc của ngành hải quan là thuộc danh mục bí mật quốc gia, anh hiểu không?
- Tôi hiểu nhưng văn bản này không liên quan đến hành vi của tôi?
- Tại sao vậy? – Anh ta ngạc nhiên.
- Anh không đọc thấy hai chữ “kế hoạch” sao? Khi còn là kế hoạch thì
mới thuộc danh mục này. Còn khi nó đã được mua về rồi, dùng nát ra đấy
rồi thì đâu còn nằm trong danh mục này nữa?
Sau khi nghe tôi trả lời, mặt anh ta thoáng biến sắc và hỏi:
- Câu trả lời vừa rồi là anh đã chuẩn bị sẵn hay vừa nghĩ ra?
- Bây giờ tôi mới được đọc văn bản này thì làm sao mà chuẩn bị sẵn được.
Thế là tôi thoát được cái tội “Cố ý làm lộ bí mật quốc gia”, còn cái
tội “Lợi dụng tự do dân chủ…” thì không có cách nào thoát nổi. Hôm ở
phiên Tòa, tôi nói rằng trong hơn 100 thông tin về vụ tàu cao tốc, có 3
thông tin sai, Tòa soạn và cá nhân tôi sẵn sàng xin lỗi về những thông
tin sai đó thì Tòa không chấp nhận và khẳng định, hôm nay Tòa chỉ xem
xét 3 thông tin sai đó và xác định rằng đó là hành vi cố ý, đã xúc phạm
danh dự và uy tín của ngành hải quan. Tôi tự thầm cười trong bụng vì
ngay trong bản cáo trạng trong vài trang giấy đã có nhiều thông tin sai
có thể chứng minh được ngay, như quy kết tôi “không trao đổi với ai
trong Ban biên tập mà quyết định đưa ngay lên báo” hoặc một tình tiết
hết sức đơn giản là ngày sinh tháng đẻ của tôi đáng lẽ đúng là 29/4/1952
thì trong bản cáo trạng lại là 20/12/1952. Nhưng thôi, chẳng quan
trọng. Một khi bản án đã được đút sẵn trong
túi của quan tòa thì mọi sự tranh cãi đều vô nghĩa. Sau đó Tòa kết án
tôi án tù đúng thời gian bị tạm giam và thả tự do ngay tại Tòa. Hôm ấy
là ngày 21/10/2008.
Chắc sẽ có bạn đọc quan tâm muốn hỏi rằng sau này tôi sống ra sao, có
tiếp tục làm báo nữa không. Đến đây, tôi chợt nhớ đến một câu dặn dò của
một điều tra viên trước khi ra Tòa:
- Anh Linh ạ, tôi khuyên anh sau này, khi ra khỏi đây anh đừng viết lách gì nữa. Nếu không lại phải quay lại đây đấy.
Tôi không hiểu đây là lời khuyên chân tình của một con người đã gặp quá
nhiều bài học của cuộc đời hay một lời răn đe của một công an viên. Tuy
vậy, tôi cũng nói rất thật lòng:
- Các anh ở đây cả đời còn được nữa là tôi mới có hơn một năm.
Nghe xong, anh ta lắc đầu nói:
- Đúng là miệng lưỡi của các nhà báo các anh.
Vì là nghiệp làm báo đã ngấm vào tận xương tủy nên từ ngày ấy đến nay,
tôi vẫn viết báo đều đặn và đã in được một cuốn sách gần 300 trang với
tựa đề “Nhà quản lý-Anh là ai?”. Hiện nay, mỗi tuần tôi viết 2-3 bài cho
một vài tờ báo theo các chuyên mục. Đặc biệt, cũng nhờ vốn sống trong
khi bị tạm giam, tôi viết được một truyện ngắn duy nhất trong đời đã
đăng trên báo Văn Nghệ trẻ với tựa đề “Tử tù câm”.
Để kết bài viết không biết nên buồn hay nên vui này, mới nhận thấy
rằng, căn bệnh mua tàu cũ biến thành tàu mới, biến tài sản của nhân dân
thành tài sản của cá nhân như ở Vinashin, Vinalines… đã xuất hiện cách
đây đã hai chục năm, nhưng nhờ những thế lực bưng bít cho nên đất nước
mới phải trả giá đến tận bây giờ.
( Tác giả gửi cho QTXM)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét