LÀ VẬY
Thời gian vun vút lướt qua đầu
Những cuộc chia li, những thảm sầu
Chẳng biết một ngày, bao trí tuệ
Theo nhau chui tuột xuống mồ sâu
Bao nhiêu kinh nghiệm trần gian
Không truyền lại được đều mang xuống mồ.
(kha duy-một chút riêng tư )
(kha duy-một chút riêng tư )
Thứ Bảy, ngày 07 tháng 3 năm 2015
QUÁCH THỊ HỒ - SÊNH PHÁCH GIỌNG SẦU GỬI BÓNG MÂY
Quách Thị Hồ
-Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây
Nguyễn Xuân Diện
Tiếng
hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga,
lộng lẫy, mà mỗi tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng
chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài ấy. Tiếng hát ấy
vừa cao sang bác học, vừa mê hoặc ám ảnh, diễn tả ở mức tuyệt đỉnh
nhất các ý tứ của các văn nhân thi sĩ gửi gắm trong các bài thơ.
Có
một thời gian rất dài ca trù không được quan tâm. Có lẽ từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, cùng với những tàn dư xấu xa của chế độ phong
kiến, sinh hoạt cô đầu, hay hát ả đào, vốn đã có tiếng rất xấu từ đầu
thế kỷ, cũng bị quét đi, không thương tiếc. Các cô đào, dù hát còn hay,
dù còn thanh sắc cũng giấu kỹ phách, các kép hát thì gác đàn lên xà
nhà, giấu đi cái hành trạng một thời làm nghề hát xướng của mình để
nhập vào cuộc sống mới. Không ai dám hát, không ai dám đàn, không ai dám
nhận mình là cô đầu nữa. Con cái các đào kép một thời lững lẫy bỗng
đâm ra xa lánh, sợ sệt cha mẹ mình. Tiếng xấu sinh hoạt ả đào trùm lên
cả xã hội. Nhắc đến cô đầu người ta sợ. Nhắc đến hát ả đào, người ta
nghĩ đến một thú ăn chơi làm cho người ta khuynh gia bại sản, có hại
cho phong hoá và luân lý. Người ta cho cô đầu là cái người: “Lấy khách -
khách bỏ về Tàu, lấy nhà giàu - nhà giàu hết của”.
Mà
cũng có chỗ không oan. Với vẻ thanh thoát của vóc dáng của những người
không phải chịu cảnh chân lấm tay bùn, các cô lại khéo ăn nói, do được
tiếp xúc toàn với văn nhân nho sĩ, nên nhiều người đã bị các cô làm
cho mê mẩn. Có người phải bán ruộng, bán nhà; có kẻ phải giấu lương
tháng, lừa dối vợ con để lấy tiền đi hát. Nhà hát lại là nơi hấp dẫn
nhất trần đời: nào các cô hát hay, nào các cô tiếp rượu khéo, nào các cô
đấm bóp ấm êm. Biết bao cảnh đánh ghen tầy trời nơi các ca quán. Biết
bao đôi vợ chồng phải ly biệt, tan cửa nát nhà vì cô đầu. Tiếng xấu ấy,
trăm năm còn in vết.
Các
người ca thưở trước đều tìm một nghề khác kiếm sống, giấu biệt cái
nghề ca hát của mình đi. Có đào nương phải kiếm một gánh nước chè độ
nhật cho đến tận lúc cuối đời. Nhiều đào nương lần hồi kiếm các công
việc để độ nhật, và giấu biệt đi cái nghề ca hát của mình, cho dù nó đã
từng đem lại ít nhiều vinh quang cho bà trong thời trẻ trung. Có đào
nương trở về với công việc đồng áng, cố che lấp đi cái nghề ca hát của
mình. Gặp lại các bà để hỏi về ca trù, các bà còn run sợ, các bà không
dám nói. Mặc dù thưở trước Tổ đã cho các bà ăn lộc, cho các bà những hào
quang, nhưng nay thì các bà dứt khoát dứt ra khỏi cái liên hệ này. Tìm
gặp các bà, có cảm giác như họ đang ôm trong mình một khối u lớn. Có
bà trả lời giằn dỗi, như hắt nước lạnh vào người đang hỏi chuyện. Lâu
dần trong số họ trở nên kiêu ngạo, cao đạo, nào tránh gặp báo chí, nào
tránh gặp truyền hình, nào tránh các cuộc giao lưu. Không ai dám đến
gần khiến cho người đào nương già nua lại trở nên cô độc, thù ghét xung
quanh, khinh ngạo mọi người trong và ngoài nghề.
Trong
hoàn cảnh ấy, chỉ có một người phụ nữ, người mà nét tài hoa và đa tình
còn in trên khuôn mặt đã nhăn nheo, mà nét kiêu sa lừng lẫy chốn ca
trường còn trong từng âm thanh giọng nói - vâng chỉ có người ấy là dám
nhận mình là một ả đào, như bà đã từng nói là bà dám đeo cái biển trước
ngực “Tôi là ả đào”. Bà kể rằng: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa
nói thẳng vào mặt tôi rằng: "Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn
thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở".
Lúc đó tôi cười: "Rồi xem, hoa có nở không?".(Báo Lao Động chủ nhật, số
40, ngày 20.10.1991, tr.5). Đấy, thái độ của bà rõ ràng và tự tin như
vậy! Vâng, cả cuộc đời của bà lúc nào cũng một niềm thuỷ chung với nghề
tổ. Bà được Tổ cho ăn lộc, đem cho bà vinh quang và cả đắng cay nữa. Bà
dám sống cho nghề tổ, chịu vinh, chịu nhục vì nghề. Khi bà ba mươi
tuổi, đang lừng lẫy chốn ca trường, thi sĩ Trần Huyền Trân viết tặng bà
bài thơ Sầu chung. Một bài thơ mà từng chữ, từng lời hiểu bà từ gan
ruột. Bà là Quách Thị Hồ nghệ sĩ lớn nhất của ngành ca trù trong thế kỷ
XX.
![]() |
Giáo sư Trần Văn Khê thăm Bà Quách Thị Hồ |
![]() |
Bà Quách Thị Hồ và khách tri âm: Nhà thơ Ngô Linh Ngọc |
Cho đến một hôm, GS Trần Văn Khê, từ Pháp trở về. Ông ghi âm tiếng hát của bà để đem đi giới thiệu với thế giới.
Năm
1978, Hội đồng Âm nhạc Quốc tế của UNESCO và Viện Nghiên cứu Quốc tế
về Âm nhạc So sánh đã trao bằng danh dự cho bà vì bà có công lao đặc
biệt trong việc bảo tồn một bộ môn nghệ thuật truyền thống có giá trị
văn hóa và nghệ thuật cao. Và từ đó tên tuổi của bà cùng tiếng hát ca
trù độc đáo của Việt Nam trở nên vang lừng trong bốn biển. Năm 1988, tại
Liên hoan quốc tế Âm nhạc truyền thống tại Bình Nhưỡng, có sự tham gia
của 29 quốc gia, băng ghi âm tiếng hát của Quách Thị Hồ, đại diện cho
Việt Nam được xếp hạng cao nhất.
![]() |
Hai Nghệ sỹ Ca trù: Quách Thị Hồ và Nguyễn Thị Phúc (1952). Ảnh: TL |
Bà
được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Và cho đến hôm
nay, bà là người đầu tiên và duy nhất được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ
nhân dân ngành ca trù. Sau bà, không còn ai được phong Nghệ sĩ Nhân
Dân về ca trù nữa. Và bà thật xứng đáng với danh hiệu này. Tiếng hát ca
trù độc đáo, lạ lùng và đầy sức hấp dẫn của Quách Thị Hồ đã vang lên,
đại diện cho Việt Nam, làm rạng rỡ cho âm nhạc và văn hoá Việt Nam.
Sau
đó, Đài Tiếng nói Việt Nam mới ghi âm tiếng hát của bà, phát trong các
chương trình ca nhạc cổ truyền. Năm 1984, Trung tâm Nghe Nhìn (nay là
Hãng Phim Truyền hình) tổ chức làm phim “Nghệ thuật ca trù” (Kịch bản
và đạo diễn Ngô Đặng Tuất) tại Lỗ Khê. Đây cũng là dịp tập trung nhiều
nhất các danh ca, danh cầm nổi tiếng trong giới ca trù như: Quách Thị
Hồ, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Hào, Chu Văn Du, Nguyễn Thế Tuất, Phó
Đình Kỳ, Đinh Khắc Ban, Phó Thị Kim Đức, Nguyễn Thị Mùi. Nhà nghiên cứu
Ngô Linh Ngọc dẫn chương trình và đọc lời bình cho toàn phim. Năm
1980, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội tổ chức biên soạn cuốn sách Hát Cửa
đình Lỗ Khê, được dư luận đánh giá tốt.
Nghệ
sĩ Quách Thị Hồ tạ thế lúc 3h 45 phút, ngày 4 tháng Giêng năm 2001,
tức ngày 10 tháng Chạp năm Canh Thìn. Thọ 92 tuổi. Trong sổ tang tôi đã viết: “Nghệ sĩ Quách Thị Hồ ra đi có
mang theo tất cả những gì là cao quý, sang trọng và bác học của nghệ
thuật ca trù trong thế kỷ XX”.
Nghĩ
đến hôm bà mất, càng thấy thương bà, khi mất, không có đất chôn. Con
cháu phải mua một mảnh đất mấy mét vuông bên Gia Thuỵ để làm nơi yên
nghỉ cho bà. Ba thước đất đã vùi sâu một nghệ sĩ tài hoa, sống đã làm
vẻ vang cho ca trù, danh thơm bốn bể, cùng với cả trăm cay nghìn đắng,
mà vẫn sáng ngời lòng thuỷ chung với Tổ với nghề. Nay bà khuất nẻo suối
vàng, nhưng tiếng hát của bà còn vang mãi, với non sông này, với nghệ
thuật này.
N.X.D
_____________
_____________
Đọc thêm:
Bà Quách Thị Hồ: Người ta đã vục mặt chúng tôi xuống bùn
Quách Thị Hồ: Này, cậu hỏi tôi sao không truyền nghề ca trù à? Ai mà học?
•Thưa bà, có một số ca sĩ nói rằng họ là học trò của bà.
Quách Thị Hồ: Tôi muốn họ quên tôi đi. Xấu hổ lắm! Bởi mấy anh chị ấy đến tôi chỉ xin học vẹt, học lỏm từng bài, để mà đi khoe, đi diễn, rằng ta hát ca trù, chứ có ai muốn học nghề, học đến nơi đến chốn đâu? Mà học làm gì?
Bà Quách Thị Hồ dựng đứng lưng song song với thanh tựa, miệng khép lại như để dấu biến những ngôn từ lệch đang ùn ứ bên trong. Bà chẳng khóc. Dễ gì mà lấy được nước mắt của bà?
Quách Thị Hồ: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở”. Lúc đó tôi chỉ cười: “Rồi xem, hoa có nở không?".
Quách Thị Hồ: Người ta đã vục mặt chúng tôi xuống bùn.
•Tại sao vậy, thưa bà?
Quách Thị Hồ: Có lẽ người ta hiểu lầm hát ca trù - cô đầu - ả đào ở Khâm Thiên, ở Vạn Thái, ở Bạch Mai là loại “hát ôm”, đĩ điếm và họ thấy quan lại thường đến ăn chơi ở đó nên cho là văn hóa… đồi trụy.
Lưu Trọng Văn
Nguồn: Báo Lao Động Chủ nhật, số 40, ngày 20.10.1991, tr.5.
-----------------------------------------------
Thơ Trần Huyền Trân :
SẦU CHUNG*
(tặng Quách Thị Hồ)
Tự cổ sầu chung kiếp xướng ca
Mênh mang trời đất vẫn không nhà
Người ơi ! Mưa đấy hay xênh phách
Tay yếu gieo lòng xuống chiếu hoa
Đời bảo nơi đây cõi mộng hờ
Lòng ai sa mạc chả mong mưa
Canh tàn rũ áo còn lau mắt
Bụi đã vương đầy nghĩa tóc tơ
Thôi khóc chi ai sống đọa đày
Tỳ bà tâm sự rót nhau say
Thơ tôi gửi tặng người ngâm nhé
Cho vút giọng sầu tan bóng mây.
Khâm Thiên, 1942
-----------------------
* Trong tập RAU TẦN nhà xuất bản văn học, hanoi , 1986
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét