14 tháng 11, 2014

DƯ LUẬN VIÊN

DƯ LUẬN VIÊN

I.
Trước đây, người ta chưa gọi là “Dư luận viên”. Thường vẫn  gọi là cán bộ tuyên huấn. Cấp huyện là có ban tuyên huấn rồi. Mấy ông trong ban này lúc ấy oai lắm. Các ông  thường đi nghe tuyên huấn tỉnh, sau về nói lại với cán bộ và các tầng lớp nhân dân ở huyện. Nội dung thường thấy trong các buổi nói chuyện này là tin thời sự, đặc biệt là tin chiến thắng khắp nơi từ bắc tới nam (không bao giờ có tin ta thất bại, dù chỉ là tạm thời), và nghị quyết các loại (lúc ấy có người đã đề xuất nước ta nên xuất khẩu nghị quyết để nâng cao đời sống nhân dân cơ mà).
Báo chí hiếm, đài lại càng hiếm hơn nên được nghe cán bộ tuyên huấn nói chuyện là niềm vinh hạnh lớn. Những lời của các ông ấy nói là  “những lời như chân lý sinh ra” (thơ Tố Hữu). Công bằng mà nói, các cán bộ tuyên huấn đã góp phần không nhỏ vào việc động viên toàn dân tham gia đánh Mỹ giành thắng lợi cuối cùng.  Muốn làm tuyên giáo thì phải nói giỏi, trơn tru, lưu loát, có thế mới hấp dẫn được người nghe. Nhưng nghe mấy ông tuyên giáo huyện thì chán lắm. Nhiều ông nói ngọng. Lại cứ hay dở “chiêu” : “vấn đề này tôi chỉ nói nội bộ, các đồng chí đừng …” (ý là vấn đề này rất bí mật, các đồng chí là người rất đáng tin cậy tôi mới nói). Người nghe thấy sướng quá, hóa ra mình cũng là người quan trọng được biết những điều  “bí mật” mặc dù những điều các ông ấy nói, BBC, Tiếng nói Hoa Kỳ… nó nói lâu rồi. Nhiều ông tuổi còn trẻ nhưng hay gọi lãnh tụ bằng “anh”, ý “mình với các “anh ấy” gần gũi lắm”. Mở miệng là “anh Duẩn, anh Đồng, anh Giáp… “. Cũng là học lẫn nhau cả thôi. Tỉnh đi nghe trung ương nói, thấy trung ương gọi bằng “anh”, khi về nói cho huyện cũng gọi như thế, rồi huyện thấy tỉnh gọi thế, cũng bắt chước. Người bình thường thấy gọi bằng “anh” nghe “oai” lắm. Nhưng người có tí hiểu biết thì thấy vừa “xấc”, vừa “hợm”. Khi nào phải nghe các ông ấy nói chuyện thì tốt nhất là kiếm một góc mà ngồi, mang theo quyển sách.
Từ khi về Hà Nội, nơi tôi làm việc có quan hệ với trường Nguyễn Ái Quốc (bây giờ là Học viện Hồ Chí Minh gì đấy!), cơ quan tuyên huấn cỡ lớn. Chi bộ quan tâm đến tình hình tư tưởng của anh em nên thỉnh thoảng vẫn mời mấy vị ở đấy về nói chuyện. Trình độ cấp trung ương, nên câu chuyện cũng có hấp dẫn hơn. Nhưng vẫn không chừa được cái bệnh: “vấn đề này tôi chỉ nói nội bộ…”. Và nhất là vẫn  cái bệnh của tuyên huấn, thường nói lấy được, bất chấp sự thực khách quan.Vì cứ nghĩ người nghe không biết gì. Hoặc người ta có biết nhưng không thể “cãi” được. Nói mà tin rằng không có ai phản bác thì muốn nói gì chẳng được?
Một lần, khoảng 1995 , 1996, một ông đến nói về công cuộc đổi mới. Ông ấy nói đại ý: Chúng ta phải biết ơn đảng nhiều lắm vì nhờ đảng mới có đổi mới, nhờ đảng, cuộc sống của chúng ta mới được cải thiện như ngày hôm nay. Rồi ông ấy lấy thí dụ chứng minh cho cái điều ấy: Cách đây 10 năm, chúng ta phải mang chai đến cơ quan chia nhau mỗi người  một ít xà phòng nước để giặt quần áo, bây giờ thì đủ loại xà phòng; tết Trung thu (hôm ấy sắp đến rằm tháng Tám), mấy người mới được một cái bánh đem cắt ra chia nhau mang về cho các cháu. Bây giờ thì bánh nướng, bánh dẻo ê hề, chỉ sợ không có tiền mà mua…
Mình nghe, “lộn hết cả ruột”.
Đến giờ nghỉ giải lao, ông ấy vào phòng khách ngồi uống nước cùng mấy người nữa. Mình cũng giả vờ vào xin chén nước. Sau vài câu xã giao, mình hỏi:
-         Anh chắc năm nay cũng khoảng năm mươi tuổi?
-         Vâng, tôi năm nay năm mốt.
-         Xin lỗi, thế anh quê tỉnh nào?
-         Cám ơn anh hỏi thăm. Tôi quê Thái Bình, tỉnh năm tấn xưa đấy.
-         Anh hơn tôi một tuổi, nhưng vì anh quê ở Thái Bình nên có thể anh không biết. Từ năm 1959 về trước, thỉnh thoảng cứ sau ngày lĩnh lương, bố tôi thường đến nhà bà bác có cửa hàng tạp hóa, mua một hòm xà phòng giặt, mỗi hòm khoảng vài ba chục bánh. Khi nào dùng hết, lại đến chở. Chẳng có ai phân phối hay phải chia bôi gì. Còn cái bánh Trung thu ấy, cứ trước ngày Tết độ nửa tháng, bố mẹ tôi lại dẫn mấy anh em đi dọc các phố hàng Ngang, hàng Đường, Đồng Xuân xem người ta làm bánh trung thu. Vào dịp này, cửa hàng nào cũng làm bánh ngay bên ngoài, người mua có thể chứng kiến đủ mọi công đoạn ra đời của một cái bánh. Mấy ông thợ làm bánh khoác tạp dề, đội mũ vải trắng nhào, trộn, vỗ khuôn chan chát…. Người ta cứ làm, mình cứ xem, không ai chào mời. Đó cũng là cái tử tế của các nhà buôn thời ấy. Rất cần khách hàng, nhưng vẫn giữ tự trọng,  không khúm núm, xun xoe mời chào. Xem một lúc lại đi hàng khác. Khi nào chán rồi, mỏi chân rồi, thì mua một hộp, hai hộp. Mua bao nhiêu cũng được, mua  nhiềuthì được rẻ hơn. Chỉ có từ sau 1960, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội nên mới không có xà phòng mà giặt, phải dùng chất tẩy mà người ta gọi là  xà phòng nước, bánh trung thu cho trẻ con mà phải cắt từng cái làm hai ba phần chia nhau.
Ông tuyên giáo tỏ vẻ ngạc nhiên:
-         Thế ạ?
-         Chắc vì anh ở Thái Bình nên không biết. Tôi xin “tiết lộ” với anh cái sự thật ấy. Ta bây giờ nếu có vui thì là vui vì cuộc sống của chúng ta đã được trở về với những quy luật vốn có. Có “mới” gì  mà “đổi”, phải không anh? Còn biết ơn thì lại càng không. Chẳng lẽ cái anh nó bóp cổ mình cho đến khi sắp tắc thở mới buông ra, mình lại phải biết ơn?
 Sau lần ấy, cứ mỗi khi đến buổi nghe báo cáo thời sự, tôi lại được thủ trưởng giao cho một công việc gì đấy để không phải tới nghe. May quá!

 II.
 Mấy năm nay, in-tec-net có ở khắp nơi, các trang web ngoài luồng phát triển tới mức không kiểm soát nổi, lại thêm cái anh Phây-xờ-búc ngày càng bung ra, khiến các vị tuyên huấn xoay như chong chóng không chống đỡ kịp những lập luận thuyết phục, những sự thật vốn được giấu kín nay được phơi bày. Thế là mấy chục nghìn các DLV ra đời. Có mặt các DLV này, dư luận trên mạng thêm rộng đường, người nói phải, người nói trái, anh nói ngược, chị nói xuôi, phân tích, chứng minh, lý giải… khiến người nghe càng có điều kiện phán xét để rồi tin vào một ý kiến nào đó, thoát khỏi tình trạng “như vịt nghe sấm” hay định hướng một chiều. Để cho các cuộc tranh luận, thảo luận lành mạnh, bổ ích, tôi xin đề nghị các bạn DLV:
  1. Xin các bạn có tên thật. Nhân vật chèo xưa, mỗi khi bước ra sân khấu đều hỏi: “Tôi ra đây có phải xưng danh không nhỉ?” Hỏi thế thôi, chứ chỉ chờ nghe tiếng đế trong hậu trường “không xưng danh thì ai biết là ai!” là tên tuổi, thậm chí quê hương bản quán được công khai. Tôi để ý thấy tất cả các bạn chẳng ai có cái tên thật, cái ảnh đại diện cũng không. Chẳng lẽ các bạn tự nhận mình là người không chính diện (tức là “phản diện”)? Chỉ riêng điều này, các bạn đã tỏ ra không chính danh rồi. Mà “danh bất chính thì ngôn bất thuận”. Làm sao thảo luận được với người không chính danh, làm thế là tự hạ thấp bản thân mình.
Thậm chí, cái không chính danh của các bạn còn khiến người ta nghĩ đến hành động “ném đá giấu tay”. Hay là các bạn cũng chưa đủ tự tin vào những điều mình nói, thậm chí còn thấy hổ thẹn vì những điều ấy nên không dám “xưng danh”? Cho nên thái độ của tôi cũng như của nhiều người thường là coi như không thấy gì mỗi khi đọc ý kiến của những người không chính danh.
  1. Lập luận của các bạn  đều cũ rích. Với ý kiến nào cũng chỉ có bấy nhiêu lý lẽ. Trên FB tuần qua đã có một chàng trai  thống kê những lập luận quen thuộc đến nhàm chán của các DLV, tôi không nhắc lại để khỏi làm mất thời gian của mọi người. Hình như các bạn phải đợi khi nào có đợt tập huấn mới có một chút mới mẻ do cấp trên “gà” cho. Nhưng cũng chỉ mới mẻ được vài hôm thôi. Cuộc sống  luôn luôn vận động sao chỉ với những lập luận xói mòn ấy có thể bác bỏ được biết bao những câu chuyện, lý lẽ, phản bác đầy sức thuyết phục?
Muốn cho cuộc tranh luận thêm hấp dẫn, nói đúng hơn là để ý kiến còn có người đọc, xin đề nghị các bạn chịu khó học hỏi thêm. Cái khi học ở trường, muốn lên lớp, có thể chỉ cần bỏ ra ít tiền cho vào cái phong bì là xong. Nhưng cuộc sống phức tạp hơn nhiều lần khi đi học. Không học, không làm ăn gì được đâu. Nhất là lại làm người chuyên tranh luận, làm việc bây giờ lại có lương, có thưởng. Mà lại tranh luận với một số lượng người khổng lồ, trong đó không ít người “thông kim bác cổ”, tuổi đời có khi đáng tuổi, cha tuổi ông các bạn. Quả là chẳng dễ dàng gì!
  1. Để không khí bàn luận tránh bị ô nhiễm, giữ được sự trong sạch cần thiết, đề nghị các vị (giờ thì tôi không thể gọi “các bạn” được nữa)  nói năng sao cho có văn hóa. Các vị  nói tục nhiều quá, văng bậy nhiều quá. Xem những dòng chữ của các vị, tôi hình dung ra mấy anh thanh niên, tóc nhuộm xanh đỏ, cổ đeo cái dây xích to tướng, ngực áo phanh rộng, khuôn mặt bạc đi vì thiếu ngủ, rít thuốc liên tục,bên cạnh cái gạt tàn đầy những đầu mẩu thuốc lá,  ngồi trước máy vi tính chăm chú với các màn súng nổ, gươm đâm…thỉnh thoảng lại hét lên, lại văng ra những lời tục tĩu để giải tỏa sự bức xúc vì thua cuộc. Hình như các vị thấy thua kém về lý lẽ, bèn đem cơ quan sinh dục của cả hai giới thay cho cái trí não ít học, lười học. Vẫn biết chúng đều là những bộ phận trong cơ thể con người cả, bộ phận nào cũng quan trọng, không thể thiếu, nhưng cái nào có việc của cái ấy. Nhiều lần, tôi đã nhắc nhở các vị “nói năng sao cho lịch sự”, hay “cần chứng tỏ mình là người có giáo dục”. Nhưng hình như các vị  không phải là những người như thế nên văng tục chửi bậy là ngôn ngữ thường thấy trong các comment của các vị. Nghe như lời ăn tiếng nói của những kẻ chuyên hành nghề “đâm thuê chém mướn”. Hay các vị đang hành nghề này bằng bàn phím? Chẳng hiểu các bậc sinh thành ra các vị, vợ con các vị mỗi khi đọc được những dòng ấy họ sẽ nghĩ gì về công lao dưỡng dục ngần ấy năm trời, nghĩ gì về cái người mà hàng ngày họ vẫn “đầu gối tay ấp”, nghĩ gì về người bố, người mẹ của mình? Cũng có thể đây chính là lý do để các vị  không dám chính danh?
Vài lời đề nghị, chỉ muốn những cuộc trao đổi thú vị hơn.

( Theo blog Tôi thích đọc)
THƠ  THÁI BÁ TÂN

DƠI GIÀ, DƠI TRẺ
Sợ hãi và giả dối
Đã biến không ít người  
Thành hèn và khôn lỏi,
  Rồi cuối cùng thành dơi.

Tức là sợ ánh sáng,  
Cả dơi trẻ, dơi già.  
Tự bịt mắt, không thấy
Các thảm kịch nước nhà.

Dơi sống trong hang tối,
  Vô hồn và đáng thương.
  Dơi trẻ nghe nhạc rap  
Dơi già nghe loa phường.

Dơi trẻ chỉ lên mạng
  Để xem vú Bà Tưng.
  Dơi già chờ đến tháng,
Thấy lương hưu là mừng.

Vì hèn và khôn lỏi,  
Cả dơi trẻ, dơi già  
Không muốn, không dám biết  
Hiện trạng của nước nhà.

Vật vờ trong hang tối,
Y hệt một bầy dơi,
Họ hy vọng, chờ đợi
Một tương lai sáng ngời.

10 tháng 11, 2014

NGHỆ THUẬT


CHÂN DUNG HOÀNG CẦM
Tranh của họa sỹ Bùi Quang Ánh

 
Để xem được bức tranh này, bạn phải nheo mắt lại, lúc đó khuôn mặt Hoàng Cầm sẽ hiện lên
NƯỚC MÌNH

Vang danh trên khắp toàn cầu
Nhưng không vang bởi do giàu do sang
Mà vang ở các diễn đàn;
Sản xuất Nghị quyết thuộc hàng cực siêu
Truyền thông ra rả sớm chiều
Nói thật thì ít, nói điêu thì nhiều.

9 tháng 11, 2014

VÔ ĐỀ 1
Khi vui chẳng có ai hay
Khi buồn thì trách cõi này đơn côi
Bảy tám chín chục tuổi trời
Có khi chẳng hiểu lẽ đời ra sao !
Thơ TRẦN QUANG NHIẾP

Trần Quang Nhiếp với tôi và Phạm Hải Nhân cùng hoc một lớp ở cấp 3 phổ thông. Năm 1965 tôi và Nhân vào bộ đội thì Nhiếp vào đại học sư phạm Hà Nội I. khoa văn. Sau hòa bình năm 1975 đến nay chúng tôi vẫn luôn gắn bó thân thiết với nhau. Cũng từ đấy lớp tôi cứ 5 năm lại tựu trường một lần, bạn bè có dịp gặp nhau đông đủ, mặc dù mỗi người một phương từ nam chí bắc.Ngày trở về sau chiến tranh, bạn bè tôi phần lớn là những quân nhân chuyển ngành hoặc về hưu, một số nhỏ bám trụ quê hương ruộng đồng, một số trưởng thành trong hoạt động dân sự. Trần Quang Nhiếp không trải qua binh nghiệp, Ngày tựu trường anh đã là PGS. TS làm phó tổng biên tập Tạp Chí Cộng Sản,có thời gian làm phụ trách tổng biên tập, sau khi đã làm giảng viên khoa triết học Mác- Lê và Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học tại trường đảng Nguyễn Ái Quốc, là thầy dạy môn Dân tộc Học cho chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh, sau là TBT đảng CSVN, là cộng sự của TBT Nguyễn Phú Trọng ( Người Tràng An gọi là Chọng Lú) .( Dân bây giờ quá bố láo, không còn coi ai ra gì, đúng là gần chùa gọi Bụt bằng ...thằng !)Trần Quang Nhiếp thích làm thơ từ hồi học phổ thông. Anh đã cho ra đời ba tập thơ, thơ anh chủ yếu nói về nhân tình thế thái, những tâm sự vui buồn về thế sự, những chuẩn mực đạo lí của thời đại mà mọi người cần tu dưỡng....Bạn bè chúng tôi đều đã cao tuổi, gần hết một cuộc đời chứng kiến bao nhiêu thăng trầm của lịch sử nước nhà, nên khi gặp nhau thường tâm sự về những gì mình đã trải nghiệm về thời cuộc. Tôi là người ít học, nên những biến cố lịch sử xảy ra, mình không biết đánh giá, tổng kết, thành thử chỉ nhận thức được những vấn đề đó từ các bậc cách mạng lão thành, và cho đó là những vấn đề cần phải suy nghĩ , xem xét.
Vì vậy có lần trò chuyện với Trần Quang Nhiếp tôi có đọc một câu ;
"Những học thuyết đã lỗi thời
Nhân loại vứt bỏ, thì thôi đừng dùng "
Anh nghe xong tỏ vẻ tức giận lắm, nhưng với bản tính của người truyền giáo nên anh vẫn bình tĩnh ,mà chỉ nói : "Cậu chẳng hiểu gì cả "
Sau đó anh tặng tôi tập thơ ĐÔI BỜ ( NXB Thông tin truyền thông 2014) trong đó có bài thơ sau :
NÊN CHĂNG
Bạn khuyên tôi :
"Học thuyết đã lạc hậu rồi
Loài người vứt bỏ thì thôi đừng dùng"
Nên chăng :
Mác- Lê nin, tư tưởng Bác Hồ
Học thuyết cứu loài người đau khổ
Trái đất còn mặt người , dạ thú
Chẳng bao giờ vứt bỏ nó đi

Đừng thiên kiến sai lầm lịch sử
Lối tư duy một phía giáo điều
Học thuyết sáng mang tầm nhân loại
Lẫn lộn sao chân lí, sai lầm.
( trang 135)
Sau đây tôi trích thêm hai đoạn trong bài ÁNH SANG, NIỀM TIN, HY VỌNG  ở trang 136, 137, sách đã dẫn
"Chủ nghĩa Mác - Lê nin
Là học thuyết soi đường nhân loại
Có nguồn gốc
Từ ánh sáng bốn trăm năm không tưởng
Những phát minh khoa học loài người
Thực tiễn lịch sử chín muồi
Người lao động vùng lên giải phóng
Học thuyết đã trở thành ánh sáng
Tỏa rạng hành tinh dẫn dắt loài người.
....................................................
Chủ nghĩa xã hội
Là khát vọng loài người
Xây chế độ giàu sang bình đẳng
Sống vinh quang hạnh phúc công bằng
Nhưng tới nơi không thể dễ dàng

Phải trải qua "Cơn đau đẻ kéo dài lịch sử"
Cần niềm tin ý chí kiên cường."
Vì mình chẳng hiểu lí luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin thế nào nên không dám cãi lại anh ấy.Tôi có được nghe những bậc thầy, không phải thầy mà là cụ về lý luận Mác nói rằng, họ bảo họ trung thành với chủ nghĩa
Mác nhưng có phải đâu, họ chỉ học CN Mác cái phần chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp thôi. Còn phần kinh tế hàng hóa và giá trị thặng dư thì họ dốt đặc cán mai. Chả hiểu ra làm sao
Tôi thì tôi nghĩ CNXH đã thành công trong cái xã hôi QUAN CHỨC, Còn xã hội DÂN CHỨC thì "Cơn đau đẻ kéo dài lịch sử"

8 tháng 11, 2014

Thơ PHẠM HẢI NHÂN

Phạm Hải Nhân là bạn học của tôi hồi phổ thông. Năm 1965 sau khi chúng tôi tốt nghiệp phổ thông, ngày 14 tháng 9 năm 1965 hai chúng tôi đều được gọi nhập ngũ Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nhưng mỗi người ở một đơn vị khác nhau.Trong lớp bạn bè học phổ thông của tôi thời bấy giờ, phần đông là vào lính. Nhưng chỉ có Phạm Hải Nhân là gắn cả tuổi trẻ với binh nghiệp. Năm 2006 anh về hưu, như vậy là phục vụ trong quân ngũ 41 năm. Sau 41 năm trở về anh mang theo 7 vết thương trên thân thể, quân hàm Đại tá, cục trưởng cục hậu cần, quân đoàn phó quân đoàn 3.Sau khi về hưu Phạm Hải Nhân viết hồi kí và làm thơ.Xin giới thiệu và ghi lại ba bài thơ của anh mang tính đại diện cho tư tưởng của người lính QĐND Việt Nam qua cuộc chiến tranh để nối liền hai bờ sông Bến Hải ( mà chúng ta thường gọi là cuộc chiến tranh giải phóng Dân Tộc ! )

TIẾNG VE MÙA HÈ
Tiếng ve nức nở ở nơi đâu
Buông bút thời gian lướt qua đầu
Đằng đẵng đắm chìm trong cuộc chiến
Thờ ơ, cười nhạo nấm mồ sâu.

Ngạo nghễ, mà sao nhói quặn lòng
Đam mê một thuở hão huyền không*
Tìm trong cái cõi đời còn sót
Có dám : giương buồm để ra sông...?

THÁNG 9
Tháng 9, tuổi thơ tôi vào đời
Mùa hè cuối cùng mười năm học chữ
Bồi hồi bên nhau, chia tay mùa thi cử
Để rồi mai, để mãi mãi chia phôi.

Tháng 9 tuổi thơ tôi vào đời
Trang sách, lời thơ, nguyên sơ dang dở
Cánh thư tình, khép hờ bỡ ngỡ
Tháng 9 mịt mờ, dấu ấn tháng năm đi.

Tháng 9 tuổi thơ tôi vào đời
Dữ dội, mịt mù, khói lửa đường đi
Dằng dặc, dọc dài chút thoáng tình si
Chấp chới thẳm sâu, phút giây mơ mộng.

Tháng 9 tuổi thơ tôi vào đời
Từ ấy trên mình màu xanh áo lính
Trôi dạt suốt cùng trời không định
Mộng mơ chôn từ tháng 9 ấy tôi đi.*
                                                 9/1965 

CƠN SỐT RÉT RỪNG
Đêm mưa lạnh. Mênh mông rừng thẳm
Trên võng, co mình, cơn sốt quật nghiêng
Rét rung người mờ mịt con tim
Nước mắt thấm võng, đêm chiến trường dằng dặc.*

Khát khao một bàn tay hiền dịu
Của Mẹ, trong lòng xiết chặt Mẹ ơi.
Có Mẹ rồi cơn sốt sẽ vơi
Con gọi Mẹ thầm thì hơi thở.

Khóc mãi rồi cơn sốt cũng qua đi
Lại đứng dậy, lại quân hành người lính*
Chiến trường gọi: Đánh giặc ngày lại ngày không định
Bỏ lại sau, bạn đồng hành, cơn sốt oái oăm.
------
* Tôi viết nghiêng