2 tháng 12, 2015

HAY ! HAY !

PHỎNG VẤN NHÀ SƯ

Sư Thích Minh Thịnh hút thuốc lào sòng sọc và phát ngôn "vô cùng sốc" trong cuộc đối thoại với chúng tôi

Cuộc đối thoại không thể tin của nhóm phóng viên báo Lao Động với sư  Thích Minh Thịnh, trụ trì chùa Nhạn Tháp, một trong hai nhân vật chính của loạt phóng sự "Trụ trì uống rượu tây, nhắm tiết canh!" đăng trên Lao Động...

Chưa hết tò mò về sư trụ trì Thích Minh Thịnh, người được các nhân chứng quan trọng và có uy tín xã hội ở địa phương kể về cuộc “đấu khẩu” rồi “đấu đầu” đầy đao kiếm giang hồ với sư ông Thích Thanh Mão, thì trong một lần đi lễ chùa, nhóm PV chúng tôi đã có dịp trò chuyện với ông về Phật pháp, về lý lẽ của việc tu hành và các đạo lý khác.

Tranh biện của ông Thịnh, có lẽ chỉ cần chép lại nguyên văn từ băng ghi âm và ghi hình, là đủ để nói lên tất cả. không cần thêm một lời bình nào nữa. Mỗi câu từ, có phải là một cấu kiện tạo nên bức chân dung của vị sư trụ trì đã góp phần làm điên đảo một di tích quốc gia cổ kính tuyệt đẹp như chùa Nhạn Tháp?

- Thưa sư trụ trì, hồi tôi dẫn nhóm họa sĩ đến chùa Phú Thị để vẽ cảnh, nhà sư Thích Thanh Mão có vẻ phản đối việc thầy xây chùa 2 tầng này?

-Cái đấy là chuyện của mỗi người.

-Nhắc đến chùa trên Nhạn Tháp này xây 2 tầng, thầy ấy phản đối ghê lắm?

-Đấy là khái niệm của mỗi người, mỗi người có nhận thức về kiến trúc là khác nhau. Mỗi nhận thức văn hóa khác nhau là bình thường mà.

- Chúng tôi thì không rõ lắm, nhưng có vẻ như bây giờ giới luật đi tu của mình cũng thoáng hơn hả thầy? Ví như hôm tôi gặp sư Mão, thấy có rất nhiều rượu, thầy Mão còn bảo thầy ấy vẫn ăn thịt, vẫn ăn tiết canh…

-Đấy là chuyện bình thường mà.

- Thế á? Nhưng mà chúng tôi thấy có một thời gian rất dài nhà chùa cấm điều đấy cơ mà?

-Ai cấm đâu? Đấy là anh chị tưởng thế thôi. Tôi không muốn nói trên khái niệm và quan điểm, tôi nói trên mặt định chế và pháp luật. Nếu không cấm đi ngược chiều thì tôi cứ đi chứ. Đấy là chuyện bình thường mà.

                          Bên cạnh hệ thống tượng Phật, chùa cũng "trang trí" cả nhiều rắn thần... 

-Tức là trong giáo lý nhà Phật không cấm ăn thịt?

-Không, tôi không nói đến giáo lý. Tôi nói đến mặt phổ quát của loài người là ăn uống.

-Nhưng đây mình là người tu hành mà?

-Tu hành là chuyện tu hành. Ông Phật ông ấy có cấm không, ở dòng bao nhiêu, trang bao nhiêu, quyển sách nào hay là khái niệm "chó sủa ở ngoài đường"? Ơ, thế cái máy nó sủa giống con chó cũng bảo là con chó nó sủa hay sao? Ơ, sao lại có cái quan điểm “tưởng rằng”?

-Không, không phải là tưởng, mà chúng tôi nghĩ rằng, kiểu như đã hình thành một nhận thức găm sẵn trong đầu bao nhiêu thế hệ nay rồi ấy – đi tu là phải ăn chay?

-Đấy là quan niệm "Mày quan niệm như thế thì mày ở nhà mày, mắc mớ gì đến tao, tao đi tu ở chùa cơ mà". Đấy là khái niệm, quan điểm của người ta như thế thôi.

-Vâng. Nhưng đúng là trong dân hình thành cái nhìn như thế từ lâu rồi, nhà sư nhỉ?

-Đấy là chuyện của dân. Nếu đường không cấm ngược chiều thì tao cứ đi, chứ sao lại không cho tao đi, đúng không? Nếu như mà đường bảo cấm, thì đương nhiên chỉ được đi 1 chiều.

-Tức là cũng theo kiểu ăn chay hay không thì tùy từng người, cho dù họ đều đi tu cả, đúng không ạ?

-Không phải tùy từng người mà đấy là phổ quát của loài người.

-Không! Ví dụ như chúng tôi thấy ở thiền viện S. ấy, họ hoàn toàn làm đồ chay?

-Đấy là chuyện của S.

-Thì đấy, như chúng tôi nói là tùy vào từng người, từng nơi mà họ làm kiểu này hay kiểu khác, đó có phải là ý kiến của nhà sư trụ trì (Thích Minh Thịnh) không?

-Chả cần thiền viện S. đâu, vào trại bò ở trên Ba Vì ấy, nó cũng ăn chay hoàn toàn, bò toàn ăn chay mà, có con bò nào nó ăn mặn đâu. Không thể mang vấn đề ăn chay ra để mà nói chuyện được. Tôi có đàn bò ăn chay kiếp nọ đến kiếp kia, thì tôi sẽ gọi là trại bò S.

-Dạ thưa, bò với người là khác nhau chứ thầy?

-Không. Nếu mà chùa S. nó bảo là chúng tôi ăn chay, nên chúng tôi hơn người khác thì tôi sẽ gọi là trại bò S. chứ không phải trại người S. Vì Đức Phật còn không ăn chay, đúng không, thế chúng mày ăn chay, thì khác gì trâu bò, đúng không? Tôi có con bò, có bao giờ nó ăn thịt đâu, nó không những ăn chay, mà còn ăn chay từ kiếp nọ đến kiếp kia.

 Bà cụ nấu cơm cho sư này, đã tiết lộ với chúng tôi nhiều thông tin sửng sốt, bên cạnh là bức tượng Phật được phủ vải cũ trông vô cùng nhếch nhác

-Nhưng chúng tôi vẫn thắc mắc một điều là, nếu không đúng như chúng tôi nói, mà lại đúng như sư trụ trì đang nói, thì tại sao trong dân mình bao đời này lại hình thành cái ý thức đi tu là ăn chay? Vì một lý do nào đấy  chúng tôi vẫn không hiểu?

-Thế tôi hỏi anh chị nhá, tại sao người ta lại gọi anh chị là người Việt Nam? Tại sao người ta lại gọi đất nước này là Việt Nam? Chẳng qua là người ta gọi nó thế thôi. Chứ hồi xưa người ta gọi là Đại Ngu cũng được chứ sao. Việt Nam (là cái tên) sau này người ta mới đặt cơ mà.

Cho nên đấy là khái niệm, đúng không? Bây giờ anh chị tên là Hoa, nhưng anh chị có phải là Hoa không, chẳng qua là bố mẹ anh chị gọi thế để phân biệt với cái đứa tên là Lá thôi.

Lâu dần người ta cứ gọi anh chị Hoa ơi, thì anh chị tưởng anh chị là Hoa, chứ anh chị có phải là Hoa đâu… Tất cả đều là do người ta đặt ra và gọi thế, mà đa số những cái mà người ta vẫn dùng là sai. Bản chất nó chỉ là những khái niệm mơ hồ.

"Ăn chay cái… vào mặt chúng mày!”

Ngừng một lát nhìn chúng tôi, nhà sư Thích Minh Thịnh nói tiếp: “Chuyện kể thế này, có một ông trong làng cũng già rồi, ông ấy đến nhà bạn chơi, nhà bạn có chó đẻ, ông ấy thích nên ông ấy xin một con mang về nuôi. Con chó con nó lạ nhà, nó sủa ầm lên.

Lại đúng đến ngày chuẩn bị giỗ tổ, ông cụ mới thắp hương chuẩn bị lễ tổ tiên nhưng con chó cứ sủa loạn lên thì ông mới mang con chó dắt ra ngoài ngõ xích. Thằng cháu nội nhìn thấy điều đấy nên nó cứ ám ảnh, nó nghĩ, lễ tổ tiên là phải mua một con chó con, trước khi lễ các cụ thì mang con chó con ra ngoài ngõ.

Rồi nó lớn, ông nó chết, bố nó chết, nó làm chủ gia đình, cứ đến giỗ là nó mua một con chó con về xích ở cửa xong chuẩn bị lễ thì nó dắt ra ngõ. Người ta hỏi sao mày lại làm thế, thì nó bảo, tôi có biết đâu, tôi thấy ông tôi làm thế mà, ông tôi làm thế nên tôi cũng làm thế. Đấy, khái niệm dân gian cũng là như thế.

Một đứa bé lớn lên, nó thấy làng nó có một ông thầy hay một hòa thượng, một sư ni nào đấy. Người ta già, người ta sợ béo, ăn nhiều thì tim mạch, sinh bệnh, nhanh chết. Vị sư nào già mà chả ăn chay. Xong nó lớn lên nó cứ ám ảnh đã tu là ăn chay. Ăn chay cái… vào mặt chúng mày. Xong, lại còn cái trò thiền viện.

Đạo Phật cung ứng cho loài người một nền văn minh chính là thiền, cho nên đạo Phật chính là đạo thiền. Người ta vẫn gọi cửa thiền, cửa từ bi, chứ không phải cứ ở Thiền viện của ông Thích Thanh T. ra mới là thiền. Cũng như trong dân gian, nhà nào cũng có muối, thì không cần ghi ở ngõ là "Nhà tôi có muối". Linh hồn của đạo Phật là thiền, văn minh của đạo Phật là thiền, thế thì việc gì phải gọi là Thiền viện. Thùng càng rỗng thì càng kêu to.

-Nghe thầy nói thì chúng tôi thấy cái tầm văn hóa nào đó và mọi thứ từ thầy rất khác so với khi chúng tôi nghe thầy Mão nói về thầy?

-Đấy là chuyện của ông ấy.

-Thầy Mão có vẻ không ưa thầy?

-Đó cũng là chuyện bình thường của ông ấy. Cuộc đời mà, làm sao mà tất cả mọi người đều ưa mình được.

-Nhưng đi tu thì phải khác chứ?

-Không. Cũng là chuyện của người ta. Nếu không có thứ gọi là bóng tối thì ánh sáng không có giá trị.

 -Cảm ơn nhà sư!

(Lao Động)
BLOG TÔI THÍCH ĐỌC

1 tháng 12, 2015

NHỮNG CÂU NÊN NGẪM MỖI NGÀY
1, Ăn no không gội đầu, đói không tắm. Rửa mặt nước lạnh, vừa đẹp vừa khỏe. Mồ hôi chưa khô, đừng tắm nước lạnh. Đánh răng nước ấm, chống ê chắc răng.
2, Ăn gạo có trấu, thức ăn có chất sơ. Nam không thể thiếu rau hẹ, nữ không thể thiếu ngó sen. Củ cải trắng, sống không tốt nhưng chín thì bổ. Ăn không quá no, no không nên nằm.

3, Dưỡng sinh là động, dưỡng tâm là tĩnh. Tâm không thanh tịnh, ưu tư vọng tưởng dễ nảy sinh. Tâm thần an bình, bệnh sao đến được. Nhắm mắt dưỡng thần, tĩnh tâm ích trí.

4, Dược bổ thực bổ, đừng quên tâm bổ. Coi tiền như cỏ, coi thân như bảo. khói hun cháy lửa, tốt nhất không ăn. Chiên dầu ngâm ướp, ít ăn thì tốt.

5, Cá thối tôm rữa, lấy mạng oan gia. Ăn mặc giữ ấm, nhất thân là xuân. Lạnh chớ chạm răng, nóng chớ chạm môi. Đồ chín mới ăn, nước chín mới uống.

6, Ăn nhiều rau quả, ít ăn đồ thịt. Ăn uống chừng mực, ngủ dậy đúng giờ. Đầu nên để lạnh, chân nên giữ ấm. Vui chơi biết đủ, không cầu an dật.

7, Dưỡng sinh là cần cù, dưỡng tâm là tĩnh tại.

8, Người đến tuổi già, thì phải rèn luyện, đi bộ chạy chậm, luyện công múa kiếm; đừng sợ giá lạnh, quét sạch sân nhà, hội họa thêm vui, tấm lòng rộng mở.

9, Nghe tiếng gà gáy, đừng cố nằm thêm, trồng hoa nuôi chim, đọc sách ngâm thơ; chơi cờ hát kịch, không ham phòng the, việc tư không nhớ, không chiếm lợi riêng.

10, Ẩm thực không tham, bữa tối ăn ít, khi ăn không nói, không nên hút thuốc; ít muối ít đường, không ăn quá mặn, ít ăn chất béo, cơm không quá nhiều;

11, Mỗi ngày ba bữa, thức ăn phù hợp, rau xanh hoa quả, ăn nhiều không sợ; đúng giờ đi ngủ, đến giờ thì dậy, nằm dậy nhẹ nhàng, không gấp không vội;

12, Uống rượu có độ, danh lợi chớ tham, chuyện thường không giận, tấm lòng phải rộng.

13, Tâm không bệnh, nên phòng trước, tâm lý tốt thân thể khỏe mạnh; tâm cân bằng, phải hiểu biết, cảm xúc ổn định bệnh tật ít;

14, Luyện thân thể, động cùng tĩnh, cuộc sống hài hòa tâm khỏe mạnh; phải thực dưỡng, no tám phần, tạng phủ nhẹ nhõm tự khai thông;

15, Người nóng giận, dễ già yếu, thổ lộ thích hợp người người vui; thưởng thức thư họa, bên suối thả câu, lựa chọn sở thích tự do chơi;

16, Dùng đầu óc, không mệt nhọc, bớt lo dưỡng tâm ít náo nhiệt; có quy luật, sức khỏe tốt, cuộc sống thường ngày phải hài hòa;

17, Tay vận động, tốt cho não, phòng ngừa bị lạnh và cảm cúm.

18, Mùa hè không ngủ trên đá, mùa thu không ngủ trên phản. Mùa xuân không hở rốn, mùa đông không che đầu. Ban ngày hoạt động, tối ngủ ít mơ.

19, Tối ngủ rửa chân, hơn uống thuốc bổ. Buổi tối mở cửa, hễ ngủ là say. Tham mát không chăn, không bệnh mới lạ.

20, Ngủ sớm dậy sớm, tinh thần sảng khoái, tham ngủ tham lạc, thêm bệnh giảm thọ. Tranh cãi buổi tối, ruột như sát muối.

21, Một ngày ăn một đầu heo, không bằng nằm ngủ ngáy trên giường.

22, Ba ngày ăn một con dê, không bằng rửa chân rồi mới lên giường.

23, Gối đầu chọn không đúng, càng ngủ người càng mệt. Tâm ngủ trước, người ngủ sau, ngủ vậy sẽ thành mỹ nhân.

24, Đầu hướng gió thổi, ấm áp dễ chịu, chân hướng gió thổi, hãy mời thầy lang.

25, Không ngủ nơi ngõ hẻm, độc nhất khi gió lùa.

26, Đi ngủ không thắp đèn, sáng dậy không chóng mặt.

27, Muốn ngủ để tấm thân nhẹ nhõm, chân không hướng tây đầu không hướng đông

(theo Tôi Thích Đọc blog)
SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT
Nguồn Vietnamnet .
 

X- Chiếc cầu của các nhà đầu tư
Trong lĩnh vực tư vấn, Investconsult Group là một trong những doanh nghiệp tư vấn hàng đầu ở Việt Nam. Nguyễn Trần Bạt cho rằng, bằng kinh nghiệm và hiểu biết của mình, ông và các cộng sự là người bắc chiếc cầu cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Investconsult Group hiện nay có 250 cán bộ và trên 100 cộng tác viên làm việc tại Hà Nội (trụ sở chính), TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ và nhiều tỉnh, thành trong cả nước.

PV: Ông có thể giới thiệu đôi nét về InvestConsult?

NTB: Chúng tôi có 7 đơn vị thành viên. Chúng tôi cung cấp dịch vụ trong 3 lĩnh vực. Thứ nhất là dịch vụ về dự án kinh tế. Trong lĩnh vực này chúng tôi có 3 công ty con, 1 công ty chuyên làm các dự án ODA, 1 công ty chuyên làm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, công ty thứ 3 cung cấp các giải pháp xí nghiệp tức là hỗ trợ các xí nghiệp ví dụ như là cấu trúc lại doanh nghiệp. Lĩnh vực dịch vụ thứ 2 của chúng tôi là Luật. Chúng tôi đã thành lập một công ty Luật từ lâu rồi. Công ty Luật của chúng tôi có lẽ là công ty Luật lớn nhất Việt Nam. Hiện nay công ty này có khoảng gần 70 luật sư và khách hàng của nó có nhiều cỡ, từ hãng Boeing của Mỹ cho đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Những máy bay của Vietnam Airlines bay ở Việt Nam có sự tham gia của chúng tôi vào các hợp đồng bán, thuê, mua... Lĩnh vực thứ ba là lĩnh vực IP tức là dịch vụ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ, cũng có 3 tổ chức, một công ty chuyên bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp, một công ty chống vi phạm, công ty thứ ba là công ty chuyên làm marketing cho các thương hiệu hoặc các sản phẩm. Tôi là Phó chủ tịch Hiệp hội sở hữu trí tuệ Việt Nam. Ngoài ra chúng tôi còn có Viện nghiên cứu khoa học. Đây là viện nghiên cứu tư nhân đầu tiên, tên chính thức của nó là Viện Nghiên cứu Phát triển Investconsult. Với chừng ấy đơn vị thành viên, trong nhiều năm qua, chúng tôi là những người nỗ lực bắc chiếc cầu cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
PV: Ông vừa nói đến viện nghiên cứu trực thuộc Công ty, vậy thủ tục thành lập Viện nghiên cứu tư nhân có khó không?

NTB: Không, thủ tục của tôi kỳ lạ lắm. Chính phủ có một nghị định gọi là Nghị định 35 về công tác quản lý khoa học và công nghệ nhưng tôi nghĩ là nó không phù hợp với khuôn khổ của chúng tôi và tôi không đăng ký theo cách ấy. Trong một buổi giao lưu, gặp gỡ với Tổng bí thư Lê Khả Phiêu khoảng tháng 11/1999, ở Trung tâm Hội nghị quốc tế, số 11 - Lê Hồng Phong tôi có hỏi ông ấy là tôi muốn thành lập một viện nghiên cứu tư nhân có được không? Tôi thấy bây giờ tất cả những chính sách đều không được phản biện một cách chuyên nghiệp, chúng ta cũng lấy ý kiến nhân dân nhưng thăm dò ý kiến nhân dân và phản biện một cách khoa học là hai việc hoàn toàn khác nhau. Những lời kêu la, góp ý của nhân dân không phải là phản biện khoa học. Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói là: "Tôi hoàn toàn ủng hộ". Hôm sau Thông tấn xã Việt Nam đã đăng cái tin ấy . Như vậy, sự ủng hộ của Tổng bí thư chính là sự phê chuẩn lớn nhất. Tôi đã hỏi ý kiến các anh em trong công ty là các anh em có thích nghiên cứu khoa học không. Nếu các anh em thích thì các anh em làm một đề nghị vì quyền nghiên cứu khoa học là một quyền hợp hiến chứ không chỉ là quyền hợp pháp. Nhân dân đề nghị và Tổng bí thư phê chuẩn thì tôi quyết định thành lập và Viện Nghiên cứu Phát triển Investconsult của tôi ra đời.

Tôi có trả lời phỏng vấn trên báo Nghiên cứu Lập pháp của Văn phòng Quốc hội rằng tôi rất thận trọng trong những việc như thế. Lúc bấy giờ tôi có nói với Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng tất cả những kết quả nghiên cứu khoa học của tôi, tôi sẽ dâng lên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi không có bài nào đưa lên các trang web nước ngoài. Tôi chỉ đăng trên các tạp chí chính thống của Việt Nam và xuất bản một cách đàng hoàng trên lãnh thổ Việt Nam. Còn chuyện gửi lên các trang web bên ngoài trong điều kiện xã hội chúng ta khi chưa rõ ràng về mặt pháp lý thì tôi không làm.


PV: Sau khi hoàn thành dự án, ông trình thì ai ký, ai cho ra cái pháp nhân đó?

NTB: Không, đây không phải là một pháp nhân. Nghiên cứu là quyền của tôi, là quyền hợp hiến, tôi thích thì tôi làm. Không có bộ luật nào ở Việt Nam quy định việc thành lập các cơ sở nghiên cứu khoa học cả mà chỉ có quyền nghiên cứu khoa học của một tập thể có sẵn. Quyền nghiên cứu khoa học đã được Hiến pháp cho phép rồi thì cớ gì phải có một quyết định của một bộ nào cho phép làm chuyện ấy?

PV: Ông có thể giới thiệu các sản phẩm của Viện?
NTB: Những quyển sách đã xuất bản là sản phẩm của Viện. Nó còn có những tạp chí nội bộ. Vì luật báo chí chưa cho phép xuất bản báo chí tư nhân nên tôi buộc phải làm tạp chí nội bộ. Các bộ phận như bộ phận Sở hữu trí tuệ, bộ phận Luật... vừa là công ty làm ăn vừa tổng kết kinh nghiệm làm ăn vừa nghiên cứu khoa học. Viện nghiên cứu có bộ máy thường trực của nó, khoảng 20 người. Có thư viện vào khoảng 10 ngàn đầu sách, đó là một thư viện tư nhân khá quy mô ở Việt Nam.
PV: Viện của ông có nhận các đề tài nghiên cứu của nhà nước không?
NTB: Không. Về nguyên tắc tôi không nhận bất cứ một thứ gì từ ngân sách nhà nước. Tôi làm việc với tư cách là một công ty không liên quan gì đến ngân sách của nhà nước nhưng ngân sách của các công ty nhà nước thì có. Tôi có một Hội đồng các cố vấn khoa học, đó hầu hết là những nhà lý luận hoặc hoạt động nhà nước đã về hưu. Chúng tôi cộng tác rất chặt chẽ với họ. Bằng những kinh nghiệm hoạt động nhà nước, hoạt động xã hội, họ thay mặt xã hội đặt ra các vấn đề. Khi họ đặt ra các vấn đề thì chúng tôi nghiên cứu, chúng tôi làm rõ những vấn đề ấy và viết thông qua các ấn phẩm, các bài viết. Cán bộ của chúng tôi có các bài viết đăng trên nhiều tạp chí quan trọng kể cả những tạp chí chính thống của Đảng cộng sản Việt Nam như tạp chí Thông tin và Lý luận của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
PV: Ông có thể giới thiệu với bạn đọc đôi nét về mình?
NTB: Tôi học nhiều thứ nhưng xuất phát điểm là tôi học văn. Năm 1967, khi ra khỏi bộ đội vì lý do sức khỏe, tôi học Đại học Xây dựng, chuyên ngành Cầu đường. Đến năm 1989 tôi học Luật. Trước đó, song song với học xây dựng thì tôi có học toán, học nhiều thứ.
 
Tôi đi thanh niên xung phong năm 1963. Năm 1964 thì đi bộ đội. Năm 1967 ra khỏi bộ đội và đi học lại. Năm 1972 tốt nghiệp đại học xong rồi lại vào bộ đội, ra khỏi bộ độ một cách thật sự năm 1976. Sau khi ra khỏi bộ đội, tôi về Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải. Ở đó tôi là quyền chủ nhiệm Bộ môn Nền móng và công trình ngầm. Tôi làm ở đó từ năm 1976 đến năm 1984. Năm 1984 đến năm 1985 tôi làm việc tại "Hội Xây dựng Việt Nam” và khởi xướng thành lập "Trung tâm hỗ trợ các hoạt động Sỡ hữu công nghiệp", tiền thân của Công ty dịch vụ Sở hữu trí tuệ - Investip của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay. Năm 1989 tôi chuyển sang Viện Khoa học Việt Nam và thành lập Công ty Tư vấn Đầu tư Invesconsult. Năm 1992, sau khi Luật Công ty ra đời, tôi chuyển đổi Investconsult thành Công ty TNHH, tức Investconsult Group ngày nay.
PV: Tiêu chí tuyển nhân viên của công ty là gì? Trong cuộc phỏng vấn tuyển dụng, ông coi trọng điều gì?
NTB: Tiêu chí tuyển nhân viên của công ty trước tiên phải học những ngành mà công ty cần, sau đó qua một cuộc phỏng vấn về nhân cách, ứng xử. Chúng tôi nhấn mạnh một số thứ rất chủ yếu. Thứ nhất là lòng trung thành và chí tiến thủ vì có lòng trung thành mà không có chí tiến thủ thì không phát triển được, có chí tiến thủ mà không có lòng trung thành thì không hợp tác lâu dài được. Thứ hai là có trình độ chuyên môn tốt nhưng cũng phải có kinh nghiệm ứng xử đối với cuộc sống, bởi nghề chúng tôi là nghề tư vấn tức là nói vào tai thiên hạ các lẽ phải để lấy tiền, thế nên phải biết nói như thế nào. Thẳng thắn quá, cương trực quá thì nói được với ít cái tai hơn, cho nên vừa phải thông thái vừa phải khôn khéo.
Đấy là điều lý tưởng chúng tôi mong muốn như thế chứ thực ra thì cũng có người không đạt được mức như vậy. Nhưng bộ máy lãnh đạo thì buộc phải hội đủ tiêu chuẩn như vậy để biết rõ người lao động như thế nào, dùng vào công việc gì cho thích hợp. Tôi luôn xem phẩm chất quan trọng nhất của một con người là ý thức tổ chức cuộc đời của anh ta như thế nào. Người mà không tổ chức tích cực được cuộc đời của mình thì khó có thể đóng góp một cách tích cực cho cuộc sống được. Tôi tuyển chọn cán bộ bao giờ cũng bắt đầu bằng cách xem khả năng sắp xếp tổ chức cuộc sống riêng tư như thế nào.

PV: Cách tìm hiểu của ông về vấn đề đó như thế nào?
NTB: Phải phỏng vấn, phải quan sát. Ví dụ tiêu biểu là tôi có thể hỏi về bố mẹ anh ta. Bao giờ bố mẹ cũng phản ánh lên con cái những dấu ấn, những dấu ấn ấy vô cùng quan trọng và không trộn lẫn vào đâu được. Con anh này khác con anh kia một cách rất rõ ràng. Nếu anh thiếu hiểu biết về âm nhạc thì khi nghe Beethoven anh ta sẽ nhầm với Mozart. Nhưng một khi anh nghe và anh biết cả hai thì anh không thể nhầm được. Năng lực cơ bản của con người là năng lực tổ chức cuộc sống cá nhân. Nhưng năng lực ấy hoàn toàn có thể trở thành một cái bẫy, nếu anh là một kẻ ích kỷ.
Một người có đủ năng lực tổ chức cuộc sống cá nhân, có sự khoáng đạt của một con người yêu cuộc sống thì họ sẽ đem đến cho cuộc sống đúng năng lực tổ chức cuộc sống của họ. Còn ngược lại, những anh chỉ yêu cuộc sống một cách khoáng đạt nhưng không có năng lực tổ chức cuộc sống của mình thì chỉ trở thành những con bướm bay lởn vởn dưới hạnh phúc của người khác mà không phải của mình. Điều đấy là vô cùng quan trọng đối với việc tuyển chọn cán bộ. Làm lý luận chỉ là một chuyện, nhưng nếu như người ta không có đủ cái từng trải, đủ kinh nghiệm, đủ thông thái để tạo ra cuộc sống thì người ta không có ích cho ai cả.

PV: Ông có rất nhiều cán bộ, nhân viên và như vậy thì ông không thể biết tất cả mọi người có tổ chức tốt cuộc sống của mình hay không. Trong một cuộc phỏng vấn họ có thể nói rằng tôi rất hạnh phúc chẳng hạn. Vậy ông làm thế nào để thẩm định?
NTB: Người ta có tự do đến với tôi và tự do đi ra khỏi tôi. Nếu tôi đòi hỏi điều họ không có thì họ sẽ đi, chỉ có những ai có điều tôi mong ước thì họ ở lại. Tự do của người lao động ở nước chúng ta cũng như ở trên toàn thế giới là đến và đi. Phạm trù tự do đến và đi không chỉ đối với một công ty mà đối với cả quốc gia, tôi có viết điều đó trong các quyển sách của tôi. Một nền kinh tế năng động là một nền kinh tế tạo ra năng lực dịch chuyển một cách năng động của tất cả các nguồn phát triển trong đó có nguồn lao động. Tôi phê phán lối của người Nhật trong việc tổ chức lao động, tức là 3 - 4 thế hệ cống hiến cho một công ty. Người châu Á tự hào, coi đó là một điểm mạnh. Tôi coi đó là điểm kém nhất của người châu Á.
Anh không đổi mới được văn hoá trong một xí nghiệp thì làm sao anh tạo ra sự phát triển của xí nghiệp được. Do vậy, sự phát triển của xí nghiệp không phải để tiếp tục đầu tư tiền bạc vào một xí nghiệp mà là sự đầu tư tiền bạc trên sự sáng tạo của người lao động, mà người lao động chỉ có thể sáng tạo được một khi họ luôn luôn được đổi mới về các giá trị tinh thần. Một cơ sở không có đổi mới về các giá trị tinh thần thì cơ sở ấy không thể phát triển được. Một quốc gia không cởi mở, không đổi mới thường xuyên các giá trị tinh thần thì quốc gia ấy cũng không thể nào phát triển được.

PV: Ông có thể cho biết mức thu nhập bình quân của nhân viên trong công ty?

NTB: Tôi có thể nói rằng nếu ai đó mơ tới chủ nghĩa xã hội thì hình như ở đây chúng tôi có nó rồi. Mức sống của chúng tôi là mức sống của chủ nghĩa xã hội theo định nghĩa tiêu chuẩn của Lenin, tức là chúng tôi có mức sống khá giả, anh em chúng tôi vui vẻ, không ai cảm thấy tủi thân khi làm nhân viên, không ai cảm thấy tự mãn khi làm quan chức. Cuộc sống của họ vừa bình dị về mặt tinh thần, vừa dễ chịu về mặt vật chất. Ở đây tôi khuyến khích mọi người học tập. Ngay cả các lái xe của tôi cũng theo học khoa Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân. Tôi cho rằng lái xe hay bảo vệ đều là con người. Họ có vợ, có con, họ cần phải tổ chức ra niềm tự hào về người cha, người chồng đối với con họ, vợ họ.

PV: Thế có nghĩa là ông luôn thiết lập niềm tự hào trong mỗi con người. Đó phải chăng là một phần của văn hóa công ty?

NTB: Đúng thế.

PV: Xin cảm ơn ông!
SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT
Nguồn Vietnamnet

VIII- Tương lai của nền dân chủ Việt Nam
Theo Nguyễn Trần Bạt, nền dân chủ có được do mỗi con người tự nguyện đấu tranh để tìm ra sự tồn tại của mình, sự phát triển của mình. Nền dân chủ không phải là kết quả của sự ban cho. Nền dân chủ không đến bằng sự thua của người này và sự thắng của người kia. Nếu nền dân chủ đến bằng cách đó thì nền dân chủ ấy không bền vững. Dân chủ là kết quả của sự thương thảo xã hội, sự thỏa thuận xã hội, sự hợp tác xã hội.
Thời đại chúng ta chiến đấu cho nền dân chủ đã qua rồi. Người ta không thể gây ra một cuộc nội chiến vì nền dân chủ được vì sau đó vẫn không phải là nền dân chủ.

Dân chủ đang đến từng ngày PV: Nếu có một hình dung về tương lai, ông sẽ hình dung về một Việt Nam khác ở thời điểm nào, 10, 20 hay 30 năm nữa?

NTB: Tương lai là một quá trình liên tục, không có khái niệm tương lai, hiện tại, quá khứ một cách dứt khoát. Ngày mai là tương lai của chúng ta rồi. Tương lai của người Việt là gì? Tương lai của người Việt là một xã hội dân chủ. Vấn đề chúng ta bàn không phải là liệu Việt Nam có dân chủ hóa hay không mà là muốn có nền dân chủ thì người Việt phải trả giá gì, hay là cách thức nào để người Việt không phải trả giá đắt cho nền dân chủ. Đi tìm cách nào để người Việt trả giá ít nhất, trả giá rẻ nhất, hay là không phải trả giá cho nền dân chủ mà mình muốn có chính là sự hợp tác với những người cộng sản để cùng nhau kiến tạo xã hội dân chủ Việt Nam. Đấy là quan điểm chính trị chủ đạo của tôi.
PV: Trong một cái mốc cụ thể là 20 năm nữa, ông nghĩ đó là một quá trình liên tục và phát triển?
NTB: Tôi không nghĩ 20 năm nữa, 10 năm nữa, 5 năm nữa, dân chủ đang đến từng ngày, từng giờ trên đất nước của chúng ta. Ngày hôm nay, khi chúng ta đang cùng nhau thảo luận ở đây, các yếu tố của nền dân chủ vẫn đang được hình thành. Nếu các yếu tố của nền dân chủ không được hình thành thì tại sao Thủ tướng lại phất hiệu lệnh kêu gọi làm vụ PMU18 một cách triệt để như thế? Nếu nền dân chủ không xuất hiện thì tại sao có sự tranh công đỗ lỗi, sự cãi nhau một cách công khai trên mạng giữa Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải? Đấy là biểu hiện của nền dân chủ. Nền dân chủ có được do mỗi con người tự nguyện đấu tranh để tìm ra sự tồn tại của mình, sự phát triển của mình. Nền dân chủ không phải là kết quả của sự ban cho. Nền dân chủ không đến bằng sự thua của người này và sự thắng của người kia. Nếu nền dân chủ đến bằng cách đó thì nền dân chủ ấy không bền vững. Dân chủ là kết quả của sự thương thảo xã hội, sự thỏa thuận xã hội, sự hợp tác xã hội. Thời đại chúng ta chiến đấu cho nền dân chủ đã qua rồi. Người ta không thể gây ra một cuộc nội chiến vì nền dân chủ được vì sau đó vẫn không phải là nền dân chủ.
PV: Gần đây, trên một số phương tiện truyền thông có một số ý kiến nói rằng Việt Nam nên nhìn lại Liên Xô. Vì chúng ta đã từng giống họ, nên chúng ta phải nhìn lại sự sụp đổ của Liên Xô để điều chỉnh chính sách của mình. Ông có cho là như vậy không?
NTB: Việt Nam không giống Liên Xô. Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam không có các phẩm chất của Đảng Cộng sản Liên Xô và Chủ nghĩa Xã hội Liên Xô. Nguồn gốc của những người cộng sản Việt Nam khác hoàn toàn với nguồn gốc của những người cộng sản Liên Xô. Những người cộng sản Liên Xô xuất hiện bằng cuộc đấu tranh giai cấp nhưng những người cộng sản Việt Nam không xuất hiện và tồn tại bằng cuộc đấu tranh giai cấp, mặc dù họ nói vậy. Những người cộng sản Việt Nam xuất hiện và tồn tại bằng sự đi tìm kiếm nền độc lập dân tộc. Chúng ta lệ thuộc vào Liên Xô, lệ thuộc vào Trung Quốc, chúng ta buộc phải nói vậy để tìm kiếm sự hỗ trợ cả về chính trị lẫn kinh tế, đặc biệt là kinh tế cho cuộc chiến tranh giải phóng của chúng ta. Chúng ta không giống Liên Xô.
Khi đi dự một hội thảo ở Úc, một số nhà chính trị Úc đã hỏi tôi rằng có gì giống nhau giữa người cộng sản Việt Nam và người cộng sản Đông Âu? Tôi nói rằng chẳng có gì giống nhau. Những người cộng sản Đông Âu giống như giỏ cây được treo lên còn những người cộng sản Việt Nam là cái cây mọc từ dưới đất lên. Những thứ mọc từ dưới đất lên bao giờ cũng bền vững hơn những thứ được treo lủng lẳng ở trên trời.
 
Cho nên những người đi tìm kiếm nền dân chủ, đi tìm kiếm tự do cần phải có một thái độ khác đối với những người cộng sản Việt Nam, thái độ ấy không phải là thái độ hằn học vẫn đang được nói trên các trang web nước ngoài hiện nay.
Tôi không phải là đảng viên cộng sản, tôi không có ân oán gì với những người cộng sản cả. Tôi không bênh họ, nhưng tôi là nhà khoa học, tôi phải giải thích hiện tượng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam một cách khoa học. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần thông minh trong khi nói về những giá trị của tương lai Việt Nam, bởi những giá trị chân chính sẽ không bao giờ đến với một người không thông minh. Chúng ta cũng cần thông minh khi mơ ước và tổ chức các giá trị tương lai của mình và biểu hiện quan trọng nhất của sự thông minh là chúng ta phải hợp tác với nhà cầm quyền trong việc tổ chức và rèn luyện nền dân chủ của chúng ta. Chúng ta có thể tìm nhiều cách hợp tác. Chúng tôi hợp tác được với Vietnamnet, Vietnamnet hợp tác được với nhà cầm quyền, đấy chính là con đường tạo ra xã hội dân sự. Xã hội dân sự là sự giao lưu giữa quyền lực nhà nước với quyền lực nhân dân.

Cần phải đưa ra một lộ trình cho nền dân chủ Việt Nam PV: Theo ông, việc đầu tiên mà Việt Nam cần phải làm hiện nay là gì?
NTB: Việc đầu tiên là Đảng cộng sản Việt Nam phải là người đưa ra được một lộ trình để xây dựng nền dân chủ Việt Nam, không phải với những quan niệm cá biệt của người Việt Nam mà với những quan niệm phổ biến của nhân loại. Bởi vì chúng ta xây dựng dân chủ không phải do những đòi hỏi dân chủ của nhân dân thông thường mà là sự đòi hỏi của nhân dân vì sự phát triển. Trước đây chúng ta quan niệm tự do và dân chủ là các quyền chính trị, nhưng trong các nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã chỉ ra rằng tự do và dân chủ không còn là quyền chính trị mà là quyền phát triển, tức là quyền sống.
Người ta có thể khất lần các quyền chính trị nhưng người ta không thể khất lần quyền sống. Trong quá trình toàn cầu hoá, khi các cộng đồng dân tộc cạnh tranh với nhau bằng chính độ tự do của nhân dân mình, tức là độ bùng nổ của các năng lực cá nhân thì tự do và dân chủ trở thành quyền phát triển, quyền sống chứ không còn là quyền chính trị. Vào những thời kỳ mà tốc độ phát triển còn chậm, các nguồn tài nguyên đem so với nhu cầu phát triển là dư thừa thì sự thiếu trí tuệ, thiếu sức sáng tạo không ảnh hưởng một cách quyết liệt đến an ninh của đời sống nhân loại. Nhưng khi tất cả các nguồn tài nguyên của nhân loại được huy động một cách triệt để vào phát triển thì trí tuệ của nhân dân, sức sáng tạo của xã hội để làm giảm bớt sự lãng phí trong việc sử dụng các tài nguyên sống trở thành một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Và vì thế, nâng cao sức sáng tạo của nhân dân chính là nâng cao sức cạnh tranh, là nâng cao năng lực sống, là kéo dài tuổi thọ của trái đất. Làm thế nào để cho con người nở ra, con người có những năng lực, có cảm hứng để phát triển là một trong những công việc hết sức quan trọng. Cho nên, một lần nữa, tôi muốn nói rằng theo những phân tích của chúng tôi thì tự do và dân chủ không còn là quyền chính trị nữa, nó đã trở thành quyền sống, quyền phát triển.

PV: Ông nói rằng Đảng cần phải đưa ra một lộ trình về dân chủ, nhưng bản thân ông có kiến nghị gì với lộ trình đó?
NTB: Tôi luôn luôn tôn trọng trật tự xã hội, việc tôi nói trước với các anh về lộ trình phát triển hay tôi nói trước Đảng về lộ trình phát triển có một ý nghĩa phác họa một trật tự xã hội nào đó. Tôi có thể gợi ý thông qua các sản phẩm khoa học nhưng tôi không thể gọi đó là lộ trình mẫu. Tôi tôn trọng địa vị của người nói trước là Đảng cộng sản Việt Nam. Nói trước các phương tiện truyền thông, nói một cách chính thống trên báo chí là quyền mà trong nghề của chúng tôi gọi là quyền từ chối đầu tiên (first refuse). Đảng Cộng sản Việt Nam có quyền này bởi vì họ đang cầm quyền, họ đang chịu trách nhiệm một cách trực tiếp về toàn bộ chất lượng của xã hội chúng ta, cho nên họ phải có quyền đầu tiên để nói điều ấy. Chúng ta có nghĩa vụ gợi ý nhưng chúng ta không có nghĩa vụ tuyên ngôn về chuyện này.
 
 
Xem tiếp
 
SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT

Nguồn Vietnamnet .
VII- Tôn giáo như là một tất yếu của đời sống
Tự nhận mình là một nhà khoa học nhưng không phải lúc nào Nguyễn Trần Bạt cũng dùng tư duy khoa học để phân tích các sự vật hiện tượng. Ông cho rằng, niềm tin và tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Nhiệm vụ của các nhà khoa học là hiểu được tôn giáo và hướng các hoạt động tôn giáo vào việc cải cách xã hội.
Ông không theo tôn giáo nào nhưng rất tôn trọng các tôn giáo, ông coi tôn giáo như một công cụ quan trọng để quản lý xã hội.

Tín ngưỡng và khoa học như là hai mặt của đời sống PV: Trong câu chuyện lúc trước, ông có nhắc đến nhà văn Sơn Tùng. Tôi đã đọc một số tác phẩm của nhà văn, theo tôi, đôi lúc ông ta tuyệt đối hóa nhân vật của mình quá.

NTB: Trong hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo trên thế giới này người ta vẫn có khuynh hướng tuyệt đối hóa chúa của họ. Trong hơn một tỷ người Hồi giáo ở trên thế giới này, người ta cũng có khuynh hướng tuyệt đối hóa thánh Allah và nhà tiên tri Mohamed. Trong hàng tỷ người theo đạo Phật, tôi chưa thấy ai nói xấu Thích Ca và Quan thế âm Bồ tát cả. Chúng ta phải tôn trọng sự nguyên vẹn của đời sống tâm hồn con người, đừng bao giờ phê phán nhược điểm của tâm hồn con người.
PV: Theo tôi, có hai vấn đề là tín ngưỡng và khoa học, nhưng cái cách mà nhà văn Sơn Tùng thể hiện là cách tín ngưỡng chứ không phải là cách khoa học.
NTB: Cái gì đảm bảo với anh là tín ngưỡng thì kém khoa học? Vì chúng ta sùng bái khoa học cho nên lương tri của những kẻ tham nhũng chết, mà những khuyết tật của họ phải được phát hiện bằng lương tri chứ không phải bằng khoa học. Nếu dùng khoa học để phát hiện những chuyện như vậy thì sẽ rất tốn kém, có thể tốn một số tiền nữa bằng số tiền họ ăn cắp, nhưng nếu bằng lương tri thì chẳng mất xu nào. Ngay cả những người phê phán chủ nghĩa Marx tương đối công khai cũng nhiễm cái bệnh sùng bái khoa học và phép biện chứng một cách thái quá. Phê phán phương pháp luận cần phải biết cân đối, phải biết dừng đến đâu. Khoa học phải biết nhường chỗ cho tâm linh tới đâu thì vừa.
Trong triển lãm EXPO 85 tại Tokyo, một nhà khoa học đồng thời là một ông chủ hãng đồ sứ lớn nhất của Nhật Bản có nói một câu mà tôi vẫn còn nhớ: "Nếu sang thế kỷ XXI mà khoa học không tiếp cận được với tâm linh thì khoa học không còn lối thoát để phát triển". Tại sao lại như vậy? Bởi vì khoa học càng ngày càng phức tạp, để thể nghiệm, để có được các nguyên lý hay các kết luận khoa học thì con người mất rất nhiều thời gian và tiền bạc. Chúng ta đang sống trong thời đại mà tôi gọi là hiện tượng bão hòa thông tin nên con người linh cảm thấy lẽ phải, xấp xỉ được lẽ phải hơn là nhặt được lẽ phải một cách vật lý. Và vấn đề không phải lẽ phải chúng ta nói giữa những người trí thức với nhau, mà chúng ta phải mách bảo nhân dân chúng ta, những người không được trang bị bởi chủ nghĩa Marx, Hegel hay Kant... Chúng ta phải mách bảo cho những người bình thường cách để họ đi đến lẽ phải phù hợp với năng lực của họ.

Hãy để cho mỗi người tự cảm nhận được chân lý PV: Có người cho rằng Marx đã bắt mạch được các bệnh của chủ nghĩa tư bản, nhưng bốc thuốc thì ông ta sai. Marx tin tưởng tuyệt đối vào giai cấp vô sản, cho rằng chỉ có giai cấp này mới có khả năng cầm quyền, chỉ có giai cấp này nắm quyền lực, chỉ có giai cấp này mới tồn tại mãi mãi với sự phát triển. Điều đó là không đúng. Độc tài sẽ sinh ra bệnh tật. Những thói hư tật xấu bộc lộ phát sinh mà không bị giám sát. Hay lý luận về bạo lực cách mạng của Lenin là những cái mà xã hội hiện đại không thể chấp nhận được. Nhận định về lịch sử xã hội loài người chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp cũng vậy. Tại sao chúng ta lại sùng tín một học thuyết như thế?
NTB: Tôi nghĩ rằng chúng ta không nhất thiết phải nói với những người cộng sản Việt Nam về những chuyện như thế. Cuộc đời là người thầy vĩ đại cho tất cả mọi người. Họ sẽ học lấy thôi. Không nên kích động vào sự tự ái cá nhân để làm hỏng quy luật phát triển tự nhiên của nhận thức. Hãy để cho mọi người tự nhận thức bằng kinh nghiệm thật trong cuộc sống. Chúng ta cứ nói mà không hướng lời nói của mình vào ai cả, đó là cách của tôi. Tôi chưa bao giờ hướng sự phê phán của tôi vào ai cả, kể cả vào nhà nước. Tôi có thể nói to một chút những điều mình nghĩ, nhưng tôi không muốn ai học mình cả, chỉ muốn họ nghe thấy mà thôi.
Cái vụng dại lớn nhất của một con người chính là biến những người khác thành học trò của mình. Cần phải biến những con người cần phải thức tỉnh trở thành người nghe thấy tiếng nói của mình chứ không phải là học trò của mình. Khi người ta ý thức được họ không phải là học trò của ai cả thì chân lý trở thành sở hữu của riêng họ, bởi vì họ phát hiện ra. Còn nếu chúng ta bắt họ học điều mà chúng ta muốn thì có nghĩa là chúng ta bắt họ trở thành học trò của mình.

Học trò thường dễ bất mãn với thầy. Nghiên cứu phân tâm học chúng ta sẽ thấy điều ấy. Cho nên mới có khẩu hiệu đòi hỏi phải kính trọng thầy. Đây là một trong những kinh nghiệm quan trọng nhất trong hoạt động truyền thông bây giờ, tức là chúng ta không được hướng việc giáo dục chân lý vào bất kỳ ai. Chúng ta thả chân lý và chiếu sáng vào nó nhưng không nhằm cho ai xem cả. Những người thông thái, những người cần thiết họ sẽ tự nhìn thấy, họ bỏ chân lý vào túi và chân lý trở thành sở hữu của họ. Họ sẽ bảo vệ chân lý như là sở hữu của họ, chứ họ không bảo vệ chân lý nếu chân lý là của tôi hoặc của anh. "Theo tay ta chỉ thì ngươi sẽ thấy trăng, theo lời ta nói thì ngươi sẽ thấy đạo, nhưng tay ta không phải là trăng, lời ta không phải là đạo". Đấy là lời của Lão Tử. Đấy là một trong những nguyên lý ứng xử quan trọng nhất.

Tôi tôn trọng tất cả các tôn giáo PV: Tôi có một đồng nghiệp theo đạo Thiên Chúa. Do anh ta mà tôi có dịp tìm hiểu về Công giáo. Có thể nói rằng, đó thực sự là một văn hóa, không phải ngẫu nhiên mà nó tồn tại hơn 2000 năm nay và có khoảng hơn 1 tỷ tín đồ. Đạo Thiên Chúa dạy con người nhiều thứ rất hay. Hôm nay lại nghe ông nói triết lý của Lão Tử, từ những triết lý này, tôi thấy cần phải có sự điều chỉnh lại cách tư duy về tôn giáo.
 
NTB: Sai lầm của chúng ta là chúng ta định thay thế niềm tin vào tôn giáo bằng niềm tin vào đảng cộng sản, thay thế Chúa bằng Marx. Nhưng Marx là một con người, Lenin là một con người, ông Tổng bí thư là một con người, ông bí thư chi bộ là một con người, còn Chúa là sản phẩm của con người chứ không phải là con người. Chúa là một sản phẩm của sự tưởng tượng về sự thánh thiện của con người, và do đó Chúa không có kẻ thù, Chúa không có kẻ đối kháng, không có kẻ dèm pha, vì Chúa không có thật về mặt vật lý, Chúa chỉ có thật về mặt tinh thần. Nếu chúng ta thay thế những giá trị chỉ có thật về mặt tinh thần bằng những giá trị có thật về mặt vật chất, thì ngay cả thánh thiện như Hồ Chí Minh người ta cũng có thể công kích được.
Lợi dụng tôn giáo cho những mục đích chính trị là một hiện tượng có thật xảy ra đối với bất kỳ tôn giáo nào. Trong thời đại hiện nay, đạo Hồi đang bị chính trị hóa một cách rất nghiêm trọng. Chúng ta cần đấu tranh với hiện tượng chính trị hóa tôn giáo chứ không đấu tranh với tôn giáo, và cần phải làm thế nào để người ta phân biệt được chính phủ chúng ta đang đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị hóa tôn giáo chứ không phải đấu tranh với các tôn giáo. Đấy là những vấn đề chính trị cần phải nghiên cứu.

Chúng ta phải hợp tác với tôn giáo trong việc tổ chức và điều hành xã hội. Bởi vì tôn giáo là gì? Tôn giáo là tình yêu của con người đối với lý tưởng. Lý tưởng của mỗi con người khác nhau, chúng ta không thể nào biến lý tưởng chung thành lý tưởng riêng được, vì con người không có lý tưởng riêng thì con người không biết yêu lý tưởng chung. Nếu chúng ta đồng nhất giữa lý tưởng riêng và lý tưởng chung thì chúng ta vô tình tiêu diệt con người chứ không phải chúng ta hỗ trợ con người phát triển. Tôn giáo là một trong những yếu tố được gọi là lý tưởng cộng đồng. Từ lý tưởng cá nhân đến lý tưởng cộng đồng đến lý tưởng quốc gia là những trạng thái khác nhau của khái niệm được gọi là lý tưởng của con người. Nếu không nghiên cứu quy luật của sự phát triển của lý tưởng con người thì không lãnh đạo con người được. Cho nên chúng ta phải hợp tác với tôn giáo như là yếu tố được gọi là lý tưởng cộng đồng để khích lệ, để kêu gọi, để lôi kéo cộng đồng ấy hợp tác với chính phủ.

PV: Ông có theo Thiên Chúa giáo không?
NTB: Không, tôi không theo đạo nào cả, nhưng tôi yêu mến và kính trọng tất cả các tôn giáo, bởi vì tôi biết đó là lý tưởng tinh thần của các cộng đồng người. Tôi kể các anh nghe một câu chuyện khi ở bộ đội, lúc tôi mới 17 tuổi. Đơn vị tôi đóng quân ở gần một nhà thờ. Một hôm, tôi tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng của tôi vào trong nhà thờ. Bộ đội thì bao giờ cũng phải đội mũ nhưng khi bước vào nhà thờ, tôi bỏ mũ ra. Ông thầy tu thấy tôi bỏ mũ thì rất thích. Ông ta bảo tôi là "Anh có quỳ được không?" Tôi không nói gì nhưng tôi không quỳ. Khi ra ngồi uống nước với nhau tôi nói với ông ta là "Tôi không quỳ được bởi vì đây không phải là Chúa của tôi, đây là Chúa của bác, tôi kính trọng Chúa của bác, nhưng tôi không thể nhận Chúa của bác là Chúa của tôi được, như thế là không lễ độ". Tôi không thể đến nhà anh, vu vơ gọi bố anh là bố tôi được. Gọi bố anh là bố tôi là một sự sàm sỡ. Để gọi Jesus là Chúa của tôi thì tôi phải tham gia đủ nghi lễ mới được gọi. Tương tự như vậy, tôi không phải là đảng viên Đảng cộng sản mà tôi gọi ông Tổng bí thư là đồng chí, thì tức là tôi vô lễ.
PV: Ông đã bao giờ vào Đảng chưa?
NTB: Công ty này từ khi thành lập đã có chi bộ, tức là gần hai mươi năm rồi. Nhưng tôi không vào Đảng. Nếu tôi vào Đảng thì hoạt động kinh tế của tôi là bất hợp pháp, cho đến bây giờ vẫn bất hợp pháp.
PV: Nhưng có rất nhiều đáng viên vẫn làm kinh tế.
NTB: Tôi là luật sư. Tôi hành nghề luật. Tôi không thể làm cái gì trái với luật được. Nếu tôi là đảng viên thì tôi phải tuân thủ luật nội bộ của Đảng, tôi không làm kinh tế tư nhân. Còn nếu tôi đã làm kinh tế tư nhân, thì dứt khoát tôi không vào Đảng.
Tôi là người giữ gìn sự tự trọng của mình ngay cả đối với một tổ chức có sức mạnh như Đảng cộng sản, bởi vì nếu tôi không còn tự trọng nữa thì tôi vào đảng để làm gì? Vào đảng như những kẻ ở PMU18 thì vào làm gì? Tôi đi làm đàng hoàng, tôi vẫn có cuộc sống sung túc, giàu có. Tại sao tôi phải đi tìm cách sống trong sự ăn cắp, bằng sự ăn cắp, trên sự ăn cắp.

Tôi ý thức điều ấy và giữ gìn giá trị bản thân rất cẩn thận. Lúc đất nước chưa đổi mới, chưa mở cửa, tôi phải chấp nhận sự nghèo khổ. Tôi chấp nhận một cách kiên nhẫn. Khi mở cửa, khi không khí chính trị khác đi thì tôi biết tận dụng các cơ hội nó mang lại. Và tôi đã có cái tôi cần mà vẫn giữ được cái tôi có. Nghệ thuật sống của con người là giữ được cái mình có và có thêm cái mình cần. Nơi đấy không phải là nơi đánh đổi những phẩm giá của con người để lấy lợi ích. Khi đánh đổi phẩm giá của mình để lấy lợi ích thì người ta tưởng là có thêm nhưng thật ra là ”lỗ”, bởi vì kẻ hưởng những thành quả của sự có thêm đó trở thành kẻ không còn giá trị như ban đầu nữa.

PV: Nghĩa là ông sợ lỗ?
NTB: Không phải lỗ mà mất. Lỗ là cách diễn đạt bằng ngôn ngữ thông thường để mọi người dễ hiểu thôi. Nhưng mất phẩm chất là mất hết chứ không phải là lỗ nữa. Nếu bị lỗ thì cũng sẽ có lúc không lỗ, còn mất là không còn gì nữa. Đấy là trận lỗ chung cuộc của cuộc đời con người nếu người ta mất đi phẩm chất.
 
   

SUY TƯỞNG CÙNG NGUYỄN TRẦN BẠT
 Nguồn Vietnamnet .

VI- Nguồn gốc quyền lực và xã hội dân sự
Quyền lực được hình thành và sử dụng thế nào? Đâu là nguồn gốc của quyền lực đích thực? Thế nào là xã hội dân sự? Cách sử dụng quyền lực của nhà nước trong một xã hội dân sự. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của xã hội dân sự? Chúng ta hãy nghe Nguyễn Trần Bạt lý giải về những vấn đề trên.
Ông cho rằng, nền kinh tế thị trường là một cánh tay, một biểu hiện của xã hội dân sự. Đã thừa nhận cánh tay thì tất yếu sẽ phải thừa nhận con người, vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi.

Quy luật của sự hình thành quyền lực PV: Ở các nước phương Tây, nền dân chủ tạo ra áp lực đủ mạnh để có những thay đổi về quyền lực. Ông Thaksin, thủ tướng Thái Lan hiện nay đang đối mặt với những cuộc biểu tình của các phe đối lập đòi ông từ chức là một ví dụ. Với sức ép như vậy, bản lĩnh chính trị của Thaksin nâng lên và bất kỳ ai muốn lật đổ Thaksin thì cũng phải chứng minh bản lĩnh vượt trội của mình. Còn ở Việt Nam thì chưa có thủ lĩnh, chưa dám có những thay đổi như vậy.

NTB: Anh đang nói đến một nguyên lý rất quan trọng là quy luật của sự hình thành quyền lực. Trong suốt thế kỷ XX, độc lập dân tộc trở thành nguồn gốc quyền lực của các tổ chức chính trị. Trong nửa đầu của thế kỷ XX, cuộc kháng chiến chống Mỹ và thống nhất đất nước trở thành quyền lực của những người lãnh đạo. Khi chúng ta hoàn thành những việc đó rồi, chúng ta có rất ít thành công giống như thời kỳ chiến tranh, cho nên quyền lực của nhà nước rất khó thể hiện. Có thời kỳ chúng ta cũng làm, cũng cải tạo tư sản, cải cách ruộng đất... Tất nhiên bây giờ có thể mạnh dạn nói rằng những cái đó là sai, nhưng dù nó có sai đi chăng nữa thì nó cũng thể hiện quyền lực của nhà nước.
Còn bây giờ nhiều khi chúng ta không dám làm gì cả, bởi vì nhà nước không thể hiện quyền lực một cách thực sự. Tôi lấy ví dụ, việc Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến dám thách thức, đòi đối chất với Bộ trưởng của anh ta một cách công khai trước giới báo chí là một sự vô chính phủ. Không ở đâu trên thế giới mà thứ trưởng dám đòi đối chất với bộ trưởng. Chỉ nguyên một câu ấy thôi, nếu tôi là Thủ tướng, tôi sẽ bỏ tù anh ta vì vi phạm luật hành chính. Anh ta là phó của một thành viên nội các mà sao anh ta lại nói linh tinh như thế. Nếu các thành viên của nhà nước không được ràng buộc bởi bất kỳ luật gì, bất kỳ quy chế gì cả thì nhà nước đó sẽ hoạt động ra sao?

Khi tôi nói chuyện với một Thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, họ thường nói rằng những chính sách mà họ tuyên bố không phải là chính sách đối ngoại của Bộ Ngoại giao, mà là chính sách đối ngoại của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Người ta có kỷ luật nhà nước, người ta có kỷ luật chính phủ, người ta có kỷ luật chính trị như vậy đấy. Thể hiện như ở Bộ Giao thông vận tải là không có kỷ luật chính trị, không có kỷ luật hành chính hay nói cách khác là không có kỷ luật nhà nước. Tôi gọi đó là hiện tượng mất chính quyền ở Bộ Giao thông Vận tải chứ không phải chỉ là hiện tượng tê liệt đảng bộ.

Quay trở lại vấn đề đặt ra là, quyền lực tập trung như thế nào? Quyền lực tập trung vào tính hợp pháp của các hành vi của các chương trình chính trị. Các chương trình chính trị được hình thành bằng cách nào? Được hình thành bằng sự phê chuẩn của xã hội Một khi các chương trình chính trị chủ quan không tìm thấy sự ủng hộ của xã hội một cách rõ rệt và bằng các công cụ pháp chế rõ rệt thì các nhà hành pháp không có quyền lực rõ rệt. Cho nên, tất cả mọi người đều lúng túng còn ông Bộ trưởng thì nói "tôi xin nhận kỷ luật". Tại sao các bộ trưởng không đủ dũng khí để nói rằng "tôi xin từ chức"? Tại vì các bộ trưởng không có cơ sở gì để sống một cách hợp pháp sau khi từ chức cả, bởi chúng ta không có xã hội dân sự.

Hướng tới một xã hội dân sự PV: Cái xã hội dân sự mà ông vừa nói phải chăng là một môi trường thông thoáng cho mọi tầng lớp đều có thể phát huy được năng lực của mình ở bất kỳ thời điểm nào?

NTB: Đúng vậy! Tôi đã nói với nhiều nhà lãnh đạo là nếu không có xã hội dân sự thì nhà chính trị sau thời kỳ hoạt động nhà nước của mình sẽ trở về đâu? Phải có chỗ để quay về chứ. Nhưng ở Việt Nam hiện tại không có một xã hội dân sự đủ hợp pháp, không có một cơ sở nào đó để tạo ra nguồn sống cho quan chức khi mãn nhiệm. Họ không có chỗ để quay về. Gerhard Shroeder sau khi thôi làm thủ tướng Đức bây giờ làm cố vấn cho Ringier AG - Tập đoàn in ấn và truyền thông Thụy Sỹ (Ringier AG từng là khách hàng của chúng tôi). Phải tạo ra một xã hội để nhà chính trị quay trở về làm người bình thường.

Nhiều nhà lãnh đạo của chúng ta không hiểu, thậm chí đến mức không ủng hộ khái niệm xã hội dân sự, cho nên con người không còn cách nào khác là bám lấy nhà nước. Bám lấy nhà nước là con đường sống duy nhất bởi vì không có xã hội dân sự, không có chỗ hạ cánh, không có chỗ quay về cho các nhà chính trị. Trong tác phẩm "Chiến tranh và hòa bình", tôi nhớ đoạn tả về công tước Nikolai Bolkonski, bố của Andrei Bolkonski, khi trở về ông ta có một trang trại, có một xưởng cơ khí, ông ta làm thợ tiện, ông ta dạy con gái làm toán giải tích.... Chúng ta làm như thế nào để có một cuộc sống như thế? Nếu chúng ta chỉ nhận lương hưu không thôi thì đó không phải là xã hội dân sự. Nhận lương hưu từ quĩ phúc lợi xã hội do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý thì có nghĩa là chúng ta không có xã hội dân sự, đấy không phải là biểu hiện của xã hội dân sự.

Vấn đề đặt ra là những người cộng sản Việt Nam phải đưa ra một lộ trình xây dựng xã hội dân chủ của chúng ta. Cái đó làm hợp pháp hóa tất cả các lực lượng xã hội, kể cả lực lượng xã hội có chất lượng lãnh đạo quan trọng nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
 
Bởi vì nhiệm vụ dân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảm bảo chương trình chính trị được gọi là chương trình dân chủ hóa đi đến thành công. Nếu làm được như vậy thì không ai kêu ca về sự hợp pháp của quá trình cầm quyền của những người cộng sản Việt Nam nữa, bởi vì họ đang đi theo lộ trình của một quá trình rất tiến bộ, rất cần thiết đối với sự phát triển xã hội. Tôi cho rằng việc đầu tiên là những người lãnh đạo chúng ta phải đưa ra chương trình dân chủ hóa xã hội. Chúng ta phải hiểu dân chủ hóa là một việc rất khó, không phải như các ông chính trị gia salon cứ đòi thế này, thế khác. Đòi dân chủ cũng không có đâu bởi vì có cho dân chủ chúng ta cũng không biết sử dụng nó. Người Việt chưa biết cách tạo ra xã hội dân chủ. Cho nên, tổ chức và rèn luyện nền dân chủ là một công việc rất công phu mà tất cả mọi người phải tham gia vào.
Xã hội = Xã hội dân sự + Nhà nước PV: Ông có nói là hiện nay chúng ta chưa có xã hội dân sự và đấy cũng là cội nguồn của rất nhiều bế tắc. Theo ông, đâu là bản chất của xã hội dân sự? Điều kiện để Việt Nam trở thành xã hội dân sự là gì?
NTB: Tôn trọng các quyền cá nhân như những quyền để tổ chức cuộc sống, tôn trọng quyền tự quyết hay là quyền tự trị của các cộng đồng. Nhà nước phải điều phối các hoạt động xã hội, nhà nước không phải là người áp đặt lên trên các hoạt động xã hội. Xã hội = Xã hội dân sự + Nhà nước. Nếu không có xã hội dân sự thì Xã hội = Nhà nước. Ở chúng ta, Xã hội = Nhà nước, có nghĩa là tất cả mọi người đều hưởng lương nhà nước, không có biên chế nhà nước thì không lấy được vợ. Không ai thích gả con cho anh làm Hợp tác xã hay anh làm đồ nhựa. Nhà có 3 chàng rể, một anh phó tiến sĩ, một anh thứ trưởng và một anh lái xe. Đến ngày có giỗ thì anh thứ trưởng khệnh khạng đến, anh phó tiến sĩ thì nói những điều lảm nhảm, chỉ mỗi anh lái xe mang một con gà đến thôi. Nhưng anh lái xe vẫn phải cung kính thưa các ông em thứ trưởng và tiến sĩ, các ông em uống rượu đi, anh chỉ là thằng lái xe thôi. Đấy là nền văn hóa của chúng ta, nền văn hóa đó không có dấu hiệu dân sự nữa. Nền văn hóa mà người ta lấy tất cả những ưu thế trong hệ thống nhà nước làm thước đo của giá trị thì không còn đời sống dân sự. Như thế thì lấy đâu ra những vườn ươm, những yếu tố để làm thay đổi hệ thống hành chính. Chúng ta cứ tiếp tục lai tạo những quan chức nhà nước với nhau để tạo ra một đối tượng nhà nước thứ ba thì nhà nước sẽ trở thành thoái hóa. Vậy cái gì làm cho nhà nước không thoái hóa? Nguồn của việc phát triển các lực lượng phục vụ nhà nước là từ xã hội dân sự, nếu không lấy được từ xã hội dân sự những nguồn để thay thế các lực lượng phục vụ nhà nước thì nhà nước sẽ thoái hoá. Đầu tiên là thoái hóa về chính trị, sau đó là thoái hóa về trí tuệ và cuối cùng là thoái hóa về đạo đức. Chúng ta đang ở trong trạng thái thoái hóa về đạo đức.
PV: Có ý kiến cho rằng nhà nước chỉ là nơi cung cấp dịch vụ công. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
NTB: Trong quyển "Văn hóa và Con người", ở phần hai là phần "Văn hoá chính trị", tôi đã viết điều này. Đó là phải phân biệt trạng thái của nhà chính trị với địa vị của nhà chính trị và nhà chính trị hoạt động nhà nước. Ở đất nước của chúng ta, hễ là đồng chí, hễ là cán bộ thì phải là đảng viên, cán bộ luôn luôn gắn liền với đảng viên, cho nên các phát thanh viên trên đài truyền hình hay đọc là Đảng Nhà nước. Trước đây có chữ "và", nay không còn chữ "và" nữa, tức là họ thấy là thêm chữ "và" vào mất công, vì trên thực tế là nó can thiệp, nó đan xen vào nhau. Chính sự nhập nhằng như vậy mới tạo ra tình trạng tham nhũng như ở PMU18.
Chúng ta không có xã hội dân sự nên chúng ta có một lũ lưu manh đi theo để hộ tống một kẻ phạm tội. Đấy chính là trạng thái bất hợp pháp của xã hội dân sự. Xã hội dân sự là nhu cầu của đời sống, vì thế nên nó vẫn tồn tại, chỉ có điều là tồn tại bất hợp pháp. Trong sự tồn tại bất hợp pháp thì những kẻ liều lĩnh, những kẻ không coi pháp luật ra gì sẽ trở thành kẻ có sức mạnh, và khi lực lượng đen tối là những kẻ có sức mạnh trong xã hội dân sự thì chúng ta có một xã hội dân sự bất hợp pháp.

Tôi không thích bàn đến chuyện là Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền hay không độc quyền lãnh đạo. Không phải tôi sợ chuyện ấy nhưng tôi không muốn tranh luận, vì đây chưa phải là thời điểm tranh luận về vấn đề này. Nhưng điều tôi sẵn sàng tranh luận là có xã hội dân sự hay không có nó, và việc này phải làm ngay lập tức chứ không phải đợi đến đại hội XI. Nếu không ủng hộ và thừa nhận một cách công khai xã hội dân sự thì việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần trở nên vô lý. Vì bản chất của nền kinh tế nhiều thành phần là một mảng hoạt động của xã hội dân sự, anh không thừa nhận có con người mà anh lại thừa nhận có cái tay của nó, điều đó có vô lý không?

Nền kinh tế nhiều thành phần là cánh tay kinh tế của xã hội dân sự, nếu không thừa nhận xã hội dân sự thì giống như thừa nhận không có người mà lại có tay kinh tế. Vậy người ta sợ cái gì? Người ta sợ rằng một cánh tay kinh tế có thể tồn tại được nhưng nếu một cơ thể tồn tại được thì ngoài cánh tay kinh tế nó sẽ có cánh tay chính trị. Tôi nghĩ rằng sớm hay muộn cũng không trốn khỏi cánh tay chính trị được, và cách tay chính trị đã tồn tại rồi, nó cướp chính quyền ở PMU 18. Hiện tượng PMU 18 là hiện tượng các lực lượng đen tối của xã hội dân sự bất hợp pháp đang cướp chính quyền ở đấy. Lý do tại sao một thứ trưởng phạm tội không được công an hộ tống mà lại được một bọn lưu manh hộ tống đến cơ quan công an? Đấy là biểu hiện của mất chính quyền.