22 tháng 4, 2015


HỮU THỈNH Cánh đồng thơ mất trắng (Đoạn 3)

( Bài của nhà thơ Đỗ Hoàng đăng trên blog Bà Đầm Xòe, do hơi dài, nên tôi chia đoạn

 Người ta nói rằng: Nhà thơ như con ong làm mật. Chúng đi hút nhị vạn bông hoa trong rừng để về làm nên mật ngọt cho mình, chứ không đi ăn cắp cánh hoa về làm mật. Hữu Thỉnh nhiều khi bê gần như nguyên xi tứ, câu chữ của người khác. Điển hình như bải Hỏi ảnh hưởng nguyên xi bài thơ Thượng đế sinh ra mặt trời  của nhà thơ Đức Christa Reinig mà công chúng đã la ó nhiều năm.
Rồi bài Sang thu lấy tứ của Vương Hòa nhà thơ đời Đường bên Trung Quốc;
Đông mộ vạn đào chi
Quá hoành thiềm xuân noãn (Vương Hòa 560 sau Công nguyên)
Cành đào tơ chiều đông Vắt sang thềm xuân ấm
Hữu Thỉnh:
Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.(Sang thu)
Hữu Thĩnh học tập không khéo. Từ vắt dùng như Vương Hòa là rát tuyệt, Vắt nhành sang mùa xuân. Cái có thực vắt qua cái ảo làm cho câu thơ có thần. Chữ vắt dùng hợp văn cảnh hình ảnh đẹp thì rất hay, như:
Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất…(Ca dao)
Dùng không hợp văn cảnh mà lại thô lậu thì rất nguy hại;
Có đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu, vắt nửa mình là vô cùng tục, không có tí gì là hình ảnh cho thơ. Chữ vắt nửa mình ở đấy đã làm cho bài thơ Hữu Thỉnh bị bôi đen hoàn toàn.
Người ta có thể nhại, liên tưởng đến cái khác tục tỉu hơn:
Có chàng trai một tạ Vắt nửa mình sang em.
Hữu Thỉnh dùng chữ “vắt nửa mình” đã giết chết thơ Hữu Thỉnh.
Bài “Thơ viết ở biển” được phổ nhạc, nhưng âm nhạc xón xòn, xòn đô xòn ở đây không che lấp được câu chữ thô vụng, cũ kỹ, ý tứ sáo mòn, hời hợt của bài thơ tình yêu này.
Hữu Thỉnh muốn nói cho to tát: Anh xa em Trăng cũng lẻ Mặt trời cũng lẻ
Gì mà đến mức ấy.
Anh xa em cái cây, con đò cũng lẻ là đã quá buồn rồi, cần gì đem mặt trời mặt trăng ra so sánh, đại ngôn như thế!
Câu thơ Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn là rất cũ và rất nhẹ. Nếu Hữu Thỉnh phát hiện đầu tiên thì cũng có thể coi câu thơ được. Nhưng câu này đã có từ mấy trăm năm trước mà hình ảnh nó đẹp, lung linh, vừa ảo, vừa thực, vừa hay hơn nghìn lần:
Sương phủ tàn hề dương liễu Vũ cứ tôn hề ngô đồng (Đặng Trần Côn)
Sương như búa đẽo mòn gốc liễu Mưa nhường cưa xẻ héo cành ngô (Đoàn Thị Điểm dịch)
Hay trong thời hiện đại:
Phong như lợi kiếm ma sơn thạch
Hàn tự tiêm phong thích thụ chi
(Hoàng hôn – Hồ Chí Minh)
Gió sắc tựa gươm mài đá núi Rét như dùi nhọn chích cành cây (Hồ Chí Minh năm 1947)
Hữu Thỉnh rất lạm dụng dùng một cái hư đặt với cái thật, cái ảo đặt với cái hiện…Nếu dùng hợp lý không tràn lan câu thơ, bài thơ hay lên nhiều:: Bò Yak trôi trên sườn núi Là đem mùa thu nắng về (Tạng thư)
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng thu tri (Thơ cổ)
(Chiếc lá ngô đồng rơi Mọi người biết thu đên) Sầu đong càng lắc càng đầy Ba thu dồn lại một ngày dài ghê (Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
Thấy gió là ôm ngang lấy gió Tưởng chừng như trong đó có hương Của người mình nhớ, mình thương Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì (Hàn Mặc Tử) Gấp đôi cánh phượng cho ngày rạng ra (Bùi Giáng)
Tôi xin em chút lòng thành Cài lên một phiến u tình làm hoa (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Hữu Thỉnh dùng tràn lan, dùng một cách bội thực mà không hay ho chút nào: Cho mượn mùa thu một buổi, gấp đêm làm gối chờ ngày đợi em, tôi cùng mùa hạ dắt nhau đi, nhấp chút tương tư/ Thế là chiều biển động, em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím, thả gió cho mây…
Hữu Thỉnh dùng nhiều liên tưởng so sánh một cách thái quá, không đúng sự thật và không chấp nhận được.
Trong Thư mùa đông ông viết: Gạo thường lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm
Bao năm không thấy màu con gái
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em…
Liên tưởng so sánh vó ngựa là tiếng guốc người yêu là liên tưởng so sánh quái dị. Vẫn biết “trung quân hi sắc” (Trong lính gái rất hiếm). Tam niên tại ngũ Trư lão như tiên
(Ba năm ở lính
Lợn sề gái xinh)
Người lình khát khao người yêu, khát khao tình dục, có khi họ phải sex animals (tình dục động vật), thủ dâm (tự sướng) như phụ nữ Brazin tuổi từ 15 đến 25 có 45 %  sex anuimals, tuổi từ 25 đến 45 có 25% sex animals; đàn ông thì nhiều hơn… nhưng không bao giờ nhầm vó ngựa với tiếng guốc người yêu! (Đỗ Hoàng dịch trên mạng).
`Apollinaire – nhà thơ nổi tiếng của Pháp đầu thế kỷ XX táo bạo nhất mà chỉ viết đến:
Je pense à toi mon Lou Coeur est ma caserne
Mes sens sint tes chevaux ton souvenir est luzenne
(Anh nghĩ đến em, Lou ơi! Tim em là trại lính của anh
Các giác quan của anh là bầy ngựa của em, kỷ niệm em là ngọn cỏ linh lăng của anh)
Nos 75 sont gracieux comme ton corps
Quand je suis à cheval tu trottes comme le feu d’un obus qui ecslate au nord
(Apollinaire)
(Những khẩu 75 duyên dáng như thân thể em
Tóc em vàng hung như lửa đạn nổ ngoài phương Bắc)
Hữu Thỉnh cũng là nhà cười gượng học, người thích cười thích hát, thích hò trong cuộc chiến xương chất thành núi, máu chảy thành sông:
Hết lớp này, lớp khác lên thay Chuyện máu thành sông, chuyện xương thành núi Không phải chuyện hoang đường văn chương diệu vợi Mà chuyện cuộc đời, chuyện thật hôm nay.  (Tâm sự người lính năm 1973 – Đỗ Hoàng)
Còn Hữu Thỉnh thì:
Hương trong ngực ngạt ngào tình bạn Cười vằng vặc mặt còn khói sạm (Trên cao điểm mùa xuân – Tháng 9 năm 1969) Tiếng sáo đỡ lời thơ bay bỗng Căn hầm rực ấm tiếng cười vang Người xuống người lên vui hả hê Tháp pháo hầm bên chăm chú nghe (Đêm liên hoan – Xuân năm 1971) Đường Trường Sơn cao ngất Ngực đồng bằng mênh mông Nuôi ta nghìn giọng hát (Chiến hào năm 1970) Bến sông thường chật chội Tiếng cười hai cánh quân (Đồng chí chở đò trên sông Ta Lê tháng 11 năm 1971) Để vui hết những gì ta có được hôm nay (Đường tới thành phố năm 1977 – 1978)
Hữu Thỉnh cũng là nhà thơ viết nhiều trương ca. Ngoài trường ca Đường tới thành phố, ông còn Trường ca Biển.
Cũng như Trường ca Đường tới thành phố, Trường ca Biển là một trường dài, dở, nhạt: …Và người lính nói:
– Hôm nay tôi thấy biển lần đầu.
Biển nói:
– Mái gianh nhà anh không nói thế
Vại nước gốc cau nhà anh không nói thế
Người lính nói:
– Tôi phải làm gì.
Biển nói:
– Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.
Đó là, nghi lễ đầu tiên và nghi lễ cuồi cùng
Người lính nói:
– Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Tôi đã tin và chưa hề bị ngã.
Biển nói:
– Không ngã chưa chắc đã khỏi chìm
Cứ lan man hỏi và nói, cứ hết sóng đến người lính, đến biển kéo dài hàng trang mà cũ kỹ, nhạt hơn nước ốc của một nhà thơ không hề sống ở biển, tưởng tượng ra để viết.
Nhà thơ sống chết với biển người ta viết hay gấp vạn lần Trường ca Biển của Hữu Thỉnh, dù chỉ một câu: Mai rồi đời cát vùi quên Biển còn hột muối nhặt lên, thưa rằng… (Ngô Minh)
Nếu mẹ hỏi vì sao con yêu biển?
Con trả lời:
-Nơi mẹ sinh con!
Nếu em hỏi vì sao anh yêu biển?
Anh trả lời:
-Nơi ấy mặt trời lên!
Nếu biển hỏi vì sao tôi yêu biển?
 – Tôi xin đưa tặng biển những con thuyền!
( Hải Bằng)
Viết hai câu lục thời thập kỷ 80 mà Hữu Thỉnh vẫn viết sai cả vần điệu lục bát – một thể loại thơ Việt, người mù chữ vẫn viết hay đúng niêm luật: Ra sông lấy sóng mà yêu Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Nên sửa lại:
Ra sông lấy sóng mà yêu Đường xa gặp núi lấy cây điều làm tin!
Khi đọc Đỗ Phủ và cảm nhận về bậc Thánh thi này Phùng Quán đã viết: Thơ ai như thơ ông Lặng im mà gầm thét Trang trang đều xé lòng Câu câu đều đậm huyết
(Đêm Nghi Tàm đọc thơ Đỗ Phủ – Phùng Quán)
Đọc trường ca của Hữu Thỉnh và của các nhà cổ động viên thời chống Mỹ, tôi có cảm giác như thế này: Thơ như thơ các ông Chỉ có toàn hò hét Trang trang đều dài dòng Câu câu đều nhạt hoét!
Hữu Thỉnh là nhà thơ cổ động viên xuất hiện muộn trong chống Mỹ, nội dung, nghệ thuật không có gì. Ông luôn luôn thương lượng, mắc cả với thời gian để cho ông trường sinh bất lão, hễ quay hết vận hội 60 năm và cộng thêm một con giáp 12 năm nữa là 72 năm đủ để cho ông đổi 72 tuổi (năm 2014) lại thành 27 tuổi và được làm Cai văn nghệ suốt đời.
Hữu Thỉnh “sáng lo kiếm sống, chiều lo công danh” – công danh cũng chỉ hạng chức bật mã ôn thế mà ông đã để cho Cánh đồng thơ mất trắng.
Tiếc thay!
Hữu Thỉnh chẳng còn bài nào Xe tăng vấp phải tường rào thi ca
Hữu Thỉnh không bao giờ đến được vương quốc Thơ!
Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2014
Đ – H
ca<� N*< r � � ���   Hữu Thỉnh không bao giờ đến được vương quốc Thơ!
Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2014
Đ – H

Không có nhận xét nào: