(Sưu tầm trên mạng)
1.- ĐOÀN THỊ ĐIỂM:
Bà Đoàn Thị Điểm sinh năm 1705, biệt hiệu là Hồng Hà Nữ
sĩ, quê ở làng Giai Phạm, sau đổi thành Hiến Phạm, huyện Văn Giang nay thuộc tỉnh
Hưng Yên. Nữ sĩ vốn gốc họ Lê, đến đời thân phụ mới đổi sang họ Đoàn.
Năm 1743, Bà kết hôn với Tiến sĩ Nguyễn Kiều, một người
góa vợ nhưng học rộng tài cao (18 tuổi đỗ Giải Nguyên, 21 tuổi đỗ Tiến sĩ). Cuộc
hôn nhân với Nguyễn Kiều đem lại cho nữ sĩ những ngày hạnh phúc, vợ chồng ý hợp
tâm đầu, thương yêu đằm thắm, Bà thường cùng ông xướng họa. Nhưng hạnh phúc lứa
đôi thật ngắn ngủi, cưới xong chưa đầy một tháng Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung
Quốc, nữ sĩ lại một mình “nuôi già, dạy trẻ” suốt 3 năm ròng. Năm 1745, Nguyễn
Kiều mới về nước, nhưng chỉ chưa đầy ba năm sau 1748, ông lại được cử làm Tham
thị ở Nghệ An. Trên đường cùng chồng đến nhiệm Sở, Bà bị cảm nặng, chạy chữa
không khỏi, Bà mất ngày 11/9 âm lịch năm 1748 tại Nghệ An. Phần mộ của Bà hiện
nay an táng tại phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội.
2. Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương tên thật là Hồ Phi Mai
(1772-1822),sinh tại Bắc Ninh. Hồ Phi Mai nghiã là Hoa mai bay trên hồ, bút
hiệu Xuân Hương, lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, bà rời làng Khán Xuân
theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian sau đó ở nhà
giúp việc. Xuân Hương tự học thêm, nhờ thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng
lẫy. Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hòa, ở làng Tứ Xã (huyện Phong Châu, Vĩnh
Phú), khi bé tên Cóc, sau nầy HXH gởi
bài thơ „Khóc Tổng Cóc“ nên từ đó dân làng gọi ông là Tổng Cóc. Chuyện tình của
bà với Tổng Cóc trở thành giai thoại, Tổng
Cóc đã lập gia đình nhưng là người có tiếng ăn chơi, tính tình nghệ sĩ thích
văn thơ cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Xuân Hương bị vợ lớn ghen tương, gia
đình chồng đè nén vì thân phận làm thứ thiếp. Nên bà chán ngán cảnh chồng chung
bỏ nhà ra đi. Xuân
Hương gặp ông phủ Vĩnh Tường . Một lần nửa Xuân Hương lập gia đình với ông phủ
Vĩnh Tường cũng làm thứ thiếp, không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như
Hoạn thư. Thời gian sống
với ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú) ông Phủ xem nàng là bạn văn
chương. Nhưng số phận của Xuân Hương không được may mắn, cuộc tình ngắn ngủi
hơn 2 năm sau phải khóc chồng. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương có rất nhiều
nghi vấn, khó xác định cảnh đời từng trải của Xuân Hương. Các tài liệu dẫn chứng
Xuân Hương giao du rộng rãi với những danh sĩ như Phạm
Quí Thích (khắc và in thơ của Nguyễn Du), Nguyễn Huy Tự (Tác giả Hoa Tiên),
Nguyễn Du, Mai Sơn Phủ, Tốn Phong, Cư Ðình, Trần Quang Tĩnh, và Trần Phúc Hiển,
v.v. Học giả Hoàng Xuân Hãn dẫn
chứng bà có 3 đời chồng, người cuối cùng là Tham hiệp trấn Trần Phúc Hiến? Ngày
nay không thể tìm mộ của bà, tuy nhiên người ta dựng bia để tưởng niệm nữ sĩ
Xuân Hương
3.Sương Nguyệt Ánh
Sương
Nguyệt Anh (1 tháng 2 năm 1864 - 20 tháng 1 năm 1921) tên thật là Nguyễn Thị
Khuê (theo “Nguyễn chi thế phổ”) tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc
Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu
khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh...Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu
tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ giới chung do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của
phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn Sương Nguyệt Anh sinh tại xã An Đức, huyện Ba
Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ tư (tuy nhiên trong gia tộc thường gọi bà
là Năm Hạnh) của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng
Thanh Ba thuộc huyện Cần Giuộc. Thuở nhỏ, bà cùng người chị tên là Nguyễn Thị
Xuyến, được cha (Đồ Chiểu) truyền dạy nên giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi cả
hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều
Năm 1888, Sương nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường đến hỏi
bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại...Để tránh
tai họa, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ
Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết
duyên với một phó tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính sinh được một gái tên
là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi, thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết
nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho
4. Nhà thơ ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN

Sinh năm 1953, tại Hưng Yên
Sinh năm 1953, tại Hưng Yên
Hôn nhân không thuận buồm xuôi gió, triền miên
những tháng năm “một mình”, Đoàn Thị Lam Luyến cười, ví von chua chát: “Số tôi
là số bã trầu”. Tự nhận mình là người duy tình, duy cảm nhưng đi quá nửa đời người,
tác giả của “Lỡ một thì con gái” mới giật mình nhận ra: “Tôi chưa từng tận hưởng
tình yêu”. Kỷ niệm tình đầu của chị có nhuốm màu “bã trầu” không? 17 tuổi, tôi
trao tình đầu cho chàng nhạc công 27 tuổi, người dân tộc Thái. Tôi đã làm bài
thơ 100 dòng để tả cái đêm được chàng “tháp tùng” đi vay gạo, hồi còn học ở Trường
Văn hóa Nghệ thuật Tây Bắc. Cuộc tình ấy chưa tiến xa hơn một cái hôn duy nhất
và “chết yểu” sau 10 ngày, khi tôi phát hiện ra lá thư của chàng gửi người con
gái khác, với những lời âu yếm: “Gửi hoa biển thân yêu”. Vì sao chị gửi gắm
tình đầu vào một chàng trai người Thái? Vì chàng đẹp trai? Tôi không dám yêu người
đàn ông đẹp hơn mình, vì mặc cảm tự ti. Tôi yêu anh ấy vì anh ấy là người dân tộc
Thái. Trường Văn hóa Nghệ thuật Tây Bắc mà tôi học khi đó, đa phần là con em
dân tộc thiểu số, nhiều nhất là dân tộc Thái. Tôi ngưỡng mộ lối sống, lối yêu của
họ. Truyện thơ khuyết danh của người Thái Tiễn dặn người yêu tác động sâu sắc tới
tôi. Người đàn ông trong Tiễn dặn người yêu là mẫu hình tôi đi tìm. Tôi đã đến
với chàng nhạc công người Thái bằng tình yêu không tính toán, không đòi đáp đền
“Như một cánh buồm xinh - Hiến mình ra biển rộng”. Đổ vỡ trong tình đầu đã để lại
dấu ấn thế nào trong thơ của chị? Bài thơ quen thuộc với nhiều độc giả Gửi tình
yêu, đã được nhạc sỹ Thuận Yến phổ nhạc, tôi viết bằng sự góp nhặt của nhiều nỗi
đau, trong đó có nỗi đau tình đầu: “Ta trao cả cho anh- Một con tim dào dạt- Và
anh trả cho ta-Nỗi buồn đau tan nát!- Ta muốn ôm cả đất- Ta muốn ôm cả trời- Mà
sao không yêu trọn- Trái tim một con người”. Sau lần vấp ngã, chị có còn yêu
văn hoá Thái? Đến nay tôi vẫn đắp chăn Thái, nằm đệm Thái. Người bạn gái thân
nhất của tôi mấy chục năm nay cũng là người Thái. Nghe nói chị lên xe hoa rất sớm?
Người đàn ông nào khiến “nàng thơ” tự nguyện “đeo gông vào cổ”? 20 tuổi tôi lập
gia đình. Người ấy không đẹp nhưng kho trí tuệ dồi dào, nhiệt tình theo đuổi
tôi và cũng hơn tôi gần chục tuổi. Chị đã đặt cuộc đời vào một người đàn ông lớn
tuổi lại yêu mình. Theo lẽ thường, hôn nhân sẽ bền vững. Nhưng “con thuyền” của
chị lại không cập bến bình an, vì sao? “Gái ham tài” chưa hẳn đã hay. Khi sống
chung tôi mới biết anh và tôi không hòa hợp. Đã có lúc tôi định chối bỏ cuộc đời
nhưng đâu có dễ. 9, 10 năm tôi đánh vật với tình yêu, để rồi trở về con số
không tròn trĩnh... Còn số phận cuộc hôn nhân thứ hai của chị? Sau ly hôn tôi sống
độc thân 10 năm rồi tái hôn. Và cuộc hôn nhân thứ hai chỉ tồn tại 10 tháng. Thất
bại trong tình yêu, hôn nhân hình như khiến chị kém tin tưởng ở đàn ông? Bởi
trong một bài thơ chị đã viết về họ thế này: “Nơi nào anh cũng dễ say- Nơi nào
cũng sẵn vòng tay hẹn hò”. Không phải tôi kém tin tưởng mà chẳng qua đó là thuộc
tính của đàn ông. Thuộc tính ấy nói dễ thương cũng được mà dễ ghét cũng được.
Tôi thấm thía câu danh ngôn: “Đàn ông chỉ ra đi vì tiêu khiển, trở lại vì hạnh
phúc”. Có lời xì xèo: Lam Luyến coi thường đàn ông. Chị nghĩ sao? Vài người nhận
xét như thế khi đọc Chồng chị, chồng em của tôi: “Chị thản nhiên mối tình đầu-
Thản nhiên em nhận bã trầu về têm”. Tôi trân trọng đàn ông đấy chứ. Có trân trọng
mới không nề hà chuyện mình là người đến sau. Tôi không có ý ví đàn ông là “bã
trầu” như ai đó lầm tưởng. Đã nếm đủ đắng cay, chị rút ra bài học gì cho bản
thân? Thập niên 60, tôi bước vào tuổi thiếu nữ. Hồi ấy, xã hội sống lý tưởng,
sách dịch ít nhưng cẩn trọng, tư tưởng lành mạnh. Tôi mê đọc sách và tin sách.
Quan niệm tình yêu của tôi cũng được xây dựng từ sách vở. Tôi không tìm được lối
đến với tình yêu vì mang trên người quá nhiều luận thuyết. Trong một bài thơ
tôi đã viết: “Cứ giận những người làm thơ- Viết về tình yêu quá đẹp- Cho em tìm
mãi đến giờ- Thấy đâu trong gian đời hẹp?”. Chị tốt nghiệp trường ĐH Mỹ thuật
Công nghiệp. Vậy hội họa ảnh hưởng thế nào đến tình duyên lận đận của chị? Tôi
không phải nhà sáng tác tranh tốt, nhưng biết nhìn ra cái đẹp trong hội hoạ. Bi
kịch tình yêu của tôi cũng một phần ảnh hưởng từ hội họa. Tôi đặt tình yêu
trong một tương quan đắt. Mãi sau này tôi có dịp gặp lại người yêu đầu tiên.
Tôi đã mời anh về nhà, hai người uống hết chai rượu 65ml, say ngà ngà, nhưng cả
khi đó tôi vẫn giữ mình, dù hoàn cảnh để chúng tôi đến với nhau rất thuận lợi,
tôi đã ly hôn, còn anh xa vợ. Tôi hành động như vậy vì muốn giữ mối tình ấy như
một tài sản, đặt nó ở một vị trí cao trong trái tim. Trong thơ chị rất phá
phách. Còn ngoài đời? Vì ngoài đời tôi không dám phá phách nên mới phá phách
trong thơ. Tôi quan niệm yêu đương theo lối truyền thống: Chỉ là của nhau khi
đã thành vợ chồng. Đến bây giờ chị có còn giữ được ngọn lửa đam mê như trong
“Huyền thoại”: “Giá được anh hẹn hò dù phải chờ lâu đến mấy- Em sẽ chờ như thể
một tình yêu...”? Tôi sống độc thân 15 năm nay, đã quen rồi. Bây giờ nếu tái
hôn nữa chắc tôi lóng ngóng với đời sống vợ chồng lắm. Tôi có tật cứ xem phim
hay lại khóc, chẳng biết có người đàn ông nào chấp nhận được không? Trái tim
tôi không tỷ lệ thuận cùng thời gian, còn thân xác lại chạy theo năm tháng, mà
tôi lại luôn bị cái đẹp hội họa chi phối, đặt tình yêu trong một tương quan đắt.
Thế nên, thà chấp nhận “một mình”.
Hồng Diệu
------------
Xem thêm: Đoàn Thị Lam Luyến: Chưa từng tận hưởng tình yêu - Tin van hoa, http://vietbao.vn/Van-hoa/Doan-Thi-Lam-Luyen-Chua-tung-tan-huong-tinh-yeu/70031606/181/
Tin nhanh Việt Nam ra thế giới vietbao.vn
Hồng Diệu
------------
Xem thêm: Đoàn Thị Lam Luyến: Chưa từng tận hưởng tình yêu - Tin van hoa, http://vietbao.vn/Van-hoa/Doan-Thi-Lam-Luyen-Chua-tung-tan-huong-tinh-yeu/70031606/181/
Tin nhanh Việt Nam ra thế giới vietbao.vn