HỮU THỈNH Cánh đồng thơ mất trắng (Đoạn 2)
( Bài của nhà thơ Đỗ Hoàng đăng trên blog Bà Đầm Xòe, do hơi dài, nên tôi chia đoạn)
Điểm yếu nhất của thơ Hữu Thỉnh là thiếu
sự nhân đạo cao cả, mặc dù đâu đó trong thơ ông có nói “Xóa đi phiên
hiệu một sư đoàn /Đất bao dung nhận những mảnh cờ hàng”. Cả một đời thơ
lính trận mạc mà chỉ có một câu như thế là quá ít và quá nhẹ. Còn trong
thơ ông rất nhiều khẩu khí “thề phanh thây uống máu quân thù”. Với tư
duy “chính khẩu súng làm đời ta tươi tốt”, Hữu Thỉnh thần thánh hóa khẩu
súng cầm trong tay của mình:
Chúng tôi xuống đường
Chúng tôi cầm súng
Sóng dồi lên táp mặt quân thù
Khẩu súng trong tay không trệch hướng bao giờ
Chúng tôi đánh quân thù như sả cỏ làm mùa, như phát lau tra hạt…(Đất, tháng 2 năm 1971 – Âm vang chiến hào)
Và thật tàn bạo:
– “Hãy lấy đạn mà cưa thằng cuồng tín
Mặt thằng ngu muốn chết thay cây
– “Cứ bò đi, tới chộp cho thiệt lẹ
Rồi moi bụng nó ra
Xem có máu hay chỉ toàn hắc ín”
Tao muốn coi nó chết từ từ
Coi nó chết nó gọi ai trước nhất.
– “Thôi hãy quăng lựu đạn đi thôi
Cho nó chết thiệt mau để tao còn chụp ảnh
Tao cần tiền chứ không cần nó…
(Đường tới thành phố năm 1978, 1979).
Từ cổ chí kim không có vần thơ nào ác độc như thế này.
Cái tinh thấn “súng là đạn, vợ là con, dồn căm thù lên nòng súng, đôi
mắt em hình viên đạn” đã biến thi nhân thành sát nhân, biến tác phẩm
nghệ thuật thành biệt kích một cách cuồng tín của nhiều con người ở thế
kỷ XX , thật là có một không hai trong lịch sử nhân loại:
Bao nhà thơ mất hết lương tâm
Bao bọn báo bồi văn bồi làm gián điệp
Bao tác phẩm nghệ thuật biến thành biệt kích
Cuộc đời này đánh đĩ với văn chương…
(Loài người – Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngày 4 tháng 6 năm 1973 ).
Đọc những lời thơ đẩm máu ấy làm cho chúng ta rợn người nhớ tới những
trại thiêu người của bọn phát xít Quốc xã Đức ở Ốtsơvenxim trong thế
chiến thứ hai vô cùng rùng rợn, nhớ tới những bãi đầu lâu chất thành núi
của Thành Cát Tư Hãn, của bọn Ponpot Iêng xa ri diệt chủng ở Căm pu
chia để cảnh tỉnh cho nhân loại hiền lành trước cái ác tàn bạo!
Thật ra “trúc càn có thể chém vạn cành”. (Đỗ Phủ) Nhưng đấy là thời trung cổ, thời mà ”Thề sao thì cứ thế sao gia hình/ máu rơi thịt nát tan tành/ ai ai trông thấy hồn kinh phách rời
( Đoạn trường tân thanh phóng tác truyện Tàu – Nguyễn Du). Còn thời
hiện đại con người ở với nhau nhân đạo hơn. Bây giờ nhiều nước dân chủ ở
châu Âu họ đã bỏ án tử hình. Những nơi còn án tử hình thì họ cho chết
nguyên thây bằng cách tiêm thuốc, chứ không mổ bụng moi gan hoặc băm vằm
thi thể kẻ ác nhân như trong thơ Hữu Thỉnh!
Sao trong thơ Hứu Thỉnh lại có những cảnh “tùng xẻo” như vậy ?
Hữu Thỉnh là nhà thơ không có sự rung cảm, trái tim ông trơ lì vì “mải mê trên đường hoạn lộ”, ông đã tự thú:
Anh lặng im như đất
Ái nói gì cứ nâu…
(Thương lượng thời gian.)
Rồi tiếp
Coi nó chết nó gọi ai trước nhất!
Thưa nhà thơ Hữu Thỉnh, nó gọi mẹ đẻ đấy ạ!
Thượng tá Hoắc thời làm giám thị trại giam Hỏa Lò có kể cho tôi nghe chi
tiết là khi những từ tù, những kẻ ác độc nhất đem đi thi hành án, nhà
tù cho một mẩu giấy bằng nửa bàn tay để viết lời trăng trối cuối cùng,
trên 90% viết gửi về cho Mẹ đẻ.
Nhà văn Khôi Vũ – Nguyên sỹ quan Quân y Việt Nam Cộng Hòa – Nguyên
Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Đồng Nai, Phó tổng biên tập báo Văn nghệ Đồng
Nai -Giải thưởng tiểu thuyết “Lời nguyên hai trăm năm” của Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1989
Nhà văn Triều Nguyên – Nguyên Thiếu
úy Sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa – Giải thưởng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về Văn học nghệ thuật.đợt 2
Nhà thơ Lê Văn Ngăn – Nguyên Trung sỹ
Việt Nam Cộng Hòa, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định, Phó Tổng
biên tập tạp chí Văn nghệ Bình Định, Đảng viên Đảng Cộng sản việt Nam.
Bộ
đội Quân giải phóng miền Nam quàng vai thân thiện với người lính Việt
Nam Cộng Hòa sau Hiệp định Paris ngưng bắn ở Việt Nam năm 1973.
Anh giải phóng quân (bên trái) là đồng đội của nhà thơ Trần Khởi và người lính VNCH tại chiến trường Bình Định năm 1973
Nhà
thơ Đỗ Hoàng – Nguyên bình nhì tiểu đội 3, trung đội 3, Đại đội 359,
quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Thơ Tạp chí
Nhà văn. Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng về Báo chí – Văn học nghệ thuật
(2009 – 2004)
.Nhà thơ Hữu Thỉnh – Nguyên Trung tá
Quân đội nhân dân Việt Nam – Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch UB
Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
Cứ bò tới chộp cho thiệt lẹ
Rồi moi bụng nó ra
Xem có máu hay chỉ toàn hắc ín?
Máu đỏ hết, đều là da vàng máu đỏ cả nhà
thơ Hữu Thỉnh ạ. Con cháu của những người sống sót sau cuộc mổ bụng, moi
gan ấy 20 năm sau họ đã là Đảng viên như Hữu Thỉnh, nhiều người làm đến
Phó chủ tịch phường, Hiệu trưởng trường tiểu học, trung học…vào cấp ủy,
vào các cấp lãnh đạo chính quyền do Đảng Cộng sản cầm quyền rồi ạ.
Những người lính sống sót không bị mổ bụng moi gan thì thành nhà văn
tài năng đoạt được giải thưởng lớn của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. (Xem ảnh) . Còn những người thoát chết dã man rùng rợn
ấy là thuyền nhân vượt biên và giờ gửi dolla về xây dựng đất nước, được
Đảng Cộng sản Việt Nam, chiều chuộng tin yêu:
Chưa đi Đảng bảo Việt gian
Đi rôi được Đảng chuyển sang Việt kiều
Việt kiều Đảng quý, Đảng yêu
Sớm hôm mong muốn gửi nhiều đô la! (Ca dao mới)
Thời điểm Hữu Thỉnh viết trường ca Đường
tới thành phố (1977 – 1978), trường ca gậm nhấm chiến thắng lầ thời điểm
đau thương nhất trong lịch sử Việt Nam mà các cuộc thống nhất đất nước
của Tây Sơn của Gia Long cũng không có. Dân tình xơ xác đói kém. Nạn
thuyền nhân như một cái tang cho dân tộc. Hàng triệu người bỏ nước ra
đi. Hơn nửa vạn người làm mồi cho cá ngoài biển Đông sóng thần!
Năm Mậu Ngọ mất khoai
Năm Kỷ Mùi tàn lúa
Vạn nhà cứ đói hoài
Vạn người chết sấp ngữa! (Tức sự năm 1979 –Đỗ Hoàng)
Nhiều nhà văn, nhà thơ có lương tri đã
ngộ ra, tỉnh ra sau cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đau xót cho dân tộc
Việt da vàng nhược tiểu bị các thế lực ngoại bang hai phía xúi bẩy đến
cảnh nồi da xáo thịt, đã viết nên những tác phẩm làm rung động tấm lòng
và lương tri nhân loại: Nguyễn Minh Châu “Người viết trẻ và cánh rừng
già (1973), Ai điếu cho một nền văn học minh họa (1979), Cỏ lau ; Hoàng
Ngọc Hiến với Hiện thực phải đạo, Nguyên Ngọc, Tổng biên tập báo Văn
nghệ ủng hộ lương tri thức tỉnh; Trần Mạnh Hảo với Ly thân,; Bảo Ninh
với Nỗi buồn chiến tranh; Phạm Thành với Hậu Chí Phèo; Hoàng Minh Tường
với Thời của thánh thần; Đỗ Hoàng với tập thơ Tâm sự người lính, 3 tiểu
thuyết Phí một thời trai, Cuộc chiến vừa tàn, Gửi người tình bên kia đại
dương, Huy Đức với Bên thắng cuộc, Nguyễn Dậu với Chúa trời ngủ gật;
Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của Chúa……
Thế mà Hữu Thỉnh vẫn một lòng tụng ca, hô khẩu hiệu suông:
Tất cả dưới bàn tay của Bác
Hoa thiêng liêng máu thịt tự hào
Chúng con thèm nghe Bác nói một câu
Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời nước
Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp
Để vui hết những gì ta có được hôm nay!… (Đường tới thành phố năm 1977 – 1978)
Việt Nam có truyền thống nhân đạo từ xưa.`
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Nghĩa là:
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run. (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Đứa ăn mày cũng trời sinh
Bệnh còn cứu đặng, thuốc dành cho không (Hải Thượng Lãn Ông)
Vì sao thơ Hữu Thỉnh thiếu tính nhân đạo
như vậy. Nguyên nhân rất dễ hiểu, Vì ông “vi thi lập thân” (lấy thơ tiến
thân). Để có chức vụ, quyền lực trong chiến tranh ông phải hô khẩu
hiệu, phải lên gân, phải sáo rỗng, phải gian dối, phải chiều theo Đảng
cầm quyền, trong hòa bình phải tìm mọi cách kiếm tiền.
Nhưng Hữu Thỉnh không để chậm như vậy đâu. Ngay trong chiến tranh, Hữu Thỉnh đã ngửi ra hơi đồng:
Cho nó chết thật nhanh để tao còn chụp ảnh
Tao cần tiền chứ không cần nó… (Đường tới thành phố năm 1977, 1978)
Trong thơ Hữu Thỉnh có rất nhiều từ chuyên môn ngành thương mại, tài chinh như: vốn, mua bán, đồng, tiền, bạc, thương lượng…
Nếu ông đi học trường đại học Buôn Bán
(Thương Mại ), đại học Tài Chính ở Câu Giấy, ở Cổ Nhuế chắc sẽ phát huy
được sở trường của mình! Ông sẽ thương lượng với thời gian, mặc cả với
bất tử cho ông trường sinh bất lão, làm quan suốt đời để hưởng cho hết
bổng lộc mà đời đã ưu ái cho ông.
Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn viết bài gửi cho
tôi đăng có viết: Hữu Thỉnh bảo làm Cách mạng cần máu, làm quan cần
tiền. Chú mày sinh ra để anh dùng”
Máu tham ngửi thấy hơi đồng là mê (Nguyễn Du) thì Hữu Thỉnh làm sao “vi thi chi hoạt” (sống chết vì thơ) được.
Trong thơ tình, Hữu Thỉnh cũng không thật lòng:
Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
Người khao khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi. TỰ THÚ -1987
Thơ tình mà kêu leng reng quá. Trong đời
thực và trong đời ảo Hữu Thỉnh làm gì trải qua những cảnh ngộ “ta yêu
mình tan nát bởi mình ơi!” Có thể viết ngược lại” Mình mà yêu ta thì
mình sẽ tan nát hết mình ơi!”
Các nhà thơ lớn, thơ tình của họ rất bình dị mà sâu lắng làm rung động trái tim yêu nghìn năm:
NGÀI VÀ TÔI, ANH VÀ EM
Nàng bỗng đổi tiếng ngài trống rỗng
Thành tiếng anh tha thiết đậm đà
Thưa em, em đẹp lắm
Mà thâm tâm anh chưa thể nói ra!
(Puskin – Thúy Toàn dịch)
Đương thời ngã túy mỹ nhân gia
Mỹ nhân nhan sắc kiều như hoa
Kim nhật mỹ nhân khứ ngã khứ
Thiên nhai châu bạc liên chi gia (Sở hữu tư – Lô Đồng đời Đường)
Khi say ta ở nhà ai
Mặt ai xinh đẹp tươi cười như hoa
Bây giờ ai vội lìa ta
Mày xanh rèm ngọc xa xa chân trời…”(Nhớ người đẹp – Bản dịch Tản Đà)
Nội dung thơ Hữu Thỉnh đã như thế, vì
xuất hiện muộn nên nghệ thuật, thi pháp thơ thì hầu như không có gì, lại
còn thô vụng câu chữ, ý tứ, cóp py nguyên xi các tác giả khác nữa.
Bài thơ Hai nhà viết năm 1962 là một ví dụ tiêu biểu.
Hai nhà tựa lưng vào nhau
Cành xoan bên ấy ngả đầu sang đây
Lá sả đấy gội đây say
Ru em bên ấy, bên này thiu thiu
Hôm qua bên ấy lẩy Kiều
Bên này căm mãi cái mưu Tú Bà
Mãi nghe chênh chếch trăng tà
Đầu hồi bên ấy ngả qua bên này
Sáng ra nắng trĩu cành cây
Mái lá bên này choàng cả bên kia. (Vĩnh Phú 1962)
Nhà ở nông thôn mà tưởng tượng ra tựa lưng vào nhau là không thật. Không có việc ấy và không có điều nay Lá sả đấy gội đây say/Ru em bên ấy bên này thiu thiu.
Một chàng trai đôi mươi đang yêu hừng hực mà nghe ru em để thiu thiu ngủ thì chàng trai đó là đứa trẻ đang nằm nôi (!)
Rồi cô gái tuổi trăng tròn lẻ mà biết lẩy
Kiều hơn nghìn câu đến đoạn Tú Bà “đà đao lập sẵn chước dùng” là khoét
lác, không thể có. Hữu Thỉnh muốn tri thức hóa, Kiều hóa cô gái nông
thôn, cô người yêu mình thập kỷ 60 thế kỷ trước có trình độ Kiều như
Tiến sỹ Kiều học Trần Nho Thìn bào vệ luận án phó tiến sỹ Đoạn trường
tân thanh bên Liên Xô đấy!
Hữu Thỉnh viết 10 câu lục bát mà để nhiều lỗi vần.
Ru em bên ấy bên này thiu thiu
Hôm qua bên ấy lẩy Kiều
Nên sửa lại:
Hôm qua bên ấy lẩy Kiu
Tiếp:
Hôm qua bên ấy lẩy Kiều
Bên này căm mãi cái mưu Tú Bà
Nên sửa lại:
Bên này căm mãi cái miêu Tú Bà.
…
Ai về Pa Háng, Nghệ An
Rằng nay Trạm Gió có giàn su su
Ai qua Lệ Thủy, Xuân Bồ
Bây chừ Trạm Gió cải ngù, gà choai… (Trạm Gió 1967)
Bài thơ trong tập Âm vang chiến hào như một bài bích báo mà đầy lỗi vần.
Nên sửa lại
Ai qua Lệ Thủy Xuân Bù
Bây chừ Trạm Gió cải ngù, gà choai.
Đã đứng tuổi mà Hữu Thỉnh làm thơ như vậy
thì hỏi làm sao độc giả tâm phục khẩu phục. Trong khi đó Trần Đăng Khoa
mới tám tuổi, chin tuổi năm 1967 viết ục bát đã thâm hậu trong nội dung
lại điêu luyện trong nghệ thuật thi pháp:
Hoa dừa nở lẩn cùng sao
Là dừa chiếc lược chải vào mây xanh
…
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. (Tư gốc sân nhà em – Trần Đăng Khoa 1968)
Đúng là:
Khôn thì khôn thuở lên ba,
Dại thì dại khú, dại tra (*) một đời! (*) Già -tiếng miền Trung)
Hữu Thỉnh cũng hay bắt chước học cách lập tứ của các nhà thơ thời chống Mỹ nổi tiếng.
Hoàng Nhuận Cầm có bài thơ “Tiếng chim trên đồi chốt” rất hay:
Lích chích là chuyện chim ri
Khoác lác nhất nhì chuyện sáo sậu thôi
Chuyện nghe như chuyện đâu rồi
Là lời chú vẹt đang ngồi bên kia
Mạ ơi! Đất nước cắt chia
Tiếng kêu con cuốc đi về quả tim… (Tiếng chim trên đồi chốt – Hoàng Nhuận Cầm năm 1972)
Hữu Thỉnh cũng làm bài Chợ Chim phỏng theo:
Chào mào chưa nếm đã say
Chim sâu bận mọn nửa ngày mới sang
Anh vũ mua bán đàng hoàng
Ăn xong múa lượn cả làng cùng xem
Bồ nông ở cử ăn khem
Cà siêng có khách vội đem quà về
Con sáo mua bán màu mè
Quạ đen đánh quỵt còn khoe đủ điều… (Chợ chim – Thơ Hữu Thỉnh năm 1988)
Nguyễn Duy có bài Bầu trời vuông, Hữu Thỉnh cũng có bài Bầu trời trên giàn mướp. Bài thơ Bâu trời vuông của Nguyễn Duy:
Thắng rồi trận đánh thọc sâu
Lại về với mái tăng – Bầu trời vuông
Sục sôi bom lửa chiến trường
Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng
Khoái nào bằng phút ngả lưng
Mở trang thư dưới bong rừng đung đưa
Trời tròn có lúc rơi mưa
Trời vuông vuông suốt bốn mùa nắng xanh…
Người lính nào ở chiến trường cũng đều nhớ, còn bài Bầu trời trên giàn mướp của Hữu Thỉnh thì không ai nhớ.
...................