15 tháng 2, 2020

“Sản tộc” chỉ là giai cấp thống trị


Trung Nguyễn
14-2-2020
Đầu năm Canh Tý 2020 này, người dân Việt Nam lại được đọc một bài viết thuộc dòng “xu nịnh chính thống” (dân gian gọi là “bưng bô”) của tiến sĩ Nhị Lê trên báo Đầu Tư.
Tất nhiên nội dung bài báo này cũng chẳng có gì đáng quan tâm vì nó cũ mèm và xào nấu lại những luận điểm cũ của giới lý luận cộng sản. Tuy nhiên, do tựa đề bài báo gây phản cảm, nên nó đã thu hút sự tấn công của dư luận và thậm chí cả sự phản đối của các nhà lý luận cộng sản khác, khiến bản thân ông tiến sĩ Nhị Lê phải thanh minh, nói lại cho rõ ý của ông.
Dù vậy, nhờ ông Nhị Lê, từ “dân tộc cộng sản”, hay “sản tộc” đã kịp trở thành một từ tiếu lâm để chỉ đảng Cộng sản.
Thật ra cuộc chiến về lý luận đã kết thúc từ lâu vì các ý tưởng của Mác đã hoàn toàn thất bại trên thực tế. Các nước châu Âu đều đã từ bỏ chủ nghĩa này. Ví dụ thảm họa gần đây nhất là “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” mà Hugo Chavez đem áp dụng  ở Venezuela. Kết cục là từ một quốc gia có trữ lượng dầu hỏa nhiều bậc nhất thế giới, Venezuela đã lâm vào một thảm họa nhân đạo khi hàng triệu người phải rời bỏ quốc gia nghèo đói bậc nhất thế giới này để tránh kết cục phải chết đói và mất tự do dưới chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta có thể đọc lại rất nhiều bài báo chính thống trong nước ca ngợi Venezuela cách đây nhiều năm để thấy được sự ấu trĩ của giới lý luận cộng sản trong nước như thế nào. Bài viết này chỉ muốn nhấn mạnh một số lý luận ngụy biện rất căn bản mà giới lý luận cộng sản hay đem ra để lừa người dân Việt Nam, cụ thể ở đây là lý luận của ông Nhị Lê. Ngoài ra, tôi cũng muốn chỉ ra thực tế hiện tại của đất nước, khác xa với những gì mà Mác đã hình dung để những người như ông Nhị Lê có thể suy ngẫm.
“Sản tộc” không đại diện cho giai cấp vô sản
Trong chính Tuyên ngôn của đảng Cộng sản do Mác và Ăng-ghen viết, cũng như trong chính điều 4 Hiến pháp do đảng Cộng sản Việt Nam ban hành, đảng Cộng sản chỉ là bộ phận “tiên phong” của giai cấp công nhân. Trong Hiến pháp thì đảng Cộng sản Việt Nam thêm vào nội dung họ là đại diện cho nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Giai cấp vô sản” theo định nghĩa của Mác là những công nhân không sở hữu phương tiện sản xuất mà “chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm”, “những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một”. Vậy thì các đảng viên cộng sản, nhất là các cán bộ cao cấp và trung cấp, có thật sự “vô sản” hay không?
Câu trả lời chắc chắn là không, vì cán bộ cộng sản cao cấp sống rất giàu có. Họ giàu đến độ mà bản thân ông Nguyễn Phú Trọng hô hào “đốt lò” chống tham nhũng nhưng lại tuyên bố: “vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân“.
Rõ ràng là nếu các cán bộ cộng sản thật sự không tích lũy nhiều tài sản cá nhân thì công khai tài sản cán bộ không có gì để gọi là “nhạy cảm” như ông Trọng tuyên bố. Ngược lại, việc này chứng tỏ cho người dân thấy cán bộ cộng sản không có tài sản gì đáng giá, thì càng chứng minh tính tiên phong của đảng Cộng sản, giúp đảng Cộng sản xứng đáng là một đảng đại diện cho giai cấp vô sản.
Cũng chính trong Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, Mác viết: “những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”. Từ đó mới thấy được việc đảng Cộng sản không dám cho người dân Việt Nam biết họ đang “tư hữu” cái gì, vì bản thân người cộng sản cũng rất thèm khát “tư hữu”, sở hữu càng nhiều tài sản càng tốt nên họ mới sợ người dân Việt Nam biết họ đang “tư hữu” cái gì.
Tức là trên thực tế, đảng Cộng sản Việt Nam không hề thuộc giai cấp vô sản. Cán bộ cộng sản sở hữu nhiều tài sản đến mức họ không dám công khai, vịn vào cớ, đó là “quyền đời tư”, “quyền bí mật cá nhân”. Dân chỉ nhìn vào biệt phủ do cán bộ cộng sản ở, nhìn vào việc con cái của họ được đi du học thì cũng đoán được họ giàu như thế nào.
“Sản tộc” không đại diện cho nhân dân lao động    
Để xem xét đảng Cộng sản có phải đại diện cho nhân dân lao động hay không, chúng ta hãy thử khảo sát xem các cán bộ cộng sản có “lao động” hay không.
Điều 46 khoản 1 điều lệ đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ:  “Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng, thu từ các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp của Đảng, ngân sách nhà nước và các khoản thu khác”.
Cần lưu ý rằng “ngân sách nhà nước” là do “nhân dân lao động” trích một phần thu nhập, doanh thu để đóng vào. Người dân tại các quốc gia khác trên thế giới, không có một đảng độc quyền cai trị, chỉ phải đóng thuế nuôi chính phủ để chính phủ làm việc phục vụ dân. Đảng viên đảng nào muốn hưởng lương từ thuế của dân thì phải thắng cử vào các vị trí dân cử để phục vụ dân chứ không được phép ăn bám vào tiền thuế của dân.
Ở Việt Nam, người dân phải lao động đóng thuế để nuôi thêm bộ máy của đảng Cộng sản trải dài từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó là các cơ quan của đảng Cộng sản nhưng được gán mác đại diện cho nhân dân như các đoàn thể trong Mặt trận Tổ Quốc. Tức là người dân Việt Nam phải đóng thuế để nuôi thêm bộ máy đảng và bộ máy Mặt trận. Bộ máy đảng không lao động mà chỉ “lãnh đạo” nhân dân. Còn bộ máy Mặt trận cũng không lao động mà chỉ “đại diện” nhân dân.
Có thể kể ra sự bóc lột rõ ràng của đảng Cộng sản Việt Nam với nhân dân lao động là quỹ lương của người lao động bị trích ra 2% để nộp cho Tổng Liên đoàn Lao động, một tổ chức của đảng Cộng sản tự nhận là đại diện cho người lao động. Chính đảng Cộng sản cũng thừa nhận là Tổng liên đoàn lao động chưa bao giờ lãnh đạo một cuộc đình công của công nhân, luật pháp của đảng Cộng sản cũng không hề tạo điều kiện cho công nhân đấu tranh với giới chủ bằng đình công.
Quyền của người lao động Việt Nam tệ đến nỗi Liên minh châu Âu, theo lý thuyết của Mác Lênin là đại diện cho “giai cấp tư sản”, đã buộc đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận cho người lao động Việt Nam quyền được thành lập nghiệp đoàn độc lập, không phụ thuộc vào Tổng Liên đoàn Lao động nữa.
Hệ thống quyền lực của “giai cấp tư sản” châu Âu lại phải đi đấu tranh cho quyền của người lao động Việt Nam. Riêng việc đó cũng khẳng định đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoàn toàn không hề đại diện cho “nhân dân lao động” mà ngược lại, đây là những tổ chức ăn bám, bóc lột “nhân dân lao động”.
“Sản tộc” không đại diện cho dân tộc 
Trong bộ luật dân sự do chính đảng Cộng sản ban hành đã quy định rất rõ, khi nào thì một người được coi là “đại diện” cho người khác để thực hiện các giao dịch dân sự. Trong quan hệ dân sự đã chặt chẽ như vậy mà đảng Cộng sản Việt Nam đòi “đại diện” về quyền lực chính trị cho cả dân tộc một cách khơi khơi, không hề qua một thủ tục pháp lý nào, thì đó là chuyện không thể chấp nhận được.
Thật vậy, trong một quốc gia mà “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân” như điều 2 Hiến pháp quy định thì điều kiện tiên quyết là lãnh đạo quốc gia phải do dân bầu ra qua bầu cử tự do và công bằng, có nhiều đảng và nhiều cá nhân tham gia. Nếu chỉ có một đảng Cộng sản khống chế bầu cử, dân không có sự lựa chọn nào khác ngoài đảng Cộng sản thì đó không phải là một cuộc bầu cử đúng nghĩa. Đó chỉ là sự áp đặt, dân mất quyền làm chủ đất nước.
Ông Hồ Chí Minh hiểu rõ điều đó nên sau khi “cướp chính quyền” năm 1945, để chính phủ của ông có tính chính danh thì đầu năm 1946 ông đã tổ chức Tổng tuyển cử gồm nhiều đảng phái khác tham gia. Thậm chí ông Hồ còn cử đảng viên cộng sản đi thành lập thêm đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội để ra vẻ với người dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế, rằng cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 là một cuộc bầu cử tự do và công bằng, có nhiều đảng phái đại diện cho nhiều thành phần trong xã hội tham gia.
Ông Hồ hiểu rõ là nếu ông ta và đảng Cộng sản tổ chức bầu cử mà chỉ có một đảng Cộng sản tham gia thì người dân và cộng đồng quốc tế sẽ tẩy chay ngay vì thực lực của đảng Cộng sản lúc đó còn yếu.
“Sản tộc” thực tế là giai cấp thống trị   
Các ông tiến sĩ Mác Lê như Nhị Lê nên nhớ rằng, trước khi sửa sai vào năm 1986, đảng Cộng sản Việt Nam đã làm đúng lời dạy của Mác – Lênin là xóa bỏ tư hữu về kinh tế và thực hành độc quyền chính trị. Khi không còn tư hữu thì dân không còn động lực làm việc để tạo ra tài sản cho chính mình, nên cả đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế, tiền tệ, lương thực, chính trị nghiêm trọng.
Rõ ràng, lý thuyết xóa bỏ tư hữu của Mác là sai lầm hoàn toàn mà bản thân đảng Cộng sản cũng phải ngầm thừa nhận.
Cho nên sau đó đảng Cộng sản phải sửa sai một cách nửa vời là chấp nhận bảo vệ quyền tư hữu của cá nhân như điều 32 Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, tài sản quan trọng nhất, có giá trị nhất của người dân là đất đai, thì vẫn do Nhà nước, tức đảng viên cộng sản, “quản lý”.
Điều đó, trên thực tế có nghĩa là cán bộ cộng sản có thể tùy tiện tước đoạt tài sản đất đai của người dân, gây ra thảm cảnh hàng triệu dân oan mất đất, mất nhà trên cả nước, gần đây nhất là các vụ trọng án tại Đồng Tâm, Thủ Thiêm, Văn Giang, Dương Nội,…
PGS.TS Lê Thị Thanh Hà, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, viết rằng:
“Theo C.Mác, trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư tưởng và tinh thần. Bởi sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành các lợi ích khác nhau. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp quy định mà do địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp ấy tạo nên một cách khách quan. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp”.
Theo định nghĩa này của Các Mác thì đảng Cộng sản Việt Nam chính là giai cấp thống trị người dân Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam chiếm đoạt lao động của người dân Việt Nam qua thuế nộp vào ngân sách nhà nước và các loại phí như phí công đoàn. Cán bộ cộng sản có thể lấy đất đai, là tài sản xương máu của dân, bất cứ lúc nào. Ví dụ ngay sau Tết Canh Tý, quan chức Bình Định đã tổ chức cưỡng chế hủy hoại nhà ở của mẹ Việt Nam anh hùng, nơi thờ cúng liệt sĩ, để đem bán đấu giá mà không bồi thường.
Người dân Việt Nam cũng bị đảng Cộng sản áp bức về chính trị khi họ không có quyền thành lập đảng phái chính trị để ra ứng cử vào Quốc hội. Người dân Việt Nam cũng bị áp bức về tư tưởng, tinh thần khi không hề có quyền tự do báo chí, ra báo chí tư nhân, không có quyền tự do ngôn luận vì nếu phê phán đảng Cộng sản hoặc lý thuyết cộng sản thì sẽ bị đàn áp, bắt bớ.
Giai cấp thống trị bị lật đổ là quy luật tất yếu  
Như thế, theo đúng luận điểm về đấu tranh giai cấp của Mác, sự đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là tất yếu, giữa một bên là giai cấp bị trị, những người dân không cộng sản ở Việt Nam, để lật đổ giai cấp thống trị là đảng Cộng sản.
Cũng theo Mác, đảng Cộng sản sẽ điên cuồng sử dụng bạo lực để bảo vệ địa vị cai trị bất hợp pháp của mình đến cùng, nhưng chắc chắn điều đó cũng không thắng nổi lòng dân như đã từng diễn ra ở Đông Âu, Liên Xô.
Cuộc đấu tranh giai cấp này chính là động lực của tiến bộ xã hội ở Việt Nam nhằm thiết lập chế độ dân chủ thật sự, khôi phục lại quyền làm chủ đất nước cho người dân, nhằm đến mục tiêu “cá nhân tự do, xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường”.

12 tháng 2, 2020

BỘ “CÔN AN”
10/02/2020, PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Công an nhà nước cộng sản Việt Nam được biệt đãi, được chăm bẵm, được trang bị tối tân nhất thế giới không phải để bảo vệ pháp luật, càng không phải để bảo vệ người dân lương thiện mà chỉ để bảo vệ sự cầm quyền bất minh, bất chính của đảng cộng sản. Nhận đồng lương hậu hĩ từ tiền thuế của dân, mặc áo của dân, cầm khẩu súng của dân nhưng chính bộ Công an đã công khai lí do tồn tại của họ trong bộ máy nhà nước cộng sản bằng cái slogan lố bịch, vô đạo đức, vô liêm sỉ: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình!
Image result for nhà văn PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Thượng úy Lê Quốc Tuấn, Tuấn Khỉ, công an quận 11 Sài Gòn cay cú thua bạc, xả súng bắn chết bốn người dân tại sòng bạc xã Tân Thạnh Đông, huyện Củ Chi. Trên đường chạy trốn viên thượng úy công an Tuấn Khỉ lại xả súng tiếp bắn chết người dân đi xe máy, cướp xe. Trong xã hội công an trị hiện nay, cả đội ngũ công an đông đúc đã trở thành kiêu binh, đã trở thành hung thần, thành tai họa của dân lành thì hành động của viên công an Tuấn Khỉ không phải bột phát, lẻ loi, con người công an Tuấn Khỉ không phải là cá biệt.

Thượng úy Nguyễn Việt Xô, con nhà nòi công an Thái Nguyên dẫn con trai nhỏ, một công an tương lai vào cửa hàng, cho con ăn xúc xích của cửa hàng và lấy mang đi, không trả tiền. Người bán hàng nhắc trả tiền, thượng úy công an Xô liền xửng cồ ném xúc xích vào mặt nhân viên nữ và đấm đá nhân viên nam. Hành động của viên thượng úy con nhà nòi công an Nguyễn Việt Xô là gì nếu không phải là côn đồ

Đại úy Lê Thị Hiền công an quận Đống Đa, Hà Nội được nhắc nhở khi hành lí mang theo lên máy bay quá cân liền nổi tam bành to tiếng rủa mắng té tát nhân viên hàng không sân bay Tân Sơn Nhất, lu loa vu vạ, quyết liệt gây sự khi bảo vệ sân bay đến can thiệp, làm náo loạn cả nhà ga sân bay Tân Sơn Nhất, nơi cửa ngõ đất nước suốt ngày đêm lúc nào cũng nờm nợp khách năm châu bốn biện đến và đi, nơi đón và tiễn khách quốc tế đông đúc nhất cả nước, nơi thực sự là bộ mặt đất nước. Hành động của viên đại úy công an Lê Thị Hiền là gì nếu không phải là côn đồ.

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” Điều 25 Hiến pháp đang có hiệu lực ghi rành rành như vậy. Người dân Sài Gòn trong tay chỉ có tờ giấy, chỉ có mảnh vải ghi ý nguyện, tập hợp biểu tình phản đối dự luật đặc khu kinh tế, phản đối dự luật an ninh mạng đã bị công an Sài Gòn mặc sắc phục và công an thường phục có lực lương đông đảo, có tổ chức chỉ huy chặt chẽ, tràn vào chia tách, cô lập người dân biểu tình rồi thẳng tay vụt dùi cui, dí roi điện, đấm phụ nữ tóe máu mặt, đánh thanh niên chấn thương sọ não.

Không có lệnh bắt người, không có biên bản thu giữ tài sản, công an cướp điện thoại, cướp máy ảnh rồi ném người dân biểu tình hợp pháp bị đánh bất tỉnh lên ô tô đưa đi mất tích nhiều ngày, nhiều tháng. Cả lực lượng đông đảo công an Sài Gòn có tổ chức, có chỉ huy hành hung phi pháp, tàn bạo với dân như vậy là gì nếu không phải là côn đồ cấp thành phố

Các tướng lĩnh cầm đầu bộ công an vạch phương án tác chiến và chỉ huy một lực lượng lớn, ba ngàn cảnh sát vũ trang, lực lương chiến lược tinh nhuệ nhất của bộ công an trong đêm đánh úp làng quê bé nhỏ, hiền hòa Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, ngoại thành Hà Nội mà tất cả dân trong làng đều là người lương thiện, không ai có tội hình sự dù là tội nhỏ nhất, không ai bị truy tố hình sự. Ba ngàn cảnh sát vũ trang, áo giáp chống đạn trên người, súng hiện đại và cả quả nổ thô sơ trong tay như ra trận giáp chiến với giặc thù chỉ để vây ráp những ngôi nhà của người dân vô tội.

Phá cửa, xông vào tận giường ngủ bắn chết dân. Vơ vét của cải tiền bạc của dân. Đánh dân rồi ném những người dân bị đánh gần chết đưa đi mất tích. Không một văn bản pháp luật cho phép công an bắn dân, bắt dân, thu giữ tài sản của dân. Hành động đó của bộ công an là gì nếu không gọi là côn đồ cấp nhà nước.

Đưa cả lực lượng lớn công an do hai trung tướng chỉ huy xâm nhập nước Đức, chà đạp lên pháp luật nhà nước Đức, bắt cóc công dân Việt Nam cư trú hợp pháp ở Đức, lén lút đưa về nước, gây khủng hoảng ngoại giao với nước Đức. Hành động đó của bộ Công an Việt Nam là gì nếu không gọi là côn đồ quốc tế.

Công an nhà nước cộng sản Việt Nam được biệt đãi, được chăm bẵm, được trang bị tối tân nhất thế giới không phải để bảo vệ pháp luật, càng không phải để bảo vệ người dân lương thiện mà chỉ để bảo vệ sự cầm quyền bất minh, bất chính của đảng cộng sản. Nhận đồng lương hậu hĩ từ tiền thuế của dân, mặc áo của dân, cầm khẩu súng của dân nhưng chính bộ Công an đã công khai lí do tồn tại của họ trong bộ máy nhà nước cộng sản bằng cái slogan lố bịch, vô đạo đức, vô liêm sỉ: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình!

Đảng cộng sản cầm quyền đã đứng ngoài và đứng trên pháp luật khi ông đảng trưởng coi hiến pháp của nhà nước chỉ là văn bản pháp luật dưới cương lĩnh của đảng. Chỉ biết có đảng thì đương nhiên công an cũng đứng ngoài và đứng trên hiến pháp và pháp luật, trở thành thứ kiêu binh đông đúc, tàn bạo và ghê tởm nhất trong lịch sử Việt Nam.

Mang danh bảo vệ pháp luật nhưng ứng xử với dân không theo khuôn phép pháp luật mà theo thói ngông cuồng của kiêu binh, ứng xử với dân không biết đến pháp luật mà chỉ biết có bạo lực thì đó là hành xử côn đồ.

Từ lâu trong ngôn ngữ dân gian Việt Nam đã xuất hiện từ ngữ mới “côn an” để chỉ những kẻ “chỉ biết còn đảng còn mình”, côn đồ mặc sắc phục công an, mang danh công an. Cũng từ lâu người dân không viết đầy đủ tên gọi bộ Công an mà viết thiếu chữ “g”, bộ Côn an.

25 tháng 1, 2020

Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề

TP - Bao nhiêu năm rồi tôi mới gặp lại anh. Mà tình cờ tại một cuộc tụ bạn bè ở Sài Gòn. Thú thực tôi không nhận ra anh. Mãi cuối cuộc gặp anh chủ động sang ngồi cạnh. Tôi choáng cả người khi nghe chất giọng hơi ngập ngừng chắc có lẽ anh không nhận ra, Th. con trai ông Đề đây mà…
Áp phích vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ dựa trên chất liệu từ nguyên mẫu Tạ Đình Đề
Áp phích vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ dựa trên chất liệu từ nguyên mẫu Tạ Đình Đề

Người năm ấy
Thoáng ập ngay về một quá vãng buồn.
Mà đã xa ngái gì. Những năm đầu chín mươi. Ông Tạ Đình Đề đưa tôi về nhà ông ở Khu tập thể Đường sắt chỗ phố Khâm Thiên. Căn hộ bít bùng những cót ép quây tạm. Một bàn nước bằng gỗ thùng ọp ẹp. Cái điếu bát hút thuốc lào cóc cáy. Chiếc quạt con cóc không đủ độ mát, chủ khách phải phành phạch quạt nan.
Giữa những âm thanh phành phạch quạt nan và roanh roách cái điếu bát, tôi cố chắp nối những mảng miếng, những khúc nhôi khi rành rẽ cụ thể, khi mơ hồ thoáng qua trong câu chuyện để có một thứ lý lịch tạm gọi là trích ngang của chủ nhân.
… Mười lăm tuổi, cậu bé Tạ Đình Đề đi làm cu ly trên những chuyến tàu hỏa nối Vân Nam với Hải Phòng. Mười bảy tuổi được giác ngộ cách mạng, được gặp những yếu nhân của cách mạng Việt Nam hoạt động ở Côn Minh, rồi con đường dẫn ông đến đại bản doanh của quân đội Mỹ đóng ở Côn Minh thời ấy và làm tình báo cho Mỹ trong liên minh chống phát xít...
Rồi thời gian ông là Phó Ban tình báo Liên khu III dưới trướng của tướng Hoàng Sâm. Rồi Đội trưởng Đội Biệt động thành Hà Nội. Hòa bình, thiếu chi ngành để chuyển, việc để làm nhưng Tạ Đình Đề lại chuyển về ngành đường sắt! Ông nói ông có duyên với đường sắt. Duyên nhưng không ít nợ?
Chuyện đầu năm 1971, ông Đề tạo dựng cơ nghiệp mới những năm đầu bảy mươi trên bãi trống Láng Hạ. Ông phải cho chuyển 380 ngôi mộ vô chủ và lấp bốn cái ao để làm nền cho Xưởng cao su. Phải tôn một lối đi từ Đê La Thành xuống xưởng mà bây giờ lối ấy là đại lộ Láng Hạ!
Thẳng tính ngang tàng, phóng túng nhưng Tạ Đình Đề không phiêu lưu trong kinh kế. Bằng chứng là vợt bóng bàn định mức trên cho làm thử hai mươi cái/ngày. Thấy bán chạy ông Đề nâng lên trăm cái. Rồi mấy ngàn chiếc mỗi ngày khi vợt bóng bàn duy nhất Made in Vietnam sản xuất tại Xưởng cao su Đường sắt của ông Tạ Đình Đề xuất biên đi 9 nước XHCN.
Danh tiếng Xưởng cao su Đường sắt loang xa. Ông Đỗ Mười thời ấy ghé qua chầm bập vỗ vai ông  thằng này  khá, khá lắm!
Thuở ấy, thiên hạ đang mênh mông bao cấp mà ông Đề lại nhô lại nhỉnh lên những là lương tháng 13. Những là khoán sản phẩm đến tay người lao động. Những là kết hợp Ba lợi ích... Và cả việc đưa đám mãn hạn tù, đào ngũ như Lưu Quang Vũ vào làm công nhân của Xưởng. 
Ấy là duyên. Còn nợ? Đó là buổi sáng ngày 27/11/1974, Tạ Đình Đề cùng ông phó Nguyễn Văn Luật bị còng tay ngay tại Xưởng, bị giam cứu tận hai năm để điều tra. Rồi phiên tòa xét xử Tạ Đình Đề và đồng bọn với tội danh tham ô tài sản XHCN nổi tiếng 6 ngày ròng rã từ mồng 7 đến 12/6/1976.
Qua 6 ngày xét xử, chủ tọa Phùng Lê Trân dõng dạc tuyên tại tòa tha bổng Tạ Đình Đề cùng 5 bị cáo khác...
Chín năm sau, Tạ Đình Đề lại bị bắt với tội danh tuyên truyền chống CNXH. Hơn 3 năm bị giam không xét xử. Mãi đến tháng 12/1987 mới được tha.
…Có nhiều lần tôi đến căn phòng khách tuềnh toàng ấy, nhưng chủ nhân đi vắng. Cũng may được ngồi với bà vợ ông Đề. Bà người đậm. Ngó vẻ lam lũ tất bật nhưng những nét cao sang từng bầu nên thời hoa khôi của thiếu nữ Hà thành vẫn chưa lặn hẳn?
Thì ra bà là con gái một nhà tư sản có tiếng.
(Đến đây phải mở một ngoặc. Sau này may mắn lúc sinh thời, cụ bà Trịnh Văn Bô (Hoàng Thị Minh Hồ) có kể cho nghe chuyện cụ Đặng Thị Huyền tức nhà tư sản Nghĩa Tường giàu có tiếng ở phố Hàng Ngang rất gần với đại gia Trịnh Văn Bô hằng tâm hằng sản với cách mạng.
Nhà Nghĩa Tường có một người con gái, bà Đặng Thị Thọ sau này là vợ ông Tạ Đình Đề. Nhà Nghĩa Tường vốn chỗ thân tình lẫn hàng xóm gia đình ông Trịnh Văn Bô. Theo gương  hàng xóm, ông bà đã từng hiến cho cách mạng trong từng thời kỳ hàng chục vạn đồng bạc với mấy căn nhà.
Chuyện cô con gái nhà tư sản ấy theo không Tạ Đình Đề nhân một lần ra chiến khu úy lạo quân sĩ là cả một câu chuyện thú vị! Khuôn khổ bài báo này có hạn, đành khất bạn đọc một dịp khác vậy!).
Đang nói cái đoạn ngồi với vợ chủ nhân. Bà khá kiệm lời.  Đành cố lọc trong cái thở dài kín đáo, cả ánh nhìn như vô hồn của bà để đọc được phần nào những ngày gian nan mà tai họa oan khiên có tên là vụ án Tạ Đình Đề bỗng dưng úp chụp xuống cái nhà này?
Và lần ấy, cả hai ông bà đều vắng. Trước tôi là một người rất khó đoán tuổi. Th. anh con trai  thứ hai của ông Đề.
Người này lạ. Thoắt cứ như một ông già. Nhưng cũng nhoáng cái, cung cách của một cậu bé? Ngạc nhiên chưa tới 30 tuổi? Dáng lầm lì. Lử khử. Cũng roanh roách cái điếu bát. Nhưng chừng như hút chưa thạo? Cái động thái gẩy điếu, nạp thuốc, cái ánh nhìn lạ, như có đám mây u tối… Ánh mắt cùng cung cách  như tố rằng, anh không muốn tiếp chuyện với khách?
Rồi mấy lần qua ông Đề, qua bà vợ và trực tiếp gặp Th. tôi cũng chắp nối được một câu chuyện bi thương. Th. làm ở Đường sắt Hà Nội. Đâu như ở bộ phận toa xe. Có cậu bạn hào phóng trút cho Th. mấy lít xăng để Th. đổ xe máy đi chơi với người yêu dịp quốc khánh 2/9/1985. Người ta truy ra. Th.  bị kết tội phá hoại. Bị giam mấy ngày. Bị vặn vẹo đủ điều. Tạm tha nhưng vẫn phải bị tiếp tục gọi hỏi. Cũng chính thời điểm đó, ông Tạ Đình Đề có lệnh bắt vì tội tuyên truyền phản động!
Bố bị giam, con bị gọi lên gọi xuống! Cả hai bố con đều bị quy kết phản động phá hoại! Từ một chàng trai nhanh nhẹn, vui tính, Th. bị đuổi việc. Những ngày ở cơ quan điều tra, Th. thoắt trở thành thể trạng gần như hoảng loạn, tâm thần. Những tưởng sau này không bị gọi hỏi nữa, Th. dần nguôi ngoai… Nhưng căn bệnh hoảng loạn quái ác ấy dường như mấy năm liền không buông tha Th. Nhiều bận tôi đến nhà ông Đề thì lần nào cũng chứng kiến cảnh ông con trai thứ lầm lỳ, lử khử... Rồi bà vợ ông Đề luôn thở dài và cái cách ông Đề cố tếu táo để không khí nhà cửa đỡ nặng nề
Bao năm đã qua. Ông bà Tạ Đình Đề đã theo nhau về cõi. Tôi  cũng có loáng thoáng biết bệnh tình Th. cũng tạm lui. Vậy thôi…
Vậy nên bây giờ gặp lại Th. với thể trạng nói là mạnh hẳn cũng chưa nhưng rất khá so với những ngày buồn  gần 30 năm trước. Tôi đã rất vui! Lại được biết thêm, Th. đã có một mái ấm. Hai vợ chồng có một sạp hàng bán tạp hóa, đời sống cũng đỡ… Theo lời dặn của Th. tôi đã không đề cập đến hoàn cảnh của anh hiện tại!

Những tử tế gọi nhau
…Dịp truy tặng phần thưởng cao quý Huân chương Độc lập hạng 3 cho ông Tạ Đình Đề và kỷ niệm 90 ngày sinh của ông, tôi có gặp và hầu chuyện cụ Quách Hải Lượng, nguyên đại tá, tùy viên Quân sự Việt Nam tại Trung Quốc nhiều năm vốn bạn rất thân với Tạ Đình Đề. Lại biết thêm, vị cựu đại tá này vừa hoàn thành bản thảo cuốn Tạ Đình Đề, tuyển biên tập hợp hàng trăm trang gồm những tư liệu quý về Tạ Đình Đề. Ông cũng đã làm cái việc nối mạng họ Tạ khắp nước. Như ông cho hay, họ Tạ là dòng họ lớn xưa có nhiều nhà khoa bảng trí thức. Đặc biệt thời hiện đại có nhiều người tham gia cách mạng.
Như Tạ Uyên, Bí thư xứ ủy lãnh đạo khởi nghĩa Nam kỳ. Những Tạ Quang Bửu, những Tạ Quốc Luật (người bắt sống tướng De Cattri), Tạ Thị Kiều, Tạ Quang Tỷ, Tạ Thái An (thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo)...
Viết về Tạ Đình Đề thì có nhiều. Tôi nhớ đầu những năm 90 tôi có loạt bài Tạ Đình Đề huyền thoại và sự thật, nhà văn Chu Lai nhăn mặt trách rõ phí. Để tao…
Để tao…là ông làm cái việc nhờ tôi đưa đến gặp bà Phùng Lê Trân, Chánh tòa xử trắng án vụ Tạ Đình Đề, tha bổng ông ngay tại Tòa  năm 1976 ấy. Tôi rụt rè gõ cánh cửa căn nhà cũ kỹ phố Cao Bá Quát… Tôi nhớ vị chánh tòa khi ấy sức đã yếu phải miễn cưỡng tiếp khách. Bà tò mò lẫn dè dặt cẩn trọng khi chuyện với nhà văn Chu Lai. Không rõ sau đó nhà văn Chu Lai có tới gặp bà lần nào nữa không. Và tác phẩm không biết loại hình gì nhưng như Chu Lai khoát đạt rằng sẽ hoành tráng bi lẫn hùng? Chắc là phải có độ lùi nào đấy thì mới phát lộ?
Còn thi sĩ kiêm kịch sĩ Lưu Quang Vũ thì luôn kiệm lời như chính cái người đã từng cưu mang mình khi đưa Lưu Quang Vũ hồi ấy đương có vấn đề về tư tưởng vào làm ở Xưởng Cao su Đường sắt mà Tạ Đình Đề là giám đốc. Vở kịch Tôi và chúng ta chiết xuất khéo léo vô số chất liệu từ ông Đề. Từ tính cách cho đến tài kinh doanh lẫn phiên tòa hy hữu nọ… 
Chợt nhớ câu Kiều cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Trở lại với thời điểm ông Tạ Đình Đề bị công an bắt năm 1985 với tội danh gián điệp phản động. Toàn bộ hồ sơ vụ án được đặt trên bàn Vụ 2C, một vụ đặc biệt của Viện Kiểm sát Tối cao. Người trực tiếp thụ lý coi sóc hồ sơ là Kiểm sát viên cao cấp tên là Dương Thanh Biểu.
Tôi có dịp ngồi với vị này.
 Chuyện của ông như sau.
Năm 1986, tôi được lãnh đạo Vụ Kiểm sát điều tra án an ninh (Vụ 2C, VKSND Tối cao) giao nghiên cứu hồ sơ và đề xuất hướng xử lý vụ án ông Tạ Đình Đề. 10 năm trước, ông Đề từng bị bắt giam và truy tố nhiều tội nhưng được tòa tuyên trắng án, trả tự do ngay tại tòa.
Lần này, theo kết luận của cơ quan điều tra, ông Tạ Đình Đề đã có hành vi thu lượm các câu ca dao, hò, vè có nội dung nói xấu lãnh đạo, sau đó đưa về nói lại cho nhiều người cùng nghe. Cơ quan điều tra đề nghị VKSND Tối cao truy tố ông về tội tuyên truyền chống chế độ XHCN.
Trong hồ sơ, những vị quyền cao chức trọng đã khẳng định như đinh đóng cột là phải xử Tạ Đình Đề về tội chống phá chế độ.
Nhưng hơn một năm giam ông Đề, cơ quan điều tra đã đi xác minh nhiều nhân chứng ở nhiều nơi nhưng kết quả điều tra vẫn không có gì mới. Nếu tiếp tục gia hạn tạm giam đặc biệt cũng không cần thiết và không giải quyết được gì.            Nhưng tôi vẫn cứ run. Bởi nếu lãnh đạo không đồng ý thì chẳng những sẽ kéo dài thêm những tháng ngày đau khổ cho ông Tạ Đình Đề mà có khi mình còn bị đánh giá là hữu khuynh. Ranh giới giữa mất - còn thật mong manh! Biết đâu sau đề xuất của mình là những tai ương đang chờ đón, lôi thôi mình bị mất việc như chơi… Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng liều mạnh dạn đề xuất, không cần thiết phải tiếp tục tạm giam Tạ Đình Đề!
Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề - ảnh 1Tạ Đình Đề (phải) và Thượng tướng Hoàng Minh Thảo tại quê nhà Thanh Oai, Hà Tây
Một hôm, tôi đang ngồi tu chỉnh lại hồ sơ thì anh Lê Mai- Vụ trưởng Vụ 2C gọi tôi sang báo cáo. Anh Mai vào đề ngay: “Mình đã đọc kỹ báo cáo của cậu rồi, ngoài nội dung báo cáo, cậu có thể nói kỹ hơn, suy nghĩ thế nào thì cứ phát biểu thế đó!”. Tôi bày tỏ quan điểm của mình theo hướng như đã nói. Tôi vừa nói xong,  anh Mai  lắc đầu. Anh nói (đại ý) rằng ý kiến đề xuất mạnh dạn của cậu bọn mình rất hoan nghênh nhưng Tạ Đình Đề có hành vi thu thập, phổ biến và tuyên truyền các câu ca dao, hò, vè có tính chất đả kích lãnh đạo, nói xấu chế độ…
 Sau đó ít ngày, Vụ 2C tổ chức cuộc họp để thảo luận nghiệp vụ xoay quanh vụ án Tạ Đình Đề. Trong số các ý kiến buộc tội, có người còn lập luận rằng: “Đã giam người ta chừng ấy thời gian mà bây giờ bảo không có tội thì không ổn. Đề nghị thống nhất với ý kiến của cơ quan điều tra (tức kết tội ông Đề)”!
May thay sau đó, đồng chí Trần Lê, Viện trưởng VKSND Tối cao khi ấy, sau khi coi xét, kết luận: “Thay mặt lãnh đạo Viện, tôi xin biểu dương Vụ 2C đã mạnh dạn nêu quan điểm xử lý vụ án. Ý kiến các đồng chí lãnh đạo Viện thống nhất về quan điểm xử lý…”.
Ngày 8/1/1987, viện trưởng VKSND Tối cao có văn bản trả lời Bộ Công an, trong đó nói rõ không cần đưa vụ án này ra truy tố, xét xử.
Nhưng phải mất gần một năm trao đi đổi lại… Trong khi đó ông Tạ Đình Đề vẫn phải co quắp trong đề lao mà ông sau này ông gọi lần vướng lao lý lần thứ 2 ấy là … tú tài! Tức là tái tù.
Cuối cùng, ngày 7/12/1987, VKSND Tối cao ra quyết định đình chỉ điều tra và trả tự do cho ông Tạ Đình Đề. Vụ án Tạ Đình Đề tuyên truyền chống CNXH được khép lại.
Được biết thêm ông tiến sĩ họ Dương sau này là Viện phó Viện Kiểm sát NDTC. Những năm trận mạc ở chiến trường Tây Nguyên, khi Nguyễn Quốc Thước là Trung đoàn trưởng thì Dương Thanh Biểu là đại đội trưởng một đơn vị chủ công dưới quyền ông Thước. Sau năm 1975, Dương Thanh Biểu chuyển ngành về Viện KSTC.
Về hưu, đầu năm 2014 tiến sĩ họ Dương hoàn thành cuốn sách  Tạ Đình Đề, những góc khuất cuộc đời. Sách ngót 300 trang in, khổ (14X20,5cm) được công luận đánh giá cao.
Mạo muội gẫm thêm,  có lẽ chưa phải cuốn sách cuối về Tạ Đình Đề. Chắp bút về nhân vật với những oan khuất bi lẫn hùng này vẫn được coi là đề tài bất tận? Bởi chưa bao giờ hết, chưa khi nào kết thúc những cảnh giác những tỉnh táo trước cái ác, về thông điệp vô cảm, về những lòng người thói đời?
 Tạ Đình Đề sinh năm 1917 tại Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội. Năm 1936,  cùng với cha và anh trai sang Vân Nam (Trung Quốc) làm việc tại Công ty Hỏa xa. Tại đây, ông tham gia Hội Ái hữu cứu quốc do Việt Minh tổ chức. Tạ Đình Đề từng được cử đi học tại các trường hạ sĩ quan, Trường Đặc vụ và Trường đào tạo gián điệp ở Trung Quốc (nơi đào tạo sử dụng các loại vũ khí, chất nổ, lái xe, lái máy bay…). Ông tốt nghiệp xuất sắc Trường quân sự Hoàng Phố và được tổ chức phân công hoạt động tình báo cùng phái bộ Mỹ trong phe Đồng minh chống phát xít Nhật. Sau đó, Mỹ đưa ông đi đào tạo nhảy dù ở Ấn Độ và Mỹ. Năm 1944, ông được Mỹ và Tưởng Giới Thạch đưa về hoạt động tại Huế, Sài Gòn.
Tháng 8/1945, Tạ Đình Đề tham gia cách mạng, một năm sau ông vào Đảng. Từng làm Phó ban Tình báo Liên khu 2, Trưởng ban Tình báo Tây Tiến, Đội trưởng biệt động Liên khu 2, Giám đốc Trường Hoa văn Liên khu 3…
Ông mất ngày 29/2/1998. Năm 2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng huân chương Độc lập hạng Ba. (Nguồn Vụ 2C Viện KSND Tối cao)
Tôi chợt nhớ vẫn còn lưu lại một bút tích của Tạ Đình Đề. Số là bữa ngồi với ông, tò mò hỏi những thơ ca hò vè ông thu thập gọi là nói xấu lãnh đạo, đả kích chế độ gồm những bài gì vậy? Ông cười ngoài thu thập tớ còn sáng tác hẳn hoi. Rồi ông biên ra một mạch bài Vịnh chuột trong tù.
Nó thế này: 
Lũ chuột tranh nhau miếng cơm tù/ Một con lăn bể chết êm ru/ ở đời nhiều kẻ ghê hơn chuột/ Tranh nhau nhậu nhẹt cứ lu bù/Lý luận tình suông che giấu dốt/ Dựa dẫm cấp trên cậy lọng dù/ Xã hội tiến lên là phải triệt/Tụt nõ dài đuôi ắt phải tù!
Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề - ảnh 2
Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề - ảnh 3
Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề - ảnh 4Bút tích Tạ Đình Đề (bài Vịnh chuột trong tù và giấy hẹn làm việc với tác giả. Cáo trạng và hồ sơ vụ bị bắt năm 1976)
Vẫn bất tận một Tạ Đình Đề - ảnh 5
Tạ Đình Đề (trái)

24 tháng 1, 2020

Ngỡ ngàng vẻ đẹp mê hoặc của chim bồ câu Nicobar

Sở hữu bộ lông óng ánh tuyệt đẹp, "nhan sắc" của chim bồ câu Nicobar khiến nhiều người phải ngỡ ngàng, ngưỡng mộ.
Bạn đã bao giờ nghe về loài chim bồ câu Nicobar, một loài chim bồ câu tuyệt đẹp với bộ lông óng ánh rực rỡ như cầu vồng? Đây là những con chim có họ hàng gần nhất với loài chim Dodo, một loài chim không may đã tuyệt chủng. (Nguồn Bored Panda).
Bồ câu Nicobar, tên khoa học là Caloenas nicobarica, là một loài chim bồ câu kỳ lạ được tìm thấy tại các hòn đảo nhỏ và những vùng bờ biển tại quần đảo Nicobar, miền Đông quần đảo Mã Lai và cả Solomon và Palau. Hiện Bồ câu Nicobar là thành viên duy nhất của chi Caloenas. (Nguồn Bored Panda).
Đây là loài bồ câu lớn, chiều dài đo được khoảng 40 cm. Đầu có màu xám xanh, giống phần lông cổ trên. Đuôi rất ngắn, thuần trắng. Phần còn lại của bộ lông có màu xanh lục ánh kim xen kẽ những màu sắc rực rỡ như hồng, tím hồng, cam, xanh lá cây, xanh ngọc lục bảo. Đồng tử tối màu. (Nguồn Bored Panda).
Sở hữu bộ lông đặc biệt lộng lẫy, loài chim bồ câu tuyệt đẹp này khiến nhiều người có ý nghĩ rằng đây là loài chim đến từ thiên đường. (Nguồn Bored Panda).


Theo lý giải của các nhà khoa học, sở dĩ những con chim bồ câu Nicobar có màu sắc rực rỡ hơn hẳn những con bồ chim bồ câu thông thường là do vị trí địa lý nơi chúng sinh sống chủ yếu. (Nguồn Bored Panda).
Được tìm thấy sinh sống nhiều ở quần đảo Nicobar, một quần đảo nhỏ, nơi mà chúng không có nhiều kẻ thù tự nhiên, chim bồ câu Nicobar có thể thoải mái khoác lên mình bộ cánh bắt mắt mà không sợ bị phát hiện. (Nguồn Bored Panda).
Việc sống mà không cần che giấu, không cần ngụy trang khiến chim bồ câu Nicobar thỏa sức "ăn diện". (Nguồn Bored Panda).
Bộ lông đẹp tuyệt mỹ của chúng là một trong những bộ lông đẹp nhất trong vương quốc loài chim. (Nguồn Bored Panda).
Theo người dân địa phương thì mùa sinh sản của bồ câu Nicobar rơi vào khoảng thời gian xuân hè (tháng 4-5), chúng chỉ đẻ 1 trứng. Tổ làm đơn giản đặt trên các cành cây có tán rộng cách mặt đất 5-10m. (Nguồn Bored Panda).
Bồ câu Nicobar thích ăn các loại hạt, quả cây trong rừng. Chúng có thể sống đơn độc hoặc sống theo đàn, làm tổ tập đoàn trên cùng một cây. (Nguồn Bored Panda).
Bồ câu Nicobar còn được biết là thích kiếm ăn và làm tổ ở các khu rừng nơi vắng vẻ của các đảo nhỏ. Khi kiếm ăn chúng lượn xuống dưới đất, khi muốn nghỉ ngơi, bồ câu Nicobar bay về tổ. Chúng cũng được phát hiện là có ngủ trưa. (Nguồn Bored Panda).
Do ngoại hình đẹp nổi bật của mình, bồ câu Nicobar cũng bị săn bắt để làm chim cảnh. Hiện tại số lượng loài cũng còn rất ít, là loài động vật quý hiếm được bảo vệ trên toàn thế giới. (Nguồn Bored Panda).

Vì sao dân cười khi thấy quan chức xuống đường quét rác?

Thursday, January 23, 2020 3:36 
Diễm Thi 
Theo RFA 
Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân tham gia quét rác hôm 18/1/2020.
Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân tham gia quét rác hôm 18/1/2020 - SGGP 

Cứ vào những tháng cuối năm hay những ngày đầu năm mới, hình ảnh một vị lãnh đạo nào đó cùng nhiều thuộc cấp ra quân dọn dẹp vệ sinh môi trường như quét rác, khơi thông cống rãnh… với hàng loạt ống kính chĩa vào trở nên phổ biến.



Sáng 18 tháng 1 năm 2020, nhiều quận huyện ở TP.HCM đã tổ chức lễ ra quân thực hiện tháng “Thành phố sạch - Thành phố văn hoá mừng xuân Canh Tý 2020, mừng Đảng 90 năm”. Báo chí trong nước đưa tin kèm hình ảnh Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân mang bao tay trắng tham gia quét rác cùng người dân. Lập tức mạng xã hội đăng lại tấm hình ông Nguyễn Thiện Nhân cầm cây khơi thông dòng chảy cho kênh Rạch Lăng ở quận Bình Thạnh năm 2018 với hàng loạt ống kính phóng viên, cũng trong một buổi vận động người dân không xả rác.

Trước đó vài năm, tại buổi lễ phát động các hoạt động tình nguyện bảo vệ môi trường, người ta cũng thấy hình ảnh nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng cùng thanh niên tình nguyện vớt rác, kéo lục bình khai thông dòng chảy rạch Dừa. Ông này đang phải thụ án tù vì những sai phạm trong công tác.

Nhiều người dân mỉa mai với những câu nói như: “Tôi không hiểu sao ông Bí thư Thành ủy làm đúng nghề của mình mà bị mọi người công kích?”. Có người họa lại đôi câu bài thơ Ông Đồ của tác giả Vũ Đình Liên: “Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông xuống đường - Cầm chổi chà, cào cỏ - Giữa phố đầy phóng viên”.

Anh Quang, một người dân TP.HCM cho rằng dân cười là phải và chuyện này không mới, chỉ có phản ứng của người dân trên mạng xã hội là mới. Anh giải thích:

“Bình thường họ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, hà hiếp người dân, đến ngày lễ, ngày tết bày ra những trò như vậy nhìn nó lố bịch. Người dân cười là đúng rồi. Đó là hình thức biểu diễn để mị dân của người cộng sản từ hồi nào đến giờ rồi nhưng bây giờ dân mới có phương tiện để nói lên, để phản ứng. Chuyện đó không mới!

Những chuyện thiết thực hàng ngày thì họ không làm, bao nhiêu chuyện nóng về môi trường, về an toàn thực phẩm sờ sờ trước mắt họ không quan tâm.”

Cũng là một người dân ở TP.HCM nhưng cô Tuyết không bao giờ lên mạng xã hội, mà các thông tin cô biết chỉ qua báo đài trong nước. Cô nêu quan điểm của mình về việc quan chức cao cấp ra phụ dân nhặt rác, quét đường:

“Theo quan điểm của em thì những quan chức lớn như vậy mà làm công việc của những người quét rác nó thể hiện sự bình đẳng. Nhìn hình ảnh các quan chức trên báo như vậy thì người dân sẽ không vứt rác bừa bãi ra bên ngoài. Thấy người “lớn” làm như vậy thì đương nhiên người “nhỏ” phải noi theo, không xả rác bừa bãi.”

Nhà nghiên cứu xã hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương nhận xét rằng đa số người dân chê bai những hành động của các lãnh đạo cao cấp như vậy. Bà không có một nghiên cứu chính thức về việc này nhưng theo bà thì người dân không sai, bởi làm lãnh đạo thì phải làm những việc to tát, hoạch định những chính sách sao cho ích nước lợi nhà thể hiện vị thế của mình, chứ đi lượm rác, thông kênh rạch chẳng giải quyết được việc gì cả. Bà đưa nhận định của mình:

“Cá nhân tôi thì tôi thấy các quan chức có cách này cách kia để lấy lòng dân, và hành động nhặt rác thì cũng nhằm cổ vũ cho vệ sinh môi trường, nhưng tôi nghĩ là cách làm truyền thông không phù hợp. Người dân nhìn những hình ảnh đó họ không thấy thuyết phục.”

Việt Nam là một nước có số lượng báo chí chính thống khá nhiều. Theo thống kê được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra hôm 6 tháng 11 năm 2019, cả nước có 844 cơ quan báo, tạp chí in, 24 báo, tạp chí điện tử độc lập, 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, 05 đơn vị hoạt động truyền hình, với tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước được cấp phép là 279 kênh, 70 kênh truyền hình nước ngoài được cấp phép biên tập, biên dịch.

Có 36 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, trong số đó, số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trên mạng Internet chiếm 20/36 doanh nghiệp.

Đang làm việc trong lĩnh vực báo chí có 41.600 người và Bộ đã cấp 23.402 thẻ nhà báo.

Thế nhưng với những người dân có chút hiểu biết về thời cuộc thì từ lâu họ đã không còn tin, không còn xem những tin tức, hình ảnh mà báo trong nước loan nữa. Người ta nói với nhau rằng, ngày xưa đọc báo để có kiến thức, ngày nay phải có kiến thức hãy đọc báo. Nhạc sĩ Tuấn Khanh đã sáng tác một bài hát có tên “Hãy gấp trang báo và tắt tivi”.

Như vậy mạng xã hội cho đến bây giờ là nơi người dân có thể nói lên những suy nghĩ, những phản biện một cách trung thực nhất, nhưng lại bị chính quyền coi là công cụ chống đảng, chống nhà nước.

Tuy vậy, theo đánh giá của những nhà quan sát thời cuộc thì nhờ mạng xã hội mà nhận thức của người dân được nâng lên rất nhiều và họ không tin vào những điều được gọi là ‘mị dân’ nữa.

Blogger Nguyễn Ngọc Già nhận định:

“Theo tôi thì chuyện cuối năm mấy ông bà cộng sản cấp cao đi quét rác, dọn dẹp… bị người dân cười cợt thì không có gì ngạc nhiên hết bởi vì người ta không tin vào những chuyện mị dân như vậy. Nó phản ánh não trạng của giới cộng sản cấp cao vẫn rất ấu trĩ. Họ không lừa được người dân bằng những hành động đen cả về hình thức lẫn tâm trí của họ nữa.

Cái thứ hai là tự họ làm cho hình ảnh của họ trở nên xấu xí. Người dân Việt Nam ngày nay nhận thức rất nhiều chứ không phải như ngày xưa nữa. Người dân không cần những hình ảnh quét rác theo nghĩa đen nữa mà họ cần quét rác theo nghĩa bóng, tức là hãy quét sạch hết những tệ nạn như ma túy, tham nhũng…”

Theo báo cáo, thống kê của Bộ Công an, tính đến 15 tháng 5 năm 2018, cả nước có 225.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng 2.100 người so với năm 2017. Còn tệ tham nhũng, hối lộ thì tràn lan khắp các cơ quan công quyền, có vụ ‘ăn’ đến hàng triệu đô la Mỹ mà người dân chỉ được biết qua chiến dịch ‘đốt lò’ của ông Nguyễn Phú Trọng mấy năm qua.