HỮU THỈNH Cánh đồng thơ mất trắng (Đoạn 1)
( Bài của nhà thơ Đỗ Hoàng đăng trên blog Bà Đầm Xòe, do hơi dài, nên tôi chia đoạn)
Đỗ Hoàng
Trong
thế hệ các nhà thơ chống Mỹ thuộc phía chính thống – những cổ động viên
cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt giữa hai miền Nam
Bắc Việt Nam do các thế lực nước lớn ngoại bang giật dây, điều khiển và
chi phối nhằm tiêu diệt đến người Việt cuối cùng (những ai vào sống
trong miền Nam giải phóng mới thấm thía nỗi đau này) thì nhà thơ Hữu
Thỉnh xuất hiện quá muộn và không nổi tiếng vì tài thơ của ông quá dưới
mức trung bình trong dòng thơ cổ động, tụng ca chế độ. Mãi đến cuối năm
1975, ông mới ra tập thơ “Âm vang chiến hào” – in chung cùng Lâm Huy
Nhuận. Lâm Huy Nhuận đã nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhì cuộc thi
thơ báo Văn nghệ năm 1972 – 1973 với tinh thần thơ khẩu hiệu “Mẹ tập con
đi, Đảng dạy con đi – (Lâm Huy Nhuận)”
Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết bài in trên
báo Tiền Phong rất đúng là: Khi ông đã trở thành nhà thơ rất nổi tiếng
thì Hữu Thỉnh chưa thành tác giả.
Xuất hiện quá muộn, lại không có gì nổi
trội nên từ thập kỷ 80 trở về trước ngay trong giới văn chương không mấy
ai biết Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh nổi lên nhờ được giải thưởng
thơ Hội Nhà văn năm 1980 với tập trường ca “Đường tới thành phố”. Sau đó
ông tham gia lãnh đạo văn nghệ. Con đường làm quan văn nghệ tăng tiến,
tên tuổi ông nổi như cồn.
Phương Đông hay phương Tây gì cũng vậy,
trong các thể chế độc tài toàn trị riêng về thơ ca thì thơ hay tỷ lệ
thuận với chức vụ quan lại. Chức quan càng to thì thơ hay càng hay
lên(!)
Một lần nhà văn Vũ Thư Hiên hỏi nhà thơ Chế Lan Viên:
-Thơ và từ Mao Trạch Đông có hay không anh?
Chế cười nhạt:
-Nó đã làm lên đến Hoàng Đế Trung Hoa rồi thì cục cứt của nó cũng hay!
Một lần nhà văn Vũ Thư Hiên hỏi nhà thơ Chế Lan Viên:
-Thơ và từ Mao Trạch Đông có hay không anh?
Chế cười nhạt:
-Nó đã làm lên đến Hoàng Đế Trung Hoa rồi thì cục cứt của nó cũng hay!
Với Hữu Thỉnh sau khi có chút chức cai
văn nghệ thì người khen thơ ông trùng trùng điệp điệp. Có nhiều bài rất
dở người ta cũng bỏ trí tuệ, sức lực ra khen. Có người như Trường Lưu bỏ
miếng mồi chính trị béo bở để chuyên tâm khen thơ Hữu Thỉnh. Cứ một vài
số Tạp chí Nhà văn ông ta lại gửi bài bốc thơm thơ Hữu Thỉnh. Vợ ông ta
đến nhận nhuận bút quen nhẵn mặt anh em ở cơ quan!
Duy nhất có hai nhà thơ là Trần Mạnh Hảo, Phạm Ngọc Thái đã phản biện chê thơ Hữu Thỉnh.
Ý kiến của hai nhà thơ trên là rất xác
đáng, nhưng bị số đông la ó rằng: “Không được động đến Hữu Thỉnh, cũng
như không được động đến Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm trước đây. Thơ Hữu
Thỉnh là bảng vàng bia đá rồi. Đánh con chuột là vỡ lọ bình đấy! Có
người còn cho thơ Hữu Thỉnh hay đến mức Âm Phủ phải dịch (!)
Thực ra thơ Hữu Thỉnh đốt làm tiền âm phủ chưa chắc Âm Phủ đã nhận.
Để có cái nhìn, đánh giá phản biện khách
quan về thơ Hữu Thỉnh, tôi xin góp một ý kiến phản biện để mọi người
hiểu đúng thơ Hữu Thỉnh, chứ cứ nhìn một rừng người vỗ tay mà không biết
rằng đó một rừng a tu la (Chưa thành người theo Phật) thì rất dễ nhầm
vàng thau lẫn lộn.
Trước hết, Hữu Thỉnh không tuộc loại thi
nhân “vi thi nhi sinh” (sinh ra vì thơ) và cũng không phải “vi thi chi
hoạt” (sống chết vì thơ).mà là “vi thi lập thân” (lấy thơ lập thân).
Điều này ông đã tuyên ngôn tập thơ rất thương mại của ông – Thương lượng
thời gian. Ông không thèm mặc cả chợ búa với con gà con con vịt, ông
mặc cả với thời gian đặng cho ông làm quan suốt đời, quan gì cũng được
và đi bằng đít suốt đời! Ông dùng trí khôn của ông đem ra mài rủa để để
tỉnh thức làm cho cây cối bật khóc!
Buổi sáng lo kiếm sống Buổi chiều tìm công danh
Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa
Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc (Thương lượng thời gian 10-2005)
Nhập vào cái chợ làng văn, Hữu Thỉnh lấy
văn chương tiến thân, mặc dầu ông thừa biết “Lập thân tối hạ thị văn
chương” (Tiến thân bằng văn chương là thấp nhất). Tiến thân bằng văn
chương thì phải viết, phải chiều theo ý của kẻ cai trị, kẻ thống trị.
Anh không phải viết theo mệnh của trái tim mà anh phải viết theo mệnh
lệnh của vua quan. Viết như thế anh mới kiếm được chức tước, kiếm được
bỗng lộc!
Trong chính thể minh quân, vua sáng tôi
hiền, khi mục đích nhu cầu của người thống trị hòa cùng lòng dân thì thơ
anh được dân tộc tôn kính, khi quyền lợi của kẻ thống trị đi ngược lại
quyền lợi nhân dân thì thơ anh là loại tụng ca không ai nhớ!
Vì thế xuyên suốt đời thơ Hữu Thỉnh là hô
khẩu hiệu suông, sáo rỗng, đại ngôn, triết lý xơ cứng, cũ rích, lý luận
vặt… ở một tầm rất thấp!
Trời ơi! Nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một góc sim thôi, dù chỉ một gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?Thơ ta ơi! Hãy ghì lấy gốc sim. (Đường tới thành phố năm 1977 – 1978)
Càng viết càng thấy mình yếu đuốiĐường nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi
Anh hiểu vì sao tôi ít lời.
Anh hiểu vì sao tôi hay nhắc mẹ tôi
Nỗi ám ảnh suốt đời day dứt
Đối với mẹ sẽ là đòn đau nhất
Có kẻ nào rình ném bẩn lên tôi.
Giữa tiệc rượu và hoa, tưởng chừng không đúng lúc
Nhắc đến nỗi đau những uất ức ở đời
Làm sao được, rượu hoa thường ít
So với chia ly, gian dối, dập vùi. (CHẠM CỐC SA – IN 1987)
Đúng là đại ngôn quá, hô hào quá! Khi đứng trong chiến hào Bỗng thấy mình cao lớn Vừa trói giặc buông tay Lại đợi giờ xuất trận Luyện đôi chân Trường Sơn Đường Trường Sơn cao ngất Ngực đồng bằng mênh mông Nuôi ta nghìn giọng hát…(Âm vang chiến hào 1970)
Sự thật trong chiến trường, người lính ở
trong chiến hào ai cũng phải muốn cong người thấp xuống để tránh đạn
quân thù. Những tân binh đi ngờ ngờ nhô đầu lên đều bị tiểu đội trưởng
quát tháo bảo khom người xuống. Khi nào có thời cớ xung phong thì hãy
nhảy lên chiến hào. Đó là cách bảo toàn lực lượng để đánh giặc. “Khi
đứng trong chiến hào / Bỗng thấy mình cao lớn” là cách hô hào suông. Thơ
ca không nên nói thế. Kiểu nói ấy là kiểu nói của những người trốn hầm
ngoài hậu phương tha hồ khẩu hiệu đánh giặc trong hầm và đánh giặc trên
giường, của những ca sỹ gào qua đài động viên bộ đội chiến đấu, của
những chính trị gia trốn trong boong ke cỗ xúy đánh nhau! Kiểu nói của
những kẻ lạc quan tếu, quá phấn kích!
Mà G. Belinski (Nhà phê bình Nga lỗi lạc
thế kỷ XIX) đã viết: “Đối với liều thuốc tâm hồn, những nỗi buồn nhân
bản bao giờ cũng có tác dụng thẩm thấu hơn nhiều so với hội chứng phấn
kích”.
Trong cuộc chiến tang thương ấy có bao nhiêu kẻ hùa theo đám chính khách lái súng xui loài người chém.giết:
bao triêt gia coi khinh sự chết
bao nhà thơ ca ngợi cái điên cuồng
bao nhà văn bán đứng văn chương
bao chính khách ngồi một nơi kêu gào, cỗ vũ… (Tâm sự người lính 1973 – Đỗ Hoàng)
Thơ cổ kim động viên tòng quân đánh giặc
của nhân loại kể không hết những bài hay vì các nhà thơ đã viết rất chân
tình tấm lòng của mình khi ra trận bằng một bút pháp điêu luyện nên còn
mãi nghìn đời:
Ninh bách vi phu trưởng
Nhất thắng tác thư sinh (Đầu quân – Dương Quýnh – Đời Đường)
Nghĩa là: Thà làm anh lính bét Hơn làm chàng sinh viên (Bài hát Tòng quân – Dương Quýnh – Đỗ Hoàng tạm dịch)
Cố viên đông vọng lộ man manNghĩa là: Thà làm anh lính bét Hơn làm chàng sinh viên (Bài hát Tòng quân – Dương Quýnh – Đỗ Hoàng tạm dịch)
Song tụ long chung lệ bất kham
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút
Bằng quân truyền ngữ báo bình an
(Phùng nhập kinh sứ – Sầm Than)
Bất ngờ vào kinh đô
Quê nhà xa tít ngoái trông sang Áo thỏng hai tay lệ chảy tràn Trên ngựa gặp nhau không giấy bút Nhờ anh nhắn hộ vẫn bình an! (Hoàng Tạo dịch)
Thơ Hữu Thỉnh dày đặc thơ hô khẩu hiệu nhiều lần, gượng ép, giả tạo, đầy chất tuyên huấn cấp tiểu đội in trên báo liếp:
Một con đường đất đỏ như son
Một màu xanh bạt ngàn hy vọng
Một ý chí bay ra đầu ngọn súng
Một niềm tin nghiến nát mọi quân thù
(Trên một chiếc xe tăng – tháng 3 năm 1971) Sau Bản Đông giải phóng vài ngày Các chiến sỹ xe tăng ra cầu Ka Ki tắm mát Anh đuổi nhau trên cát Anh đổ dế hái hoa Các anh không nói nhiều về chiến thắng ngày qua Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa… (Sau trận đánh – Âm vang chiến hào tháng 3 năm 1971.
(Trên một chiếc xe tăng – tháng 3 năm 1971) Sau Bản Đông giải phóng vài ngày Các chiến sỹ xe tăng ra cầu Ka Ki tắm mát Anh đuổi nhau trên cát Anh đổ dế hái hoa Các anh không nói nhiều về chiến thắng ngày qua Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa… (Sau trận đánh – Âm vang chiến hào tháng 3 năm 1971.
Đọc mà buồn cười cho cái hô khẩu hiệu,
cái giả, cái gượng gạo mà Hữu Thỉnh gán cho người lính xe tăng, biến họ
những người đối mặt với chết sống thành nhưng chú bé lên năm, lên sáu,
những cô thiếu nữ choai choai chơi dế, hái hoa.
Ca ngợi anh bộ hiền như Phật trong thơ chính thống chống Mỹ có rất nhiều:
Có người đi lính hiền như đất
(Chính Hữu)
… Con lạy ông Ông đừng ăn gan cháu! Chú đây mà Chú là giải phóng quân.
(Em bé lạc mẹ ở Đồng Hà, năm 1972 – Nguyễn Duy)
Sau đó, Hữu Thỉnh nâng những người lính xe tăng con trẻ ấy lên tầm Lưu Bị, Khổng Minh, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, những lãnh tụ luôn lo lương, tích thảo để dân tộc đánh giặc lâu dài. Các anh không nói nhiều về chiến thắng ngày qua Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa (Thơ đã dẫn)
Anh lính bét xe tăng trong thơ Hữu Thỉnh đúng là có tầm Tướng quốc và Tướng quân(!)
Giả hết mức!
(Chính Hữu)
… Con lạy ông Ông đừng ăn gan cháu! Chú đây mà Chú là giải phóng quân.
(Em bé lạc mẹ ở Đồng Hà, năm 1972 – Nguyễn Duy)
Sau đó, Hữu Thỉnh nâng những người lính xe tăng con trẻ ấy lên tầm Lưu Bị, Khổng Minh, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, những lãnh tụ luôn lo lương, tích thảo để dân tộc đánh giặc lâu dài. Các anh không nói nhiều về chiến thắng ngày qua Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa (Thơ đã dẫn)
Anh lính bét xe tăng trong thơ Hữu Thỉnh đúng là có tầm Tướng quốc và Tướng quân(!)
Giả hết mức!
Thơ Hữu Thỉnh có những triết lý vặt, cóp py pho to triết lý Mao Trạch Đông “Súng đẻ ra chính quyền”:
Qua một chặng đường dài Chính khẩu súng đã làm đời ta tươi tốt” (Đường tới thành phố 1978)
Qua một chặng đường dài Chính khẩu súng đã làm đời ta tươi tốt” (Đường tới thành phố 1978)
Súng ấy chắc là đã tẩm nhân sâm Triều Tiên, tấm thần dược mới có loại súng giết người làm người tươi tốt!
Và triết lý lấy nông thôn bao vây thành thị. Tựa đề trường ca Đường tới thành phố cũng là cách cóp ý tưởng chiến khu của Tàu!
Và triết lý lấy nông thôn bao vây thành thị. Tựa đề trường ca Đường tới thành phố cũng là cách cóp ý tưởng chiến khu của Tàu!
Vừa triết lý cop py, thơ Hữu Thỉnh lại đậm chất tấu hài:
Vai tấu hôm nay cù giỏi thật
Không ngờ đại đội trưởng mà duyên
Ngỡ cô binh trạm vào vui tết
Bỏ chiếc khắn dù: Chính trị viên!
…
Người xuống người lên vui hả hê
Tháp pháo hầm bên chăm chú nghe
Sớm mai xuất kích tăng gầm xích
Tiếng hồ, tiếng nhị cũng theo đi…
(Đêm liên hoan 1971)
Thơ Hữu Thỉnh rất nhạt. Anh em trong nghề nói với nhau: bệnh gì của thơ cũng có thể chữa khỏi, chỉ có bệnh nhạt là thuộc loại tứ chứng nan y không thể nào chữa nổi. Hoa Đà, Biển Thước, Hải Thượng Lãn Ông cũng phải bó tay!(Đêm liên hoan 1971)
Ăn vội no lâu
Chiến hào đang đợi
Sau trận đánh nhìn bàn tay sạm khói
Cứ ngỡ vừa thay nhau vần cơm
…
(Kỷ niệm về bữa cơm ăn đứng – Âm vang chiến hào – tháng 3 năm 1972)
Buổi sáng thức dậy
Bắt gặp tình thương đi đưa đám hận thù
Qua con đường những đám mây bị nhiều phen rượt đuổi
Buổi sáng thức dậy
Mùa đã qua, mùa đã qua
Những khung cây hoang vắng
Đi qua nhiều mũ áo(Kỷ niệm về bữa cơm ăn đứng – Âm vang chiến hào – tháng 3 năm 1972)
(Thương lượng thời gian)
Nhạt và sáo cả khi ca ngợi lãnh tụ của mình: Người cao cả tận ngọn nguồn thương nước Sông trôi mài như bờ còn giữ được Ánh măt Người sâu vợi với thời gian Đang tỏa khắp, đang ân cần căn dặn – Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta Thì ta phải tiếp tục quét sạch nó đi”
(Đường tới thành phố)
Rất cũ kỹ, không có tứ, không có cái gì mới viết ca ngợi lãnh tụ cả.
Cái tấu hài, bệnh nhạt dẫn đến cái giả lắp ghép sống sượng, có thật mà đọc cứ tưởng là của giả:
Bạn tôi bị thương
Lúc rượt theo bọn ác ôn tháo chạy
Mảnh pháo xuyên qua bao đạn
Hạt rau dền vãi ra
Rịt lại vết thương
Xông lên đuổi địch
Bạn tôi không hay
Có luống rau dền mọc theo đường truy kích (Tháng 10 năm 1974)
Mang hạt rau, giống cũ đi theo người
lính thì quân đội nước nào cũng làm. Sự việc chi tiết có thật trong
chiến đấu. Người linh muốn đánh thắng giặc phải biết tự túc một phần
lương thực Nhưng dựng kịch bản cho nó thành luống rau truy kích thì đó
là một kịch bản tuyên huấn rất xoàng xỉng, đọc nó phản cảm.
Trong trùng trùng điệp điệp người ca
ngợi, tầng bốc thơ Hữu Thỉnh, họ cho rằng Hữu Thỉnh chịu ơn Đảng, phụng
sự cho Đảng nhưng Hữu Thỉnh không viết ca ngợi Đảng cụ thể mà chỉ viết
về mẹ và chị rất thành công.
Đúng là Hữu Thỉnh có viết về mẹ và chị là
những người thân hữu hình và vô hình cưu mang mình. Điều ấy rất đáng
trân trọng. Nhưng người mẹ, người chị trong thơ Hữu Thỉnh cực khố, khó
khăn ở mức tầm tầm:
Mẹ ta ốm, húp bát canh rau dệu
Chị ta hay ngồi khóc dười bếp một minh
…
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền…
Mâm cơm ngồi bên nào cũng lệch…
Người mẹ tứ cố vô thân Việt Nam trong chiến tranh đau thương hơn nhiều;MẸ ĂN XIN Gạo nhà mẹ hết lâu rồi Mẹ ăn xác sắn (*) ngùi ngùi cho con (*) Bã sắn Mẹ ơi! Nhận lấy vài lon Ngày mai đơn vị con còn đi xa Mẹ nhìn lòng nghẹn mắt nhòa Rét run tay gậy, thân già hụt hơi Xiêu xiêu bong mẹ xa rồi Thóp thoi chiếc lá vàng rơi giữa chiều. (Tâm sự người lính – Đỗ Hoàng, tháng 3 năm 1972)
Và người chị trong thơ Việt Nam còn mất mát vạn lần so với người chị của Hữu Thỉnh: Hồn trinh chôn chặt chân giường Em còn cho chị lược gương làm gì …. Chị giờ sống cũng bằng không Coi như chị đã sang sông đắm đò!
(Lỡ bước sang ngang – Nguyễn Bính)
.................
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét