1 tháng 12, 2015

SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT
Nguồn Vietnamnet .

IV. Xu thế thời đại không cho chúng ta quyền bảo thủ
Theo Nguyễn Trần Bạt, giữa phát triển và dân chủ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dân chủ là điều kiện cần cho phát triển và ngược lại, phát triển là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ. Dân chủ như là một nhu cầu tất yếu của quá trình hội nhập và phát triển, muốn hội nhập và phát triển phải đáp ứng nhu cầu đó.
Ông cho rằng, một chính phủ mà không muốn dân chủ thì nhân loại sẽ bắt ép nó, sẽ cưỡng bức nó tạo ra nền dân chủ. Bây giờ không phải là thời đại mà chúng ta có quyền bảo thủ.
Nhiệm vụ của nhà nước là giải quyết vấn đề vĩ mô

PV: Qua câu chuyện với ông, chúng tôi khám phá ra nhiều ý kiến mới, độc đáo và rất biện chứng. Biện chứng giữa lịch sử và hiện đại, giữa Đông và Tây. Nhận định của ông về "Đổi Mới I" chúng tôi hoàn toàn đồng ý. Nhưng ông vẫn chưa nói bản chất của "Đổi mới II" có phải là đổi mới chính trị không?

NTB: Đổi mới kinh tế một cách bản năng thì đến nay đã đi hết, còn để đổi mới kinh tế một cách bài bản và có hệ thống thì buộc phải đổi mới chính trị, đổi mới văn hoá, đổi mới giáo dục thì mới tạo ra được năng lượng cho "Đổi mới II".
PV: Một dân tộc muốn phát triển được thì phải kích hoạt được tất cả mọi năng lực tiềm tàng vốn có mà cái quan trọng nhất của một dân tộc là năng lực con người. Theo ông, nhà nước đóng vai trò thế nào trong việc kích hoạt các năng lực con người?
NTB: Tôi cho rằng nhiệm vụ của các nhà nước là giải quyết những vấn đề vĩ mô. Các chính phủ không phải lo cho công ty nhà nước, các chính phủ không phải điều hành các xí nghiệp, các chính phủ chỉ cần có năng lực và chỉ nên điều hành một nền kinh tế.
Xuất khẩu lao động không phải là một chính sách tốt PV: Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 75% dân số sống ở nông thôn, nhưng đời sống của một bộ phận lớn này gần như vẫn bế tắc. Chỉ một số ít trong số đó là những người có nghề phụ hay tham gia vào các dịch vụ là không bế tắc. Xuất khẩu lao động dường như là một lối thoát cho bộ phận này. Theo ông đó có phải là một lối thoát tốt không?
NTB: Tôi e rằng xuất khẩu lao động sẽ là một thảm họa. Sự dịch chuyển của các dòng lao động một cách tự nhiên thì rất tốt nhưng nếu có một chính sách quốc gia về xuất khẩu lao động như chúng ta vẫn làm thì đó là một thảm họa. Về mặt chính sách mà nói thì tôi không hiểu được chính sách xuất khẩu lao động của Việt Nam.
PV: Ông có nghĩ rằng nó vẫn có một chút ích lợi?
NTB: Đấy là cách giải quyết một số bế tắc trước mắt chứ không phải là chính sách. Chính sách không phải là để giải quyết bế tắc. Chính sách là tạo ra các dòng chảy chính đáng một cách tự nhiên, phù hợp với các quy luật của cuộc sống. Đấy là chính sách đúng còn nếu chính sách là để gỡ các thế bí thì không phải chính sách. Xuất khẩu lao động không nên coi là một chính sách. Gọi đó là một chính sách thì đó là chính sách của một sự điều hành tồi chứ không phải là một chính sách.
Tôi có nghe thông tin về những người lao động Việt Nam đến Hàn Quốc sau đó bỏ hợp đồng. Vậy là họ không xuất khẩu lao động mà họ mượn sự xuất khẩu lao động để tự xuất khẩu mình. Cái đấy có phản ánh tính đúng đắn của chính sách xuất khẩu lao động không? Hầu hết những người có hợp đồng lao động đến những nước lỏng lẻo về mặt quản lý đều tìm cách trốn ra khỏi hợp đồng. Điều này tạo ra một hình ảnh xấu về việc không tôn trọng hợp đồng của người Việt. Nếu hình ảnh này được phổ biến ở khắp thế giới thì nước Việt Nam không thể có ấn tượng tích cực trong cộng đồng quốc tế. Chính sách nào mà không tạo ra được hình ảnh tích cực về một nền kinh tế, về một đất nước thì chính sách ấy tồi.
PV: Tại sao nhà nước lại không tạo ra chính sách để người dân có thể xuất khẩu chính mình?
 
NTB: Đấy lại không thuộc về lỗi của chính phủ nữa. Thật ra bây giờ chính phủ không cấm chúng ta tự xuất khẩu nhưng chúng ta lấy tiền đâu để tự xuất khẩu? Lấy kinh nghiệm đâu mà tự xuất khẩu? Cái nhóm người nằm trong các hợp đồng xuất khẩu lao động là nhóm đầu tiên để người Việt thử nghiệm hay là vượt qua cái kinh nghiệm ngẩn ngơ của mình trong quá trình tự xuất khẩu mình mà thôi. Cho nên, nếu mà chính sách này vẫn có ý nghĩa tích cực thì đó là tạo điều kiện để người Việt Nam học những bài đầu tiên để tự xuất khẩu mình.
Tiềm năng không biến thành phát triển là một nỗi bất hạnh PV: Tôi đã chứng kiến một câu chuyện rất thương tâm. Cạnh nhà tôi có một cậu, ngày xưa thì cậu ấy là một cầu thủ bóng đá, lấy một cô vợ rất xinh, có thể coi là một cặp vợ chồng đẹp đôi. Tuy nhiên, ở với nhau một thời gian rồi bế tắc. Việc nhà dồn hết vào cô vợ. Anh chồng tối đến rảnh rang thường tụ tập đánh bài cho vui, có một chút tiền không đáng kể, nhưng thứ nhất là mất thời gian, thứ hai là nó động chạm đến kinh tế gia đình vốn đã eo hẹp. Vợ chồng rầy la nhau một thời gian rồi li dị. Li dị xong bà vợ vẫn đi làm, vẫn tiếp tục nuôi con. Thằng con mà ông chồng nuôi thì cũng về ăn cơm nhà mẹ. Người đàn ông nhiều khi đi sớm về khuya, không ăn uống điều độ, bà vợ thấy tội lại kêu về ăn cơm chung, rồi lại đoàn tụ. Nhưng có lẽ anh ta có thấy bế tắc và khó xử của một kẻ ăn bám vợ. Anh ta giải toả bằng cách tiếp tục đi đánh bạc về muộn. Rồi trong xóm lại có tình trạng thỉnh thoảng mất cái nọ, cái kia. Không biết anh ta có lấy cái gì không nhưng người ta cứ chửi đổng. Một buổi sáng, anh ta đi vòng quanh xóm chào từng gia đình bảo sắp đi làm ăn xa. Ngày hôm sau, người ta thấy anh ta treo cổ trong nhà chết. Tôi thấy rất thương tâm vì họ bế tắc hoàn toàn mà chưa tìm thấy lối thoát.
NTB: Câu chuyện anh vừa nói là một ví dụ cá lẻ nhưng nó có dấu hiệu sẽ trở thành một hiện tượng phổ biến, tức là hiện tượng bất hạnh này không đến mức phải tự tử. Trước đây, chúng ta sống biệt lập, khả năng giao lưu giữa các bộ phận của một xã hội và giữa các xã hội với nhau là rất hạn chế, cho nên, người ta không thấy được sự bất hạnh của những người khác. Nhưng khi người ta có điều kiện so sánh thân phận của mình hay là cuộc sống của mình với những thân phận khác thì người ta thấy hết sự bất hạnh, tức là sự bất hạnh của mình không đơn lẻ, không cá lẻ. Nhưng đại bộ phận xã hội, những người có tiềm năng, thì người ta thấy bất hạnh vì người bất hạnh là người không thể biến tiềm năng trở thành sự phát triển.
Sự bất hạnh có trong con người là việc không biến nổi tiềm năng của mình thành ra sự phát triển. Đấy là đối với mỗi một cá nhân. Đối với một dân tộc, bất hạnh là người ta không biến nổi tiềm năng của dân tộc trở thành sự phát triển thực tế. Việt Nam là một dân tộc có tiềm năng mà không biến nổi tiềm năng đó thành sự phát triển đích thực. Nỗi bất hạnh ấy như đám mây đen luôn luôn rập rình dội lên đầu con người, do đó, các chính phủ phải cẩn thận. Nếu không tiến hành "Đổi mới II" thì đám mây đen của sự bất hạnh ấy sẽ dội lên đầu chúng ta. Vấn đề không phải là chúng ta muốn đổi mới hay không mà là muốn phát triển thì phải đổi mới.

Trong các cuốn sách của mình, tôi nói rằng trong thời đại của chúng ta, không phải một chính phủ có thể muốn hoặc không muốn nền dân chủ mà nếu một chính phủ muốn dân chủ thì chính phủ đó phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại. Còn một chính phủ mà không muốn dân chủ thì nhân loại sẽ bắt ép nó, sẽ cưỡng bức nó tạo ra nền dân chủ. Đây không phải là thời đại mà chúng ta có quyền bảo thủ. Đấy chính là đặc trưng chính trị quan trọng nhất của cái gọi là thời đại toàn cầu hoá. Nếu ai đó không phát hiện ra rằng, đặc trưng chính trị quan trọng nhất của thời đại toàn cầu hoá là cưỡng bức sự phát triển dân chủ ở tất cả các góc của thế giới thì người đó luôn luôn lạc hậu về chính trị. Cái chân lý ấy cần phải phổ biến và không được chỉ trích. Điều tôi vừa nói là một sự cảnh báo. Tôi không bao giờ chỉ trích chính phủ nhưng tôi cảnh báo họ.

 
 
Xemtiếp
 
SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT
Nguồn Vietnamnet .

III- Quyền tự do và góp vốn tự do
Theo Nguyễn Trần Bạt, tự do, dân chủ là các giá trị phổ quát của nhân loại bắt đầu từ phương Tây và xâm nhập một cách quyết liệt vào phương Đông thông qua hiện tượng toàn cầu hoá. Muốn có tự do cho xã hội thì mỗi người dân phải hy sinh một phần tự do của mình để “góp vốn” tạo ra nhà nước.
Đó là những quan điểm cơ bản của Nguyễn Trần Bạt về tự do.
Không nên đồng nhất những quan điểm bảo thủ với nhà cầm quyền

PV: Có một số góp ý theo lý thuyết “quả trứng con gà” là: Đảng phải độc quyền lãnh đạo bởi vì dân trí của chúng ta còn thấp, nguyên nhân của dân trí thấp là do sự độc quyền lãnh đạo của đảng và sự độc quyền lãnh đạo của đảng vì dân trí thấp... Với vòng luẩn quẩn đó thì không bao giờ có dân chủ. Bài viết của ông Nguyễn Hoà đăng trên báo Nhân dân mới đây đã diễn đạt lại tư tưởng đó. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

NTB: Ở phía nào, ở lực lượng nào trong xã hội chúng ta cũng đều có những đối tượng hay có những con người có vấn đề như vậy. Chúng ta không nên căn cứ vào một vài ý kiến của một vài người có vấn đề mà đồng nhất nó với giới cầm quyền. Giới cầm quyền là một khái niệm có nội hàm rất phức tạp, và không phải tất cả ai trong giới cầm quyền cũng đều có ý chí, ý nghĩ và giải pháp chính trị giống nhau. Trong họ cũng có đấu tranh, có thể chúng ta không biết hoặc là chúng ta không nghe nói đến. Bản thân trong ý nghĩ của anh cũng thế thôi, nếu chỉ đọc bài của anh thôi thì không thấy hết được anh là người như thế nào, một người khao khát tự do hay là một người khao khát giành giật tự do.
Một người khao khát tự do, một người khao khát giành giật tự do và một người khao khát tổ chức ra tự do là ba loại người khác nhau. Người thụ động thì khao khát tự do, tôi thích nhưng chẳng làm gì cả, nếu ai có cho tôi thì tốt. Còn một loại khác là tôi phải chiến đấu giành giật lấy tự do. Ở trong con người giành giật tự do có một chút gì không tự do và nếu tự do được tạo ra bởi con người hay cách thức như vậy thì tự do đó cũng có vấn đề. Những người đủ tỉnh táo để tổ chức ra tự do của mình thì tôi nghĩ rằng sẽ nhanh hơn. Cho nên, chúng ta phải tìm đến tự do bằng con đường mà chắc chắn không dẫn đến kết quả của một nền tự do bị biến dạng.

Tự do cho xã hội là sự hy sinh một phần tự do cá nhân PV: Trong quyển sách của ông có dùng thuật ngữ là "góp vốn tự do". Ông có thể nói rõ hơn về khái niệm này?
NTB: Đấy là tôi nói lại các nguyên lý của Rousseau thôi. Nhà nước được hình thành trên cơ sở đó,nhưng cái chính là nhà nước của chúng ta dựa trên cơ sở đấu tranh giai cấp cho nên chúng ta mới có vấn đề. Tất nhiên, tất cả các quốc gia có ngoại xâm thì nhà nước được hình thành từ cuộc kháng chiến, nhưng giai đoạn ấy bao giờ cũng phải chấm dứt. Chúng ta không thể kéo dài các cuộc cách mạng một cách vô tận được. Chúng ta phải chấm dứt cơ hội tạo ra các cuộc cách mạng, phải xây dựng nhà nước dân sự thông thường, tức là xây dựng đất nước trong đời sống hòa bình. Nhưng đấu tranh với nhà nước đòi họ trả cho mình tự do thì tôi không tin cái tự do mà họ trả là tự do nguyên vẹn, là tự do đích thực - cái tự do mà cả hai bên cùng tìm kiếm.
Nhà nước là ai? Nhà nước bao gồm những con người, cũng có những lúc họ rời khỏi địa vị của người cầm quyền. Cùng với lý thuyết về nhiệm kỳ thì những người cầm quyền đều trở thành người dân, cho nên, chúng ta hoàn toàn có thể thương thảo để xây dựng những tiêu chuẩn sống dân sự và tự do ở đây cũng là tự do dân sự chứ không phải là tự do theo cái nghĩa giành giật. Tôi cho rằng tự do phải là kết quả của sự đấu tranh bằng con đường thương thảo xã hội. Tôi không thích và không hề tin cậy vào giá trị của cái tự do là kết quả của sự giành giật. Đấu tranh cho tự do bằng cách giành giật là điều không nên làm, bởi vì nếu như anh mất sức, anh bị thương vì cuộc đấu tranh cho tự do thì anh sẽ bắt tự do phải đền cho anh và khi đền xong rồi thì tự do biến mất.

Chúng ta đang sống trong trạng thái đúng như thế. Mỗi một người cống hiến cho tự do đều đòi tự do phải trả giá nên tự do nhuốm màu oan khuất. Chúng ta nói quá nhiều về các gia đình có công với cách mạng đến mức có những người chẳng có công gì cũng tìm cách khai man. Chúng ta nhân danh cuộc chiến đấu giành tự do để rồi làm mất đi tự do của xã hội ngay sau đó. Vậy thì tự do ở đâu? Tôi mới nghe tin là có một nhóm người đã từng có công lao thẳng vào văn phòng của Thanh tra nhà nước đánh ông Vụ trưởng vụ thanh tra địa phương vì dự án Cáp treo chùa Hương. Những người đã chiến đấu cho tự do bây giờ lại bắt đầu tấn công tự do.

Cho nên, tôi nghĩ đã đến lúc cần phải chấm dứt giai đoạn kể công để xây dựng một xã hội mà trong đó con người bình đẳng với nhau thực sự, trong đó không kể đến việc ai đó bị thương tật vì tự do. Anh đã cống hiến cho tự do thì rất có thể anh bị tàn phế, xã hội kinh trọng anh. Và xã hội sẽ kính trọng anh hơn nữa nếu anh không đòi nợ xã hội vì sự hy sinh ấy. Tôi yêu nước, tôi đi lính, tôi góp một phần nhỏ của tôi để giải phóng, để thống nhất đất nước hay để làm cái gì tùy thuộc vào nhận thức của tôi vào thời điểm ấy, tùy thuộc vào trạng thái tình cảm của tôi đối với đất nước và đấy là hoạt động tự nguyện, tôi chẳng kể công gì cả.

 
Thái độ triết học của tôi về chuyện này rất rõ ràng, thái độ chính trị của tôi về chuyện này cũng rất rõ ràng, yêu nước là nghĩa vụ của mỗi người, hành động theo nghĩa vụ thì không thể kể công được.
Kể công và sử dụng các danh hiệu mà xã hội phong tặng vì công lao là biến một hành động yêu nước cao thượng thành cuộc mặc cả tầm thường. Tất nhiên quan điểm của tôi cũng không phải là quan điểm điển hình, quan điểm phổ biến và tôi cũng không áp đặt quan điểm đó cho ai nhưng cá nhân tôi nhìn nhận vấn đề như thế. Cái quan trọng là nếu chúng ta cứ kể công mãi thì đất nước sẽ trở thành một con nợ. Nếu có một biến động chính trị nào đấy mà bỗng nhiên phia bên kia thay đổi địa vị và họ lại tiếp tục kể công thì ai trả món nợ ấy? Nhân dân. Nhân dân của chúng ta tội nghiệp lắm. Nhân dân vừa phải chiến đấu vì tự do vừa phải trả công cho những thất thiệt trong cuộc chiến đấu giành tự do. Nếu cứ như thế, nhân dân của chúng ta không bao giờ tự do.

Hoà giải dân tộc- lối thoát cho gánh nặng lịch sử PV: Ông cho rằng, chỉ có thể hoà giải dân tộc mới giải thoát được gánh nặng lịch sử?
NTB: Đúng vậy! Trong giai đoạn hiện nay, tôi cho rằng việc thứ nhất là những người cộng sản Việt Nam phải gương mẫu đặt ra chương trình dân chủ hóa, việc thứ hai là phải hòa giải dân tộc, và phải tìm ra một nguyên lý để tạo ra sự công bằng xã hội về mặt tinh thần trong việc tất cả mọi công dân tham gia một cách ngẫu nhiên hoặc có ý thức trong cuộc đấu tranh này, nếu không sẽ chẳng làm được gì cả. Việc thứ ba phải làm là khẳng định chúng ta tuyệt đối không có phe phái gì trên thế giới. Chúng ta không theo ai, chúng ta tận dụng tất cả những ưu thế địa kinh tế của chúng ta để hợp tác với thế giới và chúng ta biết lựa chọn những lực lượng hay các quốc gia mà sự hợp tác ấy mang lại hiệu quả nhanh nhất cho sự phát triển của Việt Nam. Nói cách khác là chúng ta hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm những con đường để phát triển dân tộc chúng ta một cách nhanh nhất.
Chính sách đối ngoại được xây dựng trên mục tiêu như thế chứ không phải trên các định kiến chính trị thì chúng ta sẽ đoàn kết được dân tộc cho dù chúng ta có chơi với Trung Quốc hay với Mỹ. Nếu dân tộc của chúng ta đoàn kết được, dân tộc chúng ta không bị chia rẽ bởi thái độ đối ngoại, về chính sách đối ngoại thì chúng ta thành công, tức là chúng ta thành công trong việc lãnh đạo dân tộc. Nhưng hiện nay, tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn bị chia rẽ, chúng ta vẫn lấy chính trị làm thước đo của việc xây dựng chính sách đối ngoại, chúng ta chưa dám lấy lợi ích của dân tộc ra làm tiêu chuẩn cho việc xây dựng chính sách đối ngoại. Tôi nghĩ rằng đối nội hòa giải dân tộc, đối ngoại hòa giải với thế giới, xác lập định hướng xây dựng nền dân chủ Việt Nam, đó là ba việc cơ bản phải làm. Chúng ta cứ làm đi rồi chúng ta sẽ thấy rằng trước mắt chúng ta là một tương lai tùy ý lựa chọn.

Tôi nghĩ rằng cần phải chấm dứt cái tâm lý kể công đối với đất nước, đất nước này làm sao đủ tiền để trả cho công lao của tất cả, kể cả những kẻ khai man được. Những người đã hy sinh rồi họ không thể đứng dậy mà đòi đất nước được. Vậy thì ai khoác cho đất nước này cái gánh nặng công xá của họ? Đó là những "kẻ thừa kế". Trên cả ý nghĩa cá nhân lẫn ý nghĩa tập thể, những "kẻ thừa kế" đang đòi đất nước phải trả công. Mà cũng mới chỉ có một nửa đất nước đòi thôi, còn nửa nước nữa đòi thì chúng ta giải quyết bài toán Việt Nam bằng cách gì? Tôi không muốn nói những điều gay gắt giống như nhiều người đang nói. Tất nhiên tôi đã có tuổi, có lẽ là từng trải hơn nên tôi dịu giọng hơn. Thứ hai là chính tôi cũng không dám nói như vậy vì tôi cho rằng, nói to cũng là một biểu hiện của tâm lý tiêu cực. Thực ra, con người tự tin là con người biết hợp tác một cách hồn nhiên với tất cả mọi người. Ngay cả nói chuyện với ông Tổng bí thư tôi cũng nói như nói với các anh thôi, không phải vì ông ấy là Tổng bí thư tôi sẽ chọn một lời nói thích hợp hơn với anh phóng viên, bởi vì trên tất cả sự nói với đối tượng, tôi nói với chính mình.

Chúng ta cần phải hòa giải dân tộc của chúng ta, phải giải phóng dân tộc này ra khỏi gánh nặng nợ nần của lịch sử, phải giải phóng chúng ta ra khỏi gánh nặng nợ nần trong quan hệ quốc tế và phải xây dựng được lộ trình để tạo ra nền dân chủ, tạo ra nền tự do. Đấy cũng chính là khát vọng của Hồ Chí Minh. Chúng ta cần phải thực hiện ước nguyện của ông cụ, bởi vì Hồ Chí Minh là điểm khởi đầu của khát vọng tự do. Điều đó vô cùng quan trọng, nếu không nhắc đến điều ấy thì có bắt từ chức ông bộ trưởng này hay bỏ tù ông thứ trưởng kia cũng không giải quyết được bài toán Việt Nam. Thay một ông bộ trưởng này bằng một ông bộ trưởng khác thì vẫn sẽ còn ăn cắp, bởi con người có tin ở tương lai đâu mà không ăn cắp. Nếu con người chắc chắn có tương lai, ở đấy danh dự được xem như là một đại lượng có thật và cần được gìn giữ thì người ta sẽ không ăn cắp một cách tàn tệ như thế. Chúng ta sống trong một xã hội mà danh dự không được tôn trọng, không được thiết kế và tổ chức một cách đàng hoàng, cho nên chúng ta không có tương lai của sự trong sạch, chúng ta không giữ mình để đến ngồi ở đấy với tư cách là một người sạch sẽ.

 
 
Xemtiếp
 
Suy tưởng cùng Nguyễn Trần Bạt
 
 

 
Nguồn Vietnamnet .
 
 
II. Hiểu Việt Nam tức là hiểu cả những nhược điểm của nó
Muốn có một giải pháp toàn diện cho Việt Nam phải hiểu nó. Hiểu Việt Nam không chỉ là hiểu những vinh quang, những thành tựu mà quan trọng hơn là hiểu cả những nhược điểm của nó để tìm cách khắc phục. Đó là những quan điểm cơ bản của Nguyễn Trần Bạt về cách hiểu Việt Nam.
Ông cho rằng, một dân tộc lành mạnh là dân tộc biết chế giễu những thói hư tật xấu của mình.

Chúng ta thiếu khách quan trong tình cảm PV: Trong một bài báo của mình, ông có một ý rất hay khi nói về vấn đề kinh doanh. Theo đó, để thành công cần phải có ba yếu tố, thứ nhất là có khát vọng yêu nước để có nội lực, thứ hai là yêu con người để sử dụng con người và phát huy năng lực con người, thứ ba là hiểu về Việt Nam. Nếu nói vắn tắt về vấn đề "hiểu về Việt Nam", ông sẽ nói như thế nào?
NTB: Hiểu Việt Nam tức là hiểu cả những nhược điểm của nó. Chúng ta thường nhầm lẫn giữa hiểu Việt Nam và yêu Việt Nam, chúng ta nhầm lẫn giữa yêu Việt Nam với yêu những ưu điểm của Việt Nam. Tóm lại là chúng ta luôn luôn siêu hình, chúng ta thiếu khách quan trong tình cảm của mình. Một dân tộc mà các thành viên của nó thiếu khách quan trong tình cảm thì dân tộc ấy khiếm khuyết về tinh thần. Một dân tộc lành mạnh là dân tộc biết chế giễu những thói xấu của mình. Một dân tộc không có năng lực để chế giễu các thói xấu của mình là một dân tộc không biết tự phê bình, một dân tộc không biết tự phê bình thì dân tộc ấy sẽ thoái hóa. Chúng ta có thể sẽ trở thành dân tộc thoái hóa nếu không sớm thức tỉnh về những thiếu sót này.
Chúng ta phải tự phê phán mình. Hiện nay, nhà văn Vương Trí Nhàn đang sưu tập tất cả những thói xấu của người Việt. Tôi rất kính trọng những người như thế. Tôi luôn nói với anh em trong công ty, kể cả bản thân tôi cũng gương mẫu, là phải biết kiểm điểm mình hàng ngày, phải biết chế giễu những thói xấu của mình. Tôi luôn kiểm điểm mình cho nên tôi giữ được sự cân bằng. Một con người mà không biết tự kiểm điểm mình thì không tạo ra được sự cân bằng, không giữ được sự cân bằng của mình. Một người không cân bằng là một người không thể sáng suốt được. Tôi nghĩ rằng hiểu về người Việt, hiểu về Việt Nam là phải hiểu như thế, phải hiểu tất cả các ưu điểm, các nhược điểm của mình.

Ví dụ, chúng ta nói rằng người Việt Nam là một dân tộc hiếu học, nhưng tôi không nghĩ như thế. Chúng ta là một dân tộc hiếu bằng cấp chứ không phải hiếu học. Tất cả những người có bằng cấp, đỗ đạt rồi chẳng mấy ai học tiếp cả. Thử tìm hiểu xem trong các giáo sư, các tiến sĩ của chúng ta có bao nhiêu người có công trình khoa học thực sự sau khi làm xong luận án? Thử nghĩ xem, có bao nhiêu phát minh, thành tựu khoa học của người Việt trong các sản phẩm của Việt Nam? Không có bao nhiêu.

Khi tôi xuất hiện trên một chương trình truyền hình, người ta đưa lên một ông nông dân làm máy thái hành để làm đối chứng với tôi, tôi thấy rất đau khổ. Các nhà khoa học của chúng ta đâu hết rồi? Phải chăng các nhà khoa học của chúng ta xấu hổ nếu nghĩ ra cái máy thái hành. Có lẽ các nhà khoa học của chúng ta mơ tưởng nhiều hơn đến việc chế tạo bom nguyên tử, chế tạo tàu vũ trụ và họ không đủ tình yêu đối với nhân dân để chế tạo ra cái máy thái hành. Khi nào giới trí thức của chúng ta yêu nhân dân của mình thì chúng ta sẽ thấy rằng một cái máy xúc rác là cần thiết và là một vinh quang nếu sáng tạo ra nó, vì nó làm cho đời sống của nhân dân đỡ lam lũ hơn. Khi không yêu con người, không yêu nhân dân của mình thì đến một viện sĩ cũng chẳng nghĩ ra cái gì.

Tôi cho rằng đó là biểu hiện của việc giới trí thức của chúng ta xã rời nhân dân. Đã đến lúc chúng ta phải điều chỉnh cả cách nói về nhân dân của mình, chúng ta phải hết sức thận trọng khi dùng chữ "Dân". Nhiều nhà chính trị của chúng ta dùng chữ “Dân” mà quyên mất rằng "Quan" và "Dân" là cách mà xã hội phong kiến nhìn nhận về thân phận con người. Gọi là "Dân" thì có nghĩa là không có con người trong đó. Cho nên, cần phải gọi đầy đủ là “Nhân dân” vì như thế mới là tôn trọng con người

Sáu bài toán cơ bản để giải quyết vấn đề Việt Nam PV: Những điều ông vừa nói là một cách hiểu về Việt Nam, nhưng mới chỉ là ở lĩnh vực con người thôi. Trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như kinh tế thì sao ?

NTB: Trong quyển sách "Suy tưởng" tôi có nói 6 bài toán cơ bản để giải quyết vấn đề Việt Nam của một nhân tài chính trị. Có thể tóm tắt 6 bài toán đó là:

 1- Định vị Việt Nam trong tiến trình phát triển của thế giới;
 2- Xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam;
 3- Xây dựng hệ tư tưởng quân sự Việt Nam;
 4- Xây dựng chương trình phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa bên cạnh Trung Quốc;
 5- Xây dựng tầng lớp thượng lưu và đội ngũ tri thức Việt Nam;
 6- Thừa nhận tự do, dân chủ là khuynh hướng chính trị chủ đạo của thời đại toàn cầu hoá

 
Về lĩnh vực kinh tế, tôi xin đựơc nhắc lại một vài ý đã nêu trong cuốn sách. Trước hết, phải nhận thức về tài nguyên Việt Nam. Cần phải có một thái độ khách quan và dũng cảm khi đánh giá về những ưu thế của Việt Nam để chấm dứt tình trạng ngộ nhận về những ưu thế không tồn tại hoặc những ưu thế không còn giá trị trong đời sống hiện đại. Gần đây, khi xây dựng chiến lược phát triển thành cường quốc, Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên biển. Biển trong nhãn quan người Trung Quốc không chỉ là một thứ tài nguyên kinh tế mà còn là một thứ tài nguyên chính trị và tài nguyên quân sự. Khi nhận thức về tài nguyên Việt Nam, chúng ta cũng nên có một cách tiếp cận như vậy để có thể khai thác một cách hiệu quả những ưu thế của mình.

Thứ hai là phải nhận thức về những điều kiện địa chính trị, địa kinh tế, địa quân sự của Việt Nam. Xét về mặt vị trí địa lý, Việt Nam là một quốc gia mặt tiền. Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế hàng hải, nền kinh tế viễn dương của nhân loại đã hình thành từ rất lâu, đã tạo ra đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đã tạo ra người Hà Lan và một hệ thống thuộc địa rộng lớn thì Việt Nam vẫn chưa tham gia vào nền kinh tế hàng hải, vẫn chưa có hải quân, vẫn chưa có chiến thuyền. Việt Nam là một dân tộc mở cửa gần như muộn nhất ở khu vực Đông Nam Á và không có năng lực viễn chinh. Chính điều đó đã khiến Việt Nam, trong một khoảng thời gian rất dài, trở thành một bộ phận biệt lập trong các tiến trình quốc tế. Khi bàn về các yếu tố địa kinh tế, địa chính trị và địa quân sự của Việt Nam, chúng ta buộc phải phân tích Trung Quốc như một trong những biến số quan trọng nhất.


Hãy chia nhỏ những đòi hỏi lớn
PV: Ông Lê Khả Phiêu nhận định rằng tham nhũng là do 2 nguyên nhân: nguyên nhân thứ nhất là do cơ chế, nguyên nhân thứ hai là do con người. Nhưng người Việt Nam nếu sang làm việc trong bộ máy chính quyền Mỹ hay các nước châu Âu có tham nhũng được không? Sang Singapore có tham nhũng được không? Chắc chắn là không. Nếu có thì cũng rất khó. Vậy phải chăng để giải quyết vấn đề tham nhũng, con người không phải là yếu tố chính yếu lắm mà vấn đề chính là cơ chế? Phải chăng do xã hội ta không phải là xã hội dân sự?
NTB: Việc chống tham nhũng cần đến nhà nước pháp quyền chứ không phải xã hội dân sự. Đấy lại là khái niệm khác. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước mà ở đó không ai được đứng trên pháp luật cả. Tất cả mọi người đều đứng dưới pháp luật, tổng thống cũng phải được kiểm soát bởi pháp luật. Chúng ta chưa có nhà nước ấy. Nhà nước của chúng ta có xử lý nội bộ, tức là có những người đứng ngoài pháp luật. Cho nên các tạp chí, các báo viết cũng như báo điện tử… đừng đòi hỏi đa nguyên, những thứ ấy chỉ chọc tức những nhà chính trị đang cầm quyền thôi. Nhưng nếu chúng ta đòi hỏi xã hội dân sự thì đấy lại là một quyền rất chính đáng. Đòi hỏi không có xử lý nội bộ đối với tất cả những kẻ phạm tội là đòi hỏi rất chính đáng. Chúng ta đừng đao to búa lớn, đừng gạch chân dưới những đòi hỏi của chúng ta. Chúng ta hãy đòi hỏi một cách từ tốn tất cả những gì cần cho đời sống con người. Chúng ta đòi hỏi không được có những đội vệ sĩ riêng rầm rầm, rộ rộ như kiểu Nguyễn Mậu Thôn.Chúng ta đòi hỏi nhà nước phải là chỗ dựa duy nhất để bảo vệ an ninh của con người.
Một trong những nhược điểm của báo chí của chúng ta là cứ đòi, cứ làm to tất cả những thứ thực ra rất khiêm tốn, rất gần gũi với con người. Hãy chia nhỏ tất cả những đòi hỏi lớn

Năm 1988, tôi hợp tác với ngân hàng Mỹ Citibank, giúp họ xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường Việt Nam. Trước đó họ làm với Bộ Ngoại giao. Không biết ai chỉ cho họ làm những chiến lược ghê gớm lắm nhưng đi đâu cũng bị từ chối. Giám đốc dự án và là Phó chủ tịch ngân hàng ấy, gặp tôi ngẫu nhiên, ông ta hỏi tôi có làm được cho ông ta việc đó không, tôi bảo có. Chúng tôi giúp họ làm một chiến lược tiếp cận thị trường Việt Nam với nguyên lý, đừng làm cho mình lớn như con hổ, mà hãy làm cho mình thành 1000 con mèo dễ thương. Và họ chứng minh rằng mặc dù Citibank có mặt trên toàn thế giới, nhưng không ở đâu Citibank có quá 2% lượng tiền tệ của mình trên thị trường của nước sở tại, tức là nó có mặt trên khắp thế giới nhưng không lấn át ai cả.

Đấy chính là nguyên lý mà tôi mách bảo họ. Dự án ấy sau đó được Chính phủ chấp nhận ngay. Chúng ta cũng vậy, chúng ta xây dựng nền dân chủ không phải bằng những khẩu hiệu, những đòi hỏi to tát. Chúng ta xây dựng nền dân chủ bằng việc xây dựng các quyền nhỏ nhoi liên quan đến thân phận con người trước. Và chúng ta thấy rằng tất cả những thứ nhỏ nhoi khiêm nhường ấy không chỉ chúng ta cần, mà con cái những nhà chính trị đang cầm quyền cũng cần. Họ thấy sự gần gũi của những đòi hỏi của chúng ta so với những đòi hỏi của con cái họ, và họ không thấy nguy cơ chính trị nào trong những đòi hỏi của chúng ta cả. Hay nói cách khác, có được sự cảm thông chính trị rất con người giữa chúng ta và họ, đấy chính là mục tiêu và là phương thức tối ưu của hoạt động báo chí.

 
 
Xem tiếp
 
TƯ TƯỞNG NGUYỄN TRẦN BẠT

   
( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ) :Nguyễn Trần Bạt (sinh năm 1946 ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, Việt Nam) - doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả, nhà sáng lập InvestConsult Group (công ty tư vấn chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam về đầu tưkinh doanh ngay sau khi Việt Nam ban hành chính sách "Đổi mới" vào năm 1987. Hiện nay (2010) ông đang là Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc công ty này. Công ty InvestConsult Group có doanh thu hàng triệu USD mỗi năm. Ông đã được nêu danh trong các cuốn sách Barons "Who’s Who in Vietnam"[1], "Who’s Who in Asia Pacific"[2], "Who’s Who in the World"[3] và "The Global 500 Leaders for the New Century"[4] như một luật sư và nhà tư vấn xuất sắc.[5][6][7] Ông đã từng nhiều lần tư vấn cho Chính phủ Việt Nam về các vấn đề kinh tếchính trị.[8]

Tiểu sử :

Nguyễn Trần Bạt sinh năm 1946[5] ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.[9] Cha ông từng học ở Hà Nội và đã đỗ Tú tài. Cha ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước Cách mạng tháng Tám, nhưng vì ông nội và ông ngoại của ông là các địa chủ nên cha ông đã bị tạm dừng sinh hoạt Đảng cho tới năm 1960.[7]
Năm 1954, ông theo mẹ ra Hà Nội. Tại đây ông phải vất vả kiếm sống. Ông từng phải bán nước chè dạo ở ga Hàng Cỏ.
Năm 1963, ông tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1973, ông tốt nghiệp kỹ sư xây dựng cầu đường trường Đại học Xây dựng.
Ông tiếp tục phục vụ quân đội cho đến năm 1975.[9]
Ông còn có bằng cử nhân luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.[5]
Năm 1975 đến 1984, Ông từng giữ quyền chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải.
Năm 1984, ông thôi việc Nhà nước.[6]
Năm 1987, Nguyễn Trần Bạt khởi xướng việc thành lập Văn phòng Xúc tiến các hoạt động sở hữu công nghiệp Việt Nam, tiền thân của Công ty Sở hữu Công nghiệp INVESTIP thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Năm 1989, dưới sự bảo trợ của Viện Khoa học Việt Nam, ông cùng với một số đồng nghiệp đã thành lập Công ty Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao Công nghệ (có tên giao dịch là InvestConsult Ltd). Kể từ đó, InvestConsult Ltd. chuyển hướng sang cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài và trở thành một trong những tổ chức đầu tiên của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này.[10]

Suy tưởng cùng Nguyễn Trần Bạt
 
 
Nguồn Vietnamne

Với hơn 1000 trang viết được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành thành ba cuốn sách gây xôn xao dư luận, bạn đọc biết đến Nguyễn Trần Bạt với tư cách là một người viết, một người nghiên cứu triết học hơn là một nhà kinh doanh. Là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc InvestConsult Group, một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, đồng nghiệp coi ông là một doanh nhân thành đạt.

Một buổi sáng tháng Ba, chúng tôi đến thăm Nguyễn Trần Bạt ngay tại đại bản doanh của Investconsult Group tại quận Đống Đa - Hà Nội. Đó là một khu dinh thự trên một khuôn viên rộng cả ngàn mét vuông, sang trọng náu mình trong một con ngõ nhỏ ở phố Thái Hà. Những hàng cau vua xanh ngắt quanh năm bao quanh trang điểm thêm cho hai tòa nhà xây theo lối kiến trúc cổ châu Âu thời Phục hưng.

Tiếp chúng tôi còn có những cộng sự thân tín của ông, là những người nắm giữ các trọng trách trong Investconsult Group. Câu chuyện trao đổi diễn ra quanh chủ đề về công cuộc đổi mới của đất nước và vai trò của kinh tế tư nhân. Bằng quan điểm uyên bác và cái nhìn sâu sắc, mạch văn hấp dẫn và tinh tế, Nguyễn Trần Bạt đã xới lên và gợi mở các giải pháp một cách thuyết phục cho những chủ đề nóng hổi, thiết thực và sống còn của dân tộc.

Cách đặt vấn đề của ông cởi mở, theo kiểu bàn tròn, nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn, không né tránh. Câu chuyện của chúng tôi không chỉ dừng lại ở một chủ đề kinh tế mà được đề cập đến một phạm vi khá rộng, bao gồm cả hệ thống chính trị, vai trò của Đảng, của tôn giáo và các nhân tố trong việc chấn hưng đất nước. Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi chia cuộc nói chuyện thành 9 chủ đề nhỏ. Suy tưởng là tên của một cuốn sách mà ông đã xuất bản, chúng tôi lấy nó làm đầu đề để đặt cho chùm bài viết này.  
I. Cùng tư duy để giải quyết những vấn đề của đất nước 
Trước những vấn đề nóng bỏng và nhạy cảm của thời đại như: làm thế nào để dân chủ hoá đất nước? Có nhất thiết phải đa nguyên đa đảng hay không? Đảng có vai trò như thế nào trong lộ trình dân chủ hoá? Nguyễn Trần Bạt đã bày tỏ quan điểm của mình như một người trong cuộc cùng tham gia tháo gỡ những vướng mắc.

Ông cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục là người lãnh đạo quá trình tổ chức và rèn luyện nền dân chủ Việt Nam.

"Không hài lòng với thực trạng kinh tế hiện nay"
PV: Chúng tôi được biết ông vừa mới xuất bản một số tác phẩm về cải cách và phát triển được nhiều bạn đọc đánh giá cao. Hiện nay Vietnamnet đang có chuyên mục: "Chân dung" với quan điểm là cổ vũ những nhân tố mới, tiến bộ. Khi những nhân tố mới được cổ vũ thì cái cũ phải lùi dần đi. Chúng tôi rất muốn trao đổi với ông về những vấn đề đổi mới của đất nước.

Nguyễn Trần Bạt (NTB): Cũng giống các anh, tôi không bằng lòng với thực trạng Việt Nam hiện nay. Là người hoạt động quốc tế đã hơn 20 năm, từ ngày Đảng ta đưa ra chương trình đổi mới và mở cửa, tôi đã đến những chỗ cần đến trên thế giới, có lẽ cũng tiếp xúc với những người cần tiếp xúc và có thể tiếp xúc được, đã tham gia các cuộc thảo luận quốc tế mà tôi có điều kiện và cảm thấy cần thiết trên thế giới. Số lượng khách nước ngoài mà tôi tiếp có lẽ không ít hơn số khách của một bộ.

Với một trải nghiệm như vậy, tôi thuộc vào nhóm không hài lòng lắm về thực trạng Việt Nam hiện nay. Theo tôi, có nhiều cách tiếp cận, có cách của những người chống đối, có cách của những người đồng chí nổi giận, có cách của những người trong cuộc tìm cách tháo gỡ trạng thái “bê trễ” hiện nay. Tôi thuộc nhóm thứ ba. Tôi cố gắng đi tìm những lý giải cơ bản về các hiện tượng tiêu cực của xã hội chúng ta. Một người có trí khôn trước hết là một người phải biết chấp nhận các thực trạng chính trị. Tình hình hiện nay là một thực trạng chính trị, nó tồn tại khách quan ngoài ý muốn của rất nhiều người, nhiều lực lượng khác nhau trong xã hội, kể cả những người cộng sản cấp tiến hay bảo thủ cũng vậy.

Lịch sử Việt Nam hiện đại nói cho cùng là lịch sử diễn biến nóng của một cuộc chiến tranh lạnh lâu dài. Nó hình thành nhiều lực lượng, nhóm quan điểm và phải nói rằng cực kỳ phức tạp. Sự phức tạp ấy không chỉ diễn ra từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Sự phức tạp ấy diễn ra từ trước, cho nên giai đoạn cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là giai đoạn kế tục và tiếp tục những rắc rối và mâu thuẫn có trong xã hội Việt Nam từ trước đó, thậm chí có trong phong trào Cộng sản quốc tế. Vì vậy, để gỡ những câu chuyện như thế này cần phải suy nghĩ một cách rất công phu và phải đặt trên bình diện xã hội.

Nếu không đặt vấn đề giải quyết thực trạng Việt Nam trên quy mô xã hội thì liệu một mình những người cộng sản Việt Nam có giải quyết được không? Tôi nghĩ rằng không ai có thể giải quyết bài toán lịch sử Việt Nam, bài toán phát triển Việt Nam một mình được, Cho nên, giải quyết những tồn tại của thực tế chính trị, xã hội, kinh tế Việt Nam trên quy mô xã hội không phải là công việc của riêng một lực lượng nào, kể cả lực lượng đang lãnh đạo đời sống chính trị Việt Nam. Nhân dân phải góp công vào đấy, giới trí thức phải góp công vào đấy, phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Tôi nghĩ chống đối không phải cách tốt nhất bởi chống đối tạo ra cái cớ để các thế lực bảo thủ tồn tại và phát triển. Cần phải tạo ra hòa khí giữa các lực lượng khác nhau của xã hội để cùng nhau suy nghĩ về các vấn đề thiết thực của đời sống Việt Nam. Đó là quan điểm chính trị của tôi.

“Đổi mới II”- Pháp chế hoá nền kinh tế thị trường"
PV: Là người thường xuyên đọc Vietnamnet, ông có những suy nghĩ gì về Đổi mới II?

NTB: Tôi có nghe nói về ý tưởng "Đổi Mới II". Tôi đã từng trả lời phỏng vấn nhiều tờ báo lớn trên thế giới như Foreign Affairs, Times, The USA Today, Los Angeles Times, Washington Times, Far Eastern Economic Review... nên cũng có một chút kinh nghiệm. Chúng ta có thể thảo luận những vấn đề này một cách có ích. Tôi nghĩ rằng "Đổi Mới II" là việc tất yếu phải làm, vì "Đổi Mới I" là gì? Là cởi trói, tức là chúng ta tự trói gô mình. Chỉ có 5% đất đai của Việt Nam là có tự do trong thời kỳ bao cấp, gọi là đất 5%, và về cơ bản là người dân hay là xã hội dân sự của Việt Nam chỉ tồn tại trên 5% đất đai ấy. 95% còn lại là nền kinh tế kế hoạch và thực tại toàn thế giới đã chứng minh rằng nền kinh tế kế hoạch đã thất bại.

Ai đó nói là Chủ nghĩa xã hội đã thất bại nhưng tôi muốn nói một cách thận trọng hơn là bộ phận kinh tế của nó đã thất bại trên phạm vi toàn cầu, bộ phận chính trị của nó thất bại ở một số các quốc gia quan trọng và gặp khó khăn ở một số quốc gia khác. Một khi bộ phận chính trị của nó vẫn còn tồn tại ở một số quốc gia, hay nói cách khác, nó còn thoi thóp thở thì chúng ta chưa nói đến cái chết được. Nhưng về mặt kinh tế thì có thể khẳng định nó đã thất bại trên phạm vi toàn cầu. Ngay cả ở những nước như chúng ta người ta cũng đã bài xích cái gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung. Cho nên đã có kết luận vừa chính thống, vừa phổ biến, vừa có cơ sở khoa học về sự thất bại của nền kinh tế kế hoạch. Tất cả những ai còn có âm mưu định làm sống lại nền kinh tế này thì chắc chắn là không bình thường về mặt sinh học.

Giai đoạn "Đổi Mới I" là giai đoạn mà chúng ta tự cởi trói mình. Chúng ta cởi trói nhưng chúng ta hoàn toàn chưa có chương trình hành động một cách nhất quán để phát triển. Sự phát triển mà chúng ta có là sức sống bản năng của xã hội. Sức sống bản năng của xã hội không phải tồn tại từ sau khi cởi trói mà nó đã tồn tại ngay cả trong thời kỳ bao cấp, ngay cả trong chiến tranh, ngay cả những lúc khốc liệt nhất của đời sống chính trị của chúng ta như cải tạo tư sản miền Bắc, cải tạo tư sản ở miền Nam rồi sự trỗi dậy của cái gọi là cải tạo tư sản bằng cách tịch thu nhà cửa vào những năm 80... Ngay cả lúc ấy thì "nền kinh tế thị trường" vẫn tồn tại ở Việt Nam và nó tạo ra sự không chết bất đắc kỳ tử của nền kinh tế Việt Nam. 
"Đổi Mới I" chỉ đảm bảo hợp thức hóa về mặt lý luận chứ chưa phải hợp thức hoá về mặt pháp chế sự tồn tại của nền kinh tế tự do trong lòng một xã hội mà nền kinh tế kế hoạch thống trị. Từ hợp thức hóa về mặt lý luận chúng ta đang dần dần hợp thức hóa về mặt pháp chế. Chúng ta đang bàn đến sự thống nhất các Bộ Luật đầu tư, chúng ta đang bàn đến sự thống nhất của Bộ Luật doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là chúng ta đang trên quá trình pháp chế hóa nền kinh tế thị trường. Đấy là về mặt tinh thần, mặt lý luận, mặt pháp chế. Tuy nhiên, về mặt thuần túy chính trị thì chúng ta vẫn chưa để cho nền kinh tế thị trường có được địa vị thực sự vì chúng ta vẫn còn gọi nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa rằng nền kinh tế này sẽ biến mất khi chúng ta đạt được chủ nghĩa xã hội. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có phải là biểu hiện kinh tế của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội không và liệu Chủ nghĩa Xã hội có phủ định nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không? Đây là điều cần nghiên cứu cẩn thận.
Phải tiến hành đồng thời 4 cuộc cải cách PV: Ông vừa nói "Đổi Mới I" chỉ đảm bảo là làm hợp thức hóa về mặt lý luận chứ chưa phải hợp thức hoá về mặt pháp chế. Phải chăng, Đổi mới II chỉ là việc hợp thức hoá về mặt pháp chế cho nền kinh tế thị trường, tức là chỉ tiếp tục đổi mới về mặt kinh tế?
NTB: "Đổi mới II" có phải tiếp tục là đổi mới về kinh tế hay không? Tôi cũng nghiên cứu về cương lĩnh chính trị của Đại hội Đảng lần thứ X nhưng tôi khác với nhiều người khác là tôi không góp ý ở trên báo chí. Như các anh biết, tôi đã viết và xuất bản các quyển sách để nói về chuyện này. Về quan điểm của "Đổi Mới II" thì nó còn tiếp tục là một cuộc tranh luận. Tôi chưa tìm thấy ở đâu nói rõ bản chất của giai đoạn thứ hai của quá trình đổi mới là gì. Nếu chỉ là tiếp tục đổi mới kinh tế thì có được không? Có hiệu quả để xúc tiến sự phát triển không?
Bản chất của tất cả các quá trình chính trị chính là để tạo ra động lực của sự phát triển hay là tạo ra sự phát triển. Các chương trình xã hội mà không dẫn đến phát triển thì đều không có ý nghĩa gì cả. Nếu không phát triển thì chúng ta không xóa đói giảm nghèo được. Nếu không phát triển thì chúng ta không có cách gì làm cho xã hội chúng ta trở nên dân chủ, công bằng, văn minh được. Phát triển là lối thoát duy nhất cho tất cả các quốc gia, không chỉ cho Việt Nam, để tạo ra trạng thái lý tưởng của đời sống, trạng thái tích cực của đời sống. Vậy phát triển có phải là hệ quả của duy nhất cải cách kinh tế không hay phát triển là hệ quả của nhiều cuộc cải cách?

Tôi đã viết một tác phẩm rất công phu về cải cách và mối quan hệ biện chứng giữa cải cách và sự phát triển, thậm chí chúng tôi còn nghiên cứu cải cách như thế nào, cải cách những gì, cải cách đến đâu. Tôi sẽ không đi sâu vào những vấn đề đó vì nó đã nằm trong quyển sách rồi. Nhưng quan điểm rõ ràng của tôi là sự phát triển không thể và không phải là hệ quả của duy nhất cải cách kinh tế, thậm chí cũng không phải là hệ quả của duy nhất cải cách chính trị. Rất nhiều người sốt ruột muốn cải cách chính trị ví dụ như người ta bàn đến phải thay điều này, điều kia trong Hiến pháp, tạo ra trạng thái đa nguyên và đa đảng của đời sống chính trị... Tôi chưa có kết luận gì về chuyện này nhưng tôi cho rằng nếu đó là cái cần thiết thì cũng không phải là cái cần thiết duy nhất. Chúng ta hay các nước thế giới thứ ba là những dân tộc lạc hậu không chỉ về kinh tế, mà còn lạc hậu về chính trị, lạc hậu về văn hoá và đặc biệt là lạc hậu về giáo dục. Cho nên cải cách chính trị, cải cách kinh tế, cải cách văn hoá và cải cách giáo dục là 4 cuộc cải cách mà chúng tôi đã tập trung phân tích và thể hiện rất rõ ràng trong các tác phẩm của mình. Chúng tôi cho rằng phải tiến hành đồng bộ các cuộc cải cách này thì mới tạo ra được trạng thái mà tôi gọi là trạng thái tự nở ra của đời sống xã hội và của con người.

Hiện nay, tất cả các nước thế giới thứ ba đều cải cách theo gợi ý hoặc sức ép của các định chế quốc tế như IMF, WB, WTO hay những hiệp định như BTA chẳng hạn... Tôi nghĩ những việc đó cũng có một ý nghĩa nào đó nhưng nó không phải là tất cả các ý nghĩa. Đấy là cái mà tôi đã để rất nhiều năm để phân tích. Tôi cho rằng chắc chắn sự phát triển của giai đoạn sắp tới của Việt Nam sẽ buộc phải gắn liền với 4 cuộc cải cách như vậy. Đấy là 4 cuộc cải cách cơ bản. Thực ra nói là người Việt Nam không cải cách chính trị thì cũng không đúng mà người Việt Nam tưởng rằng có thể thay thế cải cách chính trị bằng những cuộc cải cách hành chính. Tôi cho rằng không phải. Có cải cách hành chính 100 năm nữa cũng không dẫn đến sự tiến bộ xã hội vì bản chất tội ác không nằm trong thủ tục hành chính mà thủ tục hành chính chỉ là biểu hiện của tội ác. Đảng Cộng sản Việt Nam phải là người lãnh đạo quá trình dân chủ hoá.

PV: Trong bốn cuộc cải cách mà ông vừa đề cập có cải cách chính trị. Vậy vai trò của Đảng thế nào trong cuộc cải cách ấy?
NTB: Rất nhiều lực lượng muốn thay thế những người cộng sản Việt Nam bằng những người khác hay nói cách khác là đánh đổ những người cộng sản Việt Nam. Quan điểm dứt khoát của tôi là trong những thập niên trước mắt không làm việc ấy được và không được làm việc ấy. Tại sao lại như vậy? Vì xã hội không đủ khả năng dể trả giá đắt.
Vì vậy, cần phải động viên một cách quyết liệt sự đổi mới của những người cộng sản, hay nói rõ hơn, những người cộng sản phải tổ chức quá trình dân chủ hoá xã hội Việt Nam. Bởi vì dân chủ hoá xã hội Việt Nam vừa là sứ mệnh, vừa là nghĩa vụ, vừa là một món nợ tinh thần của những người cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam.

Tham vọng của tôi là tạo ra những cơ sở lý luận, tạo ra những góp ý có chất lượng chính trị để những người cộng sản Việt Nam hay Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn phải tiếp tục là người lãnh đạo quá trình tạo ra nền dân chủ cho đất nước. Đấy là quan điểm chính trị của tôi và là kết luận khoa học của những nghiên cứu của tôi.
 
 
Xemtiếp

 

29 tháng 11, 2015

 THƯ GIÃN

DIỄN VĂN CÁ THÁNG TƯ !

Thưa các đồng chí và các bạn!
Hôm nay, trong không khí phấn khởi tự hào chào mừng ngày nói dối toàn thế giới, tôi xin gửi tới các đồng chí và các bạn lời chúc mừng nồng nhiệt nhất, thân thương nhất.
Thưa các đồng chí và các bạn.
Trải qua một chặng đường đấu tranh gian khổ với bè lũ nói thật chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi to lớn. Nhờ có nói dối mà vợ không làm gì được chồng, cấp dưới không làm gì được cấp trên, phụ huynh không làm gì được cô thầy, bố mẹ không làm gì đựơc con cái.
Nhờ có nói dối chúng ta có được hàng ngàn dự án bánh vẽ, giải thưởng ma, tiến sĩ giấy, công trình dổm. Nhờ có nói dối mà nhân dân tin tưởng, bạn bè quốc tế nể trọng, cho vay ngày càng nhiều đòi nợ ngày càng khó. Thử hỏi cứ nói thật làm thật thì chúng ta có bao nhiêu thắng lợi rực rỡ, bao nhiêu thành công lớn lao, bao nhiêu công trình vì đại. Và lấy đâu ra sự đồng thuận hả các đồng chí, lấy đâu ra?
Có người nói muốn giàu có vững mạnh cần phải nói thật, sai, nếu nói thật thì làm sao có ổn định, không ổn định làm sao nói đến giàu có vững mạnh? Nói dối là để chứng minh chính sự thật là dối trá, là ác ý, là vô cùng nham hiểm. Chúng ta phải kiên quyết bài trừ sự thật bởi vì chỉ có sự thật mới cản trở con đường tiến lên thế giới đồ đồng. ( Không phải thế giới đại đồng, các đồng chí phiên dịch sai, đại đồng là cái đinh gì, nó chính là thế giới đồ đồng).
Gần đây có nhà thơ nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo hô hào cần có một ngày nói thật, sai. Đồng chí Tạo không nắm được thông tin, không hiểu được tình hình đất nước nên đã phát ngôn bừa bãi.
Nếu đồng chí Tạo không nói dối làm sao quần chúng say mê nhạc đồng chí được. Đồng chí Tạo viết: quá nửa đời phiêu bạt, ta lại về úp mặt vào sông quê, sai, đồng chí Tạo lười tắm, úp mặt vào sông quê bao giờ. Nhưng nói dối thế mới hay, mới sáng tạo. Nếu đồng chí Tạo nói đồng chí úp mặt vào cái ấy thì có hay nữa không, quần chúng còn say mê đồng chí nữa không.
Cho nên không nên nghe bè lũ nói thật lung lạc mà đề xuất linh tinh. Một phút nói thật cũng không, nói thật thì lợi hay hại… lợi hay hại hả các đồng chí?
Vì thế, tôi đánh giá rất cao lực lượng đánh máy nước nhà. Các đồng chí đã chịu thương chịu khó, đồng cam cộng khó, trên dưới một lòng, đứng mũi chịu sào đưa nói dối nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ nay cậu đánh máy là biểu tượng hào hùng đầy sức sáng taọ của nói dối nước nhà, đưa nói dối nước nhà lên một tầm cao mới.
Thưa các đồng chí và các bạn !
Chúng ta không thể tồn tại nếu chúng ta không được nói dối, không biết nói dối. Nhân ngày lễ trọng đại này, tôi kêu gọi các đồng chí hãy phát huy tinh thần tiến công, chủ động sáng tạo, đánh bại mọi âm mưu thâm độc của bè lũ nói thật, đánh bại từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến lên dành thắng lợi hoàn toàn.
Láu hơn nữa, trơ hơn nữa, lì lợm hơn nữa đó là khẩu hiệu nói dối của chúng ta.
Chúc các đồng chí sức khoẻ và an tâm sống chung với lũ.
_nguồn của ai éo biết .
( theo Non Sông Gấm Vóc blog)

Ba câu chuyện kể về thứ đáng sợ nhất trên đời

Có người hỏi Thiền sư: “Điều đáng sợ nhất trên cõi đời này là gì?”
Thiền sư đáp: “Dục vọng!”
Người đó lộ vẻ hoài nghi.
Thiền sư nói: “Hãy để tôi kể vài câu chuyện cho ông nghe vậy”.

Truyện thứ nhất: Bạc vàng đáng sợ
Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”.

Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”.
Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”.
Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”.
Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”.
Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây”.
Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.




Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.
Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ : “Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.
Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng: “Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.
Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.
Đây thật là ứng với lời người xưa để lại: Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn. Đều là họa do lòng tham đưa đến, chính dục vọng đã khiến người bạn thân nhất trở thành kẻ thù không đội trời chung.

Truyện thứ hai: Người nông dân mua đất

Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.
Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.


(Ảnh theo Epochtimes)

Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.
Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.
Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Truyện thứ ba: Phật và ma

Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông muốn vẽ Phật và ma, nhưng không tìm được người làm mẫu phù hợp, vì đầu óc ông không tài nào tưởng tượng ra nổi hình dáng của Phật, nên rất lo lắng. Trong một lần tình cờ, ông lên chùa bái lạy, vô tình nhìn thấy một hòa thượng. Khí chất trên vị hòa thượng này đã thu hút người họa sĩ sâu sắc. Vậy là ông liền đi tìm vị hòa thượng đó, hứa cho hòa thượng một số tiền lớn để làm người mẫu cho ông.
Về sau, tác phẩm của họa sĩ đã hoàn thành, gây chấn động ở vùng đó. Nhà họa sĩ nói: “Đó là bức tranh vừa ý nhất mà tôi từng vẽ qua, bởi người làm mẫu cho tôi quả khiến người ta vừa nhìn thấy nhất định cho rằng anh ta chính là Phật, loại khí chất thanh thoát an lành trên người anh có thể cảm động bất kì ai”.


(Ảnh: theo Epochtimes)

Người họa sĩ sau đó đã cho vị hòa thượng đó rất nhiều tiền như lời đã hứa.
Cũng nhờ bức tranh này, mọi người không còn gọi ông là họa sĩ nữa, mà gọi ông là “họa Thánh”.
Bẵng đi một thời gian, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào việc vẽ ma, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó của ông, vì chẳng biết tìm hình tượng ma quỷ ở đâu. Ông đã hỏi thăm rất nhiều nơi, tìm rất nhiều người có vẻ ngoài hung dữ, nhưng không ai vừa ý cả.
Cuối cùng, ông tìm được trong nhà tù một tù nhân rất phù hợp với đối tượng ông cần vẽ. Họa sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng khi ông đối diện phạm nhân đó, người này đột nhiên khóc lóc đau khổ trước mặt ông.
Nhà họa sĩ rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi rõ ngọn ngành.
Người phạm nhân đó nói: “Tại sao lần trước khi người mà ông tìm để vẽ Phật là tôi, bây giờ khi vẽ ma quỷ, người ông tìm đến vẫn là tôi!”
Người họa sĩ giật cả mình, thế là ông lại nhìn kỹ người phạm nhân đó, rồi nói: “Sao lại có thể chứ? Người mà tôi tìm để vẽ Phật ấy khí chất phi phàm, còn cậu xem ra chính là một hình tượng ma quỷ thuần túy, sao lại có thể là cùng một người được? Điều này thật kì lạ, quả thật khiến người ta không thể nào lý giải được”.
Người kia đau khổ bi ai nói: “Chính là ông đã khiến tôi từ Phật biến thành ma quỷ”.
Họa sĩ nói: “Sao cậu lại nói như vậy, tôi vốn đâu có làm gì đối với cậu đâu”.
Ngươi đó nói: “Kể từ sau khi tôi nhận được số tiền ông cho, liền đi đến những chốn ăn chơi đàng điếm để tìm thú vui, mặc sức tiêu xài. Đến sau này, tiền tiêu sạch hết, mà tôi lại đã quen với cuộc sống đó rồi, dục vọng đã khởi phát mà không thể thu hồi lại được. Thế là tôi liền giật tiền người ta, còn giết người nữa, chỉ cần có được tiền, chuyện xấu gì tôi cũng có thể làm, kết quả đã thành ra bộ dạng này của ngày hôm nay đây”.
Người họa sĩ nghe xong những lời này, cảm khái vạn phần, ông sợ hãi than rằng bản tính con người trước dục vọng lại biến đổi mau chóng đến thế. Con người chính là yếu nhược như vậy đó. Thế là ông áy náy quăng cây bút vẽ xuống đất, từ đó về sau không còn vẽ bức tranh nào nữa.
Con người ta, một khi rơi vào trong cạm bẫy “theo đuổi ham muốn vật chất”, thì rất dễ đánh mất bản thân mình, muốn thoát ra khỏi đã trở thành mục tiêu rất khó khăn, vậy nên bản tính con người không thể đi cùng với lòng tham.
Thiền sư kể xong mấy câu chuyện, nhắm nghiền mắt lại không nói gì cả, còn người kia đã biết được đáp án từ trong những câu chuyện này: Thì ra điều đáng sợ nhất trên cõi đời này chính là dục vọng, dục vọng của người ta càng nhiều, thì sẽ càng không thỏa mãn, vậy nên sẽ càng không vui vẻ và phiền não vì thế cũng sẽ càng nhiều hơn.

Tác giả: Theo NTDTV.com | Dịch giả: Tiểu Thiện
http://thanhnientudo.com/2015/09/28/ba-cau-chuyen-ke-ve-thu-dang-so-nhat-tren-doi/
(Tôi Thích Đọc blog)

28 tháng 11, 2015

NGUYỄN TRỌNG TẠO
CÒN HAI CON MẮT KHÓC NGƯỜI MỘT CON là câu thơ hay của Bùi Giáng trong bài “Mắt Buồn”, được Trịnh Công Sơn trích ra để làm nên bài hát CON MẮT CÒN LẠI nên càng được nhiều người biết tới. Từ lâu tôi và nhiều người hiểu “khóc người một con” cũng có nghĩa là còn con mắt kia không khóc hoặc để khóc cho người khác. Hiểu thế thấy nó độc đáo và hay.
Thu Trang, Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn
Thu Trang, Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn
Hôm nay đọc trên FB của “Nhà Văn Thụyvi” thì thấy bà “bật mí” một chi tiết bất ngờ: “người một con” lại là người phụ nữ đã có một con: “Lâu nay, ít người biết rằng thi sĩ Bùi Giáng viết câu thơ: “Còn hai con mắt khóc người một con” là viết cho Hoa hậu Thu Trang ( tên thật là Công thị Nghĩa, người đoạt giải Hoa Hậu đầu tiên, cũng là người bên kia nằm vùng với bí danh Tư Nghĩa )”. Và bà viết tiếp: “Bùi Giáng say mê Thu Trang khi hoa hậu đã có đứa con trai ngoại hôn với một người đàn ông có gia đình là đạo diễn Tống Ngọc Hạp, vào năm 1957 . Ý nghĩa “Còn hai con mắt” ở đây là hai mắt của Bùi Giáng và “khóc người một con ” là khóc Hoa hậu Thu Trang có một đứa con.
Hoa hậu Thu Trang còn là nàng thơ của Bùi Giáng trong nhiều bài thơ khác in ở tập Mưa nguồn xuất bản khoảng năm 1962”.
Đọc lại bài “Mắt Buồn” tôi mới giật mình thấy 1 câu thơ có 2 từ TRANG và THU, đó là câu “Ấn TRANG sử lịch THU triền miên trôi”. Điều này chứng tỏ Nhà Văn Thujyvi nói đúng.
Tôi có biết và có gặp bà Thu Trang cách nay gần 30 năm, lúc ấy bà từ Pháp về, và vẫn đẹp như một câu thơ trong bài thơ khác của Bùi Giáng: “Trời bên kia – nhan sắc ở bên này”.
Như vậy là Bùi Giáng đã khóc cả hai con mắt cho người đẹp đã một con. Và câu thơ CÒN HAI CON MẮT KHÓC NGƯỜI MỘT CON hiểu cách nào cũng thấy hay, nhưng giờ thì tôi thấy nó hình như hay hơn.
Cám ơn Nhà Văn Thụyvi, và mời bạn đọc lại bài thơ MẮT BUỒN của Bùi Giáng:
(Dặm khuya ngất tạnh mù khơi NGUYỄN DU)

Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông


Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một Giêng
Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng
Ấn trang sử lịch thu triền miên trôi


Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời


Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.


Đọc thêm:
Đầu năm 1957, bà cùng đạo diễn Tống Ngọc Hạp mang theo bộ phim Lục Vân Tiên sang Nhật để làm hậu kỳ. Đồng thời, cũng là để tham gia Đại hội Điện ảnh châu Á đang được tổ chức tại đây.
Gần một tháng ở Nhật cùng với đạo diễn Tống Ngọc Hạp, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, giữa bà và đạo diễn nảy sinh tình cảm. Chuyện gì đến cũng đến, bà có mang.
(Theo blog Nguyễn Trọng Tạo)