6 tháng 11, 2018

HIẾN PHÁP
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (QUỐC HỘI 
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ THÔNG QUA 
NGÀY 9-11-1946)

LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành 

lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho
 nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà.
Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát
 khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã
 gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một
quãng đường mới.
Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
 nền tảng dân chủ.
Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp
 đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội
 nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những
 thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên
 những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
 dân.
Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới
 một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và
 thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc,
 cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà
 bình của nhân loại.
Chương 1:
CHÍNH THỂ
Điều thứ 1

Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
 Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
 cấp, tôn giáo.
Điều thứ 2

Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc
 không thể phân chia.
Điều thứ 3

Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, giữa có
 sao vàng năm cánh.
Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Thủ đô đặt ở Hà Nội.
Chương 2:
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CÔNG DÂN
Mục A: NGHĨA VỤ

Điều thứ 4:

Mỗi công dân Việt Nam phải:
- Bảo vệ Tổ quốc
- Tôn trọng Hiến pháp
- Tuân theo pháp luật.
Điều thứ 5

Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.
Mục B: QUYỀN LỢI

Điều thứ 6

Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi
 phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.
Điều thứ 7

Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật,
 đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc 
tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
Điều thứ 8

Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số
 được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình 
độ chung.
Điều thứ 9

Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.
Điều thứ 10

Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Điều thứ 11

Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam
 cầm người công dân Việt Nam.
Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được
 xâm phạm một cách trái pháp luật.
Điều thứ 12

Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
 đảm..
Điều thứ 13

Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo
 đảm.
Điều thứ 14

Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được
 việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo
 dưỡng.
Điều thứ 15

Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường
 sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng
 tiếng của mình.
Học trò nghèo được Chính phủ giúp.
Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình
 Nhà nước.
Điều thứ 16

Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do
 mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam.
Mục C: BẦU CỬ, BÃI MIỄN VÀ PHÚC QUYẾT

Điều thứ 17

Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự
 do, trực tiếp và kín.
Điều thứ 18

Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân
 biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí
 và những người mất công quyền.
Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là
 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều thứ 19

Cách thức tuyển cử sẽ do luật định.
Điều thứ 20

Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra,
 theo Điều thứ 41 và 61.
Điều thứ 21

Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những
 việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và
 70.
Chương 3:
NGHỊ VIỆN NHÂN DÂN
Điều thứ 22

Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều thứ 23

Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
 quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y
 các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
Điều thứ 24

Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm 
bầu một lần.
Cứ 5 vạn dân thì có một nghị viên.
Số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có
 quốc dân thiểu số sẽ do luật định.
Điều thứ 25

Nghị Viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình
 mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân.
Điều thứ 26

Nghị viện nhân dân tự thẩm tra xem các nghị viên có được
 bầu hợp lệ hay không.
Điều thứ 27

Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị 
trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập
 thành Ban thường vụ.
Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó
 trưởng Ban thường vụ.
Điều thứ 28

Nghị viện nhân dân mỗi năm họp hai lần do Ban thường 
vụ 
triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch.
Ban thường vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét 
cần.
Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện nếu một phần ba
 tổng số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.
Điều thứ 29

Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mới
 được biểu quyết.
Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt.
Nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị 
viện có mặt bỏ phiếu thuận.
Điều thứ 30

Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe.
Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và
 quyết nghị của Nghị viện.
Trong những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết 
nghị họp kín.
Điều thứ 31

Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước 
Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận 
được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu
 cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận
 lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ
 tịch phải ban bố.
Điều thứ 32

Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra 
nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên
 đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.
Điều thứ 33

Khi nào hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý, Nghị viện có
 thể tự giải tán. Ban thường vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố
 sự tự giải tán ấy.
Điều thứ 34

Khi Nghị viện nhân dân đã hết hạn hoặc chưa hết hạn mà 
tự giải tán thì Ban thường vụ giữ chức quyền cho đến khi
 bầu lại Nghị viện nhân dân mới.
Điều thứ 35

Hai tháng trước khi Nghị viện nhân dân hết hạn, Ban 
thường vụ tuyên bố cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới phải
 làm xong trong hai tháng trước ngày Nghị viện hết hạn.
Khi Nghị viện nhân dân tự giải tán, Ban thường vụ tuyên bố
 ngay cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới làm xong trong hai
 tháng sau ngày Nghị viện tự giải tán.
Chậm nhất là một tháng sau cuộc bầu cử, Ban thường vụ
 phải họp Nghị viện nhân dân mới.
Trong khi có chiến tranh mà nghị viện hết hạn thì Nghị viện
 hoặc Ban thường vụ có quyền gia hạn thêm một thời gian
 không nhất định. Nhưng chậm nhất là sáu tháng sau khi
 chiến tranh kết liễu thì phải bầu lại Nghị viện.
Điều thứ 36

Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:
a) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những
 sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần
 nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.
b) Triệu tập Nghị viện nhân dân.
c) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.
Điều thứ 37

Phải có quá nửa tổng số nhân viên bỏ phiếu thuận, những
 nghị quyết của Ban thường vụ mới có giá trị.
Điều thứ 38

Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với 
Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.
Điều thứ 39

Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ban thường vụ báo cáo công
 việc, vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ban thường vụ có thể nêu
 ra, nếu có một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu. Toàn
 Ban thường vụ phải từ chức nếu không được tín nhiệm
. Nhân viên Ban thường vụ cũ có thể được bầu lại.
Điều thứ 40

Nếu chưa được Nghị viện nhân dân đồng ý hay trong lúc
 Nghị viện không họp mà chưa được Ban thường vụ đồng ý
 thì Chính phủ không được bắt giam và xét xử những nghị
 viên.
Nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong
 Nghị viện.
Trong trường hợp phạm pháp quả tang, Chính phủ có thể
 bắt giam nghị viên ngay nhưng chậm nhất là 24 giờ phải
 thông tri cho Ban thường vụ. Ban thường vụ hoặc Nghị
 viện sẽ định đoạt.
Khi một nghị viên mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả
 tư cách nghị viên.
Điều thứ 41

Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận
 được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành
 phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị
 viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ
 chức.
Điều thứ 42

Phụ cấp của các nghị viên sẽ do luật định.
Chương 4:
CHÍNH PHỦ
Điều thứ 43

Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ
 Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều thứ 44

Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
 hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể
 có Phó Thủ tướng.
Điều thứ 45

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị
 viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện
 bỏ phiếu thuận.
Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ
 nhì sẽ theo đa số tương đối.
Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và
 có thể được bầu lại.
Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch
, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch
 mới.
Điều thứ 46

Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong
 nhân dân và bầu theo lệ thường.
Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Nghị viện.
Phó chủ tịch giúp đỡ Chủ tịch.
Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền
 Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới.
Điều thứ 47

Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và
 đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm
, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra
 Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có 
thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội
 đồng Chính phủ duyệt y.
Nhân viên Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự
 vào Chính phủ.
Điều thứ 48

Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Thủ tướng thoả thuận với
 Ban thường vụ để chỉ định ngay người tạm thay cho đến
 khi Nghị viện họp và chuẩn y.
Điều thứ 49

Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà:
a) Thay mặt cho nước.
b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định 
hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân,
 không quân.
c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và
 nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ.
d) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ.
đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị.
e) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự.
g) Đặc xá.
h) Ký hiệp ước với các nước.
i) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước.
k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.
Điều thứ 50

Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.
Điều thứ 51

Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội
 các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một Toà án đặc biệt
 để xét xử.
Việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân viên Nội các 
về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính 
phủ.
Điều thứ 52

Quyền hạn của Chính phủ:
a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, 
trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp
 dưới, nếu cần.
đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ
 quan hành chính hoặc chuyên môn.
e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để
 giữ gìn đất nước.
g) Lập dự án ngân sách hàng năm.
Điều thứ 53

Mỗi Sắc lệnh của Chính phủ phải có chứ ký của Chủ tịch 
nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một 
hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải 
chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
Điều thứ 54

Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ
 chức.
Toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về
 hành vi một Bộ trưởng.
Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị
 của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về 
vấn 
đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần
 tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra.
Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín 
nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa 
vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận 
lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. 
Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ 
chức.
Điều thứ 55

Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói 
những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường
 vụ. Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được
 thư chất vấn.
Điều thứ 56

Khi Nghị viện hết hạn hoặc tự giải tán, Nội các giữ chức
 quyền cho đến khi họp Nghị viện mới.
Chương 5:
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH
Điều thứ 57

Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ:
 Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia
 thành huyện, mỗi huyện chia thành xã.
Điều thứ 58

Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do
 đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ
 ban hành chính.
Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành
 chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban
 hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra.
Điều thứ 59

Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa
 phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với
 chỉ thị của các cấp trên.
Uỷ ban hành chính có trách nhiệm:
a) Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.
b) Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa
 phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y.
c) Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.
Điều thứ 60

Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối
 với Hội đồng nhân dân địa phương mình.
Điều thứ 61

Nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính có thể
 bị bãi miễn.
Cách thức bãi miễn sẽ do luật định.
Điều thứ 62

Một đạo luật sẽ định rõ những chi tiết tổ chức các Hội đồng
 nhân dân và Uỷ ban hành chính.
Chương 6:
CƠ QUAN TƯ PHÁP
Điều thứ 63

Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:
a) Toà án tối cao.
b) Các toà án phúc thẩm.
c) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Điều thứ 64

Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.
Điều thứ 65

Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để 
hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết
 định với thẩm phán nếu là việc đại hình.
Điều thứ 66

Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án.
Điều thứ 67

Các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường
 hợp đặc biệt.
Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật
 sư.
Điều thứ 68

Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị
 cáo và tội nhân.
Điều thứ 69

Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
 luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
Chương 7:
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều thứ 70

Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn 
thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.

Hoàng Hải Vân - Quyền Tư hữu, nền tảng của Kinh tế Thị trường 


Quyền Tư hữu, nền tảng của Kinh tế Thị trường
Các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam cần nhớ : Điều 12 Hiến pháp năm 1946 ra đời sau khi Liên Xô đã xóa bỏ quyền tư hữu. Điều này cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh khác rất xa với tư tưởng xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô. Cho đến khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ quay lưng lại với tư tưởng gốc rễ của mình. Minh chứng cho điều này là Hiến pháp năm 1959, bản Hiến pháp ra đời khi Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành một “măc xích” của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, một hệ thống không đội trời chung với quyền tư hữu. Liên quan đến quyền tư hữu, Hiến pháp 1959 khẳng định :

Thứ nhất, “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân” (điều 14). Điều đặc biệt thú vị là, theo Điều 12 của bản Hiến pháp này thì chỉ có “đất hoang” và “rừng cây” mới thuộc sở hữu toàn dân, chứ không hề có quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân như các bản Hiến pháp và luật pháp được ban hành sau khi cụ Hồ qua đời.

Thứ hai, “Nhà Nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác” (điều 15).

Thứ ba, “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc” (Điều 16).

Như vậy là, dù miền Bắc “xây dựng CNXH” nhưng khác với Liên Xô và các nước XHCN khác, quyền tư hữu, kể cả quyền tư hữu về đất đai vẫn được Nhà nước VNDCCH bảo hộ. (Xin mở ngoặc lưu ý : Ở đây chỉ đề cập về Hiến pháp và luật pháp. Những sai lầm trong cải cách ruộng đất, hợp tác hóa, cải tạo tư sản, kinh tế kế hoạch hóa, v.v... không nằm trong phạm vi bàn luận của bài này).

Và cần nhớ rằng, mãi đến Hiến pháp 1980 mới áp dụng gần như nguyên xi các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô, xóa bỏ quyền tư hữu, chỉ thừa nhận quyền sở hữu “về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ”. Như vậy là 11 năm sau khi cụ Hồ tạ thế, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tư hữu đã bị xóa bỏ trong Hiến pháp.

15 năm kể từ khi áp dụng kinh tế kế hoạch theo mô hình Liên Xô trong phạm vi cả nước và 5 năm kể từ khi Hiến định mô hình này, đất nước đã rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng tưởng không còn lối thoát, nếu không thay đổi thì chế độ sẽ sụp đổ và đất nước sẽ rơi vào hỗn loạn. Bởi vậy mới có công cuộc Đổi Mới, bắt đầu từ năm 1986. Đến năm 1992, công cuộc Đổi Mới được Hiến định. Bản Hiến pháp năm 1992 xác định “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (điều 15) và “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa” (Điều 23).

Hiến pháp 2013 tiếp tục xác định những vấn đề nền tảng của quyền con người trong cơ chế thị trường, trong đó xác định rõ hơn nội hàm của quyền sở hữu tài sản (khoản 1 Điều 32), đồng thời khẳng định “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” (khoản 2 Điều 32). Như vậy là quyền tư hữu được xác định từ Hiến pháp năm 1946 đã được Hiến pháp năm 2013 tái lập (“quyền sở hữu tư nhân” là tên gọi khác của “quyền tư hữu”)

Ngày nay chúng ta đều biết, quyền tư hữu là nền tảng không thể thiếu của kinh tế thị trường, dù theo định hướng gì. Điểm sơ qua sự thăng trầm của quyền tư hữu qua 5 bản Hiến pháp để thấy rằng : Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy đứng trong “phe xã hội chủ nghĩa” nhưng trước sau vẫn muốn đưa đất nước theo kinh tế thị trường. Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp tiến bộ nhất châu Á tiếp cận với tinh thần tự do của Hiến pháp Hoa Kỳ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tư hữu là nhất quán, được ghi rõ ràng và minh bạch trong 2 bản Hiến pháp khi cụ Hồ còn tại thế. Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới, tư tưởng này được từng bước tái lập, nhưng vẫn còn khập khiễng. Chưa vội so sánh với các nguyên tắc của kinh tế thị trường theo thông lệ quốc tế, chỉ so với yêu cầu của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn “mắc nợ” 3 vấn đề sau đây :

Một. Cụ Hồ không chủ trương sở hữu toàn dân về đất đai. Chủ trương sở hữu toàn dân về đất đai chỉ được xác lập sau khi cụ Hồ qua đời, bắt đầu từ bản Hiến pháp 1980 theo mô hình Liên Xô. Dù 2 bản Hiến pháp 1992 và 2013 xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa để chuyển sang cơ chế thị trường, nhưng không hiểu vì lý do gì mà quan điểm “sở hữu toàn dân về đất đai” lại không bị xóa bỏ ? Chẳng lẽ quan điểm của cụ Hồ là phản động ?

Hai. Dù không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai nhưng với 5 quyền của người sử dụng đất, Hiến pháp 1992 vẫn xác định “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”, có thể tạm coi quy định này có giá trị tiệm cận với quyền sở hữu tư nhân về đất đai. Nhưng Hiến pháp 2013 lại kéo lùi quyền này xuống mức lạc hậu hơn so với cả Hiến pháp 1959 : Mặc dù quy định “Quyền sử dụng đất được nhà nước bảo hộ”, nhưng Hiến pháp 2013 lại bỏ cụm từ “sử dụng ổn định lâu dài”, đồng thời mở đường cho luật pháp xâm phạm nghiêm trọng quyền tài sản (quyền sử dụng đất) của người dân bằng việc cho phép nhà nước thu hồi đất “vì mục đích phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”. Quy định này được chuyển hóa thành điều 62 Luật Đất đai hiện hành, cho phép chính quyền địa phương thu hồi bất cứ mảnh đất nào của nông dân với giá đền bù rẻ mạt để giao lại cho các “đại gia” làm dự án kinh tế, thực chất là “cướp” đất của nông dân để phục vụ cho các nhóm “tư bản thân hữu”, gây ra biết bao nhiêu là bất công oan trái, sự bất bình của nông dân đã chiếm tới hơn 80% các vụ khiếu kiện trong toàn quốc (*)

Bãi bỏ quy định về thu hồi đất để phục vụ cho các nhóm “tư bản thân hữu” tại điều 62 của Luật Đất đai, tiến tới bỏ nội dung tương tự quy định tại khoản 3 điều 54 Hiến pháp 2013 là “món nợ” lớn mà những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay phải trả, nếu các vị vẫn tự cho mình là con cháu cụ Hồ. Liên minh công nông chính là nền tảng chánh trị, là “đất sống” của Đảng Cộng sản. Tiếp tục duy trì quy định thu hồi đất nói trên sẽ phá vỡ khối liên minh này, mà liên minh công nông bị phá vỡ thì sẽ không còn đất sống cho Đảng Cộng sản. Các vị phải nhớ rằng ở một đất nước mà nông dân chiếm tới 70-80% dân số thì dựa vào nông dân quan trọng đến mức ngay cả chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng phải tuyên bố thực hiện “Người cày có ruộng”, nó chính là khẩu hiệu của cụ Hồ đấy !

Ba. Quyền tư hữu đã được Hiến pháp công nhận, nhưng trong thực tế tố tụng ở nước ta, tòa án thường chỉ căn cứ vào luật chứ không căn cứ vào Hiến pháp để xét xử, do đó quyền tư hữu cần được xác định cụ thể bằng (hoặc trong) các đạo luật. Và trong bối cảnh nước ta đang hoàn thiện nhà nước pháp quyền với rất nhiều vấn đề lịch sử để lại, quyền tư hữu tài sản cần được xác định theo nguyên tắc :

Đôi với dân thường và cán bộ-công chức không thuộc diện kê khai tài sản : tài sản được coi là hợp pháp nếu cơ quan nhà nước không có tài liệu chứng minh tài sản đó là bất hợp pháp (do trộm cắp, buôn hàng quốc cấm, chiếm đoạt của người khác, trốn thuế, gian lận thương mại…). Đối với cán bộ có chức có quyền thuộc diện phải kê khai tài sản (nên kê khai theo định kỳ) : tài sản lần đầu tiên kê khai được áp dụng như đối với dân thường. Tài sản phát sinh sau mỗi lần kê khai thì người có tài sản buộc phải tự chứng minh đó là tài sản hợp pháp.

Nguyên tắc này có thể không phù hợp ở những nước có pháp quyền lâu đời như nước Mỹ nhưng phù hợp với hoàn cảnh thực tế ở những nước đang tiến tới pháp quyền như nước ta. Một nhà nước trong vòng 70 năm có tới 5 bản Hiến pháp rất khó áp dụng các nguyên tắc của một nhà nước 230 năm chỉ có một bản Hiến pháp. Nhưng bài viết đã quá dài, xin dừng ở đây.

Hoàng Hải Vân

(FB Hoàng Hải Vân)

5 tháng 11, 2018

NSƯT Kim Chi tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản Việt Nam
RFA 2018-11-04 Ngày 4/11/2018, Nghệ sĩ Ưu tú Kim Chi viết trên Facebook cá nhân "chính thức tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam". Trong bài viết của mình bà cho biết ý định ra khỏi đảng đã có từ 3 năm trước khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng bí thư đảng Cộng sản VN vì bà biết rằng "ông Trọng một mực theo đuổi Chủ nghĩa Xã hội - con đường tăm tối không có tương lai cho đất nước, đi ngược xu thế tiến bộ của nhân loại."

Nghệ sĩ Ưu tú Kim Chi

Sự việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng Cộng sản mới đây ra quyết định đề nghị kỷ luật Giáo sư Chu Hảo mà nghệ sĩ này cho rằng là "tuyên chiến với giới trí thức tiến bộ tâm huyết, tuyên chiến với nhân dân" dẫn đến quyết định ngày hôm nay. "Quá thất vọng, tôi bỏ sinh hoạt đảng từ 2013. Tôi luôn trăn trở: “tuổi cao, sức yếu, không gì đau buồn và hổ thẹn hơn là đột ngột ra đi mà vẫn danh nghĩa là đảng viên CS”. Đã đến lúc tôi phải rời khỏi cái đội ngũ mà thế lực hắc ám ngự trị trong Đảng CSVN đang lạm dụng làm bình phong che chắn cho động cơ vị kỷ, tệ hại của họ.

Tôi thành tâm mong mỏi ngày càng có nhiều đảng viên có lương tri, còn tâm huyết với dân, với nước, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục rời bỏ Đảng CSVN, Đoàn TN CSVN. Vận nước, tương lai dân tộc tùy thuộc mỗi người Việt Nam chúng ta", bà Kim Chi chia sẻ.
Sự việc Giáo sư Chu Hảo, Giám đốc nhà xuất bản Tri Thức bị đề nghị kỷ luật đảng vì tự “diễn biến” đã khiến một loạt các trí thức, đảng viên kỳ cựu rời bỏ đảng. Tính cho đến nay, ít nhất đã có 14 đảng viên có tên tuổi công khai tuyên bố từ bỏ đảng Cộng sản mà nghệ sĩ Kim Chi là người mới nhất.
Nghệ sĩ ưu tú Kim Chi sinh tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là một diễn viên điện ảnh và giảng viên tại trường Sân khấu - Điện ảnh TP.HCM.
Bà vào đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam tại chiến trường năm 1971, vài năm qua bà lên tiếng về tình hình đất nước và tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, tham gia các cuộc tưởng niệm hải chiến Hoàng Sa và thảm sát Gạc Ma - Trường Sa.
Đầu năm 2013, bà Kim Chi được Hội Điện ảnh Việt Nam gợi ý làm hồ sơ để đề nghị Thủ tướng khen thưởng, tuy nhiên bà đã gửi một lá thư ghi rõ lý do từ chối: "Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm."
https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/kim-chi-left-the-party-11042018082104.html

4 tháng 11, 2018

Sự tích tên trường đại học Harvard

Vì sao trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới, cái nôi đào tạo ra 8 tổng thống Mỹ, 62 tỷ phú (chỉ tính những người còn sống) và 150 chủ nhân giải Nobel lại mang tên Harvard?

Toàn cảnh ĐH Harvard

Năm 1636, chính quyền Khu Định cư Massachusetts Bay (Mỹ) – với ước muốn "hoàn thiện hệ thống đào tạo rồi để lại cho hậu thế vì e rằng trong giáo hội sẽ chỉ còn giới chức sắc thất học, khi những mục sư hiện nay của chúng ta yên nghỉ trong cát bụi" đã thành lập trường học ở Charlestown với tên New College để đào tạo tu sĩ.
.
Mục sư người Anh John Harvard (1607-1638) là con thứ tư của gia đình 9 người con, cha là Robert Harvard (1562-1625) là người hàng thịt và chủ quán, mẹ là Katherin Rogers (1584 – 1635). Ông sinh tại Southwark, Anh và được gia đình gửi đến Emmanuel College thuộc Đại học Cambridge, học lấy bằng cử nhân năm 1632, thạc sĩ năm 1635 và được phong chức mục sư.
.
Sau một trận dịch trong năm 1625, cả gia đình chỉ còn lại John, anh của cậu Thomas, và mẹ cậu. Katherine mất năm 1635, hai năm sau Thomas cũng qua đời.
.
Năm 1636 ông kết hôn với vợ là Ann Sadler (1614 - 1655). Năm 1637, Harvard cùng vợ di cư đến vùng New England (góc đông bắc Mỹ) rồi định cư ở Charlestown. Ông trở thành phụ tá cho quản nhiệm nhà thờ của thị trấn. Harvard qua đời ngày 14 tháng 9 năm 1638 và được an táng tại Charlestown.
..
Harvard thừa hưởng tài sản từ cha mẹ, anh trai và ông không có con cái. Trước khi mất, ông dặn vợ hiến tặng nửa tài sản của mình (số tiền 780 bảng Anh) cùng thư viện cá nhân 320 đầu sách để gây dựng ngôi trường những ngày đầu.
.
.
Trước khi Harvard mất, thị trấn Charlestown đổi tên thành Cambridge, theo tên của Viện đại học ở Anh mà nhiều người trong đó có Harvard đã từng theo học. Tháng 3/1639, cộng đồng vinh danh vị Mạnh thường quân đáng kính của mình bằng quyết định đổi tên trường thành Trường đại học Harvard. Người ta đúc tượng ông và đặt tại Harvard Yard trong khuôn viên Đại học Harvard. Do không có bất kỳ một chân dung nào của ông, các nhà điêu khắc đã sử dụng chân dung của một sinh viên đẹp trai trong trường có tên Sherman Hoar làm mẫu thay thế..
.
Năm 1986, ảnh này của ông được in trên tem bưu điện. Cửa sổ kính của nhà nguyện Emmanuel College thuộc Đại học Cambridge cũng khắc hình Harvard.
.
Thư viện John Harvard ở Southwark, Luân Đôn, là một địa điểm vinh danh ông; tương tự là chiếc cầu Harvard nối Boston với Cambridge, Massachusetts.
.
Với lịch sử lâu đời, tầm ảnh hưởng, và tài sản của mình, trường đại học Harvard là một trong những viện đại học danh tiếng nhất thế giới.
.
Cổng chính của trường Harvard là cánh cổng Johnston, không như các cổng phụ khác, cổng Johnston đóng quanh năm ngày tháng và chỉ mở ra 2 lần mỗi năm. Trong suốt những tháng ngày học tập tại Harvard, mỗi sinh viên chỉ đi qua cổng này đúng 2 lần: Một lần trong ngày nhập trường và một lần trong ngày tốt nghiệp.

.


Đại học Harvard được tổ chức thành 11 đơn vị học thuật (10 phân khoa đại học và Viện Nghiên cứu Cao cấp Radcliffe) với các khuôn viên nằm rải rác khắp vùng đô thị Boston. Khuôn viên chính rộng 85 ha, nằm ở thành phố Cambridge, cách Boston khoảng 4,8 km. Trường Kinh doanh và các cơ sở thể thao, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm bên kia sông Charles, ở khu Allston của Boston. Trường Y khoa, Trường Nha khoa và Trường Y tế Công cộng nằm ở Khu Y khoa Longwood.


Trường Y khoa thuộc Đại học Harvard, được thành lập năm 1872.

.

Trường Thần học, thành lập năm 1816, là một trong những phân hiệu danh tiếng và lâu đời nhất ở Harvard. Trường đào tạo sinh viên trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật về tôn giáo hoặc chuẩn bị những kỹ năng để đảm nhận chức vụ trong tổ chức tôn giáo và xã hội.

.
Trường Sau đại học về Thiết kế (1914)


Hệ thống thư viện của Đại học Harvard rất hoành tráng. Trung tâm là thư viện Widener ở khu Harvard Yard, gồm hơn 80 thư viện riêng lẻ với hơn 15 triệu tài liệu. Theo Hiệp hội Thư viện Mỹ, đây là thư viện đại học lớn nhất nước và là một trong những thư viện lớn nhất thế giới.
 



Tại Harvard có các cơ sở thể thao như Lavietes Pavillion, một vận động trường đa năng và là sân nhà của các đội bóng rổ của Harvard. Trung tâm Thể thao Malkin (MAC) vừa là tiện nghi thể dục thể thao phục vụ sinh viên của trường vừa là cơ sở vệ tinh cho các cuộc thi đấu liên trường. Sân bóng trường Harvard được xây từ năm 1903 này là công trình đầu tiên sử dụng bê tông cốt thép trên thế giới. Năm 1987, sân bóng Harvard được công nhận là di tích lịch sử quốc gia Mỹ.


Theo HELINO