21 tháng 8, 2019

Hai đại tướng không quân Mỹ 

cùng thăm Việt Nam

  23:33 | Chủ nhật, 18/08/2019 0
Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ và Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, đang có chuyến thăm Việt Nam.
    Trong 2 ngày 18 và19.8, Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, và Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, có chuyến thăm Việt Nam. 
    Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ (phải), và Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, tại buổi gặp mặt báo chí bàn tròn chiều 18.8 ở Hà Nội. Ảnh: Ngô Nhung
    Tại buổi gặp mặt bàn tròn báo chí chiều 18.8 ở Hà Nội, Đại tướng David L. Goldfein cho biết trong chuyến thăm, họ có các cuộc gặp gỡ với các quan chức cấp cao của Việt Nam, trong đó sẽ có thời gian làm việc nhiều với Trung tướng Lê Huy Vịnh, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân.
    Việt Nam là điểm đến vô cùng quan trọng
    Mở đầu cuộc họp báo, Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, cho biết: "Việt Nam là một chặng dừng chân quan trọng của tôi với nhiều lý do cả công việc chuyên môn và cá nhân. Tôi rất tự hào vì đây là chuyến thăm đầu tiên của một Tham mưu trưởng Không quân Mỹ đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
    Tôi muốn nhấn mạnh đến thông điệp mà ngài Ngoại trưởng và Tổng thống của chúng tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần  đó là: Chúng tôi cam kết hỗ trợ Việt Nam trở thành một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh.
    Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, cho biết năm nay Việt Nam là trạm dừng chân duy nhất ở khu vực Thái Bình Dương trong lịch trình công tác của ông, là một chặng dừng vô cùng quan trọng. Ảnh: Ngô Nhung
    Tôi đến đây để thăm một nước đối tác rất quan trọng và nước đối tác có nhiều lợi ích và mối quan tâm của chúng tôi. Sự hiện diện của hai Đại tướng Không quân Mỹ thể hiện cam kết mạnh mẽ của Mỹ với Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung.
    Chuyến thăm có ý nghĩa đặc biệt với cá nhân cả hai chúng tôi vì trước đây bố của chúng tôi đều có thời gian phục vụ trong quân ngũ và từng tham chiến tại Việt Nam. Cha của Brown có 2 đợt đến Việt Nam làm việc trong lục quân còn bố tôi là phi công bảo vệ cha của Đại tướng Brown từ trên không".
    Về hành động của Trung Quốc tại Biển Đông
    Trước câu hỏi của phóng viên về các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay, khi đưa tàu Hải Dương 8 xâm phạm vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Đại tướng David L. Goldfein nói: "Tôi nhấn mạnh lại tuyên bố rất mạnh mẽ của Ngoại trưởng Mike Pompeo đã đưa ra. Đó là chúng tôi phản đối mạnh mẽ các hoạt động gây ảnh hưởng và thách thức những quyền lợi chính đáng cũng như chủ quyền của Việt Nam trong khu vực. Chúng tôi hoàn toàn cam kết ủng hộ hoạt động hợp tác, đảm bảo quyền lợi hai nước".
    Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ, khẳng định: "Phần quan trọng trong chính sách của chúng tôi là đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do. Một trong những  phần quan trọng đảm bảo việc này là làm sao duy trì vận hành tàu thuyền, máy bay trong bất kỳ khu vực nào  mà luật pháp quốc tế cho phép, đảm bảo chủ quyền và quyền lợi hợp pháp của không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước khác trong các hoạt động ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương".
    Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ khẳng định: Phần quan trọng trong chính sách của Mỹ là đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do.
    Đại tướng David Goldfein nói: "Về việc Trung Quốc điều tàu đến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trước hết chúng tôi tôn trọng các quyết định và hành động của Việt Nam. Chúng tôi luôn luôn ủng hộ quyền tự vệ và phòng vệ chính đáng của Việt Nam, chúng tôi sẽ theo sát các hoạt động của Việt Nam, sẵn sàng hợp tác làm việc với Việt Nam .
    Đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, mong muốn lớn nhất của chúng tôi là tất cả các quốc gia có thể tiếp cận khu vực biển cũng như không phận quốc tế, tuân thủ luật pháp quốc tế, để tất cả các nước đều được hưởng lợi ích chung".
    Về hợp tác trong lĩnh vực không quân
    Đại tướng David Goldfein nêu rõ: "Quan trọng nhất là xây dựng mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ và vững chắc với Việt Nam. Chúng tôi muốn đề cập đến việc xây dựng nhận thức trong khu vực không chỉ về mặt hàng hải mà còn là hàng không. Chúng ta có nhận thức đúng đắn, hiểu rõ những khó khăn thách thức phải đối mặt trong một khu vực sẽ có cách ứng phó tốt nhất.
    Chúng tôi sẽ bàn luận và phối hợp chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực quan trọng với Việt Nam. Tôi muốn nhấn mạnh đến cam kết xử lý vấn đề hậu quả chiến tranh".
    Trước câu hỏi về hoạt động mua sắm vũ khí trong tương lai ngoài máy bay không người lái và tàu tuần tra, Đại tướng David Goldfein cho biết: "Khi nói tới mua sắm vũ khí thì chúng ta nói về nền tảng để trang bị cho vũ khí đó. Khả năng phối hợp hợp tác với nhau giữa các nước quan trọng nhất là con người.
    Cơ hội tôi nhìn thấy trước mắt và gần nhất của chúng ta là hợp tác đào tạo, nâng cao kỹ năng con người giữa hai nước. Chúng tôi hoan nghênh và chào đón thêm sĩ quan trẻ Việt Nam sang các trường, học viện không quân để học tập và trau dồi kiến thức".
    Kế hoạch chuyến thăm được chuẩn bị hơn 1 năm
    Trước câu hỏi chuyến thăm này có liên quan trực tiếp đến sự kiện tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam không, Đại tướng David Goldfein cho biết: "Kế hoạch chuyến thăm được chuẩn bị hơn 1 năm. Đây là chuyến thăm duy nhất ở khu vực Thái Bình Dương tôi thực hiện trong năm nay.
    Chúng tôi xây dựng chương trình Tham mưu trưởng Không quân Mỹ lần đầu tiên đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc và làm việc theo thời gian của Việt Nam.
    Chúng tôi thể hiện cam kết cực kỳ mạnh mẽ của Mỹ với Việt Nam cũng như sự đánh giá cao của chúng tôi dành cho sự chuyên nghiệp của lực lượng không quân cũng như quân đội của Việt Nam.
    Chúng tôi sẽ có nhiều buổi gặp với lãnh đạo cấp cao của Việt Nam vào ngày mai, tuy nhiên, thời gian nhiều nhất dành thảo luận và làm việc với người đồng cấp của tôi là Trung tướng Lê Huy Vịnh, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam. Trung tướng Lê Huy Vịnh là người rất có uy tín, được kính trọng của các đồng nghiệp quốc tế, cách ngài Vịnh làm việc rất ấn tượng với chúng tôi.
    Về các nội dung sẽ trao đổi, chúng tôi đến đây muốn chia sẻ nhiều và cũng muốn lắng nghe càng nhiều hơn nữa, xoay quanh các vấn đề các anh chị vừa hỏi".
    Mỹ quan sát rất kỹ những hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông
    Trước câu hỏi về việc nhiều chuyên gia quốc tế dự đoán về mục tiêu của Trung Quốc trong việc đưa tàu Hải Dương 8 vào thềm lục địa của Việt Nam, Đại tướng Charles Q. Brown Jr. nói: "Về mục tiêu của Trung Quốc là gì, người tốt nhất chúng ta nên hỏi là Trung Quốc. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát rất kỹ những hoạt động của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông, và chúng tôi nhận định rằng những hoạt động của Trung Quốc như thế này sẽ đi ngược lại mục tiêu, tôn chỉ của chúng tôi đã làm là giữ cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do. Rõ ràng những hoạt động của họ có tác động rất lớn, tác động không mong muốn và tác động quá đà, đặc biệt là đối với khu vực đặc quyền kinh tế của các nước.
    Khi nói về phản ứng của Mỹ, rất khó để nói trước các hoạt động của chúng tôi sẽ tiến hành như thế nào, nhưng với tư cách tư lệnh không quân Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhiệm vụ của chúng tôi là viết ra những phương án để các lãnh đạo, chính trị gia sẽ đưa ra quyết định dựa trên phương án mà chúng tôi đề xuất.
    Tôi xin lưu ý rằng với những phương án chúng tôi đề xuất, chúng tôi sẽ có trao đổi với Việt Nam cũng như phù hợp với những lợi ích của các nước trong khu vực mà các hoạt động diễn ra ở khu vực Biển Đông".
    Quang cảnh buổi gặp mặt báo chí.
    Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông
    Trước câu hỏi về khả năng Trung Quốc thiết lập vùng nhận diện phòng không tại Biển Đông, Đại tướng Charles Q. Brown Jr. nói: "Nếu Trung Quốc thiết lập vùng nhận diện phòng không, Trung Quốc sẽ đi ngược lại trật tự quốc tế và nguyên tắc của quốc tế.  Với tư cách một phi công đã có hoạt động trên máy bay bay qua khu vực trên không ở Biển Đông, chúng tôi biết rằng Trung Quốc không thích máy bay, không quân của các nước bay qua khu vực này (dựa trên những cuộc gọi đàm thoại qua radio của chúng tôi với Trung Quốc), song chúng tôi sẽ tiếp tục các hoạt động này.
    Mục tiêu của chúng tôi là sẽ tiếp tục cho tàu thuyền vận hành ở khu vực trên biển cũng như trên không để tăng cường thông điệp là chúng tôi sẽ tiếp tục hoạt động này ở khu vực".
    Cam kết mạnh mẽ và lâu dài với Việt Nam
    Về mối quan hệ giữa Mỹ và các nước ASEAN, ảnh hưởng Trung Quốc với các nước trong khu vực, đại tướng David Goldfein nói: "Chúng tôi cam kết mạnh mẽ và lâu dài với khu vực, với Việt Nam, làm sao để Việt Nam là một đất nước hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng, để duy trì sự ổn định trong khu vực".
    Dương Ngọc - Ảnh: Ngô Nhung 
    Người Đô Thị

    KHÔNG QUÂN MỸ TIẾP TỤC HOẠT ĐỘNG Ở BIỂN ĐÔNG


    Thái An - Trần Thường  ngày 20 tháng 8 năm 2019 8:45 AM

     Từ Hà Nội, Tư lệnh Không quân Mỹ tại Thái Bình Dương khẳng định, Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông.

    XEM CLIP:
    Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ và Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương chiều nay gặp gỡ báo chí trong ngày đầu thăm Việt Nam.
    Ông David L. Goldfein cho biết, đây là chuyến thăm đầu tiên của một Tham mưu trưởng Không quân Mỹ đến Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
    Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông
    Đại tướng David L. Goldfein, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ
    Cam kết hỗ trợ Việt Nam thành quốc gia hùng mạnh
    Mở đầu cuộc gặp, Tham mưu trưởng Không quân Mỹ nhấn mạnh lại thông điệp mà Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ nhiều lần đề cập. Đó là cam kết hỗ trợ Việt Nam trở thành một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh.
    “Chúng tôi đến đây để thăm một nước đối tác rất quan trọng. Sự hiện diện của 2 Đại tướng Không quân Mỹ thể hiện cam kết mạnh mẽ của Mỹ với Việt Nam nói riêng và khu vực nói chung”, Đại tướng David L. Goldfein nói.
    Trả lời câu hỏi liên quan đến các hoạt động đang diễn ra của Trung Quốc ở Biển Đông, ông David L. Goldfein nhấn mạnh lại tuyên bố của Ngoại trưởng Pompeo. Đó là Mỹ phản đối mạnh mẽ các hoạt động gây ảnh hưởng và thách thức những quyền lợi chính đáng cũng như chủ quyền của Việt Nam trong khu vực.
    Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông
    Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương
    Còn Đại tướng Charles Q. Brown Jr., Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương khẳng định, chính sách của Mỹ là đảm bảo một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở và tự do. Một trong những phần quan trọng là đảm bảo vận hành tàu thuyền, máy bay trong bất kỳ khu vực nào mà luật pháp quốc tế cho phép, đảm bảo chủ quyền và quyền lợi hợp pháp của không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các nước khác trong các hoạt động ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
    Ủng hộ quyền phòng vệ chính đáng của Việt Nam
    Về việc Trung Quốc điều tàu đến vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Đại tướng David L. Goldfein khẳng định, Mỹ trước hết tôn trọng các quyết định và hành động của lãnh đạo Việt Nam.
    “Chúng tôi luôn luôn ủng hộ quyền tự vệ và phòng vệ chính đáng của Việt Nam, chúng tôi sẽ quan sát các hoạt động của Chính phủ Việt Nam để sẵn sàng hợp tác, làm việc với các bạn”, ông nói.
    Theo Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, mong muốn lớn nhất của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương là mọi quốc gia có thể tiếp cận khu vực biển cũng như không phận quốc tế trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, để tất cả các nước gồm cả Trung Quốc cùng hưởng lợi ích chung.
    Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông
    Hai Đại tướng Không quân Mỹ gặp gỡ báo chí
    Trong khi đó, Tư lệnh Không quân Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương - Đại tướng Charles Q. Brown Jr. nhận định, Mỹ quan sát rất kỹ những hoạt động của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông và cho rằng, hoạt động của nước này đi ngược lại mục tiêu, tôn chỉ của Mỹ đã và đang làm là giữ cho Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở, tự do.
    “Rõ ràng những hoạt động của họ có tác động rất lớn, không mong muốn và quá đà, đặc biệt là đối với khu vực đặc quyền kinh tế của các nước”, ông nhấn mạnh.
    Ông khẳng định, Không quân Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động ở Biển Đông.
    Trong cuộc gặp gỡ báo chí, Đại tướng David L. Goldfein - Tham mưu trưởng Không quân Mỹ đề cập tới nỗ lực xây dựng mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ và vững chắc với Việt Nam, trước mắt là hợp tác đào tạo. Ông hoan nghênh và chào đón sĩ quan trẻ Việt Nam sang các trường, học viện Không quân Mỹ để học tập và trau dồi kiến thức.
    Trong chuyến thăm 2 ngày (18-19/8), hai Đại tướng Mỹ sẽ có các cuộc gặp với lãnh đạo cấp cao Việt Nam.
    Tham mưu trưởng Không quân Mỹ chia sẻ, chuyến thăm Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt với cá nhân 2 Đại tướng vì cha của 2 ông đều có thời gian phục vụ trong quân ngũ và từng tham chiến tại Việt Nam. Khi đó, cha của Đại tướng Charles Q. Brown Jr làm việc ở Lục quân còn cha của Đại tướng David L. Goldfein là phi công.
    Thái An - Trần Thường

    20 tháng 8, 2019


    Con chim lạ Hà Huy Đỉnh (Phần 1)


    Chu Sơn
    19-8-2019

    Ông Hà Huy Đỉnh, ngoài cùng bên trái. Nguồn: Báo TP

    Tôi gặp Hà Huy Đỉnh khoảng đầu năm 1967 tại Đà Lạt. Tôi từ Huế vào, Hà Huy Đỉnh từ Sài Gòn lên. Chúng tôi quen nhau tại nhà Nguyễn Cảnh Công ở chân dốc Võ Tánh, cạnh bờ Hồ Xuân Hương. Nguyễn Cảnh Công là bạn Quốc học của tôi cũng từ Huế lên, đã học xong cử nhân triết tại đại học Đà Lạt, gia đình theo đạo Tin Lành.
    Hà Huy Đỉnh đi cùng hai người bạn là Bùi Hồng Sĩ và Phạm Quốc Bảo. Bùi Hồng Sĩ là bạn thân và là đồng hương Quảng Ngãi của gia đình Nguyễn Cảnh Công. Trần Quốc Bảo, người Bắc di cư 1954, cũng là bạn của Bùi Hồng Sĩ như Hà Huy Đỉnh. Cả ba đều lớn hơn tôi và Nguyễn Cảnh Công 4-5 tuổi, đều đã học xong đại học từ 1960 – 1961 gì đó, đã đi làm hoặc tiếp tục học cao học, và đều là những thủ lãnh sinh viên nổi tiếng ở Sài Gòn. Đặc biệt Bùi Hồng Sĩ và Trần Quốc Bảo rất đẹp trai, nói năng hùng biện và hấp dẫn.
    Hà Huy Đỉnh gây chú ý cho bất cứ ai ngay từ lần đầu gặp mặt, bởi dáng vẻ bên ngoài không giống ai và giọng nói có thanh sắc như phụ nữ, râu tóc để dài, mặc bà ba nâu, mặt tròn, má phính, nhưng đôi mắt rất sáng. Hà Huy Đỉnh vừa có dáng dấp như một ông Đạo (như Đạo Dừa rất nổi tiếng ở Mỹ Tho sau 1954), vừa có đôi nét như một diễn viên sân khấu hài. Hà Huy Đỉnh nói cười xởi lởi, hóm hỉnh và cợt nhả trên tất cả mọi chuyện ở đời.
    Mặc dầu là sơ giao nhưng chúng tôi chuyện trò rôm rả, cởi mở những vấn đề thời sự. Thực ra tôi và anh chị em Cảnh Công nghe nhiều hơn nói. Chủ đạo và chủ động cuộc trao đổi là hai thủ lãnh của phong trào sinh viên Sài Gòn, Bùi Hồng Sĩ và Trần Quốc Bảo. Sĩ và Bảo không giấu giếm lập trường chống Cộng, mạnh mẽ ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ và thần tượng nhân vật đang lên Nguyễn Cao Kỳ.
    Hà Huy Đỉnh thường phá bĩnh thái độ nghiêm túc và khả năng hùng biện của hai người bạn đồng hành. Tôi nhớ gần như nguyên văn một trong những câu chen ngang của Đỉnh: “Tôi và Nguyễn Cao Kỳ chỉ giống nhau ở chỗ cùng để râu. Nhưng râu tôi thì giống râu cụ Hồ, còn râu của Nguyễn Cao Kỳ thì giống râu của các nhân vật cao bồi trong phim ảnh Mỹ. Tôi và cụ Hồ cũng chỉ giống nhau ở bộ râu và bộ áo quần bà ba nâu khi cụ còn ở chiến khu…”Câu nói đùa bỏ lửng của Đỉnh làm mọi người cười xòa và gây chú ý đặc biệt cho riêng tôi.
    Cuộc giao tiếp giữa chúng tôi kết thúc, tưởng qua đi như bao cuộc gặp gỡ tình cờ và qua đường khác. Tôi mặc dù chú ý hơn mức bình thường cái con người có dáng vẻ và lời ăn tiếng nói “lập dị” ấy. Nhưng rồi chúng tôi đường ai nấy đi. Tôi tiếp tục trốn lính ở Đà Lạt. Hà Huy Đỉnh trở lại Sài Gòn với cuộc ta bà của anh.
    Đầu tháng 8/1967 tôi bị bắt. Thông thường những ai trốn lính bị bắt đều bị đưa ra tòa án quân sự để chịu phạt tù, sau đó bị đưa đi làm lao công đào binh ở các đơn vị đang hành quân trong các vùng hỏa tuyến. Lúc bấy giờ báo chí Sài Gòn rộ lên phong trào tố cáo hai ông Thiệu – Kỳ (liên danh ứng cử tổng thống trong cuộc bầu cử sắp tới) bao che cho nhiều con ông cháu cha trốn lính. Để giải tỏa dư luận, Nguyễn Văn Thiệu nhân danh chủ tịch Hội đồng lãnh đạo quốc gia ký quyết định khoan hồng cho những ai trốn lính tự động ra trình diện sẽ được vào quân trường Thủ Đức để thụ huấn khóa 27 sĩ quan trừ bị.
    Tôi bị bắt đúng vào thời điểm đó nên cũng được hưởng chung lệnh khoan hồng của ông Thiệu. Do vậy quân trấn Đà Lạt chở tôi vào Thủ Đức để trở thành sinh viên sĩ quan. Ở quân trường Thủ Đức, vào những ngày chủ nhật các sinh viên sĩ quan được hưởng chế độ thăm nuôi của thân nhân (cha mẹ, anh em, bạn bè, vợ hoặc bồ bịch), hoặc đi phép. Nhưng các sinh viên ở miền Trung như tôi chẳng có ai thăm viếng, nhà ở xa nên thật là buồn, trống trải và thiếu thốn đủ thứ. Vậy đó mà có một ngày chủ nhật loa phóng thanh gọi tên tôi ra khu tiếp tân. Tôi ra thì gặp Hà Huy Đỉnh.
    Tôi ngỡ ngàng, Hà Huy Đỉnh thì vui mừng như gặp lại người bạn thân đã thất lạc lâu ngày. Đỉnh nói là anh đã trở lại Đà Lạt, nghe Nguyễn Cảnh Công bảo tôi đã bị bắt vào Thủ Đức và nhờ Đỉnh đi thăm tôi. Tôi hỏi làm sao ông tìm được tôi trong khi tôi chưa thông báo cho bất cứ ai số quân và địa chỉ đơn vị (KBC – khu bưu chính) tôi đang thụ huấn. Quân trường hiện đang có đến 4000 sinh viên của hai khóa 26 và 27. Đỉnh nói:
    Tìm ông không khó. Có phải ông ở chung đại đội với đám ‘con ông cháu cha’ được Nguyễn Văn Thiệu ký quyết định khoan hồng? Trong bọn ‘con ông cháu cha’ ấy có mấy đứa là bạn tôi, Võ Long Triều là một. Võ Long Triều đã từng là bộ trưởng trong nội các chiến tranh của Nguyễn Cao Kỳ khi Nguyễn Văn Thiệu còn là Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương. Nội các chiến tranh giải tán, một loạt bộ trưởng, thứ trưởng, đổng lý, tổng giám đốc và vây cánh bị cho ra rìa hay tự động rút lui vì mâu thuẫn quyền lợi hay bất đồng chính kiến. Còn giữ ‘trọng trách’ là còn hoãn dịch. Hết ‘trọng trách’ phải vào quân trường, luật lệ Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ là như thế. Đám ‘con ông cháu cha’ hô hào chống Cộng mà không muốn ra chiến trường, đến tuổi động viên tìm cách trốn lính”.
    Đỉnh nói tiếp: “Ông cũng trốn lính nên bị bắt. Tôi cũng trốn lính nên làm ‘ông đạo’. Ở miền Nam ít ra cũng có đến bảy tám chục phần trăm thanh niên không muốn chết vì cuộc chiến tranh phi lý này. Quân đội mà tập hợp toàn những người cầm súng bất đắc dĩ như thế này rồi sẽ ra sao?”
    Lời nói và thái độ của Hà Huy Đỉnh lần thứ hai gặp tôi tại khu tiếp tân của quân trường Thủ Đức hoàn toàn khác với lần đầu chúng tôi gặp nhau trên Đà Lạt chưa đầy 10 tháng trước. Lần này trước mặt tôi là một Hà Huy Đỉnh khác, mặc dù râu tóc, y phục và giọng nói (âm sắc) không thay đổi. Không còn bông đùa, giễu cợt và coi trời bằng vung. Hà Huy Đỉnh trở nên nghiêm chỉnh và có vẻ buồn. Hà Huy Đỉnh ân cần dặn tôi như một người bạn thân thiết: “Ông ráng chịu đựng, cố gắng biến cái hoạn nạn thành cơ hội rèn luyện cơ thể. Tôi sẽ vào thăm ông. Khi nào có phép ông ra nhà tôi số (…) Trần Bình Trọng”.
    Như đã hứa, Đỉnh còn vào Thủ Đức thăm tôi mấy lần. Sau giai đoạn huấn nhục, được đi phép vào các ngày chủ nhật, tôi về Sài Gòn ở chơi với Đỉnh mấy lần. Ngồi sau xe lambretta do Đỉnh lái đi đó đi đây trong cái thành phố không còn ổn định và thật sự rối loạn trước và sau Tết Mậu Thân. Thỉnh thoảng nghe Đỉnh nói kể về thân thế và tâm sự trên cái chuồng bồ câu tối tăm của anh trong một con hẻm khá lớn song song với đường Trần Bình Trọng:
    Hà Huy Đỉnh gốc người Hà Tĩnh, cháu kêu Hà Huy Tập bằng bác (hay chú) ruột. Cha Đỉnh không hoạt động cách mạng, không tham gia phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, nhưng bị Tây bắt (vì là anh em của Hà Huy Tập nên bị tình nghi). Sau khi ra tù, ông đưa gia đình (mẹ và các anh chị của Đỉnh) vào Nam Kỳ làm ăn sinh sống. Cuộc chuyển cư thành công, gia đình trở nên khá giả. Đỉnh sinh tại Sài Gòn năm ba lăm hay ba sáu gì đó. Thế chiến II kết thúc, cách mạng tháng Tám nổ ra, Tây quay trở lại, ông tham gia kháng chiến, nghe nói chết vì bệnh ở bưng biền. Đỉnh còn có một người anh hay chị gì đó đi kháng chiến và hy sinh trong chiến tranh. Mẹ Đỉnh ở lại thành, không hoạt động Cộng sản, cũng không làm ăn gì, gia đình sa sút, theo đạo Phật, nuôi chị em Đỉnh ăn học (Đỉnh còn có một bà chị, và một ông anh), bảo vệ hai hạt giống họ Hà.
    Hà Huy Đỉnh học trung học Pétrus Ký (Trương Vĩnh Ký), đại học sư phạm Sài Gòn, môn sử địa. Năm 1961, trước khi làm lễ tốt nghiệp, Đỉnh “được mời” tới tổng nha cảnh sát. Cảnh sát nói với Đỉnh: “Chúng tôi biết anh là con cháu gia đình họ Hà, một gia đình Cộng sản gộc. Anh mà về dạy ở tỉnh thế nào Cộng sản cũng móc nối, như thế là nguy hiểm. Chúng tôi muốn anh ‘cộng tác’ để được bổ nhiệm ở Sài Gòn…”.
    Đỉnh từ chối lời đề nghị làm mật vụ của cảnh sát, nhận bằng tốt nghiệp nhưng không nhận sứ vụ lệnh của bộ giáo dục để đi làm giáo sư ở một trường tỉnh nào đó. Đỉnh ghi tên theo học các chương trình cử nhân Anh văn, Pháp văn tại đại học Văn khoa, cử nhân luật tại đại học Luật khoa. Nói tiếng Anh, tiếng Pháp thông thạo, hiểu biết căn bản văn hóa, văn chương Anh, Mỹ, Pháp, hiểu biết căn bản luật học, kinh tế chính trị học, say mê học thuyết Rousseau, giao tiếp rộng rãi, tự tin và chững chạc với các ký giả phương Tây, quen biết nhiều các giới doanh nhân, các giới chức công quyền, nhưng không chịu ràng buộc với bất cứ cơ quan nghiệp vụ nào.
    Không công chức. Không tư chức. Không đảng phái. Không hội đoàn. Không bồ bịch vợ con, chỉ có bạn bè để đi đó đi đây rong chơi tiêu dao ngày tháng. Hà Huy Đỉnh đích thực là kẻ lãng du nổi tiếng khắp các đường phố Sài Gòn. Cảnh sát công lộ, quân cảnh, nhân viên bưu điện và có lẽ cả mật vụ đều quen mặt “Đỉnh Râu”. Không phải là giai thoại: Một người bạn định cư ở nước ngoài nhớ Đỉnh, viết thư mà quên số nhà, trên phong bì ông ta chỉ đề: Gởi Ông Đỉnh Râu ở đường Trần Bình Trọng. Thư tới.
    Cuộc sống của Đỉnh kích thích óc tò mò của tôi. Nhiều lần, tôi hỏi, Đỉnh trả lời tùy hứng. Tôi ghi lại theo ký ức, cảm nhận và cả suy đoán: Năm 1961, khi ở Tổng nha cảnh sát về, Đỉnh lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng: mất ngủ, bất an, cảm thấy bị nghi ngờ, theo dõi và lo sợ bị ám hại. Đỉnh không muốn làm gì cả và quyết định sẽ không làm gì (làm gì ở đây là chuyện nghề nghiệp). Đỉnh ghi tên theo học Anh văn, Pháp văn, và luật cốt để thỏa mãn óc tò mò, giải trí, lấp khoảng trống và có thêm bạn bè.
    Học chăm chỉ nhưng thi cử thì gặp hay chăng chớ, có bằng hay không có bằng cũng chẳng để làm gì. Vì “làm gì”, Đỉnh nghĩ, cũng có con mắt soi mói và kế hoạch nham hiểm ác độc của bọn công an mật vụ. Nhóm từ “không làm gì” ở đây bao gồm: quan chức nhà nước, thương nhân, chủ công ty xí nghiệp… nghĩa là những chức vụ thuộc phạm vi công quyền hoặc những việc tư nhân có qui mô to lớn khiến chính quyền lưu ý và đòi hỏi cá nhân có kế hoạch lâu dài.
    Vậy thì lấy gì tự cung các nhu cầu cấp thiết của bản thân? Hà Huy Đỉnh nhận dạy tiếng Anh, tiếng Pháp cho con em các gia đình thân quen, dạy tiếng Việt và tư vấn những vấn đề địa phương cho các phóng viên ký giả ngoại quốc, thiết lập hồ sơ thành lập công ty và lên kế hoạch kinh doanh cho các doanh nhân tập tểnh vào nghề. Nói chung: những công việc không bị bó buộc nhiều để “bảo lưu một chút tự do” và để giảm nhẹ sự “theo dõi kèm kẹp” của công an mật vụ, và cũng để “trốn lính”, Hà Huy Đỉnh còn đóng vai “ông đạo”.
    Cha đi kháng chiến, mẹ Đỉnh đi về hướng cửa Phật. Từ nhỏ thỉnh thoảng Đỉnh cũng theo mẹ lên chùa. Mẹ qua đời, Đỉnh gởi tro cốt, lư hương, bài vị của mẹ ở chùa (sau 1975, Đỉnh tìm được hài cốt của cha và anh (hay chị) đem thiêu, tro cốt, lư hương, bài vị cũng gởi ở chùa). Ngôi chùa Đỉnh hay lui tới để thăm viếng và kỵ giỗ cha mẹ có tên là Giác Viên – một ngôi “chùa Huế” tọa lạc tại một địa điểm nào đó ở quận Tân Bình (?). (Tôi đã theo Đỉnh tới đó trong một lần kỵ). Đỉnh thích chùa, hâm mộ Phật pháp, nhưng không chịu được giới luật tu hành. Phật giáo đã lần hồi giúp anh vượt qua cơn khủng hoảng. Lần hồi anh giảm bớt lo âu, nghi kỵ và định kiến.
    Hồi còn ở trường trung học, Đỉnh say mê học thuyết Tự do – Bình đẳng và chế độ Cộng hòa theo học thuyết của hai triết gia hàng đầu của thế kỷ ánh sáng là Montesquieu và J.J Rousseau, say mê cách mạng Pháp (1789), thần tượng Robespièrre. Nhưng từ sau khi đi chùa, lần hồi tiếp xúc với các sư tăng, thấm thấu bầu không khí tĩnh lặng của thiền môn, nghiền ngẫm Phật pháp, Hà Huy Đỉnh nhận ra rằng: cuộc cách mạng do Montesquieu, J.J Rousseau gợi mở và hô hào thực hiện: một số ý tưởng và biện pháp tiến hành (như ý chí thu tóm quyền lực) trong đó không phù hợp với bản chất “con người – phật tử ” nơi anh.
    Bởi cách mạng theo những gì anh biết từ cách mạng Pháp năm 1789 (và cả các cuộc cách mạng Cộng sản ở Nga, ở Tàu, ở Việt Nam…, trong thế kỷ 20) là bạo động, là đổ máu, là bất nhân tàn bạo, mà kết quả chỉ thay người cầm quyền chứ không thay đổi bản chất của quyền lực là tham lam vô độ và bạo động không giới hạn, là cướp bóc, bắn giết và nô lệ con người. Lần hồi Hà Huy Đỉnh vùi dần học thuyết của hai ông Montesquieu, J. J Rousseau vào sâu trong tâm thức. Anh qui y Phật pháp, thực hành cuộc đấu tranh (với bản thân mình là chính) để chuyển hóa lo âu, sợ hãi và nghi kỵ, quen dần cuộc sống giản đơn dung dị, tiếp tục rong chơi ngoài vòng cương tỏa. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 1961 do đó mà tiêu tan dần.
    (Còn tiếp)

    Con chim lạ Hà Huy Đỉnh (Phần 2)

    Chu Sơn
    20-8-2019
    Tiếp theo phần 1
    Tôi thụ huấn tại quân trường Thủ Đức 9 tháng, từ đầu thu 1967 đến hè 1968; những biến chuyển bên ngoài quân trường tác động đến tình hình huấn luyện của chúng tôi, và cũng là đề tài các cuộc trò chuyện của tôi và Đỉnh mỗi lần Đỉnh lên thăm tôi tại Thủ Đức, hay mỗi lần tôi về Sài Gòn ở chơi với anh.
    Tình hình ở Sài Gòn cuối năm 1967 tạm ổn định, ngoài cuộc đấu tranh kiên trì của Phật giáo. Các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội lập hiến được tổ chức. Thiệu – Kỳ trúng cử, cùng là chủ nhân ông dinh Độc lập, mặc dù bị tố cáo gian lận. Quan hệ Mỹ – Việt Nam Cộng Hòa thắt chặt. Quân đội Mỹ trong năm 1967 tăng từ 382.000 đến 486.000. Các cuộc hành quân Việt – Mỹ gây nhiều tổn thất cho đối phương. Số phi vụ và cường độ oanh tạc miền Bắc gia tăng.
    Hội đàm Mỹ – Việt Nam Cộng Hòa tại Canberra khẳng định quyết tâm đánh thắng Cộng sản bằng quân sự, không thừa nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng cuộc tổng tấn công của Cộng sản Tết Mậu Thân làm choáng váng tất cả. Dân chúng Mỹ và dư luận thế giới bàng hoàng, phẫn nộ. Cộng quân thiệt hại nặng phải rút lui, nhưng phong trào hòa bình – chỉ trích, phản đối cuộc chiến tranh mờ ám và tàn bạo của chính phủ Mỹ diễn ra rầm rộ và đều khắp trên thế giới. Tổng thống Johnson quyết định không tiếp tục vận động tranh cử nhiệm kỳ hai, tuyên bố sẵn sàng hòa đàm với BắcViệt. Đại tướng Westmoreland, tổng tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam bị cách chức. Cộng quân vẫn còn liên tục tổ chức những cuộc tấn công liều chết với qui mô nhỏ trên khắp các vùng lãnh thổ. Sài Gòn bị tấn công đến lần thứ ba. Tôi đi phép Tết và chứng kiến các cuộc tấn công – phản công đẫm máu của hai phía tại Huế.
    ***
    Khóa 27 Thủ Đức kết thúc. Tôi về Sài Gòn ở chơi với Đỉnh mấy ngày và cũng để chờ mua vé máy bay. Đỉnh có vẻ trầm mặc trong căn gác xọp xẹp tối tăm trên một con hẻm đường Trần Bình Trọng. Chúng tôi nói nhiều về cuộc chiến tranh. Đỉnh gần gũi với tôi trong những nhận định về cuộc xâm lược của Mỹ, về các chế độ độc tài từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, nhưng chúng tôi không đồng nhất trong thái độ ứng xử sắp tới trước thời cuộc. Tôi nói: “Phải chấm dứt chiến tranh thôi. Tôi đã chứng kiến cảnh chém giết tàn bạo ở Huế hồi Tết. Để chấm dứt chiến cuộc, phải có bên thắng – bên thua. Là người Việt Nam, tôi không thể đứng về phía Mỹ. Phải chấp nhận chế độ Cộng sản thôi, mặc dù tôi có lập trường chống chiến tranh từ đầu và dị ứng với ý thức hệ Cộng sản”.
    Đỉnh cười buồn, im lặng. Buổi tối trước ngày lên máy bay về lại Huế, tôi và Đỉnh gần như thức trắng đêm. Tôi cật vấn, và Đỉnh trả lời với một thái độ nghiêm chỉnh chứ không đùa cợt như hồi chúng tôi gặp nhau lần đầu trên Đà Lạt. Tôi hỏi, Đỉnh trả lời có vẻ bài bản:
    “Nhận thức của ông về Mỹ và chế độ công cụ ở miền Nam là như thế, gia đình ông có gốc gác Cộng sản như thế, sao ông không theo Mặt Trận?”
    “Nhiều người đã hỏi tôi câu đó. Thậm chí có người còn mạnh dạn rủ tôi theo Mặt Trận “làm cách mạng”. Họ tin tôi không tố cáo họ và sẵn sàng tham gia Mặt Trận tiếp nối truyền thống của gia đình. Đương nhiên, là con cháu của Hà Huy, tôi không tố cáo họ, nhưng theo Mặt Trận thì không. Vì Mặt trận là Cộng sản. Mà Cộng sản qua những gì tôi được biết là nhắm một lý tưởng, một mục tiêu duy nhất là triệt tiêu tư hữu, thiết lập chế độ công hữu triệt để và toàn diện, và chỉ thực hiện nó bằng một phương tiện duy nhất là bạo động. Mục tiêu ấy, phương tiện ấy tôi không đồng tình, vì nó đi ngược tình tự và quyền lợi dân tộc, trí khôn nhân loại và nó bất cập nhân tình thế thái”.
    “Tôi đề nghị ông giải bày đầy đủ và cụ thể.”
    “Người Cộng sản cho rằng tư hữu là nguồn gốc của mọi tội lỗi trên đời, giai cấp Tư sản là kẻ thù không đội trời chung của giai cấp Vô sản và nhân loại. Muốn giải cứu giai cấp vô sản và nhân loại, phải tiêu diệt quyền tư hữu, lật đổ ách thống trị của giai cấp Tư sản và chế độ Tư bản, đưa giai cấp Vô sản lên cầm quyền, thực hiện công hữu, xây dựng chế độ Cộng sản bằng cuộc cách mạng triệt để do đảng Cộng sản lãnh đạo. Ở Việt Nam do kinh tế công thương nghiệp chưa phát triển, đảng Cộng sản cho rằng lực lượng phản động chính là giai cấp Tư sản chưa hình thành như một thế lực đáng gờm, nên kẻ thù của cách mạng tập trung vào bốn thành phần: ‘bọn trí thức, bọn nhà giàu ở thành phố, bọn địa chủ, hào mục ở nông thôn’. Đảng Cộng sản còn công khai chủ trương tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo”.
    “Trong cuộc vận động cách mạng 1930, chỉ ba tháng sau khi thành lập đảng, cao điểm là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, đảng Cộng sản nêu cao khẩu hiệu: “Trí – Phú – Địa – Hào / Đào tận gốc / Trốc tận rễ. Trong kháng chiến chống Pháp, trong xây dựng Xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, đảng Cộng sản tiếp tục các phong trào cách mạng của mình: Rèn cán chỉnh quân, Cải cách ruộng đất, Cải tạo (công) thương nghiệp, Cải tạo văn hóa tư tưởng (đỉnh cao là cuộc trấn áp tiêu diệt nhóm Nhân Văn Giai Phẩm). Tất cả các cuộc vận động ấy nhằm “đào tận gốc”, “trốc tận rễ” bốn kẻ thù của giai cấp là Trí, Phú, Địa, Hào. Bởi theo nhận định của đảng Cộng sản: bốn kẻ thù giai cấp ấy (đứng đầu là trí thức) kiên trì đầu óc và ý chí tư hữu, tay sai của Phong kiến, Thưc dân. Như thế là hằng trăm ngàn người bị sỉ nhục, tra tấn, tù đày, giết chóc; cả triệu người khác là thân nhân của họ (bao gồm cả trẻ con) sống vật vờ đói rét, cực nhục bên lề xã hội mới đang hình thành. Cái xã hội ấy không có quá khứ; luân lý, đạo đức, văn hóa suy đồi…”
    “Ông thường nhắc đến Montesquieu, J.J Rousseau, Phật và Mẹ, bốn vị đó có tác động gì tới nhận thức của ông?
    “Chính Mẹ đã trao cho tôi những kinh nghiệm đắng cay về cách mạng Cộng sản: Lúc đầu, khác với cha tôi, bà có vẻ đồng tình với lý tưởng Cộng sản của các cậu tôi và khâm phục bác (hay chú C.S) Hà Huy Tập. Đặc biệt bà rất ngưỡng mộ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Nhưng bà đã chứng kiến phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ở quê nhà. Bà cũng có những thông tin chính xác về các phong trào Cộng sản sau khi theo cha tôi vào Nam Kỳ. Lý tưởng Cộng sản vơi cạn dần trong tâm thức bà. Sau cách mạng tháng 8/1945, tiễn cha tôi đi kháng chiến, bà thiết lập bàn thờ Phật tại nhà và đi chùa. Hồi nhỏ tôi tiếp cận đạo Phật qua Mẹ…” (Tôi sẽ trở câu chuyện Mẹ và Phật ở phần sau).
    “Tôi học và và mày mò tìm hiểu về Montesquieu, J.J Rousseau từ năm đệ tứ (lớp 9 bây giờ – CS) Thầy giáo say sưa giảng, học trò chăm chú lắng nghe bài Tam quyền phân lập trong chương trình Công dân giáo dục. Những năm trung học tiếp theo, nhiều đứa trong chúng tôi đã chuyền tay nhau các sách báo viết về hai ông, hay sách hai ông viết. Đến năm đệ nhất (lớp 12) trong chương trình Công dân giáo dục hay sử địa (phần lịch sử thế giới) thì những đại danh như Voltaire, Denis Diderot, Montesquieu, J.J Rousseau, và những chuyên đề: Chế độ Tư sản dân quyền, các học thuyết kinh tế chính trị, cách mạng Pháp 1789… đối với chúng tôi cứ như là chuyện cổ tích thời thơ ấu. Ba năm ở đại học Sư phạm, mấy năm lang thang ở Luật khoa, rồi Văn khoa (để học Anh văn, Pháp văn) tôi đã chăm chú Lịch sử chính trị và văn chương Âu – Mỹ cận đại, đặc biệt là các lý thuyết chính trị phủ nhận Machiavelle, đẩy lùi bóng tối trung cổ. Tôi đọc lướt từ Thomas Hobbes, qua John Locke, nhưng đến Montesquieu, J.J Rousseau, Voltaire, Diderot, Adam Smit, John Stuart Mille, và Kark Marx thì đặc biệt quan tâm.
    “Montesquieu và J.J Rousseau là hai triết gia chính trị học nổi tiếng vào bậc nhất trong thời kỳ Khai sáng (thế kỷ 17 – 18). Học thuyết của họ đã ảnh hưởng quyết định đến cách mạng Pháp 1789, đã tác động, làm biến đổi tâm thức nhân loại và mô thức chính trị – xã hội trên bình diện toàn cầu suốt hơn hai thế kỷ (từ giữa thế kỷ18 đến ngày nay).
    “Montesquieu xuất thân quí tộc, nhưng chán ghét chế độ chuyên chế cấu kết bởi chính quyền phong kiến (vua và quý tộc) và giáo hội Thiên Chúa giáo. Ông chủ trương xóa bỏ sự cấu kết ấy để xây dựng một mô hình quyền lực mới là chế độ quân chủ, tam quyền phân lập, gần giống với nền quân chủ lập hiến Anh quốc. Theo mô hình này: vua đứng đầu cơ quan hành pháp, quyền lực bị hạn chế và ràng buộc bởi pháp luật. Hai cơ quan còn lại là lập pháp, tư pháp riêng biệt và độc lập. Cách mạng Pháp 1789 bỏ yếu tố quân chủ, chỉ giữ lại mô hình tam quyền phân lập trong học thuyết Montesquieu để kết hợp với tư tưởng dân chủ cửa J.J Rousseau nhằm thiết lập nền móng tư tưởng cho chế độ Dân chủ Cộng hòa.
    Cũng như Montesquieu, J.J Rousseau chủ trương bãi bỏ chế độ phong kiến… Ông đấu tranh cho một xã hội của những Con Người Tự Do, Bình đẳng, có đủ Trí tuệ, Đức hạnh, Nghị lực và Ý chí để xây dựng một chính quyền tập hợp bởi những đại diện được bầu lên bởi các thành phần quần chúng. Theo ông, cái chính quyền đó phải vững mạnh để bảo vệ các quyền Tự Do của những Con Người – Công dân trong xã hội mới – xã hội Dân Chủ”.
    “Giữa hai nhà lập thuyết lừng danh ấy, Cách mạng Pháp 1879 nghiêng về phía J.J Rousseau bởi tư tưởng Tự Do – Dân Chủ của ông. Có lẽ vì vậy mà năm 1794, khi cách mạng phát triển đến cao trào, di hài của ông được đưa vào chôn ở điện Panthéon. Motesquieu không được cái vinh quang ấy. Và cũng có lẽ vì cái tư tưởng Tự Do – Dân Chủ ấy mà năm 1814, khi triều đình Bourbons tái lập nền quân chủ, bia mộ của J.J Rousseau bị đập phá tan tành, di hài bị trục xuất khỏi điện Panthéon. Montesquieu không bị cái oan nghiệp ấy.
    “Theo tôi, tư tưởng chính trị của Montesquieu có tính chất ôn hòa. Yếu tố Quân chủ lập hiến trong cuốn De L’esprit des lois (Tinh thần pháp luật) của ông là gạch nối lịch sử để sự chuyển đổi cơ cấu quyền lực chính trị diễn ra trong ổn định của trật tự pháp luật.
    “Tư tưởng chính trị – giáo dục J. J. Rousseau thể hiện trong Du contrat social (Khế ước xã hội) và Emile ou de L’education (Emil hay về giáo dục) có tính cách mạng triệt để. Những Con Người – Công Dân ấy nối kết với nhau trong Tự do, Đức hạnh, Bình đẳng, Bác ái, ý thức Trách nhiệm, Bản lãnh và Ý chí vượt thoát (khỏi bóng đen của quá khứ), kiên định con đường cách mạng để cùng nhau xây dựng xã hội mới.
    “Rousseau quan niệm rằng con người mới sinh ra đã là chủ thể Tự do và Lương thiện. Chế độ chính trị Phong kiến – Ky tô giáo trung cổ đã hủy hoại, làm lu mờ hai đức tính nền tảng ấy, con người trở nên vong thân, làm nô lệ cho chế độ xã hội đương thời. Nhiệm vụ của giáo dục là tách nó (con người) từ lúc mới chào đời ra khỏi chế độ và xã hội ấy, và bằng những phương pháp tinh tế kích thích, làm sống lại, un đúc và gián tiếp tạo điều kiện cho nó tự phát triển hai cái nguồn sống quí báu thiên bẩm ấy. Đó là giai đoạn thứ nhất trong chương trình giáo dục Rousseau. Giai đoạn thứ hai bắt đầu vào tuổi thiếu niên: Cậu trẻ tiếp tục được duy trì chương trình giai đoạn thứ nhất làm nền tảng cho việc giáo dục Thể lực và Ý chí để nó có đủ sức mạnh tinh thần và thể chất bước vào giai đoạn thứ ba bắt đầu từ tuổi thanh niên, là giai đoạn giáo dục Trí tuệ. Anh trẻ được người Thầy kích thích các tiềm năng trí tuệ, óc tò mò để chủ động tiếp thu các kiến thức của thời đại mới – thời đại Ánh sáng (các ngành khoa học kỹ thuât, kinh tế xã hội, văn học nghệ thuật…).
    Người thầy không trao cho Anh trẻ những bài học, bắt Anh phải học thuộc lòng và trả bài. Người thầy chỉ giới thiệu, gợi ý, Anh trẻ chủ động tiếp cận các môn học, tìm kiếm các chủ đề, đặt vấn đề, tìm lời giải đáp, thiết kế giải pháp và tập tành các kỹ năng để thực hiện chương trình, kế hoạch của đời anh. Như thế là anh đã thành NGƯỜI. Anh lấy vợ, lập gia đình, chọn nghề nghiệp và cùng với những CON NGƯỜI khác, anh kiến tạo chế độ DÂN CHỦ.
    “Để thực hiện một chương trình giáo dục như thế, người Thầy hoặc phụ huynh phải đầu tư công sức rất nhiều: học vấn phải uyên thâm, trái tim phải rộng mở, hiểu biết tâm lý trẻ phải thật sâu, khả năng sư phạm phải thật cao, nghị lực phải dồi dào và nhất là điều kiện và môi trường sống phải ổn định. Không phải ai đọc sách của Rousseau cũng có thể làm được công nghiệp khó khăn ấy. Ngày nay, sau hơn 200 năm sách của Rousseau xuất bản, nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới muốn áp dụng triết lý và mô hình giáo dục Rousseau mà chưa làm được hoàn chỉnh. Huống hồ gì lúc bấy giờ, nước Pháp vẫn đang bị bao phủ bởi bóng đêm chuyên chính “trung cổ”. Ngay chính Rousseau cũng không nuôi dạy con cái mình. 5 người con của ông đều được gởi vào cô nhi viện. Có thể do thường xuyên bị truy lùng, Roaseau không có điều kiện nuôi dạy con cái. Cũng có thể ông không có đủ khả năng, đức tính để nuôi dạy các con theo mô hình giáo dục do ông đề ra.
    “Tôi không đồng ý với quan điểm J. J. Roausseau về “những đứa trẻ mới sinh ra đã là chủ thể tự do và tốt lành”. Nhưng phương pháp, nội dung và mục tiêu của triết học giáo dục Rousseau, theo tôi là mực thước cho muôn đời, chỉ có thêm bớt, sửa đổi một số yếu tố cho phù hợp với từng thời điểm, từng địa phương, chứ không cần, không thể phủ nhận bất cứ trụ điểm nào về mặt nguyên lý. Con Người là thành tựu của nền giáo dục Rousseau không là công cụ phục vụ cho chế độ chuyên chính và xã hội khắc nghiệt, khép kín cửa quyền, mà là chủ thể kiến tạo nên chế độ và xã hội mới – chế độ Dân Chủ tôn trọng, bảo vệ các quyền Con Người: quyền tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do luận bàn và lập hội, tự do sở hữu, tự do tín ngưỡng…”
    “Chắc chắn là CON NGƯỜI – CÔNG DÂN theo học thuyết Rousseau chưa được un đúc kịp để trở thành lực lượng chính yếu làm nên cuộc cách mạng 1789, bởi từ thời điểm hai cuốn Du Contrat social, Emile ou de l’éducation xuất bản (1762) đến khi cách mạng bùng nổ chỉ vọn vẹn 27 năm. 27 năm, chưa đủ để CON NGƯỜI – CÔNG DÂN mà Rousseau muốn đào tạo bởi triết lý giáo dục của ông trở thành lực lượng cách mạng; nhưng học thuyết của ông đủ để thắp bùng lên ngọn lửa cách mạng vĩ đại từ cái khối quần chúng sôi sục sự bất mãn, căm giận chế độ và xã hội đương thời.
    “Phe cách mạng bao gồm nhiều bộ phận quần chúng thuộc “lực lượng thứ ba” khác biệt về trình độ nhận thức, về điều kiện sống và lao tác, về sự tích lũy và sử dụng của cải, nhưng có chung một khát vọng, một mục tiêu là lật đổ guồng máy toàn trị ruỗng mục cấu kết bởi “lực lượng thứ hai” là giới tăng lữ nhà thờ Thiên chúa giáo và “lực lượng thứ nhất” là tập đoàn vua chúa quí tộc.
    “Lực lượng thứ ba” (cách mạng) bao gồm các nhóm quần chúng có hoài bão, động cơ, động lực khác nhau:
    – Những nông dân muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh đời nô lệ nghèo đói và lao động khổ sai trong các lãnh địa của quí tộc.
    – Những công nhân bắt đầu hình thành giai cấp khát khao thoát khỏi tình trạng bị bóc lột, bị đối xử tàn tệ trong các cơ sở công thương nghiệp tư nhân đang phát triển.
    – Dân nghèo thành thị và những kẻ vô gia cư đầu đường xó chợ ao ước có công ăn viêc làm, có nơi cư trú và chấm dứt tình trạng bị ức hiếp, chà đạp bởi bọn đầu gấu và cảnh binh.
    – Những nhà tư bản chủ nhân các cơ sở công nghiệp, các công ty thương mại, ngân hàng, cùng những tiểu chủ muốn thoát khỏi sự kiềm tỏa của chính sách kinh tế, tài chánh bất lực và lỗi thời của triều đình phong kiến, muốn kiếm lợi thật nhiều và thật nhanh, muốn có tiếng nói và vị trí xã hội tương xứng với vai trò chủ đạo trước xu thế phát triển kinh tế công thương nghiệp hiện đại.
    – Giới trung lưu tập hợp bởi các trí thức làm nghề tự do: các văn nhân nghệ sĩ, các luật sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, sinh viên… là những người khao khát Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Dân chủ và các tiến bộ khoa học kỹ thuật – tinh hoa của Thế kỷ Ánh sáng.
    – Cuối cùng là các tướng lĩnh cùng binh lính của họ muốn vãn hồi an ninh trật tự trước tình trạng hỗn loạn do các xung đột ngày càng gia tăng mức độ khốc liệt giữa hai thế lực thù địch: bảo thủ – bảo hoàng, cấp tiến – cách mạng.
    “Như thế, cuộc đại cách mang Pháp 1789 được làm nên bởi những con người “cũ” có khát vọng đổi đời, một số trong họ hấp thu tư tưởng mới ở những trình độ khác nhau, chứ chưa phải bởi những CON NGƯỜi mới hoàn thiện được un đúc theo tư tưởng của J.J. Rousseau. Trong Emile ou de l’éducation, Rousseau bảo rằng: “sứ mệnh của giáo dục là đào tạo nên những CON NGƯỜI trước khi nó làm bất cứ nghề nghiệp nào.” Làm “nghề nghiệp” ở đây có nghĩa là làm ăn – có tính cách cá nhân hoặc trong phạm vi xã hội hẹp mà còn khó khăn, cẩn trọng, công phu đến thế, huống hồ gì làm Cách Mạng – quan hệ đến vận mệnh của một dân tộc, một đất nước, thậm chí cả nhân loại không chỉ một đời mà nhiều đời, nhiều thế kỷ.
    “Cái CON NGƯỜI mới ấy có sứ mệnh kiến tạo nên chế độ và xã hội mới, chứ nhất thiết không là công cụ phục vụ cho chế độ và xã hội đương thời.
    “Khởi đầu với hào khí ngất trời, với uy lực vũ bão, phong trào quần chúng cách mạng đã tạo tác nên những sự kiện to lớn:
    – Soạn thảo và công bố bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền.
    – Phá ngục Bastille
    – Lật đổ ách thống trị của liên minh phong kiến quí tộc và tôn giáo (nhà vua Louis 16, hoàng hậu Marie Antoinette, một số nhà quí tộc, giáo sĩ lên đoạn đầu đài), tách tôn giáo ra khỏi cơ chế quyền lực thế tục, (nhưng vẫn công nhận quyền tự do tín ngưỡng).
    – Tổ chức quốc hội lập hiến, soạn thảo và ban bố hiến pháp, thiết lập các cơ quan cai trị của chế độ Cộng hòa (tam quyền phân lập).
    “Tuy vậy, cuộc cách mạng mà “lực lượng thứ ba” dự phóng với những mục tiêu: Tự do, Công bình, Bác ái và chế độ Dân chủ Cộng hòa đã không tựu thành như ước mơ và dự kiến ban đầu của họ. Tiến trình xây dựng và kiến tạo của nó khập khễnh với những sai lầm, những tội lỗi. Thực tế cách mạng tưởng chừng như vô vọng, tưởng chừng như quay ngược hành trình: phe bảo hoàng – bảo thủ còn mạnh, đe dọa chiến tranh từ các thế lực quân chủ bên ngoài gia tăng, các nhóm cách mạng sôi sục ngọn lửa căm hờn chế độ cũ và niềm hy vọng đổi đời nhưng chập choạng phương hướng, chia rẽ, tranh giành quyền lực, thù địch sát hại lẫn nhau. Máy chém không chỉ chặt đầu “bọn phản động thuộc chế độ cũ, mà còn quay lại chặt đầu những nhân vật lừng danh cách mạng và phe cánh. Robespièrre giết các đối thủ cách mạng của mình. Đến lược Robespièrre và các đồng chí của ông cũng bị đưa lên đoạn đầu đài bởi tội “phản cách mang”. Cách mạng thoái trào. Đế chế phục hồi. Một lần, rồi hai lần. Trong một thời gian dài, cách mạng tưởng chừng như đồng nghĩa với giết chóc và phá hoại.
    “Thực tế: Cách mạng Pháp là một tiến trình lâu dài, có lúc tiến, có lúc thụt lùi, có lúc đi dích – dắc, có lúc đi vòng, có lúc ngừng nghỉ, nhưng nhân dân và trí thức Pháp không bỏ cuộc, vẫn đeo đuổi lý tưởng mà J. J. Roaseau và các nhà trí thức của kỷ nguyên Ánh sáng đã nhú mớm từ hạ bán thế kỷ 17 đến tận ngày nay. Bởi Tự do, Công bình, Bác ái và chế độ Dân chủ – Cộng hòa đến thời điểm này vẫn là những giá trị phổ biến, vẫn là mục tiêu đấu tranh dài lâu không chỉ của nhân dân Pháp mà của cả nhân loại.
    “Sau đại cách mạng 1789, đến thời điểm này (1968), nước Pháp đã trải qua 5 cuộc cách mạng, 5 thời kỳ Cộng hòa, 2 lần phục hồi đế chế, hàng chục lần thay đổi chính quyền, 17 (?) lần thay đổi hiến pháp. Diễn tiến này chứng tỏ tinh thần và mục tiêu của cách mạng Pháp 1789 vẫn luôn ở trên một tiến trình, nó chuyển hóa để thích ứng với tình thế mới chứ nó không có điểm đích cuối cùng.
    “Theo tôi: vấn đề CON NGƯỜI với những giá trị phổ biến như TỰ DO, ĐỨC HẠNH, CÔNG BẰNG, BÁC ÁI là chủ thể kiến tạo chế độ DÂN CHỦ theo triết lý giáo dục của Rousseau đến sau này vẫn còn nguyên những chuẩn mực giá trị của một tiến trình không thể đảo ngược. Không có CON NGƯỜI HOÀN THIỆN, mà chỉ có CON NGƯỜI luôn phấn đấu để tồn tại và chuyển hóa không ngừng theo chiều hướng tất yếu là tốt hơn.
    “Sau cách mạng 1789, cho dù chế độ chính trị là Cộng hòa hay Đế chế, kinh tế nước Pháp cũng phát triển theo đường lối Tư bản chủ nghĩa công thương nghiệp hiện đại. Kinh tế Tư bản đã thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, làm thay đổi diện mạo xã hội. Nước Pháp trở nên văn minh và giàu mạnh cạnh tranh cùng Anh và Hòa Lan, là hai nước đã Tư bản hóa từ thế kỷ 17.
    “Ở Mỹ kinh tế Tư bản cũng xẩy ra tiếp liền Anh, Hòa Lan. Cách mạng và Tuyên bố Nhân – Dân quyền Mỹ trước cách mạng Pháp đến 13 năm (1776). Như thế là châu Âu và Hoa Kỳ cùng tiến bước theo con đường hiện đại hóa. Khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển kinh tế Tư bản. Kinh tế Tư bản thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật. Xã hội nhìn từ bên ngoài có vẻ giàu sang và văn minh hơn, nhưng quan hệ giữa người và người vẫn không vì thế mà được cải thiện. Giai cấp Tư sản từng bước sắm sửa vai trò chủ nhân ông của thời đại mới tại các cường quốc Tây phương. Các giá trị Tự do, Công bằng, Bác ái và Dân chủ theo tư tưởng của Rousseau và các triết gia Thế kỷ Ánh sáng bị thử thách. Các triết gia và trí thức đăm chiêu và phẫn nộ trước những tội ác và bóng tối của thời đại mới. Kinh tế Tư bản Mỹ gắn liền với thảm kịch buôn người, bóc lột đàn áp người lao động và kỳ thị chủng tộc. Kinh tế Tư bản châu Âu phồn thịnh trong sự thù địch chết người Tư sản / Cần lao. Tôn giáo đồng hành cùng guồng máy thống trị đàn áp, bóc lột và lạm quyền. Các giáo sĩ thừa sai là kẻ đưa đường chỉ lối cho các hạm đội và các thương đoàn trên những nẻo đường kiếm tìm thuộc địa nhằm giải quyết vấn đề thặng dư hàng hóa, thiếu thốn lao động và nguyên liệu của các cường quốc Âu Mỹ. Châu Á và châu Phi trở thành điểm nhắm của các sứ giả của nền Văn minh Ky tô giáo. Khủng hoảng phương Tây kết hợp với nghèo đói, lạc hậu Á – Phi trở thành khủng hoảng của toàn nhân loại.
    “Nhiều triết gia, trí thức Âu châu thấy mình có trách nhiệm và sứ mệnh ngăn chặn hoặc chấm dứt cuộc khủng hoảng đó. Hai người nổi bật trong số họ là Kart Marx người Đức và John Stuart Mill người Anh.”
    “John Stuart Mill là một triết gia, một nhà luật học, một chính trị gia đồng thời là nhà hoạt động xã hội hàng đầu của Anh quốc và châu Âu thế kỷ 19. Ông thể hiện lập trường tư tưởng hòa hoãn như cá tính dân tộc và truyền thống chính trị Anh. Ông viết và xuất bản nhiều sách để trình bày học thuyết của mình: Principles of political economy (Những nguyên tắc của kinh tế chính trị học.1848), On liberty (Bàn về Tự do. 1859), On representative gouvernement (Về chính thể đại diện. 1861)…
    “John Stuart Mill cho rằng giai cấp Tư sản đã lạm dụng quyền tự do tuyệt đối được xã hội thừa nhận để đẩy mạnh khuynh hướng vụ lợi, ích kỷ, đàn áp bóc lột người lao động làm thuê là nguyên nhân hàng đầu của khủng hoảng. Theo ông hình thái kinh tế Tư bản là sự đi quá đà phát xuất từ hình thái kinh tế Tự do. Là người chủ trương thuyết Công lợi, J. S Mill đề nghị mọi thành phần xã hội cần có nhận thức và hành động đúng đắn là điều hòa quyền Tự do Cá nhân và Lợi ích Cộng đồng (xã hội và quyền lực nhà nước). Nhưng đồng thời, Stuart Mill cảnh báo tình trạng nhân danh Lợi ích xã hội bất chấp Tự do Cá nhân, làm tổn hại đến bản sắc, cá tính là nguồn cội hạnh phúc và năng lực sáng tạo của mọi người. Ông chỉ ra rằng Cá nhân có Tự do – xã hội mới ổn định và phát triển. Và ngược lại: xã hội có ổn định, phát triển, Tự do của Cá nhân mới bền vững.
    “Cá nhân Tự do, xã hội ổn định và phát triển, theo J. S Mill, nhất thiết phải được điều hướng bởi nhà nước Đại diện (dân chủ) Pháp quyền.
    “J. Stuart Mill đề xuất một triết lý và một đường lối chính trị cụ thể gồm bốn điểm:
    (1) Đề cao Công Lợi, đồng thời tôn trọng bảo vệ Tự Do Cá Nhân và quyền lợi của các cộng đồng thiểu số.
    (2) Cắt giảm quyền lực và tài sản của Quí tộc và Tư sản để các tầng lớp xã hội xích lại gần nhau hơn.
    (3) Nhà nước và xã hội nhìn nhận những nhu cầu chính đáng của giai cấp Công nhân, tạo điều kiện để họ nâng cao hiểu biết, năng lực và đức hạnh để có đủ khả năng và tư cách tham gia các tổ chức ngành nghề (hợp tác xã, công đoàn), tham gia quản lý nhà máy, xí nghiệp và sở hữu một số cổ phần tương xứng trong các cơ sở kinh tế. Giai cấp Công nhân sẽ giàu có lên, sống hòa hợp hạnh phúc giữa các giai tầng và thành phần xã hội khác.
    (4) Các dân tộc bình đẳng và tự quản lý. Để tự quản lý, các dân tộc phải đạt được một trình độ hiểu biêt nhất định. Đế quốc Anh có sứ mệnh giúp đở (các dân tộc) trong tinh thần huynh đệ và chung sống hòa bình.
    “Hai công việc đầu cần làm ngay, nhưng hai mục tiêu sau cần tiến hành thận trọng, tiệm tiến bằng phương pháp duy nhất là giáo dục.
    “J Stuart Mill đặc biệt chú trọng sự nghiệp giáo dục. Theo ông, giáo dục có vai trò quyết định trong mọi vận động xây dựng con người và cải tạo xã hội:
    – Giáo dục đào tạo những Con Người Tự Do có năng lực và đức hạnh để thực hiện các quyền hạn, nghĩa vụ đối với chính mình và xã hội. Ông nói cụ thể: phổ thông giáo dục đi trước phổ thông bầu cử.
    – Giáo dục un đúc tầng lớp Ưu tú (Trí thức) có sứ mệnh hướng dẫn xã hội.
    – Giáo dục điều hướng tâm thức các tầng lớp nhân dân trong quá trình chuyển hóa hình thái kinh tế Tư bản, phục hồi hành thái kinh tế Tự do chân chính, tiệm tiến và cẩn trọng xây dựng hình thái kinh tế Xã hội chủ nghĩa trong hòa bình (không qua cách mạng, vì cách mạng là bạo động, không phù hợp với tâm hồn người Anh).
    “J. Stuart Mill trình bày học thuyết của mình qua tác phẩm Principles of political economy xuất bản vào năm 1848, cùng thời điểm với Tuyên ngôn của đảng Cộng sản do K. Marx công bố.”
    “K. Marx, người Phổ gốc Do Thái, trưởng thành trong lò triết học Đức, nhiều năm sống, nghiên cứu kinh tế, chính trị và xã hội ở Anh, hoạt động triết học và cách mạng cùng thời với J. Stuart Mill, nổi tiếng hơn J. Stuart Mill nhiều bởi thái độ dấn thân đầy nhiệt huyết và nội dung học thuyết “nóng” của ông. Marx soạn thảo Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, nghiên cứu và hoàn thành công trình đồ sộ Capital, viết và công bố nhiều sách triết học, lịch sử, kinh tế chính trị học khác để truyền bá tư tưởng của mình.
    “Tôi đọc Capital hơn một lần và nhiều sách báo viết về chủ nghĩa Cộng sản nhưng chẳng sáng tỏ điều gì; chắc là do sở học và khả năng nhận thức của tôi hạn chế không đủ sức để hiểu thấu đáo các vấn đề triết học, kinh tế chính trị xã hội học cao rộng của ông. Nhưng Tuyên ngôn của đảng Cộng sản thì tôi hiểu.
    “Giả định rằng Tuyên ngôn của đảng Cộng sản (do Marx, Engels soạn thảo và công bố năm 1848) và các phong trào cách mạng mà đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện từ 1930 đến thời điểm này thể hiện đầy đủ chủ nghĩa Marx thì những ghi nhận của tôi sau đây là “chủ nghĩa Cộng sản theo nhận thức của tôi”, để rồi từ đó tôi bày tỏ quan điểm và thái độ của mình trước tình hình đất nước, và cũng để trả lời câu hỏi của ông.
    “Marx, Engels, Lénin, Stalin, Mao Trạch Đông, …, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam…) nhận định rằng từ thượng cổ đến ngày nay nhân loại luôn diễn ra tình trạng đấu tranh mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Lịch sử loài người đã trải qua 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có một chế độ chính trị và một hình thái kinh tế khác biệt: (1) chế độ Cộng sản nguyên thủy – người tự do (Chu Sơn?) ức hiếp người nô lệ(C.S?), (2) chế độ Nô lệ – chủ nô ức hiếp nô lệ, (3) chế độ Phong kiến – quý tộc, chúa đất và thợ cả ức hiếp nông nô và thợ bạn, (4) chế độ Tư bản – giai cấp Tư sản ức hiếp giai cấp Vô sản. Trong chế độ Tư bản, xã hội loài người tập hợp chung quanh hai giai cấp lớn đấu tranh loại trừ nhau quyết liệt hơn bao giờ hết trên bình diện toàn cầu. Đảng Cộng sản thành lập nhằm đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp vô sản trên toàn thế giới:
    – Đảng Cộng sản minh xác mối quan hệ thân hữu với các đảng công nhân khác, không vì lợi ích dân tộc, chỉ vì lợi ích giai cấp Vô sản.
    – Đảng cộng sản phê phán nghiêm khắc tất cả các trào lưu Cộng sản và Xã hội chủ nghĩa phi Vô sản (không công hữu triệt để, không bạo động quyết liệt, không chuyên chính toàn diện, kể cả những khuynh hướng Cộng sản máy móc tả khuynh).
    – Đảng Cộng sản công khai bày tỏ lập trường đấu tranh không khoan nhượng đối với các đảng đối lập cùng toàn bộ hệ thống quyền lực của giai cấp Tư sản và chế độ Tư bản chủ nghĩa.
    – Đảng Cộng sản khẳng định ba mục tiêu của cuộc vận động cách mạng: (1) Tổ chức giai cấp vô sản thành lực lượng cách mạng. (2) Lật đổ ách thống trị của giai cấp Tư sản. (3)Thành lập chính quyền của giai cấp Vô sản.
    – Đảng Cộng sản đề ra 10 biện pháp cách mạng, tập trung vào bốn biện pháp chính: (1) Tướt đoạt tài sản của giai cấp Tư sản và các lực lượng phụ thuộc. (2) Cấp bách giải quyết quyền lợi của giai cấp vô sản theo tình tự thời gian. (3) Xây dựng các công xưởng nhà nước. (4) Cưỡng bức giáo dục, chấm dứt tình trạng sử dụng lao động trẻ em.
    – Đảng Cộng sản khẳng định đây là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Trong cuộc đấu tranh này:
    – Giai cấp Tư sản nhất định thua,
    – Giai cấp Vô sản nhất định thắng.
    Như thế là người Vô sản chỉ mất xiềng xích mà giành được toàn thế giới.
    Đảng Cộng sản đưa lời kêu gọi cuối cùng: Giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại.
    “Rõ ràng Tuyên ngôn của đảng Cộng sản là tín điều. Những tín điều này do Marx và Engels phát đi năm 1848, làm rúng động toàn thế giới. Giai cấp tư sản kinh hoàng, giai cấp vô sản tràn trề hy vọng. Marx, Engels và đồng chí của hai ông hăm hở biến nó thành hiện thực. Họ tuyên truyền, vận động để tổ chức giai cấp vô sản trên toàn thế giới thành lực lượng cách mạng. Tháng 8 năm 1864, tại Luân Đôn, một đại hội những người Cộng sản đầu tiên được triệu tập do Marx và Engels chủ trì, 200 đại biểu từ Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu đến dự. Ngay từ lần tập họp đầu tiên này các đại biểu đã không đồng nhất là tín hữu – đồng chí như Marx và Engels dự kiến. Nhiều ý kiến, tư tưởng, lập trường chính trị khác biệt, mâu thuẫn được bộc lộ giữa những người Cộng sản với nhau. Những tín điều bị thử thách. Tuy vậy, một tổ chức mang tên Hội Liên Hiệp Lao Động Quốc Tế (the International Workingmen’s Association (IWA – Quốc tế I) đã hình thành, Marx được giao nhiệm vụ soạn thảo điều lệ và các văn kiện liên quan đến nội dung, chương trình và phương lược đấu tranh: Thành lập các tổ chức công nhân (công đoàn) rộng rãi và đều khắp, tập trung sự lãnh đạo, phát động nhiều hình thức đấu tranh như bãi công, tổ chức biểu tình, ra tuyên ngôn, tuyên cáo kêu đòi giảm thiểu thời gian lao động (8 tiếng/ngày), đòi tăng lương, đòi cải thiện điều kiện làm việc và đời sống công nhân. Sự ra đời của Hội Liên Hiệp Lao Động Quốc Tế (IWA- Quốc tế I) đã tác động mạnh mẽ vào phong trào công nhân và cảnh báo nguy cơ cho giới chủ toàn châu Âu và Hoa Kỳ. Nhưng ngay khi mới thành lập, Đệ Nhất Quốc Tế bất đắc dĩ kết tập những yếu tố dị biệt và mâu thuẫn báo hiệu một sự đổ vỡ không thể cứu chữa. Trong vòng 12 năm (1864 – 1876) Hội Liên Hiệp Lao Động Quốc Tế (Quốc tế I) đã tổ chức 5 lần đại hội để củng cố nội bộ, thống nhất đường lối và phương lược đấu tranh. Nhưng càng củng cố thống nhất thì càng tan rã. Năm 1876, Hội nhóm họp lần cuối cùng tại Phyladelphia (Hoa Kỳ) để tuyên bố giải tán.
    “Như thế, giai cấp vô sản trên toàn thế giới đã không nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Marx theo tuyên ngôn 1848 để đoàn kết lại. Những tín điều hứa hẹn trong tuyên ngôn đã không thuyết phục được họ. Giai cấp vô sản biết rõ chính mình hơn bất cứ ai rằng họ không có hoài bão to lớn là chủ nhân ông của thế giới, họ không có những năng lực, những đức tính ưu việt, họ không tượng trưng cho tương lai của nhân loại như Marx đã khẳng định. Mục tiêu đấu tranh của họ chỉ nhằm cải thiện điều kiện lao động, tăng lương, giảm thiểu giờ làm việc… Họ chấp nhận sự lãnh đạo và sự điều hướng của các lãnh tụ công đoàn xanh, sự cổ vũ và giúp đỡ của các đảng phái, các tổ chức, các nhóm Xã hội Dân chủ và Nhân quyền. Họ kiên trì đấu tranh lâu dài để tháo gỡ xiềng xích, để cải thiện điều kiện lao động và đời sống. Họ cũng khát khao tư hữu và các quyền Con Người khác. Họ không có tham vọng làm chủ thế giới. Giai cấp Tư sản vì mục tiêu kinh tế lần hồi nhận ra rằng nếu tiếp tục bóc lột và đàn áp công nhân sẽ có hại nhiều hơn có lợi nên đã từng bước nhượng bộ những yêu sách của công nhân. Xã hội tư bản chuyển động.
    “Marx, ngay từ lần khai hội đầu tiên của Quốc Tế I, đã tỏ ra chán nản trước sự khó khăn của tình thế: Đại diện các nhóm tham dự, đa phần đều bày tỏ sự khác biệt với ông về tư tưởng chính trị, về mục tiêu và phương lược đấu tranh. Ông và Engels với tư cách là người đứng ra triệu tập đã không thể qui tụ chung quanh mình một đa số đủ để hình thành nên một ban lãnh đạo của lực lượng cách mạng vô sản trên toàn thế giới như đã khẳng định trong Tuyên ngôn 1848. Những lần hội nghị tiếp theo (1866 tại Genève, 1867 tại Lausanne, 1868 tại Brussels) vai trò và tiếng nói của Marx khá mờ nhạt. Đến hội nghị lần thứ 5 tại Philadelphia (Hoa Kỳ) đã có nhiều tiếng nói công khai và mạnh mẽ chống lại hai ông. Cuối cùng, năm 1868, Marx và Engels với sự đồng thuận buồn rầu của tất cả các đại biểu, đã tuyên bố Hội Liên Hiệp Công Nhân Quốc Tế chấm dứt sứ mệnh lịch sử.
    “Hội Liên hiệp Công nhân Quốc tế giải tán, nhưng phong trào đấu tranh của công nhân và các phong trào đấu tranh dân chủ, nhân quyền ở Hoa Kỳ và châu Âu vẫn tiếp tục.
    “Năm 1862 chế độ nô lệ được chính thức giải tán tại Hoa Kỳ.
    “Ngày 1.5.1886 (10 năm sau ngày Quốc tế I tan rã), theo thông lệ là ngày kết toán tài chánh của các công ty Tư bản, cũng là ngày ký hợp đồng lao động mới giữa các công ty và người làm thuê. Tại Chicago, liên đoàn Lao động Mỹ nhóm họp, ra quyết định: Bắt đầu từ ngày này, người lao động sẽ không làm việc quá 8 tiếng trong một ngày. Giới chủ tư bản không chấp nhận. Liên đoàn Lao động Mỹ kêu gọi công nhân trên toàn nước Mỹ bãi công. Công nhân Mỹ hưởng ứng. Hàng ngàn cuộc bãi công, biểu tình tuần hành đã diễn ra với hàng triệu người tham gia. Giới chủ phản ứng mạnh: cảnh sát đàn áp đẫm máu làm chết hàng trăm người biểu tình. Nhiều thủ lĩnh công nhân bị bắt. Nhưng phong trào đấu tranh của công nhân vẫn tiếp tục quyết liệt. Cuối cùng giới chủ tư bản phải nhượng bộ vì lợi ích của mình. Người lao động làm thuê trên toàn nước Mỹ và thế giới bắt đầu chế độ lao động 8giờ/ ngày từ đó.
    “Marx, sau Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, nhất là sau cuộc thử nghiệm đắng cay với Hội Liên Hiệp Công Nhân Quốc Tế đã dồn hết sức lực vào công trình nghiên cứu và biên soạn Capital,… Phải chăng Capital là tập đại thành học thuyết của ông? Còn Tuyên ngôn đảng Cộng sản chỉ thể hiện nhiệt huyết của ông thời trai trẻ?
    “Năm 1886, tại Paris, Engels triệu tập và chủ trì hội nghị của những người Cộng sản quốc tế (thường gọi là quốc tế II). Quốc tế II tồn tại được 28 năm, đã tiến hành 10 lần đại hội, nhưng không để lại dấu ấn sâu sắc nào trong lịch sử ngoài quyết định lấy 1.5 làm ngày kỷ niệm sự nghiệp đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Quốc tế II âm thầm giải tán năm 1914, sau khi Engels qua đời.
    “Đến 1919, Lenin thành lập Quốc tế III (Comintern). Cuộc cách mạng tại Nga năm 1917 do ông và đảng Cộng sản Nga (Bolchevich) chủ trì đã lật đổ chế độ chuyên chính Sa Hoàng, hình thành nên nhà nước Xô Viết làm chấn động cả thế giới, làm sống lại ý thức hệ Cộng sản đã lụi tàn dần ở châu Âu và Hoa Kỳ từ sau khi Marx qua đời. Việc Lênin thành lập Quốc Tế III đã nối liền nước Nga Xô Viểt với Tây Âu ra toàn thế giới với học thuyết Marx – Lê nin.
    “Lênin nhận định và lý luận rằng chủ nghĩa tư bản và các nhà nước tư sản ở châu Âu và Hoa Kỳ đã gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa thực dân; sự tồn tại của nó phụ thuộc vào tài nguyên, lao động và thị trường tiêu thụ ở các xứ thuộc địa. Do vậy cần liên kết cuộc vận động cách mạng vô sản tại chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở các quốc gia bị đế quốc thực dân xâm chiếm và đô hộ.
    “Lê Nin khẳng định:
    “1/ Với sự điều hướng của Quốc tế III, đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở các chính quốc cần ưu tiên giúp đỡ đảng Cộng sản và Liên minh công nông ở thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa thực dân. Một khi chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa bị tiêu diệt, các nguồn cung ứng cho kinh tế tư bản (nguyên vật liệu, lao động, thị trường tiêu thụ) bị đình chỉ, tất yếu dẫn đến tình trạng chủ nghĩa tư bản ở chính quốc bị lung lay. Khi đó giai cấp công nhân sẽ vùng lên làm cuộc lật đổ của mình: Đánh bại giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền chuyên chính vô sản và nền kinh tế công hữu.
    “2/ Với sự điều hướng của Quốc tế III, sự hỗ trợ của đảng Cộng sản chính quốc, đảng Cộng sản và Liên minh công nông ở các xứ thuộc địa trong quá trình chống đuổi thực dân có thể thỏa hiệp tạm thời với các lực lượng, các thành phần dân tộc phi vô sản. Sự thỏa hiệp này là mưu lược có tính chất chiến thuật, chính trị giai đoạn, bí mật và độc lập trong cơ chế tổ chức và chiến lược lâu dài, luôn luôn kiên định lập trường cộng sản, đến khi giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đuổi thực dân, sự thỏa hiệp này tức thì chấm dứt để không bị mắc míu, chia quyền trong cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa tất yếu sẽ diễn ra tiếp liền theo. Bởi đây là trận chiến cuối cùng theo quan điểm của Marx.
    “Thực tế: Quốc tế III là tổ chức vòng ngoài của đảng Cộng sản Nga, vì lợi ích của nước Nga Xô Viết là chủ yếu, khi cần thì Lênin thành lập (1919), khi không cần thì Stalin dẹp bỏ (1943).
    “Sự hình thành Quốc tế III với vấn đề dân tộc và thuộc địa trong sách lược của Lê Nin đã cuốn hút tâm trí Nguyễn Ái Quốc, một người đã chuyển hóa hoài bão theo truyền thống của cha (Nguyễn Sinh Sắc): “Sinh Cung” và “Tất Thành” ra khát vọng và sứ mệnh của mình: “Ái Quốc”. Việc làm này chứng tỏ sự tự tín đầy kiêu hãnh của một thanh niên biết rõ vai trò và vị trí của mình trong đất nước bị xâm lược và dân tộc bị nô lệ. Dĩ nhiên khi tham gia vào đảng Cộng sản Pháp, và tham dự đại hội Quốc tế Cộng sản tại Nga, Nguyễn Ái Quốc đã đọc tuyên ngôn của đảng Cộng sản và không khó khăn gì để ông nhận ra rằng đảng Cộng sản theo quan điểm của Marx và Engels “chỉ vì lợi ích của giai cấp vô sản trên toàn thế giới chứ không vì lợi ích của bất cứ dân tộc nào”. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã bị tín điều của chủ nghĩa Lênin và sự thành công to lớn của cách mạng Nga khuất phục. Ông cả tin rằng đảng Cộng sản Nga và Quốc tế III sẽ giúp ông đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của chủ nghĩa thực dân; và: chủ nghĩa Xã hội theo học thuyết Marx – Lenin sẽ đem lại áo cơm và vinh quang cho “Người Cùng Khổ”. Ông là người tài giỏi, đầy nhiệt huyết, mưu lược – thủ đoạn và ý chí kiên cường trên con đường đã sai trong bối cảnh nhân loại chia cắt làm hai thế giới kình chống nhau dưới hai chiêu bài: Tự do và Cộng sản”.
    – “Chống xâm lược mà sai sao”?
    – “Chống ngoại xâm chẳng những không sai, mà còn là lý tưởng, là trách nhiệm bức thiết và cao cả của mọi người công dân yêu nước. Nhưng chống đuổi ngoại xâm để rồi thực hiện Chế độ Cộng sản không chỉ là sai lầm nghiêm trọng, mà là tội ác. Vả lại, chống đuổi ngoại xâm bằng sự nhờ cậy và sự điều hướng của các thế lực bên ngoài dưới danh nghĩa Quốc tế III là đưa đất nước vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng nhân loại cũng là một cái sai nghiêm trọng nữa. Sự nhờ cậy dưới chiêu bài “nghĩa vụ quốc tế” đã và sẽ tạo cơ hội cho những tham vọng đế quốc khác còn tàn ác bất nhân hơn đế quốc tư bản…”
    – “Có phải ông đem cái cảm thức của ông lúc này để phê phán cảm thức dẫn đến sự chọn lựa lịch sử của nhà yêu nước vĩ đại gần 50 năm trước?
    – “Kết quả chọn lựa lịch sử của Nguyễn Ái Quốc gần nửa thế kỷ trước đến lúc này đối với chúng ta là một vấn nạn. Độc lập, thống nhất là lý tưởng là khát vọng của dân tộc. Điện Biên Phủ là niềm tự hào đồng thời là món nợ mà dân tộc phải trả. Nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh, Rèn cán chỉnh quân, Cải cách ruộng đất, Cải tạo văn hóa và trí thức, Cải tạo công thương nghiệp trên miền Bắc sau 1954, thảm sát Tết (Mậu Thân. CS) ở Huế là những cảnh báo về một tương lai đen tối của đất nước và dân tộc một khi chiến tranh chấm dứt, chế độ Cộng sản và liên minh công – nông lên ngôi…”