21 tháng 1, 2020

90 năm, đất và đảng

Võ Văn Quản
21-1-2020
Tại Việt Nam, bất kỳ đảng phái chính trị nào cũng cần phải quan tâm đến vấn đề đất đai và đề ra những biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này.
Thực tế cho thấy, từ giai đoạn đô hộ của thực dân Pháp, cho đến sự tồn tại của hai quốc gia Nam – Bắc, rồi sau đó là quá trình “cải cách” và “tập thể hóa” đất đai từ thời điểm thống nhất 1975, đất đai luôn là tâm điểm của các đối thoại chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là đảng phái hình thành từ năm 1930, thống trị chính trị miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và toàn quốc từ năm 1975, chắc chắn có một lịch sử luận cương và quan điểm dài hơi liên quan đến vấn đề này. Liệu chúng có thay đổi gì suốt 90 năm qua?
Nhiều học giả cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam khá kiên định về sở hữu đất đai trong suốt thời gian tồn tại của mình. May thay, nhờ vào lượng thông tin và văn kiện đảng dồi dào được cung cấp rộng rãi đến công chúng suốt nhiều thập kỷ qua, việc tổng hợp và xây dựng một khảo lược về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và đất đai không phải là khó.
1930 – 1940: Dân túy trong quyền tư hữu đất đai
Trong giai đoạn này, khác với các đảng phái chính trị và phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ khác, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam) có nhiệm vụ chiến lược tương đối rõ ràng cho cách mạng Việt nam bao gồm: “Đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và xóa bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân”, được ghi nhận trong Cương lĩnh Chính trị của đảng năm 1930.
Quan điểm chia lại của cải, mà quan trọng nhất là ruộng đất, cho dân chúng bần nông trở thành ngọn cờ đầu cho những phong trào đấu tranh đầu tiên của đảng. Khẩu hiệu “Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và các giáo hội, giao ruộng ấy cho trung và bần nông”, cho đến nay, vẫn được xem là đúng đắn, phù hợp.
Hiển nhiên, vấn đề ruộng đất không phải là vấn đề duy nhất mà Đảng Cộng sản Đông Dương quan tâm. Chúng ta có thể thấy đảng luôn cố gắng tiếp cận đến nhiều đối tượng, gồm đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, cứu đói, tạo việc làm cho người thất nghiệp; chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân; chống tăng thuế, chống đối xử xấu với sinh viên; chống bắt lính Việt Nam ra nước ngoài, v.v. (Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2). Tuy nhiên, có thể thấy Cách mạng “Thổ địa” luôn là mặt trận mà Đảng Cộng sản được hưởng ứng mạnh mẽ hơn cả.
Trong thư Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Nông dân, một tổ chức phân hiệu của Quốc tế Cộng sản vào năm 1930, ông tương đối tự hào và ủng hộ mạnh mẽ cho sự dấn thân của nông dân vào các Nông hội Đỏ, dù có đối mặt mới các rủi ro về sức khỏe và tính mạng. Cụ thể, ông ca ngợi nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho liên tục đấu tranh dù đối mặt với với sự “đàn áp dã man” của thực dân Pháp và bọn tay sai. Nguyễn Ái Quốc cũng khuyến khích hoạt động biểu tình – mít tinh của nông dân ở nhiều khu vực, đồng thời lên án hành vi xả súng, dùng phi cơ ném bom vào người dân biểu tình ôn hòa đòi hỏi quyền lợi hợp pháp như đòi chia lại ruộng đất, đòi giảm tô thuế, đòi lý trưởng, hào trưởng ở địa phương giao đất canh tác, v.v. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Quyển 3).
Nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Năm 1933, Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản Chương trình Hành động của Nông Hội. Chương trình hành động này trước tiên chỉ ra nông dân chiếm đến 90% nhưng chỉ thực sự sở hữu 20% diện tích ruộng đất, từ đó chứng minh họ đang bị đế quốc, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến bóc lột đến tận xương tủy, với sưu cao thuế nặng và nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Trong thực trạng này, Đảng Cộng sản Đông Dương cho rằng giai cấp nông dân không còn con đường nào khác là phải “kéo nhau ra trường cách mạng đánh đổ đế quốc, đoạt lại tự do quyền, trừ diệt địa chủ, chia đất cho dân cày, lập chánh phủ Xô viết công nông”.
Với thực tế lịch sử là tư hữu đất đai được chính quyền các kỳ cũng như nhà bảo hộ Pháp quốc công nhận, các hoạt động tuyên truyền của Đảng Cộng sản Đông Dương có vẻ như muốn vẽ nên một viễn cảnh về quyền tư hữu đất đai sẽ tiếp tục được bảo vệ trong chế độ chính trị mà họ mong muốn xây dựng, chỉ là nó công bình hơn, trong đó người nông dân, mà đặc biệt là bần cố nông, trung nông, những người sẽ đều được sở hữu đất đai mà không cần lệ thuộc vào giới địa chủ và phú nông.
Tuy nhiên, ít người phát hiện ra rằng Luận cương Chính trị 1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định nội dung: “Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chánh phủ công nông”. Vì không phổ biến và làm rõ mục tiêu và nguyên lý sở hữu tổ chức, quản lý đất đai trong phạm vi khái niệm “thuộc về chánh phủ công nông”,  thông điệp “cướp của người giàu chia cho người nghèo” về vấn đề đất đai có thể xem là một lời hứa mang nặng bản chất dân túy, song ở mặt nào đó chấp nhận và khuyến khích tư hữu ruộng đất của nông dân.
1940 – 1946: Chấp nhận tư hữu và ôn hòa về đất đai
Từ năm 1935 đến năm 1940, Đảng Cộng sản Đông Dương chịu nhiều thiệt hại lớn với các lãnh đạo chính trị bị xử tử, còn tổ chức đảng cơ sở gần như bị phá hủy hoàn toàn. Việc chỉ dựa vào nền tảng nông dân, tham vọng vừa làm cách mạng giai cấp đồng thời với cách mạng dân tộc khiến cho Đảng Cộng sản Đông Dương không đủ nền tảng nhân dân mà họ kỳ vọng.
Năm 1941, ông Nguyễn Ái Quốc về nước, và độc lập dân tộc trở thành biểu ngữ ưu tiên cho phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản. Thay vì chỉ tập trung thu hút lực lượng nông dân, những loại hình tổ chức mặt trận như Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội (Việt Minh) được hình thành để “đại diện” cho toàn thể lực lượng chính trị xã hội tại Việt Nam, tạo nên một hình ảnh đại đồng, nói không với những cải cách kinh tế – chính trị – xã hội cực tả mà các đảng cộng sản trên thế giới thường được biết đến. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản được giới tư bản, địa chủ ủng hộ mạnh mẽ; và cũng vì lý do này, vấn đề đất đai ít khi được nhắc đến cụ thể, chi tiết trong các văn kiện đảng từ 1940 đến đầu thập niên 1950.
Minh chứng rõ ràng nhất của sự nhượng bộ này là bản Hiến pháp 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà tại Điều 12 thừa nhận: quyền tư hữu tài sản dưới mọi hình thức được bảo đảm. Điều này đồng nghĩa với việc quyền tư hữu đất đai cũng sẽ được duy trì.
Trong khi đó, các sắc lệnh do Chính phủ Liên hiệp Quốc dân (với sự tham gia của nhiều đảng phái) đề xuất thông qua cũng nhằm mục tiêu giảm thiểu xung đột và bảo vệ quyền lợi nhất định của nông dân, chứ không nhằm đưa ra chính sách cải tổ đất đai nào cụ thể. Ví dụ, Sắc lệnh 78 /1945 chỉ nhằm trao quyền cho Hội đồng Giảm tô và cân nhắc giảm 25% địa tô so với mức trước ngày 19 tháng Tám năm 1945.
Đáng tiếc, cuối năm 1946, chiến tranh Đông Dương lần thứ hai với Pháp nổ ra, và định hướng về tư hữu đất đai của Chính phủ Liên hiệp không có cơ hội thành hình và tìm được chỗ đứng trong lịch sử.
Chính phủ liên hiệp của Hồ Chí Minh năm 1946. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
1947 – 1953: Vừa thừa nhận tư hữu, vừa cực đoan hóa vai trò kiểm soát đất đai của nhà nước
Do chiến tranh với Pháp, cải cách đất đai ít có chỗ trong các không gian đối thoại chính trị của Việt Nam tại thời điểm đó. Thêm vào đó, cũng còn khá nhiều nhân sĩ trí thức không đảng phái trong nội bộ chính phủ kháng chiến, ví dụ như ông Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế; ông Hoàng Minh Giám giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; ông Tạ Quang Bửu giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; và ông Đặng Văn Hướng giữ chức Bộ trưởng không bộ. Điều này cũng khiến cho các chính sách đất đai quá cực đoan cũng cần phải giữ kẻ.
Tuy nhiên, cũng từ năm 1947, với những thắng lợi nhất định của chiến dịch Tây Bắc, diện tích đất do chính phủ kháng chiến kiểm soát mở rộng và các vấn đề đất đai bắt đầu cần phải được xử lý. Tháng Hai năm 1949, chính phủ ra sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp cũng như địa chủ bỏ đất trong những vùng vừa tiếp quản cho nông dân nghèo, chấm dứt tình trạng một số đồn điền trại ấp lâu ngày không được canh tác. Tháng Bảy năm 1949, một sắc lệnh khác được ban hành để ấn định mức địa tô mà các chủ ruộng được thu cũng như xóa bỏ tô phụ và chế độ quá điền.
Đến năm 1950, khi nguồn lực của chính phủ kháng chiến đạt được những thành tựu nhất định cả về nhân lực lẫn lương thực, tài sản; Sắc lệnh 88/SL ra đời với nhiều điểm quan trọng:
Một là, ấn định thời gian lĩnh canh (tối thiểu ba năm) nhằm bảo vệ quyền lợi của tá điền.
Hai là, việc giao lĩnh canh nay không chỉ là thỏa thuận dân sự thông thường giữa các bên nữa, mà bắt buộc phải đăng ký vào sổ Chương bạ bởi Ủy ban Kháng chiến hành chính xã.
Ba, tá điền được quyền ưu tiên mua hoặc ưu tiên lĩnh canh nếu ruộng được bán lại cho bên thứ ba.
Thứ tư, giới hạn quyền cho lĩnh canh liên tục. Theo quy định này, chủ ruộng, sau ba năm, nếu muốn đòi lại ruộng thì phải tự canh tác trong thời hạn ba năm tiếp theo nữa mới có thể cho người khác lĩnh canh tiếp (còn cho tá điền cũ tiếp tục canh tác thì không cấm). Quy định này một mặt ổn định quyền lĩnh canh của tá điền, đồng thời cũng giới hạn quyền tự định đoạt đối với đất đai của chủ ruộng.
Sắc lệnh 88, do đó, là một minh chứng lịch sử rõ ràng để chứng minh rằng cho đến giữa thập niên 1950, quyền tư hữu đất đai và hình thái sản xuất nông nghiệp  địa chủ – tá điền vẫn tiếp tục là cơ sở kinh tế cho chính quyền kháng chiến, khác với nhiều quan điểm và tài liệu ghi nhận rằng chính sách đất đai của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn thống nhất. Tuy nhiên, cũng sẽ phải thừa nhận rằng với Sắc lệnh 88, tham vọng kiểm soát đất đai và huy động đất đai theo ý muốn quản lý hành chính của nhà nước đã dần lộ diện.
1954 – 1975: Tiếp tục thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất, nhưng nhà nước tiếm quyền quyết định về đất đai
Khi nói đến giai đoạn 1954 – 1945, nhiều người sẽ nhắc tới Cải cách Ruộng đất như một minh chứng cho sự trắng trợn của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc kiểm soát đất đai.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ về mặt bản chất, có thể thấy diễn biến hoàn toàn ngược lại: Cải cách Ruộng đất tiếp tục khẳng định quyền tư hữu đất đai của người dân, chỉ là phân chia lại về mức chênh lệch chiếm hữu đất, và quá trình phân chia lại đó có phần đẫm máu. Cụ thể, trong Hội nghị lần thứ Năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa II (tháng 11/1953, lúc này được gọi là Đảng Lao động Việt Nam), cương lĩnh về cải cách ruộng đất vẫn chưa nhắc đến việc công hữu hóa đất đai.
Còn khi xem xét Luật Cải cách Ruộng đất được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 4/10/1953, mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất được khẳng định rất rõ ràng: Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; từ đó, “thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân”. Như vậy, có thể nói chế độ tư hữu ruộng đất vẫn còn được thừa nhận, chỉ là chuyển từ chế độ chiếm hữu “thực dân, phong kiến” sang chế độ chiếm hữu của nông dân mà thôi.
Một "phiên tòa" xét xử địa chủ thời Cải cách Ruộng đất. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Một “phiên tòa” xét xử địa chủ thời Cải cách Ruộng đất. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Ngày vui ngắn chẳng tày gang, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm thấy cơ hội thực hiện chính sách công hữu hóa đất đai đầy tham vọng của mình, song dưới danh nghĩa “tập thể hóa”. Hiến pháp 1959, vì vậy, bắt đầu áp đặt các khái niệm về bốn hình thức sở hữu (Điều 11) bao gồm hình thức sở hữu của nhà nước (toàn dân), hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc; và đặc biệt phải kể đến “kinh tế quốc doanh” (Điều 12).
Hiến pháp này vẫn tiếp tục “bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân” (Điều 14). Có chăng điều họ muốn làm là thí nghiệm việc đẩy nông dân vào các mô hình hợp tác xã nói chung, chứ không cho phép hoạt động kinh tế độc lập tự thân, từ đó chuẩn bị cho mong muốn xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Chiến thuật vừa đánh vừa xoa này kéo dài cho đến tận năm 1975, song ngôn ngữ bắt đầu dịch chuyển đáng nghi ngại.
Nghị quyết số 125 của Chính phủ ban hành ngày 28/06/1971 đã khẳng định “Ruộng đất, ao hồ, đồng cỏ của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, các cơ sở quốc doanh, các cơ quan đơn vị khác và của cá nhân được nhà nước chứng nhận quyền quản lý và sử dụng đất đều được pháp luật bảo vệ, không ai được xâm phạm”. Từ “quyền sở hữu” trong Hiến pháp 1959 nay đã dần chuyển đổi thành “quyền quản lý và sử dụng đất”. 
Đảng Lao động Việt Nam cũng bắt đầu đưa ra các chính sách can thiệp sâu rộng hơn về chuyển nhượng và sử dụng đất đai, như nghiêm cấm việc mua bán ruộng đất, mọi hành vi phá hoại đất đai làm mất diện tích ruộng đất, làm giảm bớt độ màu mỡ của đất như bỏ hoang hóa ruộng đất. Thêm vào đó, nhân dân có nhu cầu đổi ruộng, chuyển nhượng ruộng giữa các hợp tác xã nông nghiệp với nhau trong phạm vi huyện phải được ủy ban hành chính huyện cho phép.
Sự phục tùng nhất định của nông dân miền Bắc đã tạo cơ sở cho quyết định tiến tới công hữu hóa đất đai sau này.
1975 – 1986: Công hữu đất đai toàn diện
Ngày 30/4/1975, Đảng Lao động Việt Nam thống nhất toàn bộ quyền lực chính trị và quân sự trên dải đất hình chữ S về tay mình, thời cơ chín muồi để hiện thức hóa tham vọng công hữu hóa đất đai mà đảng ấp ủ bấy lâu nay đã tới.
Hiến pháp 1980 ra đời, chính thức tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19). Đây là lần đầu tiên trong suốt 35 năm tồn tại của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ trực tiếp tuyên bố chế độ sở hữu đất đai này.
Từ đó, với Chỉ thị số 57/CT-TƯ ngày 15/11/1978 của Ban Chấp hành trung ương Đảng, đảng và nhà nước mới đã tiến hành tiếp quản và quản lý các mô hình hợp tác xã tự nguyện trước đó. Và với Chỉ thị 100/CT-TƯ ngày 15/1/1981, cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, được đổi mới theo hướng mệnh lệnh hành chính tập trung.
Năm 1987, Luật Đất đai chính thức cụ thể hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ảnh: Cường Trần/Người Đô Thị.
1986 đến nay: Hơn 30 năm dở dở ương ương của người dân “sử dụng”, Nhà nước “thống nhất quản lý”
Thất bại nặng nề trong việc hiện thực hóa các tham vọng kinh tế của mình qua công hữu đất đai và sản xuất tập thể, năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI đã đề ra đường lối Đổi mới.
Ngày 5/4/1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời, được cho là từng bước tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; “cởi trói” và giải phóng năng lực sản xuất cho người nông dân (mà thật ra là chính họ trói người nông dân trước đó).
Năm 1993, Luật Đất đai mới thay thế cho Luật Đất đai năm 1987 đã mở ra một nội hàm rộng cho khái niệm “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất thuộc về người sử dụng đất”. Năm 2003, Luật Đất đai 1993 được thay thế bằng Luật Đất đai 2003.
Ngày nay, dù tiếp tục chỉ được xem là “người sử dụng” đất, người dân đã được trao trả các quyền định đoạt tài sản thông thường như quyền cho thuê, thế chấp, góp vốn, để thừa kế và sản xuất kinh doanh.
Cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục duy trì quan điểm cho rằng nhà nước đại diện toàn dân thống nhất quản lý đất đai. Điều này, thật ra mà nói, không ngăn cản các nhà tư bản thân hữu và tư bản đỏ tích tụ đất đai vào tay họ, mà thậm chí còn đẩy quá trình đó diễn ra nhanh hơn.

20 tháng 1, 2020



Đồng Tâm và Ô Khảm, thuộc hai quốc gia của một chế độ
fb Jackhammer Nguyễn 12-1-2020 - Đồng Tâm là một làng quê nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, Việt Nam. Ô Khảm là một làng đánh cá ngoại thành Quảng Châu, Trung Quốc.
Ngày 9/1/2020, công an Việt Nam ập vào làng Đồng Tâm, đàn áp bắt đi ba mươi người, giết chết một người, chấm dứt sự tồn tại của Tổ đồng thuận chống tham nhũng Đồng Tâm.
Ngày 13/9/2016, công an Trung Quốc tràn vào làng Ô Khảm, bắt bớ đánh đập, chấm dứt sự tồn tại trong gần năm năm một chính quyền được dân bầu lên.
Cả hai vụ nổi dậy và bị đàn áp tại Đồng Tâm và Ô Khảm giống nhau ở bản chất, đều bắt đầu bằng những vụ cưỡng đoạt đất đai, dựa trên nguyên tắc cộng sản, “đất đai là sở hữu toàn dân”.
Ảnh trên: Người dân Đồng Tâm (VN) mang cờ, biểu ngữ phản đối quan tham cướp đất năm 2017. Ảnh dưới: Dân Ô Khảm (TQ) với cờ xí rợp trời, phản đối quan tham và ủng hộ ông Lâm Tổ Loan.

Ô Khảm

Vào năm 2011, hàng ngàn người dân làng Ô Khảm biểu tình tố cáo các cán bộ xã, huyện, đã lấy đất của họ bán cho các doanh nghiệp để kiếm lời. Các cán bộ sau đó bị cách chức, và Bắc Kinh đồng ý cho dân chúng Ô Khảm bầu cử trực tiếp những chức vụ trong xã. Ông Lâm Tổ Loan, một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành người đứng đầu Ô Khảm vào năm 2012.

Từ 2012 đến 2016, ông Lâm tiếp tục đại diện cho dân làng đòi đất đai. Tháng 9/2016 ông bị bắt với tội nhận hối lộ và bị xử tù ba năm. Dân Ô Khảm nói ông không có tội gì. Một cuộc biểu tình bùng nổ và bị đàn áp mạnh, có người phải bỏ trốn ra nước ngoài.

Đồng Tâm 

Năm 2014, dân làng Đồng Tâm bắt đầu phản đối việc trưng thu đất đai, giao cho công ty Viettel kinh doanh. Đỉnh điểm của sự xung đột là vụ dân làng bắt hàng chục công an làm con tin vào tháng 4/2017. Hà Nội phải thương lượng việc trao trả con tin, hứa không truy tố dân làng. Sau đó các cán bộ xã, huyện bị cách chức vì “những sai phạm trong quản lý đất đai”.

Một Tổ đồng thuận chống tham nhũng được thành lập do ông Lê Đình Kình, một đảng viên cộng sản “lão thành” đứng đầu, tiếp tục đòi đất. Trong cuộc đàn áp ngày 9/1/2020, ông Lê Đình Kình bị giết chết.

Hai quốc gia một chế độ

So sánh Ô Khảm và Đồng Tâm, chúng ta thấy có một diễn biến, dù tên gọi có khác nhau nhưng bản chất rất giống nhau. Đó là quyền lực của chính quyền trung ương bị mất ở cấp làng xã. Chính quyền Quảng Đông mất quyền kiểm soát đối với chính quyền do dân bầu lên ở Ô Khảm. Chính quyền Hà Nội không thể kiểm soát được Tổ đồng thuận của ông Lê Đình Kình, mà rất nhiều người dân nghe theo Tổ đồng thuận này. Trên thực tế Tổ đồng thuận chống tham nhũng đã trở thành một chính quyền De Facto.

Việc này không thể chấp nhận được đối với thể chế cộng sản.

Kết quả đàn áp, có thể có những nguyên nhân, âm mưu cấp địa phương khác nhau, nhưng là điều không thể tránh khỏi cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.

Một điều rất giống nhau nữa là sự phản kháng của dân làng Ô Khảm và dân làng Đồng Tâm đều nhân danh Đảng Cộng sản. Chúng ta thấy cờ đỏ treo đầy tại Đồng Tâm trong những cuộc biểu tình, đằng sau những chiến lũy phòng thủ. Tại Ô Khảm những cuộc biểu tình cũng rợp cờ đỏ với lời tung hô Đảng Cộng sản Trung Quốc muôn năm. Cả hai ông Lâm Tổ Loan và Lê Đình Kình đều là những… đảng viên trung kiên.

Hơn bất cứ cuộc cách mạng nào, cuộc cách mạng cộng sản ăn thịt nhiều nhất những đứa con của nó.

Cả trong hai sự việc, chúng ta đều thấy sự không khoan nhượng của thể chế với những người dân, những đảng viên của chính đảng cộng sản, cả gan bất bình với thể chế, cả gan thoát khỏi sự kiểm soát của nó, và trên hết, lại tạo ra những tổ chức mà đảng cộng sản không kiểm soát được.

Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc nhiều lần, Đồng Tầm nhỏ hơn Ô Khảm nhiều lần, nhưng sự tàn ác và khốc liệt không hề nhỏ hơn. Ô Khảm chỉ có tù nhân, còn Đồng Tâm có cả xác chết. Sự tàn bạo còn thể hiện ở chỗ là mặc cho sự bất bình của dân chúng, sự tàn khốc của biến cố, những người cộng sản Việt Nam ngay lập tức vinh danh những viên công an mất mạng trong cuộc đàn áp, một cái tát dằn mặt bất cứ người Việt Nam nào cả gan chống Đảng Cộng sản.

Khi ông Nguyễn Đức Chung vào Đồng Tâm hứa hẹn, nhiều người dân đã tin tưởng. Khi Bắc Kinh cho phép Ô Khảm bầu cử tự do, nhiều người Trung Quốc tin rằng sẽ có thay đổi. Nhưng ngay khi vụ Ô Khảm bùng nổ năm 2011, một giáo sư Mỹ tại Wisconsin có nói, sẽ không có thay đổi gì cả, khi đất đai vẫn là sở hữu toàn dân.

Nhưng nếu đất đai không là sở hữu toàn dân nữa, thì liệu thể chế cộng sản và bản thân đảng cộng sản có còn không?

Jackhammer Nguyễn, từ San Francisco

19 tháng 1, 2020

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 2: Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an LHQ

(TNO) Giới chức ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã xúc tiến các nỗ lực đưa vấn đề Hoàng Sa ra các tổ chức quốc tế, song bất thành.

Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin - Ảnh: Digital Journalist
Trong điện tín gửi về Bộ Ngoại giao ngày 20.1.1974, Đại sứ Mỹ Graham Martin cho biết Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã gặp ông để thảo luận về “tình hình rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, chính quyền Sài Gòn đã kết luận rằng việc sử dụng biện pháp quân sự, kể cả không quân, để tái chiếm Hoàng Sa là không khả thi trước sự vượt trội về sức mạnh của quân Trung Quốc. Do vậy, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho ông Bắc thực hiện một số bước đi ngoại giao để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
“Ông Bắc nói với tôi rằng trong tình huống nghiêm trọng này, Tổng thống Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ, người bạn và đồng minh thân thiết nhất của VNCH. Ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ các sáng kiến ngoại giao khác nhau mà VNCH dự định tiến hành”, ông Martin viết.
Nỗ lực ngoại giao
Cụ thể, theo ông Martin, các bước đi mà Sài Gòn dự định thực hiện gồm: thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ) và Tổng thư ký LHQ về cuộc tấn công của Trung Quốc ở Hoàng Sa; kiến nghị đến Hội đồng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO); cân nhắc đưa tranh chấp ra Tòa án Công lý Quốc tế. Ngoài ra, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc cũng được lệnh thông báo sự việc cho các bên ký kết Định ước của Hội nghị quốc tế về Việt Nam (định ước đảm bảo việc thực thi Hiệp định Paris), với lý do Trung Quốc, một thành viên ký kết định ước, đã vi phạm Hiệp định Paris, vốn quy định mọi quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngoại trưởng Bắc cũng triệu tập ngoại giao đoàn để thông báo về tình hình và đề nghị chính phủ các nước ủng hộ VNCH.
Ngày 20.1.1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ, yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa tình hình và chấm dứt việc xâm lược”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an bởi Trung Quốc vốn là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ và tư cách đại diện còn là vấn đề gây tranh cãi.
Đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali nhận định trong một bức điện gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó: “Dự định đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất kỳ lợi thế nào”.
“Tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”, đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali viết.
Kết quả bất lợi

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 1: Bàn cờ nước lớn

(TNO) Hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn 40 năm.

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 1: Bàn cờ nước lớn

Thủ tướng Trung Quôc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thông Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyên thăm lịch sử năm 1972 - Ảnh: Corbis
Câu hỏi liệu có sự thông đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1.1974 vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát sau 40 năm. Tuy nhiên, mối quan hệ mới được vun đắp giữa hai nước vào lúc đó cũng như thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa chắc chắn góp phần khuyến khích Trung Quốc mạnh dạn thôn tính trọn vẹn quần đảo của Việt Nam.
Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua gợi ý Washington đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa (VNCH) không được “manh động” trong vấn đề Hoàng Sa nhằm bảo vệ "thời kỳ trăng mật" trong quan hệ với Trung Quốc.
Như một sự trớ trêu, Liên Xô lại là một trong những quốc gia tỏ ra thông cảm với VNCH trong vụ Hoàng Sa, qua việc chỉ trích Trung Quốc, dù chỉ để phục vụ mục đích tuyên truyền chống Bắc Kinh vào lúc đó. Ngược lại, bằng một thái độ lạnh nhạt, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục Sài Gòn không đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa đã được một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc mô tả bằng một câu nói mỉa mai rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới”.
Bối cảnh quốc tế
Hải chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô - Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất đồng sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.
Cuộc đụng độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, với cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh tiến hành chương trình hiện đại hóa quân đội lớn, kêu gọi phát triển hải quân viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển. Điều này mang lại cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống biển Đông. Trong khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris ký kết tháng 1.1973.
Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định đánh chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế hoạch kỹ càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức điện tín được Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.
Thái độ của Mỹ
Tháng 11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH, Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH đã cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và tàu bè đến vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng, vi phạm trắng trợn chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19.1, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.
Trong cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày 23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.
“Chính quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như SEATO cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không liên kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ. (Còn tiếp)
Sơn Duân

26 tháng 12, 2019

Hồng Hà - Chân dung quyền lực Tô Huy Rứa (Kỳ 2)

Đăng bởi: Kiên Phạm on Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019 | 24.12.19


Như đã nói ở kỳ trước, luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa miễn phí cho hai bị cáo Nguyễn Thúy Hằng và Nguyễn Thị Thanh Thúy trong vụ án “Hiệu trưởng mua dâm” có liên quan đến hàng loạt quan chức tại Hà Giang, trong đó có ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô.
Tô Huy Rứa (trái) ghi sổ tang trong tang lễ ông Hồ Đức Việt.
Phẫn nộ vì cho rằng Tô Huy Rứa can thiệp thô bạo đến các quyền được hiến định của các cơ quan báo chí, ngày 11/7/2010, luật sư Trần Đình Triển đã gởi thư đến đích danh Tô Huy Rứa.

Nội dung thư cho biết, Văn phòng Luật sư Vì Dân đã nhận được tin báo, vào ngày 9/7/2010, Tô Huy Rứa với tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã gọi điện thoại mời đại diện cơ quan chủ quản một số báo chí và Tổng biên tập một số báo tới, để yêu cầu không được đăng tải thông tin về vụ việc liên quan đến ông Nguyễn Trường Tô.

Luật sư (LS) Triển cho rằng, vụ việc ông Nguyễn Trường Tô không thuộc bí mật quốc gia, do đó báo chí phải được phép đưa tin và yêu cầu ông Tô Huy Rứa phải trả lời và làm rõ sự việc trên. Nếu việc cấm cản báo chí là thật, luật sư sẽ khởi kiện ông Rứa trước các tổ chức của Đảng và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhằm xem xét tư cách Đảng viên, cũng như có hay không việc vi phạm pháp luật của ông Tô Huy Rứa.

Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử đảng cộng sản, một luật sư “dám” gởi thư chất vấn đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tuyên giáo đầy quyền lực, một người có khuôn mặt lạnh lùng và “bàn tay thép” như Tô Huy Rứa.

Còn nữa, LS Triển còn đòi đưa ông ta ra điều trần trước tổ chức đảng. Điên tiết, nhưng Tô Huy Rứa đành chịu, dù trong nhiều cuộc họp sau đó, Tô Huy Rứa thường nhắc đến tên luật sư Triển như một cái gai trong mắt mình.

Tô Huy Rứa có “ớn” LS Trần Đình Triển không? Có. Thật ra, Trần Đình Triển cũng không phải dạng vừa. Ông xuất thân là một sĩ quan của Học viện An ninh, là Tiến sĩ luật, không “hoạt động dân chủ”, không đứng theo phe nhóm chính trị. LS Trần Đình Triển đưa ra tinh thần phụng sự, tôn chỉ hoạt động tư vấn rõ ràng:

– Bảo vệ đảng,

– Bảo vệ pháp luật,

– Bảo vệ nhân dân,

– Bảo vệ công lý và lẽ phải.

Vì thế, không có bất cứ lý do gì để Tô Huy Rứa “đập” được Trần Đình Triển. Chưa kể, Rứa sợ có thể có thế lực khác phía sau “cung đình” chống lưng cho Triển, khi mà đại hội XI chỉ còn hơn 5 tháng nữa sẽ khai mạc và tương lai tái cử rồi tiếp tục tiến xa với Rứa, là rất lớn. Tô Huy Rứa không dại gì đâm đầu vào đá, vì vậy như cách các cô hoa hậu, diễn viên mỗi khi tránh thị phi, scandal trong giới showbiz, Rứa chọn cách… im lặng.

Vụ án rúng động đã khép lại. Sầm Đức Xương, kẻ “dắt gái” cho các quan chức hàng đầu Hà Giang, lãnh án 9 năm tù. Nguyễn Trường Tô bị khai trừ khỏi đảng, nghỉ hưu và xây một biệt phủ rộng hàng chục ngàn mét vuông, kinh phí hàng trăm tỉ đồng, ở ngay tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang để “vui thú điền viên”. Số quan chức còn lại không hề bị truy tố hay xử lý kỷ luật. Thế mới biết, công lý có khi chỉ là… diễn viên hài!

Sau vụ bê bối này, vị Bí thư tỉnh ủy Hà Giang là Hoàng Minh Nhất cũng nghỉ hưu. Người thay Nhất là Triệu Tài Vinh, sinh 1968. Triệu Tài Vinh đã xây dựng “đế chế” cả họ làm quan và đóng dấu sự nghiệp làm quan, với vụ mua bán, gian lận điểm thi trong kỳ thi quốc gia gây phẫn nộ, rung chấn và bàng hoàng chưa từng có, kể từ khi cái tên nước Việt Nam bắt đầu ra đời.

Ông Hồ Đức Việt
Từ sau đại hội X, nhiệm kỳ 2006-2011 với sự tái đắc cử chức Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh và tân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận nhiệm vụ, quyền lực bao trùm tất cả, chính thức thuộc về “cặp đôi” này. Vì thế, hàng chục dự án ngàn tỉ làm ăn bệ rạc, tham nhũng tràn lan, một nền kinh tế bê bết… nhưng luôn được che đậy. Thậm chí các đại án như PMU18, Vinashin, Vinalines cũng “xoay chiều”, rơi vào ngõ cụt…

Là Bí thư Trung ương và là Trưởng ban Tuyên giáo, được bổ sung vào Bộ Chính trị từ cuối năm 2009, Tô Huy Rứa hiểu rõ độ chênh của cán cân quyền lực hiện tại, cho nên Rứa đứng về phía Ba Dũng.

Đại hội XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Nông Đức Mạnh rời khỏi chính trường ở tuổi 71, người ngồi vào ghế Tổng bí thư là Nguyễn Phú Trọng, sinh 1944.

Theo các cán bộ cấp cao và giới thạo chính trường, lẽ ra chiếc ghế Tổng bí thư đã thuộc về Hồ Đức Việt (sinh 1947). Hồ Đức Việt là cháu nội “khai quốc công thần” Hồ Tùng Mậu và là con trai của liệt sĩ Hồ Mỹ Xuyên, phó bí thư Tỉnh ủy Nghệ An. Hồ Đức Việt là ứng cử viên nặng ký cho “tứ trụ”, hoặc chức vụ Tổng Bí thư, hoặc là Chủ tịch Quốc hội.

Hồ Đức Việt vốn học giỏi có tiếng, trước khi tham chính, Việt là Tiến sĩ Toán-Lý, giảng dạy và làm Phó chủ nhiệm khoa Toán-Cơ trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.

Trước thềm đại hội XI, các phe bắt đầu vận động tranh thủ phiếu bầu và không quên tấn công quyết liệt, giải quyết “ân oán giang hồ”, hòng triệt tiêu các đối thủ.

Phe Thanh Hóa của Phạm Quang Nghị – Tô Huy Rứa muốn “níu” Hồ Đức Việt lại, cho nên mới có vụ việc chấn động dư luận, lẫn chính trường: Vụ “Tâm linh đàn Xã tắc”.

Xâu chuỗi những thông tin mơ hồ, suy diễn, hàng loạt đơn thư tố cáo vợ chồng Hồ Đức Việt theo đúng kịch bản, bay tới tấp đến các cơ quan đầu não. Rằng Hồ Đức Việt mê tín dị đoan, yểm bùa, lập đàn khấn trời đất, gọi “âm binh” trù úm các đối thủ chính trị. Nào là Hồ Đức Việt tham vọng quyền lực, vận động hành lang, nhắm ghế Tổng bí thư; nào là đạo đức và lối sống bản thân có vấn đề, thể hiện trong các chuyến công du…

Hội nghị 14 khóa X diễn ra từ ngày 13 đến 22/12/2010, Hồ Đức Việt lúc này là Trưởng Ban tổ chức Trung ương, phụ trách Tiểu ban nhân sự đại hội XI. Trước đó, khi trình danh sách dự kiến giới thiệu nhân sự bầu Ban chấp hành Trung ương khóa XI cho Trưởng Tiểu ban Nhân sự Nông Đức Mạnh xem. Khi thấy tên con trai là Nông Quốc Tuấn và một số “người của mình” bị loại ra vì lý do “thăm dò ý kiến phiếu thấp lắm”, Nông Đức Mạnh lồng lên, như muốn ăn thịt Hồ Đức Việt. Giọt nước đã tràn ly…

Vậy là lại suốt 10 ngày hội hội nghị bàn cãi, các phe chạy đua và tấn công nhau. Hồ Đức Việt chính thức bị “lên thớt”. Liên minh Nghị – Rứa đứng về phía họ Nông, ra đòn dồn dập về phía Hồ Đức Việt. Những chuyện không chấp nhặt đã lâu, giờ cũng thành gán ép “bê bối” dành cho đối phương. Câu nói “ba đánh một, không chột cũng què” chẳng sai bao giờ.

Hơn nửa tháng sau, Hội nghị 15 vào ngày 9/1/2011, cách khai mạc chính thức đại hội XI chỉ có 3 ngày. Lại bỏ phiếu để chốt, cái tên Hồ Đức Việt chính thức bị loại ra khỏi danh sách đề cử “tứ trụ”. Thay vào đó, Nguyễn Phú Trọng được đề cử chức Tổng bí thư khi bước sang tuổi 67, thay cho Nông Đức Mạnh nghỉ hưu. Trương Tấn Sang ngồi ghế Chủ tịch nước thay Nguyễn Minh Triết. Nguyễn Sinh Hùng được đề cử ghế Chủ tịch Quốc hội từ Nguyễn Phú Trọng, dù đã ở tuổi 65. Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ chức thủ tướng nhiệm kỳ 2.

Tất cả đã an bài đúng như thế. Kết quả đại hội như mọi người đã biết, Hồ Đức Việt trắng tay, thậm chí không có tên trong danh sách Ủy viên Trung ương khóa XI và chính thức giã từ sự nghiệp chính trị ở tuổi 64.

Buồn cho nhân tình thế thái, chán chường trong thăng trầm chính sự, Hồ Đức Việt suy sụp tinh thần, đổ trọng bệnh và mất hai năm sau đó, hồi tháng 5/2013.

Về phần Nghị và Rứa, cả hai thắng giòn giã. Phạm Quang Nghị từ Bí thư Hà Nội, về nắm Thường trực Ban Bí thư. Tô Huy Rứa điền tên mình vào chiếc ghế “hái ra tiền” đỏ rực, ngồi thế chỗ Hồ Đức Việt đã ngồi trước đây: Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Từ đây, với uy vũ của “kiến trúc sư trưởng” trong công tác nhân sự của đảng, ông Trưởng ban mặc sức thao túng chính trường. Xem như Tô Huy Rứa đã toại nguyện, khi chinh phục nấc thang quyền lực cao nhất của cuộc đời kẻ xuất thân từ làng… ăn mày.

(Còn nữa)

Tô Huy Rứa – Chân dung quyền lực (Kỳ 1)

Hồng Hà
21-12-2019
Tô Huy Rứa sinh ngày 4/6/1947 tại làng Đồn Điền, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hoá; nay là xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình dân chài ven biển. Làng Đồn Điền, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của Tô Huy Rứa thuở xưa vô cùng nghèo khổ, còn có tên là “làng ăn mày”.
Giai thoại cho rằng, ông tổ của làng Đồn Điền là một ông lão ăn mày. Nơi đây có ngôi đền thờ ông tổ cái bang, thờ một cây gậy và một cái bị, cũng như lưu truyền những tập tục về xin ăn. Hàng năm, ba ngày Tết cả làng có lệ bỏ đi ăn xin, bất kể già trẻ, nam nữ và những người quyền cao, chức trọng… Sau Tết mới về, khi trở về, những gì xin được phải mang ra đền làm lễ tế.
Chuyện xưa thực hư không rõ, nhưng điều này thì có thật: Những năm 1980, mưa bão triền miên, mất mùa thất bát. Để có thể sống sót, rất nhiều người dân làng Đồn Điền bỏ quê đi tứ xứ hành khất, xin ăn. Phong trào tha phương cầu thực cũng bắt đầu từ đó. Những năm 1982-1983, Quảng Thái có hàng trăm người bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Nhiều gia đình, vợ chồng con cái đều dắt díu nhau đi ăn xin. Đặc biệt, những năm sau đó, tình trạng trẻ em đang trong độ tuổi đi học bỏ học đi lang thang khắp nơi.
Thống kê những năm 1993-1994, cả xã có hơn 700 em nhỏ đi lang thang, có gia đình 3-4 trẻ đi lang thang đánh giày, bán báo, ăn xin… Một tư liệu cho biết: “Trong số hơn 400 hộ dân ở Quảng Thái, có 249 hộ có người ăn xin chuyên nghiệp. Năm 1995 có 571 lượt, năm 1998 có 167 lượt người đi ăn xin“. Các nhà nghiên cứu gọi chuyện dân Quảng Thái đi ăn xin là “hiện tượng Quảng Thái”.
Năm 2012, khi Tô Huy Rứa tái cử Bộ Chính trị khoá XI, yên vị trên chiếc ghế Trưởng Ban tổ chức Trung ương, vinh quang và cực kỳ quyền lực. Lúc này tiền của bắt đầu đổ về nhà Tô Huy Rứa không đếm xuể, mệnh phụ phu nhân Trương Tuyết Nhung về quê chồng ở Đồn Điền tạ ơn, công đức kinh phí trùng tu tôn tạo đền thờ Thành hoàng của làng trở nên hoành tráng.
Đền thờ Thành hoàng làng Đồn Điền, quê hương Tô Huy Rứa. Ảnh: báo Dân Trí
***
Nhà quá nghèo, học hành không đến nơi đến chốn, năm 1965, Tô Huy Rứa tình nguyện vào lực lượng TNXP. Ngày 6/2/1967, Rứa được kết nạp vào ĐCS và mấy năm sau, nhờ có tài ăn nói, hoạt ngôn, khéo tuyên truyền, cấp trên gởi Rứa theo học tập ở trường Tuyên huấn Trung ương (sau nâng lên Đại học Tuyên giáo, Phân viện Báo chí và tuyên truyền, nay là Học viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ đây, Rứa xin ở lại trường, lần lượt làm trợ giảng, giảng viên… rồi không biết bằng cách nào, lại kiếm được tấm bằng cử nhân Toán tại ĐHTH Hà Nội. Học toán học, nhưng năm 1982 Rứa lại đi Nga để hoàn thành tiến sĩ… Triết học.
Cuối năm 1993, tại hội nghị Trung ương 6 khoá VII, Lê Khả Phiêu được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan.
Năm 1995, trước thềm đại hội VIII, các phe quyết đấu để tranh giành quyền lực. Nguyễn Hà Phan, đương kim Thường trực Ban Bí thư, là người được Nguyễn Văn Linh ủng hộ để ngồi vào ghế thủ tướng khoá sau, bất ngờ bị tố cáo, quy chụp chính trị.
Tháng 4/1996, hội nghị Trung ương 10, khoá VII đã khai trừ Nguyễn Hà Phan ra khỏi đảng, chấm dứt sự nghiệp chính trị. Lê Khả Phiêu thay Nguyễn Hà Phan ngồi ghế Thường trực Ban Bí thư, quyền lực nghiêng Trời. Nhờ vậy, tại đại hội VIII tháng 12/1996, Lê Khả Phiêu đã đưa được một loạt các đàn em đồng hương Thanh Hoá ngồi vào ghế Uỷ viên Trung ương, trong đó có Tô Huy Rứa và Phạm Quang Nghị. Nếu như Phạm Quang Nghị trúng cử Bộ Chính trị tại đại hội X năm 2006, thì Tô Huy Rứa phải đợi đến hội nghị trung ương 8 khoá X tháng 1/2009 mới được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010, một sự việc gây chấn động dư luận cả nước, đó là vụ Nguyễn Trường Tô chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, hiệu trưởng và đồng bọn “cưỡng dâm, mua dâm học sinh trung học”.
Ngày đó Tiến sĩ – Luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa hai nữ sinh bị xét xử tội “môi giới mại dâm” đã gởi đơn kiến nghị đến các cơ quan trung ương, đơn cho rằng, vụ án có dấu hiệu oan sai và bỏ lọt tội phạm: 15 cháu gái từ 13 – 17 tuổi bị gạ gẫm, ép buộc tình dục trong vụ án này đều là nạn nhân, tính chất gần tương đồng nhau, đều bị cưỡng ép, dụ dỗ, khống chế, đe dọa… buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người khác phục vụ cho nhóm người của Sầm Đức Xương. Nếu gọi cho đúng tội danh thì phải là “cưỡng dâm” hoặc “hiếp dâm trẻ vị thành niên”.
Luật sư Trần Đình Triển gửi kèm văn bản kiến nghị khẩn cấp, đơn kêu cứu của hai bị cáo Hằng và Thúy, trong đó ghi rõ tên, số điện thoại và chức vụ của một số cán bộ cấp tỉnh, huyện, doanh nhân tại Hà Giang đã từng quan hệ tình dục với các cháu.
“Danh sách đen” khách mua dâm của Thuý và Hằng gồm 17 cán bộ Hà Giang. Trong đó có một số tên:
  1. Nguyễn Trường Tô – Thường vụ tỉnh uỷ, Phó Bí thư – Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang – ĐT: 0913271133
  2. Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh – ĐT: 0913271307
  3. Nguyễn Hoàng Tiến – sĩ quan Công an tỉnh (em ruột Nguyễn Binh Vận, Giám đốc CA Hà Giang) – ĐT: 0912061622
  4. Định – Phó Chủ tịch huyện Vị Xuyên
  5. Thành – Giám đốc Doanh nghiệp – ĐT: 0912144888
  6. Dũng – GĐ Bưu điện tỉnh.
  7. Sầm Đức Xương – Hiệu trưởng trường PTTH Việt Lâm.
  8. Đinh Xuân Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh Hà Giang
  9. Bích – Trưởng phòng Tổ chức Công an tỉnh.
  10. Hướng – Cán bộ Hải quan cửa khẩu Thanh Thủy.
  11. Minh – Cán bộ Công an tỉnh Hà Giang.
  12. Hoà – GĐ sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
Đơn kiến nghị & thư của Ls Trần Đình Triển. Ảnh: Tác giả gửi tới TD
Dư luận xã hội Việt Nam ngày đó “sốc toàn tập”. Bộ mặt nhà nước pháp quyền đã bị “giáng một đòn chí mạng” bằng sự tha hoá đạo đức và suy đồi về nhân cách của những cán bộ đảng viên có trọng trách, chức vụ, cũng như một số trọc phú doanh nhân ở Hà Giang trong vụ án này.
Thậm chí, khi đứng trước nguy cơ bị cách tất cả các chức vụ, trong bản báo cáo đề ngày 27/5/2010 gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô khẳng định, Nguyễn Bình Vận, Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang cũng đã quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ…
Hai cháu Thuý – Hằng và những tên cẩu quan
Dân chúng vô cùng phẫn nộ, đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải ra tay trừng trị, cho dù những kẻ phạm tội là ai, ở bất cứ cương vị nào. Những cơ quan, cá nhân vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng nói trên cũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
Cái tên Nguyễn Trường Tô và lũ yêu tinh được réo trên trang nhất các tờ báo. Hình ảnh ông quan đầu tỉnh, sa đoạ trần truồng cũng được đăng trên các trang mạng xã hội. Thế nhưng, có một người dùng quyền lực, hòng bao che cho bọn cẩu quan hung bạo, đốn mạt và cuồng dâm này. Ông ta muốn bịt miệng báo chí và dư luận, bằng cách gọi điện thoại ra lệnh cấm các Tổng biên tập đăng các bài báo liên quan các cán bộ mua dâm, cưỡng dâm tại Hà Giang.
Nhờ thế lực ở thượng tầng bảo kê, cho nên dù có đầy đủ bản cung khai trước cơ quan điều tra, của các nạn nhân; cả báo cáo đầy đủ chi tiết, tên tuổi các cá nhân hủ hoá, mang số 23- KSĐT ngày 8/3/2010 của Viện kiểm sát Hà Giang, do đích thân Viện trưởng Ấu Duy Quang ký, gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, thế nhưng, điều lạ lùng là những tên phạm tội vẫn an toàn. Chắc chắn với quyền năng của mình, có nhân vật “giấu mặt” góp phần can thiệp cho 17 tên “tai to mặt bự” sa đoạ và trác táng này, thoát vòng tố tụng. Người đó không ai khác, chính là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư trung ương đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Tô Huy Rứa.
(Còn nữa)