24 tháng 6, 2017

Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017


Vợ đại gia Cao Toàn Mỹ vạch trần toàn bộ lối sống bệnh hoạn và tư duy ung nhọt của chồng...


PLS - Mấy hôm nay em thấy trên mạng xôn xao về phiên tòa xét xử hoa hậu Phương Nga - nghi phạm lừa đảo tiền tỷ bằng “hợp đồng tình ái” với đại gia Cao Toàn Mỹ. Thấy sự việc càng lúc càng đẩy lên cao trào, em tự hỏi tới bao giờ nó mới đến hồi kết.
Tuy nhiên, có một người mà em quan tâm hơn cả hai con người ấy, giữa cuộc đối đầu hồng nhan với đại gia, đấy chính là vợ của Cao Toàn Mỹ – người vẫn đang im lặng, vô tình trở thành kẻ “bị loại” ra khỏi cuộc chơi này.
Những ngày xét xử đầu tiên, ngay trong lời khai tại phiên toà, bị cáo Nga đã tạo ra “cú sốc” khi thừa nhận giữa bị cáo và bị hại có “hợp đồng tình ái” với giá trị là 16,5 tỷ. Các bằng chứng cho thấy, nội dung email họ Cao gửi Hoa hậu đề cập tới “hợp đồng tình ái làm vợ 2” trong 7 năm, số tiền 10 tỷ. Sự thật này khiến vợ của họ Cao bị “sốc” vì trước đó hắn khăng khăng với vợ, đây chỉ là lời vu khống của phía Phương Nga.
Sau lần đó, tiếng nói của bà vợ họ Cao dường như mất hẳn. Có lẽ chị ấy đã phải đau khổ khi nhận ra sự thật rằng, người chồng bên cạnh mình không chỉ ngoại tình mà còn biến thái, lừa gạt cảm xúc của chị bao lâu nay. Chị tâm sự: “sau khi phiên toàn xét xử, tôi và chồng đã có buổi nói chuyện thẳng thắn. Sau buổi nói chuyện này. Tôi đã quyết định viết đơn ly hôn, tuy rằng anh ta không chịu ký. Nhưng tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi không biết sau này sẽ phải dạy con mình như nào, khi mà lớn lên chúng sẽ đọc nhưng email, hợp đồng…, và biết rằng bố mình có những hành vi lệch lạc, đến mức bệnh hoạn.”
Cách lựa chọn của vợ họ Cao cho thấy, chị là một người vợ không a dua theo chồng, không mù quáng trước sự lầm lỗi. Trái với các bà vợ biết chồng ngoại tình, biết chồng phạm tội nhưng thờ ơ mặc kệ vì sợ cảm giác từ bỏ, sợ phải mang tiếng, hay mất đi cái đang có. Nhưng bà vợ này thì không: “Từ trước đến giờ tôi luôn tin vào chồng tôi. Nhưng chắc do quá tin tưởng, mà chính bản thân mình không thể biết rằng. Cuộc sống rất nhiều chữ NGỜ. Và khi thốt lên hai từ: KHÔNG NGỜ!, thì mọi chuyện đã chuyển hướng hoàn toàn khác. Hiện tôi đã gửi đơn, và chắc cần diễn ra 3 vòng hoà giải, cũng như giải quyết tranh chấp tài sản phát sinh. Nhưng tôi nghĩ quyết định của tôi là phù hợp, tuy rằng sẽ thiệt thòi cho con cái lúc này. Nhưng về tương lai, chúng sẽ tránh xa được lối sống và tư duy ung nhọt kia.”
Biết chồng sai trái, vợ họ Cao vẫn thẳng thắn đối mặt, chứ không mặc kệ. Với cô, đây là vết rạn 1 lần nhưng hằng sâu mãi mãi, nó không chỉ gây đau đớn bây giờ, mà còn âm thầm ngấm vào mạch máu của con cái mai sau: “Cuộc sống có thể thay đổi liên tục, vận mệnh, và tiền bạc không thể trường tồn mãi mãi. Hãy tĩnh tâm, và giảm THAM-SÂN-SI. Cuộc chiến này, cho dù có thắng, cũng chỉ chuốc bao tủi nhục cho dòng họ Cao. Vì cuộc đời có thể đổi trắng thành đen. Nhưng trong tâm mình, thì không thể. Đến một lúc nào đó, sau ánh hào quang của chiến thắng. Là sự nhục nhã, ê chề của một kiếp “đàn ông.Hãy sống để người ta biết đến mình, để vinh danh mình. Chứ đừng sống, để người ta phỉ báng, bôi nhọ đến dòng họ và chính bản thân mình. Cũng như Trần Ích Tắc được ăn học, tài giỏi. Nhưng chỉ vì một chút THAM- SÂN – SI. Đã phản bội gia tộc- đất nước, đi theo giặc Nguyên. Mang tiếng xấu muôn đời. Vậy liệu rằng, đến đời con, đời cháu, khi nhắc lại vụ này. Hai từ đàn ông liệu có xứng dành cho anh?”.

Không chỉ dứt khoát chấm dứt cuộc hôn nhân ngang trái này, chị còn bày tỏ sự hiểu chuyện, sự xót thương của mình đối với “kẻ địch” Phương Nga: “Cùng là phụ nữ, chị thấu hiểu lỗi khổ của Phương Nga và Dung. Chỉ vì một chút toan tính, chỉ vì tham-sân-si. Mà họ phải rơi vào cảnh tù tội. Chịu cảnh áp lực quá lớn, nỗi oan ức thống khổ. Mà chắc kiếp này họ không thể nào nguôi ngoai được. Không chỉ bị dầy vò về thể xác, giờ họ còn bị tra tấn tinh thần. Tiền bạc đã làm cuộc sống, nhân văn đảo lộn. Trước khi nộp đơn, tôi cũng đã khuyên Mỹ, hãy là người đàn ông. Đều có chữ “Đàn” nhưng phần “Ông” và “Bà” thì nó hoàn toàn khác nhau. Bởi vậy, người ta mới tách 2 từ Đàn ông và Đàn bà ra là vậy.”
Không còn can dự vào cuộc đời nhau, người vợ hiền lương nói lên lời cuối, không chỉ cho bản thân mình mà còn cho phụ nữ kia, đang loay hoay trước lòng người hiểm ác: “Với Phương Nga, tuy rằng em là người có lỗi với chị. Nhưng là người phụ nữ, chị hiểu và đồng cảm. Ai cũng có một thời để yêu, để mơ và hoài bão. Giờ đây em đang phải đối diện với tấm bi kịch, phía sau màu hồng của tình yêu oan trái. Chị nhìn hình em tại Toà, chị cảm giác như một người hùng, có thể là Võ Thị Sáu? Nó tuy khác về nội dung, nhưng hình thức thì có thể. Một bên đối diện với súng đạn, còn một bên đối diện với TIỀN. Đơn giản thôi, vì thời trước là thời chiến, còn giờ là thời bình. Công cụ để người đời giết nhau bởi chính đồng TIỀN. Em cũng đã trút bỏ được gánh nặng, nỗi niềm của đàn bà. Hãy gắng lên, cho dù công lý có bị TIỀN chiến thắng, thì em cũng hy sinh vẻ vang, và được người đời- dư luận đồng cảm. Còn bên chiến thắng, chưa chắc là chiến thắng em à. Nhưng chị tin, mọi chuyện đã ra công luận, thì sức mạnh của đồng TIỀN cũng không thể tác oai tác quái. Chẳng lẽ nào điểm báo suy vi cho một xã hội TIỀN -TÌNH?”
Những dòng tâm huyết trên như “lời cuối” giữa biến cố cuộc đời. Tuy không dài dòng, nhưng dường như câu nào cũng đều ngấn lệ của người vợ bị phụ bạc, của hôn nhân tan vỡ trong oan trái, và sự oán thán cho 1 bóng hồng lạc lối. Được biết, chị vợ Cao Toàn Mỹ rất thông minh, và học giỏi, đã từng du học sinh tại nước ngoài, chị có học hàm, học vị, và là một người uyên thâm, nhưng đã từ bỏ tất cả, để ở bên gia đình, chăm sóc con cái. Vẻ bề ngoài, Đại gia Mỹ rất yêu thương, chiều chuộng vợ con trước mặt mọi người, nhưng khi về nhà, chẳng ai biết rằng, người đàn ông ấy đối xử với vợ ra sao…
Cuối cùng trong vụ việc này, người em thấy đáng thương nhất, thảm hại nhất, đáng khinh nhất chẳng ai khác là Cao Toàn Mỹ – người đàn ông hai mặt bị “vạch trần” trước ánh nhìn thiếu thiện cảm của thiên hạ. Một gã đàn ông đần độn đánh mất đi một người vợ tuyệt vời, bao dung và sâu sắc đến vậy. Ngày mai ngày kia, câu chuyện về “hợp đồng tình ái” này sẽ khép lại, có kẻ cười trên sự ô nhục, có kẻ khóc trong sự lỗi lầm, nhưng trên tất cả, sẽ không bao giờ họ có lại được một tình yêu lành lặn nào khác, sau tất cả vụ việc vừa qua…
Nguồn: moitruongdothi.com
Được đăng trên Cái Mu Rùa

TẢN MẠN HOA VÀ RƯỢU

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo

NGUYỄN TRỌNG TẠO
  1. HOA
Không rõ từ bao giờ, người ta đã ví đời Hoa với đời Người, đặc biệt là với Người đẹp. Mỹ nhân như hoa cách vân đoan. (Người đẹp như hoa cách tầng mây), Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung (Ngỡ mây là xiêm áo, ngỡ hoa là dung nhan)… Lý Bạch đã nhiều lần thảng thốt ngỡ người đẹp là hoa, ngỡ hoa là người đẹp. Lưu Tích Vũ uống rượu bên hoa lại “Chỉ e hoa nói nên lời: Em không phải nở cho người già nua” (Đãn sầu hoa hữu ngữ – Bất vị lão nhân khai) v.v… Đấy là rung cảm của người thơ về hoa.
Lại có những loài hoa cảm người thì thật lạ. Chỉ cần chạm tay vào cây hoa tử vi, lập tức tất cả hoa đều rung động. Một nhà sư ở chùa Từ Hiếu kể tôi nghe chuyện ông chăm sóc hai cây hoa nguyệt quế, chế độ chăm sóc giống nhau, nhưng tình cảm với cây khác nhau, rốt cuộc cây hoa ông dành tình cảm ưu ái thì nở hoa, còn cây kia thì không. Sách xưa cũng ghi chuyện Võ Hậu ra lệnh cho các loài hoa quanh cung cấm phải nở hoa cho bà thưởng ngoạn, tất cả các loài hoa đều tuân lệnh, riêng Lục Mẫu Đơn là không chịu nở. Hoá ra hoa cũng ưa chiều chuộng và hoa cũng biết giữ gìn khí tiết lắm thay.
Cái hạnh phúc của con người xứ nhiệt đới là quanh năm sống giữa bốn mùa hoa. Hoa gắn bó chia sẻ buồn vui với con người từ khi lọt lòng cho đến lúc trở về cát bụi. Từ vẻ đẹp thiên nhiên, hoa trở thành vẻ đẹp văn hoá khi đi vào thuần phong mĩ tục từ đời này qua đời khác. Hoa sinh nhật, hoa cưới, hoa tết, hoa tặng, hoa trang trí, hoa cảnh và hoa tiễn đưa đời người về nơi an nghỉ cuối cùng. Chưa hết, hoa còn được đặt trên bàn thờ cúng những hương hồn và thần linh. Có những loài hoa được chọn làm biểu tượng riêng cho từng mĩ tục. Trong ngày Lễ Nhớ Mẹ, các cô gái Nhật mang những giỏ hoa hồng màu trắng đi ra đường, cài hoa lên ngực áo những chàng trai đã mồ côi mẹ. Hoa hồng đỏ lại thường là biểu tượng của tuổi tác. Tình cờ tôi gặp một cô gái bên bến sông Thương mừng mẹ tròn 70 tuổi bằng cả một lẵng hoa gồm 70 bông hồng đỏ. Trong đám tang thi sĩ Xuân Diệu, giữa hàng trăm vòng hoa viếng, hiện lên một vòng hoa trắng độc sắc, đấy là vòng hoa của người vợ xưa đưa tiễn sự trinh trắng của chàng. Ngày tết, người miền Bắc coi hoa đào là “chúa xuân”, người miền Nam lại lấy hoa mai làm biểu tượng. “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, không ngẫu nhiên Nguyễn Du tả Kiều lại ví nàng với cốt cách của mai, và cũng không dễ gì Cao Bá Quát thốt lên Nhất sinh đê thủ bái mai hoa (Một kiếp cúi đầu lạy hoa mai). Chả thế mà thời Ngô Đình Cẩn quyền thế nhất miền Trung đã đem cả toà nhà đòi đổi một cây Mai thế trăm tuổi ở Long Thọ (Huế) mà chủ nhân của nó vẫn không chịu đổi.
Tôi đã được gặp những “bữa tiệc hoa” trong các gia đình Hoàng phái Huế. Mỗi đĩa thức ăn là một đĩa hoa. Từ món lòng gà xào dứa được sắp xếp thành hoa mai, hoa hồi, đĩa giò mỡ có nhân trứng hoa vàng, đến đĩa dưa món, đĩa rau sống thì quả là trăm hoa đua nở. Chỉ một đĩa rau sống đủ chứa đựng cả thế giới chan hoà màu sắc: Trên bầu trời xanh màu rau, nổi lên những ngôi sao vàng khế, những mặt trời đỏ rực cà chua, những vành trăng khuyết màu ngà của trái vả, những búp hoa ngọc lan trắng nõn màu đu đủ, và ớt đỏ nở túa ra những cánh hoa màu lửa. Bữa tiệc được kết thúc bằng món “bánh hoa” ngũ sắc thơm thảo, ngọt ngào như thấm đẫm hương vị tuyệt diệu của trời đất. Lúc ấy, thực khách hẳn sẽ phải thốt lên một tiếng khen “ngoo… oong” kéo dài theo kiểu Huế để cám ơn gia chủ.
Hoa gắn bó với con người đến nỗi, cha mẹ sinh con cũng lấy tên hoa mình yêu thích để đặt tên cho con cái. “Những Hồng những Cúc những Lan/ Những Mai những Huệ trần gian nao lòng”. Sư Giới Đức ở chùa Huyền Không còn lấy tên hoa đặt tên cho ngôi nhà lá đọc sách ngâm thơ của mình là Lý Thảo Đình, bởi vì khi làm xong ngôi nhà này, sư ông treo vào đó một chậu lan Lý Thảo, và sáng hôm sau bỗng thấy nó nở những nhành hoa rực rỡ. Ngược lại có tên người lại được dùng để nói về hoa như Chuỗi trăm hoa Tống Thị chẳng hạn. Theo Mộng Kinh sư thì Tống Thị là một mĩ nhân có tài kết chuỗi trăm hoa, ai đã ngửi thấy hương thơm của chuỗi trăm hoa do tay nàng kết thì đều mê mẩn hướng vọng về nàng. Tống Thị đã không chỉ làm say lòng chúa Nguyễn trong Nam, mà chuỗi trăm hoa của nàng còn làm cho Trịnh Tráng ngoài Bắc xao xuyến tâm thần phải mở cuộc Nam chinh để dẹp lòng người đẹp. Phải chăng, Tống Thị đã phối hưởng của nhiều loài hoa để tạo ra một mùi hương quyến rũ đặc biệt?
Đã là người thì có sinh có tử, đã là hoa thì có nở có tàn. Nhưng hoa đẹp chóng tàn thường khiến lòng người thảng thốt không nguôi. Nếu như đời hoa phù dung đẹp trọn từ bình minh đến hoàng hôn, thì đời hoa quỳnh – “nữ hoàng ban đêm” – chỉ làm cuộc hiến dâng trong chốc lát. Sắc đẹp và hương thơm của nàng hoa kiêu kì và đài các này chỉ dành cho người biết thưởng hoa mà thôi, nhờ thế mà người đời bày ra thú vui “uống rượu xem quỳnh nở”. Nói là thú vui, nhưng khi nhìn thấy hoa quỳnh rũ cánh tự liệm mình, lòng người thưởng hoa buồn ứa lệ, xao xuyến mãi trong lòng tâm trạng vừa hay tin người đẹp đã qui tiên…
Triêu vi phất vân hoa/ Mộ vi uỷ địa tiều (Sớm còn là cây hoa cao ngất tầng mây/ Chiều đã thành củi khô lăn lóc trên mặt đất). Bạch Cư Dị mười ba thế kỉ trước đã nhìn thấu cái chớp mắt kinh hoàng của đời Hoa, đời Người vậy đó. Nhìn thấu để cảm thông chia sẻ. Nhìn thấu để trân trọng, nâng niu, gìn giữ, yêu thương Cái Đẹp chớp mắt của Hoa, của Người vậy!
  1. RƯỢU

Rượu là một yếu tố đặc biệt trong sinh hoạt văn hoá từ xa xưa. Từ lễ tết hội hè đình đám đến những cuộc vui chơi thù tạc đều thấy sự hiện hữu của rượu, nó là chất men kích thích con người trở về với tự nhiên, xoá đi những hàng rào ngăn cách của ý thức. Người xưa nói Nam vô tửu như kì vô phong (Đàn ông không rượu như cờ không gió) chính là nói về cái lẽ tự nhiên mà rượu mang tới. Kề cận các trung tâm chính trị, văn hoá của các triều đại đều thấy xuất hiện những “trung tâm rượu” nổi tiếng và thường được duy trì lâu dài về hậu thế. Nếu như loài người đã tạo ra văn hoá, thì “văn hoá rượu” quả là đáng kể.
Tôi có may mắn được uống rượu từ nhiều “trung tâm rượu” của đất nước mình, nhưng đáng kể nhất vẫn là rượu làng Vân (Hà Bắc) và rượu Bàu Đá (Bình Định). Làng Vân thuộc vùng Kinh Bắc xưa, sau nhà Lý dời đô lên Thăng Long thì cũng chỉ cách lò rượu này vài chục cây số. Còn lò rượu Bàu Đá gần như kề sát kinh thành của người Chăm xưa. Năm 1985, tôi được chứng kiến lần đầu tiên nhạc sĩ Văn Cao uống rượu Bàu Đá vừa lấy ở lò ra, ông rất ngạc nhiên về sự thơm ngon đậm đà kì lạ, và đã đem so rượu Bàu Đá với rượu làng Vân. Ông nhận xét: “Rượu Vân mỏng, rượu Bàu Đá dày”. Những lò rượu nổi tiếng như thế đều được sản xuất với kĩ thuật bí truyền đặc biệt, đó là kĩ thuật ủ men, kĩ thuật chưng cất và có khi cái ngon đặc biệt của rượu nằm trong nguồn nước dùng chỉ có ở riêng một vùng đất mà thôi. Để giữ riêng kĩ thuật nấu rượu của mình, trước đây con gái làng Vân không được đi lấy chồng làng khác. Ngược lại, con gái Bàu Đá dẫu có về làm dâu vùng khác vẫn không thể nấu được rượu ngon như khi nấu rượu ở chính quê mình.
Kĩ thuật nấu rượu bí truyền ở làng Vân cho đến nay vẫn là cả một bí mật không dễ gì khám phá. Mấy năm trước, một đoàn cán bộ sinh hoá đã đến làng Vân nghiên cứu và làm thực nghiệm với những công cụ và phương tiện hiện đại để đối chiếu với công nghệ nấu rượu thủ công của một chị nông dân. Rốt cuộc, mẻ rượu của chị nông dân ngon và dịu hơn hẳn mẻ rượu của các nhà sinh hoá, dù “phương tiện” kiểm tra của chị chỉ có tay và mắt. Với công nghệ thủ công mà rượu làng Vân nổi tiếng khắp gần xa, và đã trở thành nguồn rượu quí đối với văn hoá ẩm tửu của vua quan ở kinh thành Thăng Long một thuở, nó từng được đóng vào các bình sứ với nhãn hiệu Vân Hà mĩ tửu có vẽ hình ông tiên cầm gậy trúc. Nhưng cũng có thời do tình hình khan hiếm lương thực, chính quyền đã cấm nấu rượu và tịch thu các phương tiện sản xuất ở lò rượu làng Vân.
Việc cấm rượu rốt cuộc đã không thành vì ẩm tửu đã trở nên một nhu cầu văn hoá có tính truyền thống. Bây giờ thì rượu làng Vân, rượu Bàu Đá không những được bảo tồn mà còn có xu hướng phát triển với qui mô lớn. ở Hà Bắc đã có cả một công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên sản xuất rượu bằng phương pháp thủ công cung cấp cho các đại lí, các khách sạn du lịch, các sân bay quốc tế và xuất khẩu ra nước ngoài với nhãn hiệu Vân Hương mĩ tửu. Tết vừa rồi ghé Vinh, tôi được nhà thơ Hồ Phi Phục thết một chai “Vân hương mĩ tửu”, mà chai và hộp đẹp không kém gì thứ rượu Tây mà ta vẫn thường gặp. Nhưng điều đáng nói hơn là loại “rượu nội” này còn ngon hơn bất cứ một thứ vốt-ca hảo hạng nào của Âu châu. Gần đây, có dịp đến Bắc Ninh, trong một cuộc nghe hát quan họ, tôi lại được nhấp một loại rượu Vân đặc biệt nữa, đấy là rượu cốm. Nghe đồn rằng, người làng Vân bây giờ không chỉ nấu rượu gạo, rượu sắn, rượu nếp như trước nữa, mà người ta còn nấu rượu bằng cốm. Cô gái quan họ chít khăn mỏ quạ, mang áo mớ bảy mớ ba, nâng trên tay ly rượu cốm trong veo, hát câu dân ca duyên dáng mời khách:
Tay tiên chuốc chén rượu đào
Sánh ra thì tiếc, uống vào thì say…
Nâng chén rượu lên môi, mùi hương cốm thấm hơi men toả thơm ngào ngạt. Rượu vừa nhấp đã cảm thấy người râm ran một cảm giác ngất ngây diệu vợi, cặp mắt, nụ cười trở nên tươi sáng kì lạ, và đầu óc bỗng minh mẫn khác thường. Theo sử sách ghi lại thì từ thời cổ đại, rượu là thứ đồ uống nhật dụng thường ngày kích thích bữa ăn thêm ngon miệng hoặc truyền thêm sức mạnh tinh thần cho con người, dần dà nó mới đi vào lối sống cao thượng của kẻ sĩ. Họ mượn rượu để bày tỏ nhân cách và quan niệm nhân sinh của mình. Rượu giúp cho văn nhân có cảm hứng khác thường, kích phát trí tưởng tượng và làm bùng cháy lên những tình cảm bột phát của linh tính. Những bài thơ tuyệt tác của Lý Bạch đều liên quan đến rượu là bằng chứng của sức sáng tạo bôn phóng độc đáo được rượu nuôi dưỡng và kích phát: Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân (Nâng chén mời trăng sáng/ Cùng với bóng thành ba người). Nguyễn Du hẳn cũng là đệ tử của Lưu Linh khi ông viết: Hữu khuyển thả tu sát/ Hữu tửu thả tu khuynh (Có chó cứ giết thịt/ Có rượu cứ nghiêng bầu) để rồi phóng ra những câu thơ phát sáng bất hủ. “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Hầu như các thi nhân đông tây kim cổ đều dính líu đến rượu. Chả thế mà từ xưa đã có câu “bầu rượu túi thơ” nói về mối quan hệ cực kì mật thiết giữa thơ và rượu.
Cái thú ẩm tửu làm phát lộ những tố chất chứa đựng tinh hoa của con người. Khai mở những giới hạn ràng buộc nặng nề trong cuộc sống, giải phóng những ẩn ức và thể hiện tâm cách một cách tự nhiên, mang tới niềm cảm thông, vui sống và sáng tạo. Đấy là Tiên tửu. Dưới Tiên tửu là Tục tửu, và sau nữa là Cuồng tửu. Những kẻ tục tửu thường lấy rượu làm mục đích, uống càng nhiều càng oai, nốc càng lắm càng hùng. Những kẻ cuồng tửu lại thường không kìm chế nổi mình, càng uống càng hung dữ. Vậy là rượu với người này hoá hay, rượu với kẻ kia hoá dở. “Tỉnh rồi mới biết mình say/ Tưởng là tại rượu, đâu hay: Tại mình”. Câu thơ tự kiểm của một người quá chén, kể cũng dễ thương sao. Có lần người viết bài này đã lẩn thẩn nghĩ rằng, bên cạnh bức tượng người phát minh ra nguyên tử cũng cần dựng thêm tượng của người phát minh ra rượu. Sức công phá của rượu đâu có thua gì sức công phá của nguyên tử. Vấn đề là người ta phải sử dụng nguyên tử và rượu như thế nào để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, chứ đừng dùng nó vào mục đích huỷ diệt những tốt đẹp được xây đắp từ bao đời.
Sẽ buồn tẻ biết bao nếu trên đời này không còn cái thứ nước mang tên là Rượu. Tất nhiên, điều ấy chẳng bao giờ xảy ra. Có như vậy, những lễ tết hội hè đình đám, gặp gỡ, chia li mới thêm niềm tri kỉ. Những cô gái trong cuộc vui chỉ nhấp môi vào ly rượu đủ ửng hồng đôi má, mà vẻ đẹp trở nên rực rỡ khác thường. Những chàng trai cạn vài ba chén rượu có thể đi tận mọi chân trời góc bể. Và các cụ già bên chén rượu nhâm nhi, như sống lại cả quãng đời oanh liệt tự hào. Và tết đến, tất nhiên rồi, xin đừng quên rót mời nhau chén rượu mừng xuân:
Tết mời nhau rượu uốngNào ai nỡ chối từCụng ly nghe mới sướngDốc cạn niềm tâm tư…nạn niềm tâm tư…
NGUYỄN TRỌNG TẠO
DÂN VIỆT NAM BỊ VẶT LÔNG QUA THUẾ .


Dân VN sướng nhé được ví như Vịt để nhà nước vặt lông qua thu thuế và phí như xăng dầu, điện, nước. ô tô vv . Dân bị thu nhiều thuế và phí nhưng cấm kêu to, kêu to là thịt , vẫn phải ơn đảng và bác mới có ngày hôm nay.

1)VẶT QUA THUẾ GIÁN THU : 
Người tiêu dùng không phải nộp thuế trực tiếp. Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian (thường là các doanh nghiệp). Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế vào công ty nhập khẩu xăng như Petrolimex (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, và đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ Thuế nhập khẩu đánh vào xăng 20%, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào xăng 10%, VAT đánh vào xăng 10%, thuế doanh thu đánh vào xăng VV
Ưu điểm của phương pháp thu thuế dán thu : Người tiêu dùng cảm thấy êm ái khi bị vặt lông không thấy sốc, đa số người dân không cảm thấy đau, không kêu khi bị thu thuế, vì doanh nghiệp là người đóng thuế thay sau đó doanh nghiêp chuyển thuế dần vào người mua hàng hóa.
Chúng ta uống 1 cốc bia số tiền phải trả là 2 cốc bia trong đó có 1 cốc trả cho thuế và phí cho nhà nước.
Chúng ta đi một lít xăng trả tiền khoảng 2 lít xăng trong đó có 1 lít xăng nộp thuế cho nhà nước.

2)VẶT QUA THUẾ TRỰC THU:
Thuế trực thu được đánh vào thu trực tiếp vào cá nhân hay tổ chức. VD: Như thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài sản, thuế thừa kế VV
Thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp cho nhà nước, nên người bị thu thuế họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới những phản ứng không êm ái khi bị vặt lông.

Thuế và phí/ GDP ở Việt Nam rất cao, cao khoảng 1,4 đến 3 lần.so với khu vực Asian.
Dân Việt Nam hiền lành cam chịu như đàn Vịt thì bị NN vặt lông Vịt . Cứ hiền lành cứ cam chịu như đàn Cừu thì bị NN xén lông cừu.
PTS

Thằng điên


TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế


TẠI DIỄN ĐÀN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2017 DIỄN RA TẠI HÀ NỘI SÁNG NAY (22/6), NHIỀU CHUYÊN GIA KINH TẾ CÙNG CHUNG TAY MỔ XẺ VÀ ĐƯA RA GIẢI GIÚP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN NÓI RIÊNG VÀ DOANH NGHIỆP (DN) VIỆT NÓI CHUNG THỰC SỰ TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI.


Về chính sách thuế, TS Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế nói: Đứng ở góc độ trung gian chúng ta có cơ sở tính thuế đúng và đủ nhưng thực hiện chưa đúng. Trên thế giới có hai điều mà chúng ta không thể không gặp trong kinh doanh: một là cái chết và hai là đóng thuế.
"Người ta nói thu thuế cũng như vặt con vịt, vặt càng nhiều lông thì càng tốt, nhưng đừng để nó kêu to nhất, hay chết đi", ông Ánh ví von.


23 tháng 6, 2017

Giai Nhân – Đỗ Phủ *Chỉ thấy người nay cười, nào ai thấy người xưa khóc*

杜甫 

佳人 

絕代有佳人, 幽居在空谷; 
自云良家子, 零落依草木。 
關中昔喪亂, 兄弟遭殺戮; 
官高何足論? 不得收骨肉。 
世情惡衰歇, 萬事隨轉燭。 
夫婿輕薄兒, 新人美如玉。 
合昏尚知時, 鴛鴦不獨宿; 
但見新人笑, 那聞舊人哭? 
在山泉水清, 出山泉水濁。 
侍婢賣珠迴, 牽蘿補茅屋。 
摘花不插髮, 采柏動盈掬。 
天寒翠袖薄, 日暮倚修竹。 
Giai nhân 
Tuyệt đại hữu giai nhân 
U cư tại không cốc 
Tự vân lương gia tử 
Linh lạc y thảo mộc 
Quan Trung tích táng loạn 
Huynh đệ tao sát lục 
Quan cao hà túc luận 
Bất đắc thu cốt nhục 
Thế tình ố suy yết 
Vạn sự tùy chuyển chúc 
Phu tế khinh bạc nhi 
Tân nhân mỹ như ngọc 
Hợp hôn thướng tri thời 
Uyên ương bất độc túc 
Ðản kiến tân nhân tiếu 
Ná văn cựu nhân khốc 
Tại sơn tuyền thủy thanh 
Xuất sơn tuyền thủy trọc 
Thị tỳ mãi châu hồi 
Khiên la bổ mao ốc 
Trích hoa bất sáp phát 
Thái bách động doanh cúc 
Thiên hàn thúy tụ bạc 
Nhật mộ ỷ tu trúc 
Dịch Nghĩa— 
Có người con gái đẹp tuyệt trần, 
Sống âm thầm trong núi non vắng vẻ. 
Nàng kể lể vốn con nhà đàng hoàng, 
Mà nay phiêu dạt cùng với cỏ cây. 
Vào buổi Quan Trung loạn lạc xa xưa, 
Anh em đều bị sát hại . 
Quan quyền cao sang mà kể làm gì, 
Chết chẳng nhặt nhạnh được thịt xương . 
Tình đời vốn rẻ rúng, ghét bỏ sự suy vi . 
Muôn việc tùy cho ngọn đèn nhấp nháy . 
Anh chồng là phường bạc bẽo, 
Ðem về người mới xinh như ngọc . 
Cây hợp hôn còn biết nở đúng lúc, 
Chim uyên ương không sống đơn độc . 
Chỉ thấy nụ cười của người mới, 
Mà không nghe tiếng khóc của người cũ . 
Ở trong núi, nước suối được trong sạch, 
Ra khỏi núi, nước suối bị vẫn đục . 
Người hầu gái đi bán ngọc trở về, 
Bứt dây dại che chắn cho mái tranh . 
Ngắt đóa hoa mà không cài lên tóc, 
Hái lá bách vốc đầy một bụm tay . 
Trời buốt giá,tay áo màu xanh mong manh, 
Chiều chiều đứng tựa khóm trúc dài . 
— Bản dịch của Trần Trọng Kim — 
Người đẹp 
Một trang quốc sắc tuyệt đời 
Náu thân hiu quạnh ở nơi hang cùng 
Kể rằng con cái nhà tông 
Sa cơ phải lạc loài cùng cỏ cây 
Quan trung loạn lạc những ngày 
Anh em bị hại bởi tay hung tàn 
Kể chi hiển trật cao quan 
Thảm thay đến nổi xương tàn không thu 
Tình đời suy có ai phù 
Việc đời chi khác đèn cù xoay quanh 
Lang quân cũng thói bạc tình 
Coi người mới đẹp như hình tiên sa 
Biết thời kia dạ hợp hoa 
Cặp uyên ương nọ thường là ngủ đôi 
Chỉ trông người mới vui cười 
Nghe đau tiếng khóc của ai cô phòng 
Suối còn trong núi suối trong 
Suối ra khỏi núi, suối trông đục ngàu 
Sai tì đi bán hạt châu 
Lều tranh rác nát phải khâu dây lài 
Ngắt hoa mái tóc không cài 
Vốc đầy lá Bách, hái hoài không thôi 
Lạnh lùng tay áo mỏng tơi 
Trời hôm dựa khóm trúc dài thẩn thơ. 
— Bản dịch của Nam Trân — 
Có con người đẹp tuyệt vời, 
Nương cây nấp cỏ ở nơi hang cùng. 
Rằng: “Xưa con gái nhà dòng, 
Lạc loài từ buổi Quan Trung gặp nàn. 
Anh em đều chịu chết oan, 
Xương rơi, thịt nát, kể quan làm gì? 
Tình đời ghét yếu, chán suy, 
Việc đời muôn đổi khác chi bóng đèn! 
Ông chồng gan dạ bạc đen, 
Mà cô vợ mới như tiên non Bồng! 
Hợp hoan hoa cũng đèo bòng, 
Uyên ương chim cũng đậu chung cành dài, 
Chỉ nghe vợ mới nô cười, 
Khóc than vợ cũ sụt sùi uổng công. 
Suối còn ở núi thì trong, 
Suối ra khỏi núi vừa xong, đục rồi. 
Con hầu đi bán ngọc trai, 
Trở về dứt lá dọi ngoài mái tranh. 
Bứt hoa chẳng dắt tóc xanh, 
Ngắt bòn quả trắc để dành đầy tay, 
Trời chiều vạt lụa mỏng bay, 
Lạnh lùng đứng tựa gốc cây tre dài”. 
— Bản dịch của Tương Như (Nam Trân bản 2) — 
Người đẹp nhất trần gian, 
Náu mình nơi hang hốc, 
Rằng thiếp vốn con nhà, 
Lạc loài nơi sim móc. 
Quan Trung thuở giặc tràn, 
Anh em bị giết chóc. 
Quyền quí nói mà chi, 
Thịt xương đành bỏ mục. 
Thói đời ghét vận suy, 
Đời chao như ngọn đuốc. 
Ông chồng bạc như vôi, 
Vợ mới đẹp như ngọc. 
Uyên ương đậu có đôi, 
Hợp hoan biết nhớ lúc, 
Chỉ thấy người mới cười, 
Nào nghe người cũ khóc. 
Ở núi, nước khe trong, 
Khỏi núi, nước khe đục. 
Hầu gái bán ngọc về, 
Bứt dây chèn mái nóc, 
Hái hoa chẳng cài đầu, 
Nhặt quả cho đầy vốc. 
Trời rét áo phong phanh, 
Chiều hôm tựa khóm trúc. 
(1) Nơi nhà Tần đóng đô. Đây chỉ Trường An, Kinh đô nhà Đường, năm 755 bị An Lộc Sơn đánh phá. 
(2) Vì đói, ăn quả bách thay cơm. 
Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu— 
Cô gái đẹp tuyệt trần 
Trong núi sống âm thầm 
Lạc loài cùng cây cỏ 
Vốn con nhà xuất thân. 
Xưa Quan Trung loạn lạc 
Anh em chết thảm thương 
Cả quan cao hiển đạt 
Thây không vẹn thịt xương. 
Đời suy sụp ai phù 
Muôn việc tựa đèn cù 
Anh chồng phường bạc bẻo 
Vợ mới ngọc vừa thu . 
Hợp hôn cũng theo thời 
Uyên ương không đơn độc 
Thấy người mới tươi cười 
Không nghe người cũ khóc . 
Trong núi suối xanh lơ 
Khỏi núi, nước đục mờ. 
Hầu gái đi bán ngọc 
Sửa mái tranh xác xơ. 
Ngắt hoa không cài tóc 
Áo mỏng lạnh buốt tay 
Hái lá đầy bụm vốc 
Chiều tựa trúc thở dài. 
 Bản dịch của NguyễnTâmHàn — 
Giai nhân 

Người tiên dáng vẻ trang đài 
Âm thầm nét ngọc giữa nơi núi rừng 
Vốn nhà khá giả … 
bỗng dưng 
Cuộc đời trôi giạt đến vùng cỏ cây 
Quan Trung buổi loạn trước đây 
Anh em yểu thác, phận nầy long đong 
Quan quyền chi … tủi cho lòng 
Chết nằm thịt rữa, người không đoái hoài 
Tình đời bạc bẽo như vôi 
Thân giờ đốm lửa giữa trời phong ba 
Đường tình cũng lắm xót xa 
Chồng thương người mới nõn nà xinh tươi 
Hợp hôn hoa nở cùng thời 
Chim uyên ương cũng có đôi xum vầy 
Tiếng cười hạnh phúc mê say 
Chẳng nghe tiếng nấc phận này cô đơn 
Suối trong lúc chẩy từ nguồn 
Qua vùng núi biếc nước tuôn đục ngầu 
Bán ngọc về, bé gái hầu 
Ôm theo lá dại vá đầu mái tranh 
Ngắt hoa… 
ngơ ngẩn… 
vô tình 
Bứt hoài lá Bách quanh mình chẳng thôi 
Trời trở lạnh 
nắng chiều phai 
Áo xanh tựa trúc trông vời xa xăm 
— Bản dịch của Phụng Hà — 
Người đâu nhan sắc tuyệt trần , 
Tím nơi hoang văng, nương mình non sâu . 
Rằng, xưa danh giá như ai , 
Sa cơ, nay phải cỏ cây bạn cùng . 
Quan Trung loạn lạc hãi hùng , 
Anh em táng mạng để nàng một thân . 
Nào đâu hiển quý cao sang , 
Đồng hoang gò thẳm xương tàn còn chi . 
Thói thường người ghét kẻ suy , 
Giòng đời chao đảo khác chi đèn lồng . 
Phu quân vốn kẻ hai lòng , 
Tình nhân mặt ngọc đèo bòng mê si . 
Hoa hợp hôn nở đúng thì , 
Đôi uyên ương, chẳng mấy khi tách rời . 
Trông tình nhân mới vui cười , 
Nào hay người cũ sụt sùi đêm thâu . 
Suối còn trong núi trắng phau , 
Nước ra khỏi núi đục ngầu thảm thê . 
Thị tì bán hạt châu về , 
Lều tranh dặm vá tứ bề dây khâu . 
Ngắt hoa chẳng muốn cài đầu , 
Trái rừng nàng hái cũng đầy vốc tay . 
Chiều đông áo mỏng, gió may , 
Tựa bên khóm trúc chẳng khuây mối sầu . 
Bản dịch của Anh-Nguyên— 
Có người nữ đẹp tuyệt vời, 
Náu nương hang trống làm nơi qua ngày. 
Gia đình nền nếp xưa nay, 
Lạc loài nên phải cỏ cây vui cùng. 
Khi xưa loạn đến Quan-Trung, 
Anh em gặp nạn đều cùng chết oan. 
Quan trên, sao thể kêu van, 
Không thâu được cả xương tan thịt rời. 
Thói đời ghét kẻ hết thời, 
Đều theo ngọn đuốc làm nơi hướng về. 
Nên chàng bạc bẽo bỏ bê, 
Tấm thân ngà ngọc mới về chưa quen. 
Cỏ trinh nữ biết ngày đêm, 
Chim ương chẳng ngủ, suốt đêm ngóng chồng. 
Chỉ hay gái mới cười không, 
Đâu nghe vợ cũ khóc trong khuê phòng! 
Ở nơi khe núi, suối trong, 
Ra ngoài, suối đục, ấy lòng người ta. 
Gái hầu bán ngọc chợ xa, 
Mang về bó cỏ dặm nhà vách tranh. 
Ngắt hoa, gắn tóc chẳng đành, 
Nhiều lần hái bách, trung thành với ai! 
Lạnh trời áo mỏng rách vai, 
Chiều chiều tựa trúc thở dài xót thân!… 
— Bản dịch của Viên Thu — 
Núi vắng âm thầm ẩn một thân. 
Nàng thật vốn con nhà thế phiệt, 
Mà nay dạt tựa cỏ lau ngàn. 
Quang trung ngày ấy còn liêu loạn, 
Huynh đệ đều cùng bỏ mạng oan. 
Quan chức cao sang nào đáng kể, 
Chết không nhặt được nắm xương tàn. 
Tình đời khinh miệt kẻ sa cơ, 
Mọi việc buồn như nến tỏ mờ. 
Chồng lại vốn là phường bạc bẽo, 
Rước về người ngọc đẹp như mơ. 
Nở hoa dạ hợp, đêm còn nhớ 
Rẻ bóng uyên ương, dạ chẳng ngờ. 
Chỉ thấy ai nay cười hớn hở, 
Nào nghe người cũ khóc bơ vơ. 
Trong non, suối hãy còn trong sạch, 
Ra núi, nước thôi đã đục nhờ. 
Hầu gái bán châu về lảng đảng, 
Nhặt bìm dặm mái cỏ hoang sơ. 
Hoa hái chẳng cài vầng tóc lệch, 
Tay đầy lá bách vốc thờ ơ . 
Trời hàn cánh áo xanh xao mỏng, 
Tựa trúc chiều, ai đứng ngần ngơ. 

22 tháng 6, 2017

Nguyễn Thông - Quốc hội xắn nhát xẻng cuối cùng đào huyệt chôn giới luật sư


Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi, định viết, định thôi. Xứ này thiếu gì luật sư, luật gia, thày cãi, có cả Liên đoàn luật sư quốc gia, rồi tỉnh thành nào cũng có Đoàn luật sư, họ im không lên tiếng, mắc mớ gì tới mình. Nhưng sự khó chịu để âm ỉ trong người, giữa những ngày bức bối nhiệt độ cao thế này, không xả ra có khi điên mất. Thôi thì dăm ba chữ, chả nhằm cứu ai, trước hết chỉ cứu cái thân mình.
Nguyễn Thông
Chả là chiều 20.6, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự sửa đổi (2015) với đa số phiếu, trong đó vẫn giữ nội dung “luật sư phải tố giác thân chủ”. Khi luật đã được thông qua và ban hành thì chỉ có chấp hành, cấm cãi.
Điều đáng nói, nội dung này khi còn dự thảo được trình Quốc hội để lấy ý kiến đã bị dư luận phản đối dữ dội. Hầu hết cho rằng không thể như vậy được, trên thế giới chả có ai làm thế. Xưa nay, xứ ta cứ thích đi một mình một đường, cứ đòi “áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam”, đường ta ta cứ đi, kệ chông gai ngăn trở. Cũng có trường hợp đi được tới đích nhằm chỗ sáng tươi, nhưng phần nhiều đâm đầu vào ngõ cụt, vực sâu, mà trường hợp dứt khoát yêu cầu luật sư phải tố giác thân chủ là một ví dụ.
Người ít học nhất cũng hiểu rằng luật sư là người bảo vệ cho thân chủ. Dân gian gọi nôm na là thầy cãi. Luật sư có nhiệm vụ cãi cho người mình nhận bảo vệ trước tòa. Dù thân chủ là bị cáo (cáo buộc có tội) hay nguyên cáo (đứng ra tố cáo, khởi kiện) thì luật sư được bên nguyên hoặc bên bị thuê đều phải tìm mọi cách bảo vệ khách hàng của mình (thân chủ). Đó là trách nhiệm của luật sư, và chỉ có trách nhiệm ấy, không còn gì khác.
Luật pháp quy định người bị cáo buộc phạm tội bị đưa ra tòa xét xử luôn có quyền yêu cầu luật sư bảo vệ. Rất nhiều trường hợp bị cáo không nêu ra yêu cầu ấy thì cơ quan pháp luật chỉ định luật sư đứng ra làm việc đó. Tức là không để bất cứ ai bị thiệt thòi quyền bào chữa trước tòa. Cũng có trường hợp bị cáo nói rõ không cần luật sư mà sẽ tự bào chữa, pháp luật cũng chấp nhận.
Khi bị cáo thuê luật sư, hoặc có những luật sư tự nguyện bào chữa và được bị cáo chấp nhận thì đã xác lập mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ. Bị cáo tin tưởng, thâm chí tin tưởng tuyệt đối vào luật sư, sẵn sàng cung cấp mọi tài liệu cần thiết, thổ lộ mọi sâu kín, bí ẩn để luật sư nắm vững vụ việc, từ đó luật sư tranh cãi có lợi cho thân chủ của mình. Bị cáo đặt niềm tin vào luật sư, giống như trao cả cuộc đời mình vào vị cứu tinh.
Hãy đặt ra trường hợp, sau khi luật sư nhận được những thông tin từ thân chủ, thay vì dùng nó để bào chữa cho bị cáo, thì luật sư đem đi báo nhà chức trách (công an, kiểm sát). Hành động ấy, nói cho cùng, là sự phản phúc, phản bội, không chỉ đối với người đã đặt niềm tin vào mình, mà cả đối với lương tâm mình, nghề nghiệp của mình. Chỉ bằng việc tố cáo, luật sư đã tự biến mình thành mật thám, Giuda (Judas) chứ không còn là trạng sư, thầy cãi nữa.
Thời phong kiến, ngay cả những bộ luật bảo thủ bảo hoàng nhất cũng còn cho phép bậc cha mẹ có quyền không tố cáo con cái nếu chúng vi phạm pháp luật. Vấn đề mà luật phong kiến xem xét là khía cạnh đạo đức, lương tâm.
Cũng có thể cơ quan pháp luật sau khi tiếp nhận thông tin (tố cáo) sẽ giữ bí mật về nguồn cung cấp nhưng tôi đoan chắc rằng luật sư tố cáo đó sẽ không bao giờ yên ổn về lương tâm nghề nghiệp, rồi sớm muộn cũng phải bỏ nghề, trừ trường hợp là kẻ táng tận lương tâm. Tưởng không ai biết nhưng trời biết, kẻ nhận thông tin từ mình biết (sẽ coi mình chả ra gì), bản thân mình biết, giấu làm sao được.
Một khi luật sư đã đứng ra tố thân chủ thì đương nhiên không thể tiếp tục bảo vệ cho người ta nữa. Ai sẽ đứng ra bảo vệ tiếp cho bị cáo. Không ai cả. Quyền được bào chữa sẽ bị tiêu hủy, quyền con người bị dập tắt, chỉ bởi một quy định không giống ai.
Và thật lạ, một hệ thống luật pháp lại ngang nhiên sử dụng những kẻ phản bội, phản phúc, rồi nó sẽ đi về đâu.
Đã từ khá lâu rồi luật sư ở xứ này bị nhà cai trị lợi dụng, coi như cây cảnh, bonsai, để trang trí cho bức tranh dân chủ công lý. Nay thêm nhát xẻng này, cái hố đã xong, chỉ cần lấp đất là hoàn thành cuộc chôn vùi.
Lão Maddox hàng xóm nhà tôi, khi đọc cái thông tin về sự tố cáo phản bội kia đã chốt lại rằng không ngờ cơ quan chuyên đẻ ra luật pháp lại thông qua một thứ luật vô pháp đến vậy.

21.6.2017

Nguyễn Thông

(FB Nguyễn Thông)