17 tháng 4, 2015

PHẢI ĐỊNH NGHĨA LẠI, THẾ NÀO LÀ ÔNG CHỦ, THẾ NÀO LÀ ĐÀY TỚ


Nói vậy, nhưng chế độ XHCN làm gì còn người bóc lột người, mà nói hai chữ "Chủ - Tớ". Thế thì cán bộ đảng viên tự nhận mình là đày tớ trung thành của Dân, là nô bộc cho Dân, là một điều có thật không , có mâu thuẫn không ?

13 tháng 4, 2015

Đời nghệ sĩ

0410.IMG_1969.jpg-550x0Từ ngày triều đình mới lập ra huân chương Sao Đỏ, Ếch Rêu là một trong những nghệ sĩ đầu tiên nhận được vinh dự trao tặng phần thưởng danh giá này. Thật dễ hiểu khi lục tìm các tờ báo vào thời kỳ đó, tràn ngập những bài viết, những phỏng vấn, các hồi ức về ngài Ếch Rêu. Ngay trên trang nhất của tờ “Sự Thật Đầm Lác” đăng một bài dài của Tổng biên tập Cú Mèo. Bài viết với những lời lẽ nhiệt thành, mực thước của một vị lão thành cách mạng. “Xuất thân từ tận đáy xã hội, trong các vũng nước tù đọng, từ đám nòng nọc đứt đuôi, Ếch Rêu lớn lên hòa nhập vào dòng bão táp cách mạng. Ngài dấn thân vào phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa các loài vật. Kể hết những đóng góp của ngài cho sự phát triển văn hóa văn nghệ xứ Đầm Lác gần như là một việc không thể”. Tờ “Thời báo Đầm Lác”, bài của Giáo sư Cò Bợ ngân nga như một bản tình ca. “Về nghệ thuật, ngài Ếch Rêu là người dặt nền móng cho trường phái nghệ thuật mới với tên gọi “lãng mạn Đầm lầy”. Tiếng “uôm uôm” của ngài mới rền vang, dân dã, ấn tượng làm sao! Họa mi ư? Vàng anh ư? Trống rỗng, vô vị, sặc mùi tư sản. “Uôm uôm” là tiếng hát, là khát vọng của mọi con tim nô lệ đang hướng về trời xanh, chờ đợi những cơn bão tố”. Tờ “Văn nghệ Ếch” thì đăng hàng loạt bài của các cây bút có uy tín bình luận về sự nghiệp Ếch Rêu.
Theo nhà nghiên cứu Chuột Chũi thì trong thời kỳ Súc sinh Giai phẩm, Ếch Rêu thực sự là một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Gạt tình riêng, hướng về mục đích cao cả, ngài đã có những bài luận đanh thép về hiện tượng Chích Chòe Than, đại diện cho lực lượng chậm tiến, xa rời cuộc sống.
Cụ Cóc Tía bồi hồi nhớ lại. “Ếch Rêu và Chích Chòe Than đều cùng sinh ra từ nơi tối tăm, thấp kém. Trong lúc Ếch Rêu đang ngoe nguẩy trong vũng nước thối thì dưới đám cỏ rối, Chích Chòe Than cũng vừa chui ra từ quả trứng nhỏ xíu, trong cái tổ sơ sài. Cả hai cùng có chất giọng thiên phú, nhưng giữa họ là những vực thẳm”. Thiên hồi ức của cụ Cóc Tía thật đáng cho giới trẻ lấy làm bài học của cuộc đời. “Trong khi Ếch Rêu hăm hở hướng nghệ thuật của mình vào cuộc sống thì than ôi Chích Chòe Than lại hoang phí tuổi xuân vào một thứ nhảm nhí nhất là nghệ thuật vị nghệ thuật! Dáng đi nhún nhảy, suốt ngày véo von kiểu “tâm hồn treo ngược ở cành cây”, Chích Chòe Than càng ngày càng xa rời cuộc sống”. Cụ Cóc Tía kết luận: “Những bài viết đầy chất thép của Ếch Rêu khiến Than không dám ngước mặt nhìn trời. Gã lủi thủi bỏ đi, nghe nói lén lút vượt biên, sống đời canh thừa cơm cặn bên Đầm Tây, là xứ sở của bất công, bóc lột và xa hoa. Than làm kẻ nghệ sĩ không quê hương bản quán, vật vờ như chiếc lá khô”.
***
Trời đất vần xoay, gió đổi chiều, Đầm Lác bước sang một thời đại mới với những quan niệm nghệ thuật khác hẳn. Hàng chục trước tác của Ếch Rêu nằm im lìm trong các thư tịch cổ. Chích Chòe Than bất ngờ trở lại cố hương. Gã liên tiếp làm hàng chục “sâu diễn” hoành tráng. Gã đóng phim, cưới vợ, rồi bỏ vợ, rồi làm đạo diễn phim. Gã vừa lấy cô vợ mới. Cả Đầm Lác như lên cơn sốt khi nghe tin gã sắm cho tân nương chiếc giường cưới giá đến 6 tỷ, đặt mua từ Thụy Sĩ. Ếch Rêu giờ đã trở về già. Trong hang nước lạnh bên bờ đầm, ngài nằm im lìm như đất, đôi mắt trồi ra, mờ đục.
***
Một đêm mưa, Thượng Đế cưỡi mây đen bay qua vùng Đầm Lác. Trong gió mưa vẳng lên tiếng “uôm uôm”. Tiếng ca não nề khiến Thượng Đế rơi lệ. Ngài quay lại than với tả hữu: “Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến nay, ta mới nghe được tiếng hát bi thương như vậy. Phải là một tâm hồn nghệ sĩ đích thực mới có thể làm ta xao xuyết đến nghẹt thở”. Nam Tào nhanh nhảu bước lại chắp tay cung kính: “Muôn tâu Ngọc Hoàng, tiếng ca đó là của nghệ sĩ công huân Ếch Rêu xứ Đầm Lác đấy ạ”. Sáng hôm sau, tờ “Buổi sáng Đầm Lác” đăng cáo phó về “cái chết đột ngột lúc nửa đêm của ngài Ếch Rêu”. Không có chân dung, chỉ vài dòng tiểu sử sơ sơ sài đăng ở trang cuối, không ai để ý. Thiên hạ đang chú mục vào trang nhất có bài của Giáo sư Cò Bợ, với cái tít nghe dõng dạc như một tuyên ngôn: “Xu hướng nghệ thuật mới- thế thượng phong tất yếu của lịch sử”.
  (Theo http://nguyenhoalu.wordpress.com)

Mắt mẹ và Kỳ án vịt cỏ

18/12/2014
 
* Mắt mẹ
LTS: Những ký ức tuổi thơ bên mẹ được tìm thấy sau nhiều năm bươn trải, để rồi thấy rằng, trên thế gian không ai yêu con bằng mẹ... Học lối kể chuyện ngụ ngôn để nói về thế sự thời nay thật dí dỏm... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm truyện rất ngắn của tác giả Nguyễn Hoa Lư.
Sau gần mười năm đi du học nước ngoài, anh về thăm làng cũ. Ngày xưa, khi rời làng, anh là một cậu học trò nhút nhát. Bây giờ thì anh đã nổi tiếng. Tuy vậy, khi bước thấp bước cao trên những con đường làng khúc khuỷu, rợp bóng tre, hương cau thơm nức, anh không khỏi bồi hồi.
Ông bác họ chống gậy đi sang, tiếng oang oang:
- Thằng này khá. Họ ta từ xưa đã nổi tiếng là có nhiều người đỗ đạt. Nhưng đi nhiều thì chắc chưa ai vượt qua cháu.
Thằng cháu đang học lớp 12 lên tiếng:
- Chú ấy đi một tuần, bằng cả họ mình đi trong cả chục đời chứ ít à.
Ông bác gật gù:
- Thì mới tuần trước nó đang ở Pháp, nghe nói vài hôm nữa phải có mặt ở Nhật Bản rồi.
Anh nói với thằng cháu:
- Nhiều quan niệm cũ bây giờ hoàn toàn bị đảo ngược. Ví như… – Anh lúng túng, muốn chọn một thí dụ thật dễ hiểu – ví như cái đồng hồ, xưa nay luôn luôn kêu tích tắc, thế rồi người ta chế ra một loại đồng hồ cứ câm như thóc, vậy mà cả triệu năm mới sai một phần nhỏ của giây. Đó là trong lĩnh vực công nghệ. Còn trong quan hệ, có nhiều người cùng tuổi cháu, mà học trò là những giáo sư tóc đã bạc, nhiều người khác đang học đại học, mà điều hành những công ty có cả vạn người…
Ông bác thủng thẳng:
- Nhưng vẫn có những thứ muôn đời không thay đổi đâu, các con ạ!
Ông bác về rồi, mẹ anh kêu anh ra giếng tắm. Bà múc từng gàu nước dội lên tai, lên cổ anh. Bàn tay nhăn nheo kỳ cọ cho anh. Ba bốn năm nay, mắt bà gần như mù hẳn. Những ngón tay bà lần tìm vết sẹo sau vành tai anh.
Bà cười nhẹ:
- Có vết sẹo này, dẫu đi cùng trời cuối đất, mẹ cũng không lạc con mình được. Thế mà hồi đó mẹ lo quá, cứ nghĩ quẩn. Nhà có thuốc gì đâu, mấy cái lá ngoài vườn đắp lên, rồi nhờ trời mà khỏi.
- Ôi, mẹ…
- Con cứ có tật hay thức khuya rồi cứ lăn ra giường mà ngủ. Rồi cũng có ngày muỗi nó tha ra liệng ngoài ao mất thôi.
Anh cố cười lớn mà mắt cứ cay xè.
Có nhiều thứ trên đời sẽ còn thay đổi, nhưng tình mẹ già thì bao giờ vẫn vậy, mãi mãi xưa cũ mà luôn luôn mới mẻ, cảm động!
* Kỳ án vịt cỏ
Cô nàng Vịt Cỏ vừa bảo vệ thành công luận án thạc sĩ, đề tài “Sự cách tân trong tiếng kêu đêm của Quạ Khoang”. Cả năm thành viên đáng kính của Hội đồng chấm luận án nhất trí cho điểm tuyệt đối. Sáng hôm sau, tờ “Thời báo Vịt Trời” đăng một bài báo dài với cái tít ấn tượng “Một tài năng mới của nền văn học Đầm Lác”.
Ba năm sau, tờ tạp chí “Văn hóa Đầm Lác” xuất hiện bài viết của nhà lí luận phê bình Két Xanh, đăng mấy kỳ liền. Bài viết đưa ra những phân tích sắc bén về sự lầm lạc, mất phương hướng ẩn dưới lớp áo khoa học giả hiệu trong luận án của Vịt Cỏ. Ngay lập tức, hàng chục tờ báo chính thống của Đầm Lác nhao nhao tiếp ứng như một dàn đồng ca nhiều bè. Các bài viết hè nhau dội xuống bản luận án những lời lẽ kết tội nặng nề, coi đó là: “Mưu toan giải thiêng và nổi loạn của Vịt Cỏ…”.
Không phải mọi ý kiến đều đồng thuận. Trên một số trang mạng, đám chích chòe, bồ nông, giận dữ đưa ra nhiều ý kiến phản biện. Theo nhóm Bồ Nông, đó là “sự lên ngôi trở lại của phê bình kiểm dịch… văn học theo định hướng xã hội đầm lầy… phê bình chỉ điểm đang soán ngôi… thời kỳ nhân văn giai phẩm đã trở lại…”.
PGS. Ngỗng Trắng là thành viên trong ban chấm đề tài cũng đưa ý kiến. Với những lí lẽ mực thước, thâm trầm, PGS. Ngỗng đứng ra dàn hòa: “Vịt Cỏ hãy còn trẻ. Ở lứa tuổi bồng bột như vậy, thật đáng quý ta biết dấn thân trong sáng tạo. Tác giả Vịt Cỏ bắt đầu có được những thao tác trí tuệ trong tư duy, nắm vững những lí luận nghiên cứu hiện đại. Tôi khẩn thiết mong quý vị trước khi ném đá hãy sờ lên đầu hói của mình mà nhớ đến thuở khi người ta trẻ…”.
Có vài phản biện vừa thắp lên lập tức bị dội xuống bằng một thùng nước lạnh. Trên tờ “Sự thật Vịt”, cựu bộ trưởng bộ văn hóa GS. Cú Mèo đã có một bài viết nảy lửa, cảnh báo về sự sa sút lý tưởng và lối sống của giới cầm bút Đầm Lác. Theo GS. Cú Mèo thì Quạ Khoang là đại diện cho bóng tối, là hiện thân của thù địch và lạc hậu. Tiếng kêu của Quạ Khoang là quốc ca của quỷ sứ!
Bài viết của GS. Cú Mèo kết thúc mọi sự tranh luận, kết thúc luôn sự nghiệp đang mở ra của nàng Vịt Cỏ. Nhưng cuộc sống vốn vĩ đại, Đầm Lác không có thời gian ưu tư về một số phận.
Đám vịt vẫn hàng ngày xuống đầm mò ốc, chán chê thì lên bờ rỉa lông cánh, hứng chí lại hát vang bài “Vịt ca”. Thoạt tiên, Vịt Đực đứng ra trước đàn, xoạc cẳng, ngửa cổ rống lên câu mở đầu bằng giọng khàn khàn rất vịt đực của mình: “Chúng ta là chủ nhân vinh quang của Đầm Lác”. Cả đàn vịt cao giọng hát bè: “Quạc quạc quạc… Quạc quạc quạc…”. Cứ thế, tiếng ca của bầy vịt vang dậy cả một vùng đầm lầy hoang vu: “Chúng ta là con dân tự do của Đầm Lác… Quạc quạc quạc… Đường vinh quang, chúng ta xây bằng máu xương; Chứ không xây bằng cỏ rác; Hẹn trăm năm sau, tới thiên đường; Cùng vang ca lời yêu thương... Quạc quạc quạc… Quạc quạc quạc!”
Thời gian trôi qua, không biết bao nhiêu mùa “trăng tàn nguyệt tận”, ở xứ An Nam xảy ra vụ án văn chương Nhã Thuyên. Thật kì lạ là kịch bản vụ án lặp lại nguyên xi cái bi kịch của Vịt Cỏ.
VĨ THANH
Nàng Vịt Cỏ không chốn dung thân. Có đàn chim di trú thương tình chở nàng đến một xứ sở xa lạ có tuyết rơi, trên những cánh đồng xanh mướt có những cối xay gió khổng lồ. Nỗi niềm xa xứ hành hạ khôn nguôi, nàng sinh một chú vịt con ốm yếu. Không ngờ, đứa con nàng lại đi vào trí nhớ của nhân loại qua câu chuyện cổ tích của Andersen vĩ đại, câu chuyện “Chú vịt con xấu xí”.
Ngài Andersen tôn kính vì quá lơ đãng nên không đưa vào truyện một dòng ghi chú mà mới đây người ta tình cờ tìm thấy trong cuốn sổ tay nhàu nát của ngài: “Vịt con xấu xí là con nàng Vịt Cỏ, thuở xưa sống yên bình ở Đầm Lác bên phương Đông xa xôi chói ngời ánh nắng”.
                       (Theo http://nguyenhoalu.wordpress.com)

11 tháng 4, 2015


MỘT BÀI VIẾT CỦA ÔNG TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN NGUYÊN BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI, PHẢI NÊN NGHIÊN CỨU VÀ SUY NGẪM ĐỂ ÁP DỤNG :

Written By Hai Hoang Van on Thứ Bảy, ngày 11 tháng 4 năm 2015 | 11.4.15

 
Con đường đi tới nền kinh tế thị trường của Việt Nam vẫn còn nhiều trở ngại. Ảnh Uyên Viễn.

LTS: Hiện vẫn còn những tranh luận chung quanh cách hiểu khái niệm “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tiếp nối bài “Nhận thức mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN?” của Trần Ngọc Thơ (TBKTSG số Tân Niên, ngày 5-3-2015), TBKTSG Online giới thiệu bài viết sau của nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển viết riêng cho TBKTSG, để bạn đọc tham khảo.

Có một nội dung quan trọng đang được đặt ra: Chúng ta sẽ xây dựng nền kinh tế thị trường như thế nào? Thế nào là “định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)?

Một định nghĩa vừa mới được đưa ra: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Qua trao đổi, có ý kiến đồng tình, có ý kiến băn khoăn về sự lựa chọn này, thậm chí, cũng có ý kiến không đồng tình.

Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có sự luận giải đầy đủ-ở cả những người đồng tình và cả những người phản đối- vì sao lại lựa chọn cách diễn đạt này và vì sao phản đối sự lựa chọn đó?

Bài viết này góp phần thảo luận về những ý kiến nêu trên.

Thế nào là một nền kinh tế thị trường hiện đại và sự cần thiết phải xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại.

I. Một nền kinh tế thị trường hiện đại trước hết phải là nền kinh tế “vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường”.

Tuy nhiên, do thời đại ngày nay đã có những thay đổi khác xa so với nhiều thập kỷ trước đây mà nổi bật là:

(1) Sự phát triển rất nhanh, rất mạnh của khoa học- công nghê, dẫn đến sự phát triển lực lượng sản xuất ở một trình độ rất cao, tạo ra một khối lượng của cải vật chất khổng lồ; nhiều ngành sản xuất hàng hóa và dịch vụ với nhiều sản phẩm mới xuất hiện, tuổi đời của sản phẩm được rút ngắn. Điều này dẫn đến quá trình gia nhập, rút khỏi thị trường và tái cơ cấu sản xuất diễn ra liên tục, trên phạm vi rộng.

Chỉ có tín hiệu của thị trường mới có thể khả dĩ cung cấp thông tin chính xác cho các hoạt động này.

Khi cung lớn hơn cầu, giá cả sẽ thấp hơn giá trị, kinh doanh bị lỗ. Chỉ có doanh nghiệp nào có giá thành thấp hơn giá thị trường mới tồn tại được. Đây cũng là động lực để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ nhằm đạt được lợi nhuận tốt hơn. Nếu không, phải rút ra khỏi thị trường. Khi đó, nguồn cung sẽ giảm và một quan hệ cung-cầu mới được xác lập.

Trong trường hợp cung thấp hơn cầu, giá cả sẽ cao hơn giá trị; kinh doanh có lợi nhuận cao, doanh nghiệp sẽ đầu tư thêm nguồn lực để có lợi nhuận nhiều hơn; các nhà kinh doanh khác cũng có thể chuyển vốn vào đầu tư cho đến khi xác lập quan hệ cung cầu mới theo trục lợi nhuận bình quân.

Ở đây, trục xoay để phân bố nguồn lực – cũng có thể nói trục xoay của kinh tế thị trường là giá thị trường.

(2) Toàn cầu hóa với sự dịch chuyển tự do của các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ nước này sang nước khác trên phạm vi toàn cầu, làm cho trường hoạt động của các chủ thể kinh tế mở rộng trong không gian và thay đổi theo thời gian với nhịp độ rất nhanh.

Trong trường hợp đó, sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trở nên “bất khả thi” không những kém hiệu quả mà còn có thể gây ra những tác động tiêu cực.

Từ đó dẫn đến kết luận: thị trường là cơ sở để phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Trong điều kiện của thế giới hiện đại nhà nước không có khả năng làm tốt điều đó.

II. Kinh tế luôn gắn với những vấn đề xã hội và môi trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp luôn chạy theo lợi nhuận của chính họ mà không quan tâm đầy đủ đến lợi ích xã hội và bảo vệ môi trường, dẫn đến sự phân cực xã hội rất nhanh và môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng.

Bất bình đẳng, xã hội bị phân cực là nguyên nhân dẫn đến rối loạn, ảnh hưởng đến tăng trưởng. Môi trường bị hủy hoại làm tăng trưởng phải trả giá đắt, không bảo đảm phát triển bền vững. Trong điều kiện bùng nổ nông tin, dân trí được nâng cao, ý thức đân chủ ngày càng mạnh mẽ dẫn đến các phong trào xã hội chống lại các hiện tượng này.

Mặt khác, trong điều kiện bất đối xứng về thông tin, các chủ thể không thể biết chính xác hành động của nhau nên thị trường mang tính tự phát rất cao,chưa kể đến sự đầu cơ, thao túng, rất dễ gây ra khủng hoảng và thực tế đã bị khủng hoảng.

Người ta tính rằng trong thế kỷ 20 và chỉ thập niên đầu của thế kỷ 21 đã có hàng trăm cuộc khủng hoảng lớn nhỏ, điển hình là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 và cuốc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt dầu từ năm 2008 mà hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay.

Như vậy, thị trường cũng bị thất bại và thực tế đã thất bai. Do đó, phải có vai trò của nhà nước. Vấn đề ở đây là nhà nước làm gì? Vai trò đến đâu? Và bằng cách nào thực hiện vai trò đó?

Trước đây, ngay cả những nước theo chủ nghĩa tư bản, nhà nước đã từng làm kinh tế thông qua những doanh nghiệp do nhà nước làm chủ sở hữu. Đây là thời kỳ nhà nước sở hữu.

Nhưng thực tế chỉ ra rằng, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thường kém hiệu quả, nhất là khi kinh tế phát triển, nhu cầu xã hội tăng lên, đòi hỏi số lượng và quy mô doanh nghiệp tăng theo, nhà nước không thể “ôm” nổi. Chủ sở hữu nhà nước trở thành “vô chủ”.

Các nước đều phải thực hiện quá trình tư nhân hóa, chỉ giữ lại một số rất ít doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu chính sách mà tư nhân không muốn làm hoặc chưa đủ sức làm, thậm chí có khi chỉ là vì mục tiêu chính trị chứ không phải do tính tất yếu kinh tế. Nhà nước về cơ bản không còn giữ vai trò sở hữu nữa. Nhà nước chuyển sang đóng vai trò can thiệp bằng các mệnh lệnh hành chính (như quy định giá, quy định lãi suất…)

Nhưng như trên đã nói, trong thế giới hiện đại, lực lượng sản xuất đạt đến trình độ rất cao, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, các mối quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp, tính tùy thuộc giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ, sự biến động của một nước tác động rất nhanh, rất mạnh đến nước khác; sự can thiệp hành chính của nhà nước trở nên kém hiệu quả, thậm chí trong không ít trường hợp còn gây rối loạn. Đây là thất bại của nhà nước. Nhà nước chuyển từ chức năng can thiệp sang chức năng điều tiết.

Trong bài viết đầu năm 2014 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dùng khái niệm “Nhà nước kiến tạo phát triển” (Trong buổi hội thảo tại Bộ KH-ĐT, ông Tony Blair, nguyên Thủ tướng Anh có nói đại ý: Nhà nước đã chuyển từ thời kỳ nhà nước sở hữu sang thời ký nhà nước can thiệp và nay đã là nhà nước điều tiết. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng khái niệm “ nhà nước kiến tạo phát triển” có nội hàm rộng hơn và do đó đầy đủ hơn). Nhà nước kiến tạo phát triển là nhà nước bảo đảm:

- Môi trường vĩ mô ổn đinh, môi trường kinh doanh thông thoáng và minh bạch, có thể tiên liệu được nhằm tạo thuận lợi nhất cho kinh doanh.

- Xây dựng hệ thống pháp luật, điều chỉnh hành vi của mọi tổ chức, cá nhân để: (i) bảo đảm quyền tự do kinh doanh, bảo vệ nhà đầu tư (ii) cạnh tranh công bằng (iii) Bảo vệ sức khỏe nhân dân và môi trường sinh thái…

- Coi trọng giáo dục và dào tạo, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ - yếu tố then chốt để nâng cao dân trí, tạo cơ hội việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập của dân cư.

- Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa nhằm nâng cao không chỉ đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần của nhân dân.

- Sử dụng nguồn lực của nhà nước và các công cụ điều tiết khác để thực hiện chiến lược “tăng trưởng bao trùm”nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, bảo đảm mọi vùng miền, moi tầng lớp dân cư đều được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.

- Đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: trách nhiệm với cộng đồng và người lao động tại doanh nghiệp, trách nhiệm với môi trường và trách nhiệm chấp hành pháp luật (CSR).

III. Mặc dầu đã chuyển từ nhà nước sở hữu sang nhà nước can thiệp và từ nhà nước can thiệp sang nhà nước kiến tạo nhưng bản chất của nhà nước là quan liêu, nhà nước cũng thường bị những nhóm lợi ích chi phối, thao túng chính sách.

Vì vậy, cần đề cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Nhà nước đi đối với việc coi trọng vai trò của xã hội- trong đó có các tổ chức phi chính phủ, các nhà nghiên cứu độc lập tham gia vào quá trình phản biện, xây dựng chính sách.

Chính họ, bằng kiến thức và những trải nghiệm thực tiễn của mình sẽ cung cấp các kinh nghiệm thực chứng làm cho chính sách sát đúng, phù hợp với thực tiễn cuộc sống hơn, nhằm hạn chế thất bại của thị trường và nhà nước. Họ cũng là người giám sát quá trình thực thi chính sách.

Tổng quát lại: Nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường đồng thời phản ánh được xu thế phát triển của thời đại, hóa giải được những thách thức đặt ra trong thế giới hiện đại. Thể chế để tạo lập và vận hành nền kinh tế ấy phải dựa trên 3 trụ cột: thị trường, Nhà nước và xã hội.

Về hội nhập quốc tế

Ngay từ cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, Đảng đã xác định: Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa là xu thế lớn, ngày càng cuốn hút các quốc gia, dân tộc vào tiến trình này. Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết về hội nhập quốc tế. Như vậy, về nguyên tắc, hội nhập nằm ngay trong tính chất của thời đại.

Với cách lý giải về nền kinh tế thị trường hiện đại như trên thì không nhất thiết phải thêm cụm từ “hội nhập quốc tế” vào nội dung này. Tuy nhiên, đưa thêm cụm từ “hội nhập quốc tế” là để khẳng định một chủ trương đã có, cần thực hiện tốt hơn cũng không thừa. Hơn nữa, “hội nhập quốc tế” còn mang hàm ý là các văn bản quy phạm pháp luật trong nước phải tương thích với định chế của tổ chức mà nước ta đang hội nhập.

Theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Trên thế giới đã có nền kinh tế thị trường xã hội (ở các nước Bắc Âu, Cộng hòa Liên bang Đức….). Trong các nền kinh tế này, Nhà nước dùng công cụ thuế (thuế thu nhập, thuế tài sản, thuế thừa kế…) được đánh ở mức cao nhằm điều tiết bớt thu nhập và tài sản của những người giàu, hình thành nguồn lực của nhà nước để đầu tư vào phúc lợi xã hội (y tế, giáo dục, các công trình văn hóa, vận tải công cộng…), hình thành các quỹ an sinh, quỹ bảo hiểm (bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ bảo hiểm y tế cho người nghèo,.. ) ở mức tương đối cao.

Nền kinh tế thị trường xã hội, theo các chính sách nêu trên chú ý đến sự phát triển xã hội và lợi ích cộng đồng ở một mức độ nhất định, phù hợp với sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do thể chế chính trị đa đảng, các chính sách này không ổn định và tính hướng đích không cao do tùy thuộc vào chính sách của từng đảng. Khi đảng cầm quyền thay đổi thì các chính sách nêu trên cũng thay đổi (mức điều tiết thay đổi…).

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với nền kinh tế thị trường xã hội ở điểm nào? Và sự hợp lý khi đưa cụm từ này vào khái niệm nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng?

- Nói định hướng là nói sự vận động theo một hướng nào đấy, nhằm đạt tới một đích đến nào đấy. Con đường cụ thể để tới đích đến ấy có thể phải qua thời gian mới rõ dần, phải vừa đi vừa tìm, bước trước mở lối cho bước sau nhưng cứ phải nhằm hướng ấy mà đi. Hướng đi ấy-như nhiều lần Đảng đã khẳng định là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

-Nói “chủ nghĩa” là nói đến hệ thống những quan điểm, ý thức, hệ tư tưởng, làm cơ sở lý thuyết chi phối, hướng dẫn tư tưởng và hành động của con người. Hệ thống quan điểm đó có thể được khởi xuất từ một người, nhưng được một tập hợp người đi theo.

Như vậy, nói định hướng XHCN trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế đó được xây dựng trên cơ sở một hệ tư tưởng nhằm xác định hướng đi bảo đảm mục tiêu tổng quát là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nó khác với kinh tế thị trường xã hội ở chỗ hướng đi là ổn định, do một đảng duy nhất lãnh đạo, mục tiêu là cụ thể, chú trọng tính công bằng và dân chủ ở mức cao; an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được coi trọng ngay trong từng chính sách phát triển và ngày càng tốt hơn theo từng nấc thang phát triển, dựa trên một hệ tư tưởng đã trở thành chủ thuyết.

Điều cần lưu ý ở đây là tính thời đại là nhân tố bao trùm. Một chủ thuyết muốn có sức sống lâu bền phải phản ánh được xu thế phát triển của thời đại, hóa giải được những thách thức mà thời đại đặt ra; không được giáo điều mà phải luôn bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện nó.

Tuy nhiên, phải thấy rằng đây không phải là con đường dễ dàng. Nó đòi hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, dấn thân vì lợi ích của dân tộc; phải tạo được một cơ chế giám sát hiệu quả, đặt Đảng dưới sự giám sát của người dân; không được đặc quyền đặc lợi.Đảng phải có năng lực sáng tạo, tinh thần đổi mới.

Về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Ở bất kỳ một nền kinh tế nào cũng có vai trò của nhà nước. Điều khác nhau là ở chỗ vai trò đó thể hiện thế nào, mức độ đến đâu? Nhà nước sở hữu, nhà nước can thiệp, hay nhà nước kiến tạo?

Ở trên đã làm rõ vai trò kiến tạo phát triển của nhà nước và nhà nước là một trong ba trụ cột của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, không cần thiết đưa thêm cụm từ “có sự quản lý của nhà nước” vào nội dung đã nêu. Sử dụng cụm từ “có sự quản lý của Nhà nước” cũng không phản ánh chính xác vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

Về sự lãnh đạo của Đảng

Sự lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định trong Hiến pháp 2013. Hơn nữa, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Mà, vai trò của Nhà nước đã được luận giải ở phần trên, không cần thiết thêm cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

Mặt khác, nhà nước bằng các công cụ chính sách định hướng các lực lượng thị trường. Thị trường hiện đại - cũng theo luận giải ở trên bao gồm ba “trụ cột”. Trong đó “thị trường” hoạt động theo quy luật khách quan, đó là quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lợi nhuận. Đưa thêm cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ xuất hiện câu hỏi: Đảng có lãnh đạo “thị trường” không và lãnh đạo theo phương thức nào?

Tổng quát lại: Nên xác định là “xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định hướng XHCN” là đủ. Cũng có thể bổ sung thêm cụm từ “hội nhập quốc tế”, và thể hiện là: “xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế theo định hướng XHCN”.

Về kinh tế nhà nước và DNNN trong nền kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng XHCN

- Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên thiên nhiên do nhà nước là chủ sở hữu, ngân sách nhà nước, các nguồn dự trữ nhà nước, và cả DNNN.

Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất, cùng với các công cụ điều tiết và các chính sách khác để nhà nước thực hiện chiến lược tăng trưởng bao trùm, bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển. Vì vây,kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng. Trong đó, DNNN phải hoạt động hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên phải được sử dụng tiết kiệm; ngân sách nhà nước phải càng ngày càng lớn cùng với sự phát triển của đất nước theo phương chậm “dân giàu- nước mạnh”. Dân có giàu thì nước mới mạnh và từ dân giàu để làm nên nước mạnh.

- Về DNNN: kinh tế thị trường không loại trừ DNNN nhưng DNNN cũng phải đặt trong môi trường cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đây là yếu tố quan trọng buộc hoạt động của DNNN phải minh bạch và hiệu quả.

Tuy nhiên, cần nhận thức đúng tính giai đoạn và vai trò giới hạn của DNNN vì thực tiễn lịch sử chỉ rõ DNNN là kém hiệu quả, nhất là khi quy mô kinh tế tăng lên, trường kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, DNNN lại không được đặt trong môi trường cạnh tranh.

Vì vậy, trước khi dùng DNNN là công cụ thực hiện chinh sách cần đặt câu hỏi: Có lực lượng nào hoặc cơ chế nào thay thế tốt hơn không? Trong điều kiện nước ta, khi kinh tế tư nhân còn bé nhỏ, tiềm lực tài chính, đặc biệt là tiềm lực công nghệ còn rất yếu kém, (nhiều khi có tiền cũng chưa dám đầu tư vì rủi ro lớn) DNNN có thể và cần phải là công cụ để thực hiện chính sách công nghiệp.

Thử hỏi trong điều kiện nước ta hiện nay, nếu cần (người viết nhấn mạnh) phát triển điện hạt nhân, có doanh nghiệp tư nhân nào có thể đầu tư vào lĩnh vực này. Và, không chỉ điện hạt nhân ngay cả những dàn khai thác dầu mà công ty dịch vụ cơ khí hàng hải thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đang chế tạo, trong điều kiện nước ta hiện nay cũng khó có doanh nghiệp tư nhân (DNTN) nào làm nổi?

Mặc dầu khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế nhà nước, trong đó có DNNN nhưng đối với nước ta, muốn phát triển nhanh, bảo đảm dân giàu nước mạnh, cùng với cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN, phải lấy kinh tế tư nhân của người Việt Nam, thông qua doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần đại chúng làm động lực chủ yếu.

Để nền kinh tế thị trường hiện đại vận hành hiệu quả, cần:

- Bảo đảm sự phát triển đồng bộ các loại thị trường, các yếu tố của kinh tế thị trường. Không phát triển đồng bộ, các loại thị trường, các yếu tố của kinh tế thị trường sẽ cản trở, kìm hãm lẫn nhau.

- Phải đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế. Không đổi mới chính trị sẽ cản trở đổi mới kinh tế. Cần lưu ý rằng hệ thống chính trị không chỉ là những chủ thể thực thi chính sách kinh tế mà còn là đường dẫn cho các chính sách kinh tế đến với thị trường, doanh nghiệp.

- Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền.

- Phát triền cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin nhằm tạo thuận lợi cho việc dịch chuyển các nguồn lực đến các khu vực có nhu cầu phát triển.

Cuối cùng, việc tham gia các hiệp định mậu dịch tự do mới sẽ thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta.

Trương Đình Tuyển
Nguyên Bộ trưởng Thương mại

(TBKTSG Online)




Biên niên sử của một bi kịch

nghi2.jpg.ashx N.H.L. Mùa Hè năm 2009, tôi về quê thăm cụ giáo Trần Bổng. Tôi là cháu gọi cụ bằng dượng lại vừa là học trò thời cụ đang làm hiệu trưởng trường cấp hai của xã. Dù còn minh mẫn, nhưng gần 90 tuổi ông cụ đã bắt đầu quên vài chuyện và thỉnh thoảng nhắc lại những câu chuyện vừa kể trước đó.
Trong những câu chuyện không đầu không cuối về những kỹ niệm xưa cũ, ấn tượng còn lại từ thời cải cách ruộng đất (CCRĐ) ám ảnh đến mức nhiều lần ông cụ bật khóc, cứ lặp đi lặp lại: “Cháu ạ, nhiều cảnh tượng trong CCRĐ là vô cùng tàn ác, mất hết cả luân thường đạo lý. Dượng không sao quên được!”. Đã qua hơn nửa thế kỷ mà dư âm của nó cứ dai dẳng bám vào tiềm thức của một cụ giáo làng như những vết thương sâu trong tim, không bao giờ lành miệng, tận đến lúc cuối đời.
Cuộc CCRĐ long trời lở đất ấy đã bắt đầu như thế nào? Đây là một số ghi chép tìm hiểu sơ sài của tôi.
1.Chuẩn bị cho CCRĐ
Cuối tháng 5 năm 1953, để thực hiện công cuộc CCRĐ, chính phủ đã “thí nghiệm” ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên [1].

Ngày 22 tháng 5 gia đình bà Nguyễn Thị Năm bị đưa ra xét xử, bà Năm bị án tử hình với tội danh “tư sản địa chủ cường hào gian ác”. Cuộc hành hình đầu tiên của CCRĐ. Lúc đó bà năm vừa 47 tuổi.
Hai tháng sau vụ xử bắn bà Năm, báo Nhân Dân đăng bài “Địa chủ ác ghê”, tác giả là C.B. Bài báo mở đầu bằng lời của “thánh hiền” dạy rằng “Vi phú bất nhân”, rằng địa chủ ngoài việc “bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa” còn có “bọn địa chủ giết người không nháy mắt”. Đại diện cho loại địa chủ này là mụ địa chủ Cát Hanh Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la. Bài viết kết thúc trong cơn giận dữ tột cùng: “Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng/ Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!”.
Vụ Cát Hanh Long còn được đưa vào sách giáo khoa với đầu đề: “Ấn cổ bọn nó xuống”.
Trong quá trình học tập ra quân cho đợt CCRĐ, trong dư luận đã có ý tổng kết rằng cuộc hành quyết bà Năm “có ba điều sai chính sách và một điều không hợp đạo lý truyền thống của người Việt Nam”. Ba điều sai với chính sách là: Địa chủ kháng chiến, địa chủ kiêm công thương và địa chủ hiến ruộng đất. Điều không hợp đạo lý, bà Năm là một phụ nữ, “bắn một địa chủ là nữ, không cường hào gian ác sẽ trái với đạo lí thông thường của người Việt Nam” [2].
Sau ngày sửa sai CCRĐ, trong những cán bộ cao cấp lan truyền câu chuyện sau. Khi chuẩn bị bị bà Năm, Bác Hồ can thiệp, nói đại ý: không nên đánh phụ nữ dù là bằng một cành hoa, huống hồ đây lại là một án tử hình bắt đầu cho cuộc CCRĐ [3] .
Ngày 4 tháng 12 năm 1953, Quốc hội thông qua Dự luật Cải cách ruộng đất. Ngày 19 tháng 12 năm 1953, chính phủ ra sắc lệnh ban bố Luật CCRD [4] . Trong bài nói trước Quốc hội, Hồ chủ tịch khẳng định: “Luật CCRĐ của chúng ta chí nhân, chí nghĩa, hợp tình, hợp lý” [5] .
Cuối tháng 5 năm 1954, đợt 1 CCRĐ được bắt đầu ở 47 xã thuộc các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình [6] của Thái Nguyên và huyện Nông Cống, Thanh Hóa [7] .
2. Hiệu buôn Cát Hanh Long[8]
Chủ hiệu buôn là một người phụ nữ góa chồng Nguyễn Thị Năm. Bà Năm sinh năm 1906 trở nên giàu có nổi tiếng ở đất Hải Phòng, Hà nội. Sớm giác ngộ cách mạng, bà tham gia mặt trận Việt Minh ở Hải Phòng. Nuôi giấu nhiều cán bộ cách mạng như Lê Đức Thọ, Hoàng Hữu Nhân (bí thư Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện…
Nhà giàu, được giác ngộ nên bà Năm trở thành nguồn cung cấp tài chính cho cách mạng mà bây giờ gia đình tập hợp lại thành một hồ sơ dày đặc từ việc góp 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương bẩy trăm lạng vàng, thóc gạo, vải vóc, nhà cửa và là một trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của “Tuần Lễ Vàng” ở Hải Phòng.

Dù đã đứng tuổi theo quan niệm đương thời, nhưng người phụ nữ 40 tuổi của thành phố cảng ấy đã phóng xe nhà treo cờ đỏ sao vàng từ Hải Phòng lên thẳng chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền.
Hai con của bà (với hai cái tên ghép thành hiệu của bà là Cát và Hanh) sau đó về tham gia lực lượng vũ trang ở Thủ đô, một người bị thương khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngay ở Cầu Giấy – cửa ngõ Thủ đô; một người đã từng tháp tùng đoàn đại biểu chính phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu… vào Huế tước ấn kiếm vua Bảo Đại rồi sau này trở thành một Trung đoàn trưởng nổi tiếng của Sư đoàn 351.
Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc… Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà.
3. Cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm qua lời kể của người trong cuộc
Người dự cuộc đấu tố đó, nhà sử học Trần Huy Liệu[9] ,  toàn bộ phần này được trích từ nhật ký của ông.

Số người tới dự độ một vạn trở lại, ngồi chen chúc trong một khu đất dưới lùm cây hai bên là núi. Hôm nay nắng nhiều, ánh mặt trời rọi vào khiến nhiều người phải cầm cành cây vừa che cho đỡ nắng, vừa để ngụy trang chống máy bay. Nhưng làm thế thì hàng trước sẽ che lấp hàng sau, không nhìn thấy gì, nên kết cục là phải bỏ cành lá đi và khi nắng quá thì dồn người sang hai bên… Hôm nay cũng như hôm trước, chủ tịch đoàn lại phạm một khuyết điểm là ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là đả đảo kịch liệt. Một việc làm thừa!
Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh, Công cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu vào. Quần chúng hô đả đảo vang dậy và đòi phải đứng lên cao quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy mặt để đả đảo. Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên với một tràng lý lịch tư pháp mà không nêu tội ác [10] . Tuy vậy quần chúng cũng chấm dứt từng đứa bằng một làn sóng đả đảo. Quần chúng ghét nhất là đội Hàm, vì tội ác đã đành, mà còn vì đôi mắt đầy khiêu khích. Nhiều người hô bắt nó phải cúi mặt xuống(…).
Những người tố được quần chúng cảm động và tán thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm, với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự thực, nội dung câu chuyện không có gì. Chị Đăng, một người ở với Thị Năm lâu ngày, tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, với một giọng lưu loát quen thuộc, chị trở nên một tay “tố nghề” và ít làm cho ai cảm động…
Bà Minh nói việc chẩn bần tại đồn điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói, rồi kết luận bằng những câu: “Mày đừng nhận là chủ đồn điền có được không?”, “Mày chỉ có hình thức thôi” và “Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì cả” khiến người nghe không hiểu tội Thị Năm ở đâu?
Sự thực thì hồi ấy dân chết đói nhiều quá, bọn thống trị Pháp, Nhật muốn che lấp tội ác của chúng, bắt các chủ đồn điền phải hàng ngày xuất ra một số gạo phát chẩn cho dân. Thị Năm đã bớt và khai man số gạo này, nghĩa là ăn cắp số gạo mà dân đói đáng được hưởng để chết đói thêm.
Ông Giồng tố cáo Thị Năm đã cướp gánh cỏ của ông cho ngựa nó ăn và giỏ củ mài làm cho cả nhà nhịn đói. Câu chuyện của ông đã được một văn nghệ sĩ làm thành một bài thơ tràng thiên rất cảm động Nhưng hôm nay, ông đã thuật lại một cách nhạt nhẽo. Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột của Thị Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng “bà cự” nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét. Chị Lý, con nuôi của Thị Năm, được Thị Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị Thị Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại như trước. Chị vừa nói vừa khóc. Nhưng không ai rõ chị nói gì….
Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít những phong thái cũ. Câu hỏi “Mày có biết tao là ai không?” đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: “Cứ việc tố không cần bắt nó trả lời”. Một vài cái tát vẫn còn diễn ra.
Trong khi tố tên Công, nhiều người hỏi những câu vô ý thức: “Mày có xứng đáng là cách mạng không?”, “Mày nói mày là cách mạng mà như thế à?”. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc lên để thu thóc, rồi kết luận “Như thế mày có xứng đáng là địa chủ không?”. Một người khác tố Thị Năm, đội Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận: “Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?”. Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu: “Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?”. Nhiều người vẫn gắn vào hai chữ “tiến bộ”: “Mày nói mày tiến bộ mà như thế à?” Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp tỉnh Thái Nguyên. Về phía quần chúng, thì, khi nghe người tố không chịu bình tĩnh lắng nghe cho rõ sự việc cũng như luận điệu tố cáo, cứ việc “đả đảo” bừa đi. Nhiều lúc ầm ĩ quá làm không nghe gì được.
Trong khi quần chúng đòi đem bày ổ thủ phạm ra ngồi ngoài nắng, lại trả lời: “Đem ra ngoài nắng ngộ nó lăn ra chết thì lấy gì mà tố?”. Đây là lời dặn của cán bộ với những phần tử cốt cán là không nên đánh đập địa chủ. Nếu lỡ tay đánh chết nó thì lấy gì mà tố. Hôm nay, vị chủ tịch ngốc nghếch kia đã theo ý đó nói toạc ra một cách công khai cho địa chủ biết.
Đến lúc đọc bản cáo trạng kết thúc, hội trường im lặng để lắng nghe trong một bầu không khí trầm nghiêm. Nhưng một vị chủ tịch đã đọc chữ nọ thành chữ kia. Có câu đọc đi đọc lại. Có lúc phải ngừng lại để lẩm nhẩm. Rồi mỗi lúc mỗi ngập ngọng thêm. Kết cục là nửa chừng phải thay người khác...
4. Nỗi đau riêng và nỗi đau chung đã chấm dứt?
Mùa Đông 1986, ông Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức TW cử thư kí riêng của mình là ông Lưu Văn Lợi tìm đến số nhà 117 Hàng Bạc. Tại đó, trong căn nhà 20 mét vuông, con cái bà Cát Hanh Long, 6 nhân khẩu chen chúc. Sau những bàn bạc với ông Trường Chinh để đi đến một quyết định quan trọng.

Ngày 28 tháng 1 năm 1987, ông Lê Đức Thọ đến tận nhà bà Cát Hanh Long tặng quà Tết. Một trong những món quà cho gia đình là tập thơ ông vừa xuất bản, với dòng đề tặng: “Thân mến tặng Công và Hanh để đánh dấu chấm dứt sự đau buồn kéo dài lâu năm của gia đình và cũng là của chung”.
Hơn hai tháng sau, ngày 4 tháng 4 năm 1987, ban tổ chức TW có công văn gửi Tỉnh ủy Bắc Thái. Công văn “đề nghị sửa lại thành phần giai cấp và thực hiện đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đối với gia đình bà Nguyễn Thị Năm”.
Ngày 11 tháng 6 năm 1987, Chủ tịch tỉnh Bắc Thái quyết định sửa thành phần giai cấp cho bà Năm là “Tư sản, địa chủ kháng chiến”. Công văn của Ban tổ chức TW, theo chỉ đạo của ông Trương Chinh và Lê Đức Thọ, tỉnh Bắc Thái chỉ thực hiện được một vế.
Ngày 10 tháng 11 năm 2001, đại tướng Võ nguyên Giáp chứng nhận: “Bà Nguyễn Thị Năm tức Cát Hanh Long là một địa chủ có tinh thần yêu nước, trong kháng chiến đã từng giúp đỡ bộ đội. Bản thân tôi và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có lúc đã ở lại nhà bà. Trong những buổi họp sửa sai, chính Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh và đồng chí Lê Văn Lương đều cho rằng xử trí bà Nguyễn Thị Năm là một sai lầm”.
Ngày 22 tháng 7 năm 2012, nhà sử học Dương Trung Quốc vào cuộc bằng bài báo “Viết nhân ngày thương binh liệt sĩ”. Cuối bài báo, nhà sử học đề nghị vinh danh bà Năm là “liệt sĩ thực thụ của những vụ án “mạc tư hữu” trong lịch sử”.

Ngày 7 tháng 4 năm 2014, báo An Ninh thế giới đăng bài “Chuyện về người phụ nữ từng bị xử lý oan”, tác giả Xuân Ba[11] . Báo An ninh thế giới đăng kì một. Mặc dù cuối bài, An ninh Thế giới hứa “còn tiếp” nhưng cái sự còn tiếp đó người đọc đành phải vào xem ở các trang của Nguyễn Quang Lập hoặc Nguyễn Trọng Tạo[12] .
Nhà báo Xuân Ba kết thúc thiên phóng sự bằng câu “Người con trai còn lại duy nhất của bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long năm nay tròn 90 có lẽ vẫn tiếp tục đợi?”.

[1] Việt Nam những sự kiện, Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1975.
[2] Hồi kí Đoàn Duy Thành
[3] Hồi kí Đoàn Duy Thành
[4] Việt nam những sự kiện (trang 114).
[5] Chủ tịch Hồ Chí Minh với Quốc hội, NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
[6] Ba tên gọi của ba huyện quá đẹp!
[7] Việt Nam những sự kiện (trang 124).
[8] Mục này viết theo Dương Trung Quốc, viết nhân ngày Thương binh liệt sĩ, http://laodong.com.vn/lao-dong-cuoi-tuan/viet-nhan-ngay-thuong-binh-liet-si-75128.bld
[9] Trần Huy Liệu cõi người, NXB Kim Đồng, 2009 (Trang 235 – 239)
[10] Không hiểu những tội ác mà C.B. nêu ra lấy từ đâu?
[11] http://antg.cand.com.vn/vi-vn/phongsu/2014/4/82776.cand
[12] http://nguyentrongtao.info/2014/03/22/nguoi-phu-nu-dau-tien-bi-ban-trong-cai-cach-ruong-dat/
LƯU TRỮ ĐỂ XEM LẠI VÀ SUY NGẪM :

Về người chị ruột của Hồ Chí Minh

Image1. Các nhà xã hội học kêu gào đến khản giọng về việc đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, “ sự tử tế trở thành cụm từ sáo rỗng và xa xỉ!”[1]. Các vụ cướp giếp hếp ngày càng tàn bạo, cái sự đối xử của con người với con người ngày một lạnh lùng. Triều đình lo quá, vội vàng phát động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đã dăm năm hơn, phong trào “sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội”, vậy mà xem chừng cái bức tranh đạo đức vẫn không sáng lên được chút nào.
Khi việc học không có kết quả mong đợi, cần xem xét lại ba nhân tố quan trọng: nội dung học, phương pháp dạy của thầy và thái độ học của trò. Trong trường hợp này, ba yếu tố đó là: Tấm gương đã thực sự sáng không? Truyền thông có chiến lược tốt chưa? Tinh thần học tập của dân chúng ra sao? Yếu tố thứ nhất thì khỏi bàn, chủ tịch Hồ Chí Minh là vầng thái dương soi sáng đến muôn đời. Hai yếu tố sau là chuyện quốc gia đại sự, một thảo dân như mình không dám bàn.
Mình xưa nay luôn có ý thức tu dưỡng theo gương cụ Hồ, khỏi cần triều đình phát động. Bao nhiêu sách viết về cụ mình đều mua về, thắp nến ngồi đọc rất mực thành kính. Và thấy cái đạo đức của riêng cá nhân mình được cải thiện đáng kể. Mình thường quan tâm chuyện nhỏ trước, ví như tình chị em giữa cụ Hồ và người chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh.
2. Bà Thanh, tên thật là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884. Cụ Nguyễn Sinh Sắc lấy hình ảnh bông sen trắng để đặt tên cho đứa con gái đầu lòng, chắc gửi gắm vào đó những ước mơ đẹp. Vậy nhưng bông sen trắng ấy ngay từ thuở nhỏ đã trải qua một cuộc đời nhiều đắng cay, bất hạnh.
9 tuổi (năm 1893) , cô chịu tang ông ngoại. (Ông Hoàng Đường nhận Nguyễn Sinh Sắc làm con nuôi, sau gả con gái cho. Cả gia đình Nguyễn Sinh Sắc sống cùng ông bà Hoàng Đường).
10 tuổi (năm 1894), “cha đỗ cử nhân rồi đi Huế cùng mẹ và hai em”[2] cô ở lại nhà giúp đỡ bà ngoại.
16 tuổi (năm 1901), mẹ là bà Hoàng Thị Loan mất ở Huế. Chưa đầy một năm sau, người em út Nguyễn Sinh Xin mất. Sau này, bà Thanh kể cho Sơn Tùng nghe: “Mẹ o mất sớm, o phải về quê thay cha, thay mẹ chăm sóc bà ngoại[3].
20 tuổi (năm 1904), chịu tang bà ngoại. Từ đó về sau, mọi việc trong gia đình họ tộc đều trông vào cô Thanh. Theo Nguyễn Sinh Mại[4], người gọi Nguyễn Sinh Sắc là chú ruột, “cô Thanh là phụ nữ đảm đang, dũng cảm, kiên nghị”. Cô Thanh dám gặp Tổng đốc và Công sứ Nghệ An đòi thả một người bạn trai ra khỏi tù về chịu tang cha, “nếu không thì cô sẽ ngồi tù thay”.
22 tuổi (khoảng năm 1906), “Thanh vào Huế với cha lần đầu tiên cùng người đầy tớ gái. Nhưng cô không chịu nổi sự tàn bạo của người cha nghiện rượu, thường đánh đập cô. Năm sau cô trở về Kim Liên”.
26 tuổi (năm 1910) cha cô bị xử phạt 50 trượng, sau đổi thành án giáng 4 cấp và bị triệu hồi.
Cũng trong năm này, trong một chuyến đi liên lạc với nghĩa quân chống Pháp, cô Thanh bị bắt, bị đánh đập dã man. Cô bị giam một thời gian. Ra tù, lại tiếp tục liên lạc với líh khố xanh, khố đỏ, mua súng giúp nghĩa quân.
Ngày 23 tháng 1 năm 1920, trong thông tri mật của chánh mật thám Trung kỳ viết: “Chị Thanh không có chồng, 32 tuổi, bị buộc tội đồng lõa với những kẻ phản nghịch ở Nghệ Tĩnh… bị tòa án tỉnh Nghệ An kết án 9 năm khổ sai và hiện chịu hành phạt ở Quảng Ngãi”[5].
Ra khỏi tù ở Quảng Ngãi (lúc này đã ngoài 35 tuổi), cô về quê tiếp tục hoạt động cách mạng. Bà Thanh kể cho Sơn Tùng: “Bọn Pháp theo dõi, đã mấy lần bắt o, chúng nó tra tấn o kinh khủng lắm, bắt o đeo gông rồi đày đi suốt 9 tỉnh miền Trung, đi vào đến Quảng Ngãi cháu ạ. Có lần Pháp tra tấn o dã man đến mức chúng nướng chiếc mâm đồng cho đỏ rồi bắt o ngồi lên đó. Chúng nó tra tấn kiểu như vậy làm cho những người phụ nữ như o bị “điếc” luôn, không còn khả năng sinh nở nữa”.
38 tuổi (khoảng năm 1922), bà vào Huế đưa hài cốt mẹ về chôn sau vườn nhà.
Năm bà 43 tuổi (tháng 8 năm 1927), cha bà ốm nặng tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn. Dù đang bị thực dân Pháp an trí ở Huế, bà vào Sài Gòn thăm cha. “THấy cha quá ốm yếu, cô xin rước về Huế để nuôi dưỡng. Cụ Sắc nói: Thân con bị quản thúc, con lo còn chưa xong, làm sao lo cho cha được”. Cô khóc lóc năn nỉ mãi, sau đành một mình trở lại Huế”[6].
Năm bà 45 tuổi (năm 1929), cha bà mất ở Cao Lãnh Đồng Tháp. Bà vào chịu tang cha.
Năm bà khoảng 60 tuổi, theo lời của Nguyễn Sinh Định, gọi cụ Hồ là chú thúc bá: “vào một đêm trời tối như bưng, chú cả Khiêm cầm bó đuốc đi trước, bố tôi khiêng một đầu, tôi khiêng một đầu cái tiểu sành đựng hài cốt bà Loan đưa từ vườn nhà lên núi Đại Huệ chôn cất”. Lúc chôn cất mẹ xong, “chú cả Khiêm lẩm nhẩm khấn thành tiếng: “Mẹ ơi,,, em Côông, con của mẹ nhất định sẽ về…”.
Năm 1945, đất nước độc lập, bà Thanh 61 tuổi, “mặc quần áo nâu, đầu chít khăn nhung, miệng nhai trầu, tay xách hai con vịt và hai chục quả trứng gà đón xe Nam Đàn – Vinh, rồi lên tàu lửa ra Hà Nội”. Hai chị em gặp nhau, “chuyện trò được nửa giờ” thì cụ Hồ phải lo việc nước, bà Thanh về nhà người quen ở phố Hàng Nón nghỉ. Mấy hôm sau, cô về, “bác Hồ bận quá, phải nhờ người đến biếu cô mấy mét vải lĩnh…”.
3. Mình xem Tivi, thỉnh thoảng gặp chương trình biểu diễn của các võ sư phi phàm, với các tiết mục như nuốt than đỏ, đam kiếm sắc vào bụng, đặt một chồng gạch lên đầu rồi lấy búa đập gạch vỡ tan… Những người làm chương trình luôn cho chạy dòng chữ: “Người xem tuyệt đối không bắt chước, nguy hiểm đến tính mạng”.
Sau 40 năm xa cách, với biết bao nhiêu biến cố đau thương của gia đình, hai chị em chỉ gặp nhau được 30 phút, vĩnh viễn không gặp lại nữa. Các nhà “Hồ Chí Minh học” luôn đưa ra hai bảo bối, nằm trong mấy chữ “bận trăm công ngàn việc” và “hy sinh cao cả” để biện minh.
Cụ Hồ hai lần về thăm quê cũ, dân chúng cảm động rơi nước mắt, hàng chục năm sau vẫn còn nhắc đến những hình ảnh, cử chỉ, lời nói của cụ. Mình không thấy ai kể chuyện cụ lên núi Đại Huệ viếng mộ mẹ, không ai nhắc chuyện cụ thắp hương cho anh, cho chị, cho tổ tiên dòng họ??? Mong sao cái sự đọc của mình chưa đến nơi đến chốn.
71
Mình nghĩ, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như một vị võ sư siêu phàm, người trần mắt thịt chúng ta khi “học tập” cần cẩn thận.

[2] TS Bùi Thị Thu Hà, Kể chuyện cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, NXB Bách khoa, 2009, trang 219.
[3] Xem “Chuyện nhà văn Sơn Tùng gặp người chị ruột bác Hồ ở làng Sen”, http://www.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=130815
[4] Chuyện với người cháu gần nhất của bác Hồ, NXB Thanh niên, 2007.
[5] Kể chuyện cụ phó bảng… trang 210.
[6] Trần Minh Siêu, Những người thân trong gia đình Bác Hồ, trang 50.
[7] http://www.cand.com.vn/vi-VN/phongsu/2011/6/149578.cand, Chuyện bác Hồ hai lần về thăm quê.