12 tháng 11, 2018

Nghiên Cứu Lịch Sử 

Chế độ sở hữu toàn dân và vấn đề sở hữu đất đai

Luật sư Nguyễn Tiến Lập
Trong suốt thời gian qua, bất chấp mọi cố gắng của các nhà làm luật, các vấn đề cơ bản liên quan đến sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước vẫn chưa được giải quyết. Vấn đề sở hữu vốn thuộc một trong những phạm trù “cổ điển” của khoa học pháp lý và phạm trù “sơ đẳng” của một hệ thống pháp luật. Do đó, hầu như không có khó khăn gì để minh định nó. Nguyên nhân có thể có nhiều, nhưng theo chúng tôi, phần quan trọng nằm ở các “rào cản” mà các nhà làm luật chưa thể vượt qua cả về tâm lý chính trị và nhận thức chính trị.
Ở khía cạnh pháp lý, “sở hữu” luôn luôn là vấn đề nền tảng của cả pháp luật kinh tế lẫn pháp luật dân sự. Hơn một nửa thế kỷ qua, việc xây dựng pháp luật ở nước ta đều đã xoay quanh khái niệm này, và trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản và nổi bật. Đó là thông qua các Hiến pháp từ 1946, 1959, 1980 và 1992 và các đạo luật đơn lẻ khác, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 1995 như một đỉnh cao, sau đó sửa đổi năm 2005,  Nhà nước ta đã khẳng định và sáng tạo ra các chế định liên quan đến chế độ và hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của chủ sở hữu, các chế định kề cận v.v..
Tuy nhiên, có một thực tế là cho tới hiện nay, vẫn tồn tại hai cách tiếp cận với vấn đề sở hữu  khác nhau, thậm chí chồng chéo và lẫn lộn. Đó là tiếp cận chính trị và tiếp cận pháp lý.
Nhấn mạnh cách “tiếp cận chính trị”, chúng ta luôn luôn tìm cách phân định và phân biệt giữa chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa (với nền tảng là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa (mà nòng cốt là sở hữu tư nhân).  Trong khi đó, cách tiếp cận pháp lý đòi hỏi phải xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ sở hữu và các đối tượng liên quan trong các giao dịch liên quan đến sở hữu theo  “hình thức sở hữu”, vốn đa dạng, phong phú và đậm màu sắc thực tiễn hơn “chế độ sở hữu”.
Cụ thể, Hiến pháp 1992 quy định ba chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Đồng thời, Hiến pháp cũng xác định các đối tượng quan trọng thuộc sở hữu toàn dân, trong đó bao gồm đất đai và “phần vốn và tài sản Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp …”. Đến năm 2003, trong hai đạo luật quan trọng được Quốc hội thông qua là Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp nhà nước lại có hai quy định khác nhau liên quan đến hai đối tượng thuộc sở hữu toàn dân. Trong khi Luật Đất đai vẫn khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân còn Nhà nước là “đại diện chủ sử hữu toàn dân”, thì Luật Doanh nghiệp nhà nước lại định nghĩa rằng “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ…”. 
Trong suốt thời gian qua mặc dù mọi cố gắng của các nhà làm luật, các vấn đề cơ bản liên quan đến sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước vẫn chưa được giải quyết. Tại sao vậy? Và vấn đề nằm ở đâu?
Có thể khẳng định rằng lý do không tại năng lực chuyên môn của các nhà làm luật. Vấn đề sở hữu vốn thuộc một trong những phạm trù “cổ điển” của khoa học pháp lý và phạm trù “sơ đẳng” của một hệ thống pháp luật. Do đó, hầu như không có khó khăn gì để minh định nó. Nguyên nhân có thể có nhiều, nhưng theo chúng tôi, phần quan trọng nằm ở các “rào cản” mà các nhà làm luật chưa thể vượt qua cả về tâm lý chính trị và nhận thức chính trị.
Về tâm lý chính trị, phải chăng đó là sự e ngại và né tránh để đối diện và cắt nghĩa về lý luận sự thay đổi có tính bước ngoặt của các chế định có tính nguyên tắc của Hiến pháp 1980 (trong đó khẳng định vị trí độc tôn của sở hữu xã hội chủ nghĩa với hai chế độ sở hữu là “toàn dân” và “tập thể”) thông qua ban hành Hiến pháp 1992 (với sự khẳng định cùng tồn tại của sở hữu tư nhân và nền kinh tế đa thành phần)? 
Về nhận thức chính trị, phải chăng vẫn tồn tại định kiến xưa cũ rằng chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được bảo đảm và xây dựng trên nền tảng của hoặc chế độ sở hữu toàn dân, hoặc hình thức sở hữu nhà nước ?
Ngoài ra, về mặt lý luận, dường như chúng ta vẫn để mặc nhiên tồn tại quan niệm mang tính giáo điều về phạm trù “sở hữu toàn dân” (cho đây là điều có tính tất yếu khách quan trong một xã hội xã hội chủ nghĩa), ở một cực này, và đơn giản hay tầm thường hoá nó bằng khái niệm “sở hữu nhà nước”, ở một cực khác, mà không có sự đào sâu để làm cho minh bạch.

I/ Về chế độ sở hữu toàn dân

Khái niệm sở hữu toàn dân là một sản phẩm của quá khứ. Trên công luận và trong một số công trình nghiên cứu thời gian qua, những vấn đề có tính nghi ngờ hoặc phê phán đã được mạnh dạn nêu ra theo hướng (i) có tồn tại thật không chế định này về mặt pháp lý, (ii) thực chất sở hữu toàn dân chỉ là cái “áo chính trị” của sở hữu nhà nước, và (iii) từ sự không rõ ràng của khái niệm và chế định này đã “đẻ” ra nhiều hệ quả và hậu quả khó giải quyết. Sự không rõ ràng này là có thật và được minh chứng bới các mâu thuẫn và không nhất quán trong các quy định của Hiến pháp với Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp nhà nước và Luật Đất đai v.v.. 
Đi sâu về mặt học thuật, có nhiều vấn đề cần bàn luận, thậm chí tranh cãi, về các khái niệm này. Chẳng hạn:
Nói đến “sở hữu toàn dân” đương nhiên có thể hiểu đó là quyền sở hữu chung của ít nhất tất cả mọi công dân đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Điều này, về mặt pháp lý, đòi hỏi phải tạo ra một cơ chế để tất cả mọi người dân (tức các đồng sở hữu chủ) đều có quyền tham gia “định đoạt” và “hưởng lợi” từ quyền sở hữu này. Tuy nhiên, dân số vốn là một đại lượng có tính biến động, (chẳng hạn thông qua sự sống, chết và dịch chuyển), do đó, về mặt khách quan sẽ không bao giờ xác định được những ai cuối cùng đã, đang và sẽ là đồng chủ sở hữu. Để đơn giản hoá, sẽ có thể có cách lý giải (mặc dù khiên cưỡng) rằng, Quốc hội chính là chủ thể của sở hữu toàn dân vì là “cơ quan đại diện cao nhất”. Tuy nhiên, Quốc hội chỉ do các công dân từ 18 tuổi trở lên và những người không bị tước quyền công dân bầu ra chứ không phải toàn dân; hơn nữa, về thực chất, bầu cử là hành vi thực hiện các quyền chính trị (để cấu tạo ra bộ máy nhà nước) chứ không phải hành vi uỷ quyền dân sự trong quan hệ sở hữu. Ở đây, chúng tôi muốn nói tới tính vô lý về pháp luật và vô nghĩa về mặt thực tế của khái niệm sở hữu toàn dân. Mặc dù trong thời gian qua, khi cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh ở Liên Xô và các nước vốn thuộc khối Đông Âu (cũ), để thể hiện thái độ nghiêm túc với chế độ sở hữu toàn dân, người ta đã chia cổ phần của các xí nghiệp này cho mọi người dân, chứ không chỉ “bán một phần cho cán bộ, công nhân viên” như ở nước ta.
Còn về “sở hữu nhà nước” thì sẽ có các câu hỏi đặt ra như: (i) Ai là nhà nước? (khái niệm “nhà nước” là một hệ thống các cơ quan và cấu trúc khác nhau chứ không phải một cơ quan tập trung hay thống nhất), (ii) “nhà nước trung ương” hay “nhà nước địa phương?, và (iii) Ai là đại diện cho chủ thể nhà nước? (phân biệt giữa cơ quan chính quyền, cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp). Một khi không làm rõ các vấn đề như vậy thì sẽ dẫn tới một loạt hệ quả là các hành động “nhân danh nhà nước” bao gồm cả sự chồng chéo lẫn lạm dụng về thẩm quyền.  Hiện nay, khi pháp luật xác định theo cách giải nghĩa rằng “nhà nước là người đại diện sở hữu toàn dân” thì cần đi tiếp theo lập luận này, mà theo đó chúng ta lại vấp phải vấn đề khác. Đó là, cũng theo pháp luật thì chỉ có Quốc hội là người có quyền đại diện nhân dân (tức đồng thời có thể sẽ là người đại diện sở hữu toàn dân) chứ không phải các cơ quan chính quyền (tức Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các địa phương). Và trong trường hợp như vậy thì cần phải xác định rõ là cơ quan chính quyền (hay nói gọn là “chính quyền”) sẽ chỉ đóng vai trò là người quản lý tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà thôi.
Với cách đặt vấn đề như trên, trong bối cảnh Đảng, Nhà nước đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XI với các chương trình nghị sự quan trọng được trông đợi như sửa đổi Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, lấy đó làm tiền đề để sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng tôi xin kiến nghị và đề xuất như sau:
(a)    Về phương diện chủ thể sở hữu:
Xem xét bỏ khái niệm và chế định “sở hữu toàn dân” vì không có cơ chế thực hiện đồng thời không có ý nghĩa thực chất, mà thay vào đó xác định các chủ thể mới thay cho “toàn dân” và “nhà nước”. Cụ thể, đưa vào hai khái niệm mới là sở hữu quốc gia và sở hữu của chính quyền (bao gồm sở hữu của chính quyền trung ương và sở hữu của chính quyền địa phương như tỉnh, huyện và xã), coi đó là hai hình thức quan trọng nhất của sở hữu công cộng. Theo chúng tôi, khái niệm “quốc gia” không chỉ rộng mà còn sâu sắc hơn khái niệm “toàn dân”. “Quốc gia” bao gồm cả lịch sử của nhiều thế hệ con người Việt Nam sống trên lãnh thổ này (tức quá khứ), hiện tại (toàn dân) và tương lai (bao hàm sự phát triển). Quốc gia là phạm trù khái quát nhưng có thực, tồn tại lâu dài, không phụ thuộc vào người dân với tư cách các cá thể thuộc phạm trù có tính biến động. Sở hữu quốc gia có ý nghĩa đặc biệt, là đối tượng bất di, bất dịch, không thể mua, bán, chuyển nhượng và được bảo hộ đặc biệt.  Sở hữu của chính quyền, ngược lại, có tính linh hoạt. Chính quyền có thể mua, bán, chuyển đổi, chuyển nhượng các đối tượng thuộc sở hữu của mình trên cơ sở Bộ luật Dân sự.
(b)    Về phương diện đối tượng sở hữu:
Hiến pháp 1992 hiện hành, tại Điều 17, có liệt kê các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, tuy nhiên vừa quá “mở” (rất tuỳ nghi), vừa không cụ thể và đặc biệt không có sự phân loại theo cấp độ quan trọng xét về mặt tài sản của một quốc gia hay nhà nước. Chẳng hạn, khi nói đến các “công trình kinh tế, văn hoá và khoa học…” thì quá mở và tuỳ nghi, hoặc khi liệt kê các đối tượng sở hữu thì lại đồng hạng giữa “đất đai, rừng núi, sông hồ …” với “phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp…” vốn rất khác nhau về tính chất cũng như ý nghĩa chính tị, kinh tế và xã hội. Cần lưu ý rằng tài sản thuộc sở hữu “quốc gia”, “nhà nước” hay “toàn dân” không chỉ mang đến nguồn lợi mà còn là gánh nặng về tài chính và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân, trước hết với tư cách là người đóng thuế, do đó, vấn đề không chỉ là bảo vệ đối với các tài sản này mà còn là sự kiểm soát của nhân dân đối với sự gia tăng của nó (ví dụ sự đầu tư xây dựng công trình hay mua sắm của các cơ quan chính quyền cần phải bị kiểm soát trong các giới hạn theo luật định).  Do đó, chúng tôi đề xuất cần có cơ chế pháp lý để phân định, phân loại, kiểm soát sự gia tăng và biến động cũng như đặt ra các giới hạn về loại cũng như quy mô giá trị đối với các tài sản thuộc loại hình sở hữu đặc biệt này.
ó lẽ không có quốc gia nào có bộ luật về quản lý đất đai đồ sộ và phức tạp như ở Việt Nam, nhưng khái quát về thực trạng pháp luật về đất đai của nước ta có thể diễn nôm rằng: “xác lập quyền rất khó, sử dụng và chuyển dịch quyền cũng khó nhưng tước bỏ quyền thì rất dễ”.
II/ Về sở hữu đất đai
Nếu lấy mục tiêu của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật như thể hiện trong Nghị quyết 48 –NQ/TW của Bộ chính trị năm ban hành năm 2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam từ 2005 đến 2010, tầm nhìn 2020” là thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường và bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân để làm căn cứ đánh giá, thì có thể thấy rằng các quy định pháp luật về đất đai hiện nay đang tiếp tục là các “rào cản”.  
Có lẽ không có quốc gia nào có bộ luật về quản lý đất đai đồ sộ và phức tạp như ở Việt Nam, bao gồm Luật Đất đai 2003 và hơn 400 văn bản hướng dẫn sau đó được ban hành cho tới nay. Vấn đề ở chỗ đó không phải là tất cả pháp luật cần có về  đất đai (để điều chỉnh nó như là một loại tài nguyên, đối tượng sở hữu và tài sản theo BLDS) mà chủ yếu là các văn bản liên quan đến quản lý nhà nước hay quản lý hành chính về đất đai, tức về thực chất xoay quanh bảo vệ các quyền và lợi ích của nhà nước với tư cách là “người đại diện chủ sở hữu (toàn dân) về đất đai”. 
Khái quát về thực trạng pháp luật về đất đai của nước ta có thể diễn nôm rằng: “xác lập quyền rất khó, sử dụng và chuyển dịch quyền cũng khó nhưng tước bỏ quyền thì rất dễ”. Có nhiều khía cạnh để có thể bàn luận xung quanh thực trạng này, tuy nhiên xét về phương diện “sở hữu toàn dân về đất đai” có thể nêu một số vấn đề ở góc độ lý thuyết như sau:
Thứ nhất, khi Hiến pháp ghi rằng “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” thì cần coi đó là tuyên ngôn chính trị về sở hữu hơn là một chế định pháp lý. Đất đai nói chung, tương tự như không khí và ánh sáng là các yếu tố thuộc về môi trường sống tự nhiên, nên không thể là “tài sản” thuộc phạm trù sở hữu của luật dân sự được. Thay vào đó, các “mảnh đất” hay “thửa đất” cụ thể mới là đối tượng của sở hữu theo pháp luật. Luật về đất đai của các nước, do đó, chính là luật về địa chính.
Thứ hai, khi tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân trên cơ sở Luật Đất đai năm 1980, Nhà nước đã tước đoạt về mặt pháp lý (một cách đơn giản và dễ dàng) toàn bộ sở hữu tư nhân về đất đai ở Việt Nam. Tuy nhiên, bởi “đất đai” và “thửa đất” (hay “mảnh đất”) thuộc hai phạm trù khác nhau, do đó, trên thực tế, quá trình quốc hữu hoá các “mảnh đất” và “thửa đất” cụ thể đã không xảy ra sau đó. Hay nói một cách khác, Nhà nước vẫn phải thừa nhận một thực tế khách quan là ai ở đâu (trên mảnh đất nào) thì vẫn ở đó. Có nghĩa rằng về mặt pháp lý, Nhà nước chỉ can thiệp vào hai khía cạnh của quyền sở hữu đất đai, đó là kiểm soát quyền sử dụng và quyền định đoạt (chứ không tước đoạt hay giành lấy các quyền này). Từ nay, người dân (chủ sử dụng đất) muốn thay đổi mục đích sử dụng hay chuyển đổi, chuyển nhượng chủ quyền đối với các mảnh đất, thửa đất của mình thì phải xin phép và được sự đồng ý của Nhà nước. Như vậy, động cơ của hành động “quốc hữu hoá” nói trên không phải nằm ở vấn đề quyền sở hữu mà ở chủ trương của Nhà nước nhằm kế hoạch hoá tập trung một cách triệt để các quan hệ liên quan đến sở hữu đất đất đai.
Thứ ba, ngày nay, khi triển khai xây dựng nền kinh tế thị trường, việc kế  hoạch hoá của Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội không còn nữa, dẫn đến chế định sở hữu toàn dân đối với đất đai cũng mất hết ý nghĩa. Không những thế, việc tiếp tục duy trì chế định sở hữu này còn trực tiếp và/hoặc gián tiếp cản trở sự phát triển của nền kinh tế và quá trình làm giàu của người dân bằng việc hạn chế người dân biến các mảnh đất, thửa đất của mình thành tài sản và/hoặc vốn đầu tư. Mặt khác, chế định sở hữu toàn dân đối với đất đai đã và đang gây ra các “lạm dụng” một cách công khai hay ngấm ngầm của tất cả các chủ thể liên quan đến sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất đai, bao gồm cả chính các cơ quan chính quyền, trong đó, thay vì chuyển đất đai thành tài sản và vốn đầu tư để phát triển kinh tế và đời sống thì biến nó thành phương tiện đầu cơ để trục lợi bằng tiền bạc ngắn hạn.
Cụ thể, từ góc độ thực tế của việc thi hành các chính sách về đất đai, có thể minh hoạ các yếu tố “rào cản” và “lạm dụng” nói trên như sau:
(a)    Yếu tố “rào cản”. Khi nói đến phát triển trong nền kinh tế thị trường tức là phát huy quyền tự do sáng tạo của người dân với tư cách là các chủ thể kinh tế. Theo đó, người dân cần phải có quyền tự do sử dụng các “mảnh đất”, “thửa đất” của mình như một phương tiện và/hoặc tài sản (hay vốn) kinh doanh. Nói đến “phương tiện” là nói đến tính linh hoạt và đa dạng về mục đích sử dụng. 
Còn nói đến “vốn” hay “tài sản” trong kinh doanh tức nói đến khả năng chuyển dịch đơn giản và thuận tiện để “quay vòng” làm tăng giá trị đồng vốn và tài sản. Các khả năng này, rất tiếc đều bị cản trở hay hạn chế chính bởi cơ chế “sở hữu toàn dân”, trong đó điển hình là năm loại giới hạn về (i) chủ thể sử dụng đất (tức ai được giao đất hay thuê đất với các tiêu chí do cơ quan quản lý nhà nước quyết định), (ii) mục đích sử dụng đất (với các phân định rất chi tiết về các loại đất và hình thức pháp lý để có đất phụ thuộc vào mục đích sử dụng), (iii) quyền liên quan đến việc sử dụng (ví dụ quyền thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế v.v..), (iv) thời hạn sử dụng đất (được quy định phổ biến là 20, 30 hay 50 năm, trừ đất ở dân sinh), và (v) thủ tục hành chính nặng nề và phức tạp để chuyển dịch và chuyển đổi quyền sử dụng đất.  
Cần lưu ý là trong thời gian qua, việc cấp các các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (“sổ đỏ”) đã được triển khai rộng rãi với quy mô và số lượng lớn, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là “sổ đỏ” thực chất có ý nghĩa gì?
Đối với đất ở dân sinh, “sổ đỏ” chỉ tái xác nhận “ai ở đâu vẫn ở đấy”, và do đó, người dân không thấy có ích lợi gì một khi nhận thức rằng đó là đất thuộc sở hữu của ông cha để lại hoặc đã bỏ tiền ra mua từ trước, nay để nhận được  một “tờ giấy màu đỏ” lại phải nộp tiền và làm các thủ tục phiền hà. Nếu đất có “sổ đỏ” sẽ dễ dàng mua bán, chuyển nhượng hơn thì xét từ lợi ích của người dân, đó cũng chi là các thủ tục do chính Nhà nước đặt ra trong khi từ trước đó, người dân vẫn giao dịch bằng giấy viết tay. 
Trên thực tế, trong các giao dịch đất đai hiện nay, đặc biệt là đất ở, nếu đối với cơ quan nhà nước khi tiến hành các thủ tục hành chính liên quan thì chỉ cần dựa trên “sổ đỏ” được cấp cho các mảnh đất, song người dân vẫn hiểu rằng, theo tập quán của giao dịch dân sự thì người đứng tên trên “sổ đỏ” chỉ là người đại diện cho các chủ sở hữu để tiếp nhận “sổ đỏ” mà thôi. Do vậy, khi tiến hành giao dịch mua bán, chuyển nhượng, bên mua vẫn yêu cầu có sự đồng ý của tất cả những đồng sở hữu hoặc có quyền và lợi ích liên quan khác đối với mảnh đất. Trong trường hợp này, có thể thấy rằng các “yếu tố dân sự” được coi trọng và thực hiện triệt để hơn các “yếu tố hành chính”.
“Sổ đỏ”, một khi được cấp, đương nhiên sẽ tạo thuận lợi hơn cho bên cho vay tiền (nhất là các ngân hàng) tiếp nhận thế chấp đối với quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp và các khó khăn lại xảy ra khi xử lý các thế chấp như vậy. Ngân hàng hay các bên cho vay hoàn toàn không dễ dàng phát mại tài sản thế chấp hay tiếp nhận quyền sử dụng đất thay thế bên vay bởi phụ thuộc một loạt các điều kiện được pháp luật quy định về chủ thể, mục đích, hình thức và thời hạn sử dụng đất như đã nói ở trên. 
Nói tóm lại, hàng loạt các “sổ đỏ” đã được cấp sau các nỗ lực rất lớn của các cơ quan quản lý địa chính trong thời gian qua sẽ có thể phát huy tác dụng rất lớn cho đời sống dân sinh và đời sống kinh tế, nếu nó thật sự là các “chứng thư về sở hữu” đối với đất đai. Tuy nhiên với tính chất chỉ là các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (như tên gọi của nó), trong khi quyền sở hữu vẫn nằm trong tay “người khác” thì tác dụng và ý nghĩa của nó đã bị hạn chế rất nhiều.
(b)    Yếu tố “lạm dụng”. Trong thời gian qua, các “lạm dụng” trong lĩnh vực đất đai chủ yếu đến từ các doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước tại các địa phương. Sự “lạm dụng” xảy ra đặc biệt nghiêm trọng trong hai khía cạnh (i) quy hoạch sử dụng đất và (ii) thu hồi quyền sử dụng đất hiện hữu của người dân (nhất là nông dân) để xây dựng các dự án công nghiệp và thương mại. Về mặt lý thuyết, quyền quy  hoạch sử dụng đất đương nhiên thuộc chủ sở hữu đất. Vậy nếu chủ sở hữu là “toàn dân” thì nhân dân phải được tham gia xây dựng quy hoạch. 
Trên thực tế, nhân danh vai trò “đại diện  chủ sở hữu toàn dân”, các cơ quan chính quyền nắm giữ toàn quyền và độc quyền trong việc lập và sửa đổi quy  hoạch. Quá trình lạm dụng sẽ bắt đầu một cách “bài bản” khi có các nhóm lợi ích tư nhân từ phía các doanh nghiệp tham gia, thậm chí chi phối, dẫn đến hậu quả là quy  hoạch không còn phục vụ các mục đích “quốc kế dân sinh” mà chỉ nhằm hỗ trợ các nhóm lợi ích tư nhân tìm kiếm lợi nhuận thông qua các dự án kinh tế cụ thể.
Ngoài ra, Luật Đất đai và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành đã hợp thức quyền thu hồi đất của người đang sử dụng để phát triển các dự án kinh tế mà không tính đến tính chất và mục tiêu của các dự án này. Khác với giai đoạn của nền kinh tế kế hoạch trước đây, trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các dự án kinh tế được hình thành trên cơ sở các cân nhắc về lợi ích thương mại và vì động cơ lợi nhuận của cá nhân hoặc nhóm cá nhân các nhà kinh doanh. 
Một sự cần thiết hay nhất thiết phải phân biệt giữa dự án vì lợi ích công cộng (trong đó có lợi ích của chính những người bị thu hồi đất) và dự án vì mục đích thương mại thuần tuý đã không được tính đến khi ban hành các văn bản pháp luật về đất đai và đầu tư. Do đó, hậu quả của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá thời gian qua, như các phương tiện thông tin đại chúng đã cảnh báo, là sự mất và giảm nghiêm trọng “đất trồng lúa” và biến hàng triệu nông dân thành “tay trắng” về phương diện tư liệu sản xuất. Sự “lạm dụng” đó, theo chúng tôi, có nguyên nhân từ một cơ chế tâm lý và pháp lý đặc thù hình thành từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Thứ tư, thông qua phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, một quá trình tư nhân hoá về sở hữu đất đai đã và đang diễn ra trên thực tế một cách không thể tránh khỏi, dẫn đến vô hiệu hoá chế độ sở hữu toàn dân về đất đai như được xác định trong Hiến pháp 1992. Như trên đã nói, “chủ sở hữu đất đai” luôn luôn tách rời khỏi người chiếm hữu và sử dụng đất. Nhà nước (là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai) cố gắng duy trì quyền sở hữu của mình bằng cách can thiệp vào quá trình sử dụng và định đoạt đất. 
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra các quyền can thiệp một cách chủ động  này của Nhà nước đã và đang dần dần bị hạn chế và/hoặc khống chế bởi chính các yếu tố thị trường. Sự tác động của các quy luật thị trường (không chỉ bó hẹp trong nước mà còn bao gồm cả thị trường quốc tế và toàn cầu) gây sức ép làm phá vỡ các kế  hoạch chủ động, và trên thực tế những năm vừa qua đã buộc các cơ quan Nhà nước thường xuyên phải thay đổi các quy  hoạch phát triển kinh tế nói chung và quy hoạch sử dụng đất nói riêng đã ban hành. 
Thực tế cũng chỉ ra rằng các dự án kinh tế có quy mô vừa và nhỏ có thể đáp ứng yêu cầu phải tuân thủ quy  hoạch; song các dự án lớn, thậm chí khổng lồ (với số vốn đầu tư được nêu ra tới hàng tỷ hay hàng chục tỷ USD) thì chắc chắn sẽ tác động làm thay đổi các quy  hoạch phát triển. Hơn nữa, các dự án đó phần lớn lại được khởi xướng và quyết định bởi các lực lượng tư nhân, là đối tượng chắc chắn chủ yếu quan tâm đến tỷ suất thu hồi đầu tư và lợi nhuận, hơn là những mục tiêu quốc kế, dân sinh. 
Câu hỏi đặt ra là các cơ quan cấp phép đầu tư có thể từ chối cho phép các dự án đầu tư mang tính “gây sức ép” như vậy được không ? Có thể, nhưng rất khó, bởi về mặt công khai, Nhà nước đang và luôn luôn đứng trước một sức ép khác còn lớn và có tính trực tiếp hơn, đó là nâng cao và duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, đồng thời tạo ra công ăn việc làm, lấy phát triển kinh tế để bảo đảm ổn định chính trị và xã hội.
Trở lại khía cạnh sở hữu về đất đai, vấn đề chính ở chỗ các dự án kinh tế có phải luôn luôn được triển khai như cam kết của nhà đầu tư hay không, để qua đó cơ quan Nhà nước vẫn bảo đảm được các quy hoạch và kế hoạch về sử dụng đất? Trên thực tế vừa qua, trong phần lớn các trường hợp rủi ro đối với triển khai dự án, các cơ quan quản lý Nhà nước lại khó có thể thu hồi mà thường sẵn sàng đồng ý để chủ đầu tư gia hạn sử dụng đất, chuyển đổi mục đích và/hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân khác. Đối với không ít dự án kinh tế, các quá trình gia hạn, chuyển đổi và chuyển nhượng lại có thể tiếp tục diễn ra thêm một vòng hay nhiều vòng nữa, để cuối cùng, các khu đất đã được cấp (có thể lên tới hàng trăm, hàng ngàn hecta) vẫn nguyên hình là “đất” trong khi các lợi ích của các chủ đầu tư liên quan vẫn được thu hồi đầy đủ, thông qua việc quay vòng kinh doanh và buôn bán cái gọi là “thương quyền” đối với đất đai.
Những điều nêu ra một cách khái quát như vậy diễn tả bản chất của quá trình tư nhân hoá đất đai, trong đó các cơ quan quản lý Nhà nước không còn đủ sức để sử dụng các công cụ và biện pháp hành chính nhằm kiểm soát sự vận động của các yếu tố và quy luật thị trường, dẫn đến đánh mất các thực quyền của người chủ sở hữu. Hậu qủa của nó, mà cả Nhà nướcvà xã hội phải gánh chịu là giá đất ngày càng tăng trong khi hiệu quả thật sự của các dự án đầu từ thì ngày càng thấp.
Để kết luận, đánh giá việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật trên cơ sở Nghị quyết 48-NQ-TW nói trên, liên quan đến vấn đề sở hữu về đất đai, chúng tôi cho rằng trong năm năm qua hệ thống pháp luật của nước ta không tiến thêm được bước nào trong việc giải quyết những vấn đề căn bản như đã đề cập. 
Tuy nhiên, chúng tôi cũng không kiến nghị bãi bỏ chế độ sở hữu đất đai hiện nay một cách đơn giản. Thay vào đó, cần có sự nghiên cứu theo hướng đặt lại vấn đề có tính nguyên tắc của Hiến pháp 1992, theo hướng huỷ bỏ chế độ sở hữu toàn dân, đa dạng hoá sở hữu về đất đai, bao gồm sở hữu quốc gia (vĩnh viễn hay về cơ bản không tư nhân hoá), sở hữu của chính quyền và sở hữu tư nhân. Điều này là thông lệ phổ biến ở hầu hết các nước đã phát triển thành công.
Tháng 9/2010

6 tháng 11, 2018

HIẾN PHÁP
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (QUỐC HỘI 
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ THÔNG QUA 
NGÀY 9-11-1946)

LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành 

lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho
 nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà.
Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát
 khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã
 gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một
quãng đường mới.
Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
 nền tảng dân chủ.
Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp
 đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội
 nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những
 thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên
 những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
 dân.
Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới
 một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và
 thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc,
 cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà
 bình của nhân loại.
Chương 1:
CHÍNH THỂ
Điều thứ 1

Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
 Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
 cấp, tôn giáo.
Điều thứ 2

Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc
 không thể phân chia.
Điều thứ 3

Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, giữa có
 sao vàng năm cánh.
Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Thủ đô đặt ở Hà Nội.
Chương 2:
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CÔNG DÂN
Mục A: NGHĨA VỤ

Điều thứ 4:

Mỗi công dân Việt Nam phải:
- Bảo vệ Tổ quốc
- Tôn trọng Hiến pháp
- Tuân theo pháp luật.
Điều thứ 5

Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.
Mục B: QUYỀN LỢI

Điều thứ 6

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
 phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.
Điều thứ 7

Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật,
 đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc 
tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
Điều thứ 8

Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số
 được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình 
độ chung.
Điều thứ 9

Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.
Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Điều thứ 11

Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam
 cầm người công dân Việt Nam.
Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được
 xâm phạm một cách trái pháp luật.
Điều thứ 12

Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
 đảm..
Điều thứ 13

Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo
 đảm.
Điều thứ 14

Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được
 việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo
 dưỡng.
Điều thứ 15

Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường
 sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng
 tiếng của mình.
Học trò nghèo được Chính phủ giúp.
Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình
 Nhà nước.
Điều thứ 16

Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do
 mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam.
Mục C: BẦU CỬ, BÃI MIỄN VÀ PHÚC QUYẾT

Điều thứ 17

Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự
 do, trực tiếp và kín.
Điều thứ 18

Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân
 biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí
 và những người mất công quyền.
Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là
 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều thứ 19

Cách thức tuyển cử sẽ do luật định.
Điều thứ 20

Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra,
 theo Điều thứ 41 và 61.
Điều thứ 21

Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những
 việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và
 70.
Chương 3:
NGHỊ VIỆN NHÂN DÂN
Điều thứ 22

Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều thứ 23

Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
 quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y
 các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
Điều thứ 24

Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm 
bầu một lần.
Cứ 5 vạn dân thì có một nghị viên.
Số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có
 quốc dân thiểu số sẽ do luật định.
Điều thứ 25

Nghị Viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình
 mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân.
Điều thứ 26

Nghị viện nhân dân tự thẩm tra xem các nghị viên có được
 bầu hợp lệ hay không.
Điều thứ 27

Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị 
trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập
 thành Ban thường vụ.
Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó
 trưởng Ban thường vụ.
Điều thứ 28

Nghị viện nhân dân mỗi năm họp hai lần do Ban thường 
vụ 
triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch.
Ban thường vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét 
cần.
Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện nếu một phần ba
 tổng số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.
Điều thứ 29

Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mới
 được biểu quyết.
Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt.
Nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị 
viện có mặt bỏ phiếu thuận.
Điều thứ 30

Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe.
Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và
 quyết nghị của Nghị viện.
Trong những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết 
nghị họp kín.
Điều thứ 31

Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước 
Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận 
được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu
 cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận
 lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ
 tịch phải ban bố.
Điều thứ 32

Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra 
nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên
 đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.
Điều thứ 33

Khi nào hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý, Nghị viện có
 thể tự giải tán. Ban thường vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố
 sự tự giải tán ấy.
Điều thứ 34

Khi Nghị viện nhân dân đã hết hạn hoặc chưa hết hạn mà 
tự giải tán thì Ban thường vụ giữ chức quyền cho đến khi
 bầu lại Nghị viện nhân dân mới.
Điều thứ 35

Hai tháng trước khi Nghị viện nhân dân hết hạn, Ban 
thường vụ tuyên bố cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới phải
 làm xong trong hai tháng trước ngày Nghị viện hết hạn.
Khi Nghị viện nhân dân tự giải tán, Ban thường vụ tuyên bố
 ngay cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới làm xong trong hai
 tháng sau ngày Nghị viện tự giải tán.
Chậm nhất là một tháng sau cuộc bầu cử, Ban thường vụ
 phải họp Nghị viện nhân dân mới.
Trong khi có chiến tranh mà nghị viện hết hạn thì Nghị viện
 hoặc Ban thường vụ có quyền gia hạn thêm một thời gian
 không nhất định. Nhưng chậm nhất là sáu tháng sau khi
 chiến tranh kết liễu thì phải bầu lại Nghị viện.
Điều thứ 36

Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:
a) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những
 sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần
 nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.
b) Triệu tập Nghị viện nhân dân.
c) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.
Điều thứ 37

Phải có quá nửa tổng số nhân viên bỏ phiếu thuận, những
 nghị quyết của Ban thường vụ mới có giá trị.
Điều thứ 38

Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với 
Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.
Điều thứ 39

Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ban thường vụ báo cáo công
 việc, vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ban thường vụ có thể nêu
 ra, nếu có một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu. Toàn
 Ban thường vụ phải từ chức nếu không được tín nhiệm
. Nhân viên Ban thường vụ cũ có thể được bầu lại.
Điều thứ 40

Nếu chưa được Nghị viện nhân dân đồng ý hay trong lúc
 Nghị viện không họp mà chưa được Ban thường vụ đồng ý
 thì Chính phủ không được bắt giam và xét xử những nghị
 viên.
Nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong
 Nghị viện.
Trong trường hợp phạm pháp quả tang, Chính phủ có thể
 bắt giam nghị viên ngay nhưng chậm nhất là 24 giờ phải
 thông tri cho Ban thường vụ. Ban thường vụ hoặc Nghị
 viện sẽ định đoạt.
Khi một nghị viên mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả
 tư cách nghị viên.
Điều thứ 41

Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận
 được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành
 phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị
 viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ
 chức.
Điều thứ 42

Phụ cấp của các nghị viên sẽ do luật định.
Chương 4:
CHÍNH PHỦ
Điều thứ 43

Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ
 Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều thứ 44

Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
 hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể
 có Phó Thủ tướng.
Điều thứ 45

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị
 viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện
 bỏ phiếu thuận.
Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ
 nhì sẽ theo đa số tương đối.
Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và
 có thể được bầu lại.
Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch
, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch
 mới.
Điều thứ 46

Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong
 nhân dân và bầu theo lệ thường.
Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Nghị viện.
Phó chủ tịch giúp đỡ Chủ tịch.
Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền
 Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới.
Điều thứ 47

Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và
 đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm
, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra
 Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có 
thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội
 đồng Chính phủ duyệt y.
Nhân viên Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự
 vào Chính phủ.
Điều thứ 48

Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Thủ tướng thoả thuận với
 Ban thường vụ để chỉ định ngay người tạm thay cho đến
 khi Nghị viện họp và chuẩn y.
Điều thứ 49

Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà:
a) Thay mặt cho nước.
b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định 
hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân,
 không quân.
c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và
 nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ.
d) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ.
đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị.
e) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự.
g) Đặc xá.
h) Ký hiệp ước với các nước.
i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước.
k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.
Điều thứ 50

Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.
Điều thứ 51

Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội
 các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một Toà án đặc biệt
 để xét xử.
Việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân viên Nội các 
về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính 
phủ.
Điều thứ 52

Quyền hạn của Chính phủ:
a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, 
trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp
 dưới, nếu cần.
đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ
 quan hành chính hoặc chuyên môn.
e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để
 giữ gìn đất nước.
g) Lập dự án ngân sách hàng năm.
Điều thứ 53

Mỗi Sắc lệnh của Chính phủ phải có chứ ký của Chủ tịch 
nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một 
hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải 
chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
Điều thứ 54

Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ
 chức.
Toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về
 hành vi một Bộ trưởng.
Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị
 của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về 
vấn 
đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần
 tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra.
Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín 
nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa 
vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận 
lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. 
Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ 
chức.
Điều thứ 55

Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói 
những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường
 vụ. Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được
 thư chất vấn.
Điều thứ 56

Khi Nghị viện hết hạn hoặc tự giải tán, Nội các giữ chức
 quyền cho đến khi họp Nghị viện mới.
Chương 5:
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH
Điều thứ 57

Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ:
 Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia
 thành huyện, mỗi huyện chia thành xã.
Điều thứ 58

Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do
 đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ
 ban hành chính.
Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành
 chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban
 hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra.
Điều thứ 59

Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa
 phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với
 chỉ thị của các cấp trên.
Uỷ ban hành chính có trách nhiệm:
a) Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.
b) Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa
 phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y.
c) Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.
Điều thứ 60

Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối
 với Hội đồng nhân dân địa phương mình.
Điều thứ 61

Nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính có thể
 bị bãi miễn.
Cách thức bãi miễn sẽ do luật định.
Điều thứ 62

Một đạo luật sẽ định rõ những chi tiết tổ chức các Hội đồng
 nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Chương 6:
CƠ QUAN TƯ PHÁP
Điều thứ 63

Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:
a) Toà án tối cao.
b) Các toà án phúc thẩm.
c) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Điều thứ 64

Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.
Điều thứ 65

Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để 
hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết
 định với thẩm phán nếu là việc đại hình.
Điều thứ 66

Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án.
Điều thứ 67

Các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường
 hợp đặc biệt.
Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật
 sư.
Điều thứ 68

Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị
 cáo và tội nhân.
Điều thứ 69

Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
 luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
Chương 7:
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều thứ 70

Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn 
thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.