Trong lĩnh vực tư vấn, Investconsult
Group là một trong những doanh nghiệp tư vấn hàng đầu ở Việt Nam.
Nguyễn Trần Bạt cho rằng, bằng kinh nghiệm và hiểu biết của mình,
ông và các cộng sự là người bắc chiếc cầu cho các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.
Investconsult Group hiện nay có 250 cán bộ và trên 100 cộng tác
viên làm việc tại Hà Nội (trụ sở chính), TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ
và nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
PV: Ông có thể
giới thiệu đôi nét về InvestConsult?
NTB: Chúng
tôi có 7 đơn vị thành viên. Chúng tôi cung cấp dịch vụ trong 3 lĩnh
vực. Thứ nhất là dịch vụ về dự án kinh tế. Trong lĩnh vực này chúng
tôi có 3 công ty con, 1 công ty chuyên làm các dự án ODA, 1 công
ty chuyên làm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, công ty thứ 3 cung
cấp các giải pháp xí nghiệp tức là hỗ trợ các xí nghiệp ví dụ như
là cấu trúc lại doanh nghiệp. Lĩnh vực dịch vụ thứ 2 của chúng tôi
là Luật. Chúng tôi đã thành lập một công ty Luật từ lâu rồi. Công
ty Luật của chúng tôi có lẽ là công ty Luật lớn nhất Việt Nam. Hiện
nay công ty này có khoảng gần 70 luật sư và khách hàng của nó có
nhiều cỡ, từ hãng Boeing của Mỹ cho đến các doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Việt Nam. Những máy bay của Vietnam Airlines bay ở Việt
Nam có sự tham gia của chúng tôi vào các hợp đồng bán, thuê, mua...
Lĩnh vực thứ ba là lĩnh vực IP tức là dịch vụ bảo hộ các quyền sở
hữu trí tuệ, cũng có 3 tổ chức, một công ty chuyên bảo hộ các quyền
sở hữu công nghiệp, một công ty chống vi phạm, công ty thứ ba là
công ty chuyên làm marketing cho các thương hiệu hoặc các sản phẩm.
Tôi là Phó chủ tịch Hiệp hội sở hữu trí tuệ Việt Nam. Ngoài ra chúng
tôi còn có Viện nghiên cứu khoa học. Đây là viện nghiên cứu tư nhân
đầu tiên, tên chính thức của nó là Viện Nghiên cứu Phát triển Investconsult.
Với chừng ấy đơn vị thành viên, trong nhiều năm qua, chúng tôi là
những người nỗ lực bắc chiếc cầu cho các nhà đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
PV: Ông vừa nói
đến viện nghiên cứu trực thuộc Công ty, vậy thủ tục thành lập Viện
nghiên cứu tư nhân có khó không?
NTB:
Không, thủ tục của tôi kỳ lạ lắm. Chính phủ có một nghị định gọi
là Nghị định 35 về công tác quản lý khoa học và công nghệ nhưng
tôi nghĩ là nó không phù hợp với khuôn khổ của chúng tôi và tôi
không đăng ký theo cách ấy. Trong một buổi giao lưu, gặp gỡ với
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu khoảng tháng 11/1999, ở Trung tâm Hội nghị
quốc tế, số 11 - Lê Hồng Phong tôi có hỏi ông ấy là tôi muốn thành
lập một viện nghiên cứu tư nhân có được không? Tôi thấy bây giờ
tất cả những chính sách đều không được phản biện một cách chuyên
nghiệp, chúng ta cũng lấy ý kiến nhân dân nhưng thăm dò ý kiến nhân
dân và phản biện một cách khoa học là hai việc hoàn toàn khác nhau.
Những lời kêu la, góp ý của nhân dân không phải là phản biện khoa
học. Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói là: "Tôi hoàn toàn ủng
hộ". Hôm sau Thông tấn xã Việt Nam đã đăng cái tin ấy . Như
vậy, sự ủng hộ của Tổng bí thư chính là sự phê chuẩn lớn nhất. Tôi
đã hỏi ý kiến các anh em trong công ty là các anh em có thích nghiên
cứu khoa học không. Nếu các anh em thích thì các anh em làm một
đề nghị vì quyền nghiên cứu khoa học là một quyền hợp hiến chứ không
chỉ là quyền hợp pháp. Nhân dân đề nghị và Tổng bí thư phê chuẩn
thì tôi quyết định thành lập và Viện Nghiên cứu Phát triển Investconsult
của tôi ra đời.
Tôi có trả lời phỏng vấn trên báo Nghiên cứu Lập pháp của Văn phòng
Quốc hội rằng tôi rất thận trọng trong những việc như thế. Lúc bấy
giờ tôi có nói với Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng tất cả những kết
quả nghiên cứu khoa học của tôi, tôi sẽ dâng lên Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tôi không có bài nào đưa lên các trang web nước ngoài. Tôi
chỉ đăng trên các tạp chí chính thống của Việt Nam và xuất bản một
cách đàng hoàng trên lãnh thổ Việt Nam. Còn chuyện gửi lên các trang
web bên ngoài trong điều kiện xã hội chúng ta khi chưa rõ ràng về
mặt pháp lý thì tôi không làm.
PV: Sau khi hoàn
thành dự án, ông trình thì ai ký, ai cho ra cái pháp nhân đó?
NTB:
Không, đây không phải là một pháp nhân. Nghiên cứu là quyền của
tôi, là quyền hợp hiến, tôi thích thì tôi làm. Không có bộ luật
nào ở Việt Nam quy định việc thành lập các cơ sở nghiên cứu khoa
học cả mà chỉ có quyền nghiên cứu khoa học của một tập thể có sẵn.
Quyền nghiên cứu khoa học đã được Hiến pháp cho phép rồi thì cớ
gì phải có một quyết định của một bộ nào cho phép làm chuyện ấy?
PV: Ông có thể
giới thiệu các sản phẩm của Viện?
NTB: Những
quyển sách đã xuất bản là sản phẩm của Viện. Nó còn có những tạp
chí nội bộ. Vì luật báo chí chưa cho phép xuất bản báo chí tư nhân
nên tôi buộc phải làm tạp chí nội bộ. Các bộ phận như bộ phận Sở
hữu trí tuệ, bộ phận Luật... vừa là công ty làm ăn vừa tổng kết
kinh nghiệm làm ăn vừa nghiên cứu khoa học. Viện nghiên cứu có bộ
máy thường trực của nó, khoảng 20 người. Có thư viện vào khoảng
10 ngàn đầu sách, đó là một thư viện tư nhân khá quy mô ở Việt Nam.
PV: Viện
của ông có nhận các đề tài nghiên cứu của nhà nước không?
NTB: Không.
Về nguyên tắc tôi không nhận bất cứ một thứ gì từ ngân sách nhà
nước. Tôi làm việc với tư cách là một công ty không liên quan gì
đến ngân sách của nhà nước nhưng ngân sách của các công ty nhà nước
thì có. Tôi có một Hội đồng các cố vấn khoa học, đó hầu hết là những
nhà lý luận hoặc hoạt động nhà nước đã về hưu. Chúng tôi cộng tác
rất chặt chẽ với họ. Bằng những kinh nghiệm hoạt động nhà nước,
hoạt động xã hội, họ thay mặt xã hội đặt ra các vấn đề. Khi họ đặt
ra các vấn đề thì chúng tôi nghiên cứu, chúng tôi làm rõ những vấn
đề ấy và viết thông qua các ấn phẩm, các bài viết. Cán bộ của chúng
tôi có các bài viết đăng trên nhiều tạp chí quan trọng kể cả những
tạp chí chính thống của Đảng cộng sản Việt Nam như tạp chí Thông
tin và Lý luận của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
PV: Ông
có thể giới thiệu với bạn đọc đôi nét về mình?
NTB: Tôi
học nhiều thứ nhưng xuất phát điểm là tôi học văn. Năm 1967, khi
ra khỏi bộ đội vì lý do sức khỏe, tôi học Đại học Xây dựng, chuyên
ngành Cầu đường. Đến năm 1989 tôi học Luật. Trước đó, song song
với học xây dựng thì tôi có học toán, học nhiều thứ.
|
|
Tôi đi thanh niên xung phong năm 1963. Năm 1964 thì đi bộ đội.
Năm 1967 ra khỏi bộ đội và đi học lại. Năm 1972 tốt nghiệp đại
học xong rồi lại vào bộ đội, ra khỏi bộ độ một cách thật sự năm
1976. Sau khi ra khỏi bộ đội, tôi về Viện Khoa học Công nghệ Giao
thông Vận tải. Ở đó tôi là quyền chủ nhiệm Bộ môn Nền móng và
công trình ngầm. Tôi làm ở đó từ năm 1976 đến năm 1984. Năm 1984
đến năm 1985 tôi làm việc tại "Hội Xây dựng Việt Nam” và
khởi xướng thành lập "Trung tâm hỗ trợ các hoạt động Sỡ hữu
công nghiệp", tiền thân của Công ty dịch vụ Sở hữu trí tuệ
- Investip của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay. Năm 1989 tôi
chuyển sang Viện Khoa học Việt Nam và thành lập Công ty Tư vấn
Đầu tư Invesconsult. Năm 1992, sau khi Luật Công ty ra đời, tôi
chuyển đổi Investconsult thành Công ty TNHH, tức Investconsult
Group ngày nay.
PV: Tiêu
chí tuyển nhân viên của công ty là gì? Trong cuộc phỏng vấn tuyển
dụng, ông coi trọng điều gì?
NTB: Tiêu
chí tuyển nhân viên của công ty trước tiên phải học những ngành
mà công ty cần, sau đó qua một cuộc phỏng vấn về nhân cách, ứng
xử. Chúng tôi nhấn mạnh một số thứ rất chủ yếu. Thứ nhất là lòng
trung thành và chí tiến thủ vì có lòng trung thành mà không có
chí tiến thủ thì không phát triển được, có chí tiến thủ mà không
có lòng trung thành thì không hợp tác lâu dài được. Thứ hai là
có trình độ chuyên môn tốt nhưng cũng phải có kinh nghiệm ứng
xử đối với cuộc sống, bởi nghề chúng tôi là nghề tư vấn tức là
nói vào tai thiên hạ các lẽ phải để lấy tiền, thế nên phải biết
nói như thế nào. Thẳng thắn quá, cương trực quá thì nói được với
ít cái tai hơn, cho nên vừa phải thông thái vừa phải khôn khéo.
Đấy là điều lý tưởng chúng tôi mong muốn như thế chứ thực ra thì
cũng có người không đạt được mức như vậy. Nhưng bộ máy lãnh đạo
thì buộc phải hội đủ tiêu chuẩn như vậy để biết rõ người lao động
như thế nào, dùng vào công việc gì cho thích hợp. Tôi luôn xem
phẩm chất quan trọng nhất của một con người là ý thức tổ chức
cuộc đời của anh ta như thế nào. Người mà không tổ chức tích cực
được cuộc đời của mình thì khó có thể đóng góp một cách tích cực
cho cuộc sống được. Tôi tuyển chọn cán bộ bao giờ cũng bắt đầu
bằng cách xem khả năng sắp xếp tổ chức cuộc sống riêng tư như
thế nào.
PV: Cách tìm
hiểu của ông về vấn đề đó như thế nào?
NTB: Phải
phỏng vấn, phải quan sát. Ví dụ tiêu biểu là tôi có thể hỏi về
bố mẹ anh ta. Bao giờ bố mẹ cũng phản ánh lên con cái những dấu
ấn, những dấu ấn ấy vô cùng quan trọng và không trộn lẫn vào đâu
được. Con anh này khác con anh kia một cách rất rõ ràng. Nếu anh
thiếu hiểu biết về âm nhạc thì khi nghe Beethoven anh ta sẽ nhầm
với Mozart. Nhưng một khi anh nghe và anh biết cả hai thì anh
không thể nhầm được. Năng lực cơ bản của con người là năng lực
tổ chức cuộc sống cá nhân. Nhưng năng lực ấy hoàn toàn có thể
trở thành một cái bẫy, nếu anh là một kẻ ích kỷ.
Một người có đủ năng lực tổ chức cuộc sống cá nhân, có sự khoáng
đạt của một con người yêu cuộc sống thì họ sẽ đem đến cho cuộc
sống đúng năng lực tổ chức cuộc sống của họ. Còn ngược lại, những
anh chỉ yêu cuộc sống một cách khoáng đạt nhưng không có năng
lực tổ chức cuộc sống của mình thì chỉ trở thành những con bướm
bay lởn vởn dưới hạnh phúc của người khác mà không phải của mình.
Điều đấy là vô cùng quan trọng đối với việc tuyển chọn cán bộ.
Làm lý luận chỉ là một chuyện, nhưng nếu như người ta không có
đủ cái từng trải, đủ kinh nghiệm, đủ thông thái để tạo ra cuộc
sống thì người ta không có ích cho ai cả.
PV: Ông có rất
nhiều cán bộ, nhân viên và như vậy thì ông không thể biết tất
cả mọi người có tổ chức tốt cuộc sống của mình hay không. Trong
một cuộc phỏng vấn họ có thể nói rằng tôi rất hạnh phúc chẳng
hạn. Vậy ông làm thế nào để thẩm định?
NTB: Người
ta có tự do đến với tôi và tự do đi ra khỏi tôi. Nếu tôi đòi hỏi
điều họ không có thì họ sẽ đi, chỉ có những ai có điều tôi mong
ước thì họ ở lại. Tự do của người lao động ở nước chúng ta cũng
như ở trên toàn thế giới là đến và đi. Phạm trù tự do đến và đi
không chỉ đối với một công ty mà đối với cả quốc gia, tôi có viết
điều đó trong các quyển sách của tôi. Một nền kinh tế năng động
là một nền kinh tế tạo ra năng lực dịch chuyển một cách năng động
của tất cả các nguồn phát triển trong đó có nguồn lao động. Tôi
phê phán lối của người Nhật trong việc tổ chức lao động, tức là
3 - 4 thế hệ cống hiến cho một công ty. Người châu Á tự hào, coi
đó là một điểm mạnh. Tôi coi đó là điểm kém nhất của người châu
Á.
Anh không đổi mới được văn hoá trong một xí nghiệp thì làm sao
anh tạo ra sự phát triển của xí nghiệp được. Do vậy, sự phát triển
của xí nghiệp không phải để tiếp tục đầu tư tiền bạc vào một xí
nghiệp mà là sự đầu tư tiền bạc trên sự sáng tạo của người lao
động, mà người lao động chỉ có thể sáng tạo được một khi họ luôn
luôn được đổi mới về các giá trị tinh thần. Một cơ sở không có
đổi mới về các giá trị tinh thần thì cơ sở ấy không thể phát triển
được. Một quốc gia không cởi mở, không đổi mới thường xuyên các
giá trị tinh thần thì quốc gia ấy cũng không thể nào phát triển
được.
PV: Ông có thể
cho biết mức thu nhập bình quân của nhân viên trong công ty?
NTB:
Tôi có thể nói rằng nếu ai đó mơ tới chủ nghĩa xã hội thì hình
như ở đây chúng tôi có nó rồi. Mức sống của chúng tôi là mức sống
của chủ nghĩa xã hội theo định nghĩa tiêu chuẩn của Lenin, tức
là chúng tôi có mức sống khá giả, anh em chúng tôi vui vẻ, không
ai cảm thấy tủi thân khi làm nhân viên, không ai cảm thấy tự mãn
khi làm quan chức. Cuộc sống của họ vừa bình dị về mặt tinh thần,
vừa dễ chịu về mặt vật chất. Ở đây tôi khuyến khích mọi người
học tập. Ngay cả các lái xe của tôi cũng theo học khoa Kinh tế,
Đại học Kinh tế quốc dân. Tôi cho rằng lái xe hay bảo vệ đều là
con người. Họ có vợ, có con, họ cần phải tổ chức ra niềm tự hào
về người cha, người chồng đối với con họ, vợ họ.
PV: Thế có nghĩa
là ông luôn thiết lập niềm tự hào trong mỗi con người. Đó phải
chăng là một phần của văn hóa công ty?
NTB:
Đúng thế.
PV: Xin cảm
ơn ông!
|