24 tháng 6, 2019

Bài Đặc biệt: ĐƯỜNG CAO TỐC BẮC NAM - SINH LỘ CỦA DÂN TỘC

Phỏng vấn Tiến sĩ Trịnh Định
Phan Văn Thắng thực hiện
 
Văn hóa Nghệ An

Thứ hai, 17 Tháng 6 2019 18:12 



LTS: Hiện nay, dư luận đang rất quan tâm về việc lựa chọn nhà thầu xây dựng đường cao tốc Bắc Nam và tỏ ra rất băn khoăn, lo lắng về sự an nguy của đất nước nếu nhà thầu Trung Quốc trúng thầu thực thi con đường này. Văn hóa Nghệ An xin giới thiệu cùng bạn đọc chia sẻ của Tiến sỹ Trịnh Định đến từ ĐH Quốc gia Hà Nội với nhà báo Phan Văn Thắng về vấn đề này. 

Phan Văn Thắng: Gần đây Việt Nam có chủ trương xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của đường cao tốc này đối với sự phát triển của đất nước? 

Trịnh Định:Ở bất cứ quốc gia nào, hệ thống đường giao thông là tiền đề để công nghiệp hóa, đô thị hóa. Một quốc gia muốn phát triển, việc trước tiên là phải chú trọng phát triển giao thông. Về cơ bản, cho đến nay, hệ thống giao thông chúng ta đang thua rất xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, xét về chủ trương và ý tưởng là đúng đắn, tuy hơi muộn.

Tuy nhiên, khi đề ra chủ trương xây dựng đường cao tốc Bắc Nam cần tính bài toán tổng thể của cơ sở hạ tầng quốc gia, đặc biệt là giải quyết cơ sở hạ tầng giao thông nội đô trong các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không phải là người am hiểu về giao thông nên tôi chỉ có thể chia sẻ từ góc độ lịch sử và hệ quả an ninh, chính trị của nó mà thôi.


Việc xây dựng đường Bắc Nam, hay đường cao tốc Bắc Nam hoàn toàn không giống với việc xây dựng các tuyến đường khác, bởi nói đến chữ Bắc Nam và nói đến đường Bắc Nam, trong tâm thức người Việt, là nói đến câu chuyện con đường biểu tượng, thiêng liêng. Đường Bắc Nam hội tụ nhiều tầng ý nghĩa hơn trong tâm thức người Việt so với bất kỳ con đường nào khác. Đó là con đường lịch sử nhiều nghìn năm, là con đường biểu tượng của sự thống nhất, là con đường trí tuệ, là con đường chất đầy xương máu của rất nhiều thế hệ người Việt Nam trong hành trình mở mang bờ cõi và thống nhất đất nước. Nói về điều này tôi lại nhớ đến trường ca Con đường cái quan của nhạc sĩ Phạm DuyThật là thiêng liêng. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, ở cấp chiến lược, khi đề xuất xây dựng con đường cái quan quốc gia này, cần tư duy và hình dung con đường này khác biệt với tất cả con đường khác, và tính đến tất cả các yếu tố trước khi quyết định phượng án xây dựng, đặc biệt là khâu lựa chọn nhà thầu xây dựng. Bởi suy cho cùng, đó là sinh lộ Việt. Sinh lộ này lại đến từ những nguyên nhân cắc cớ trong lịch sử mà căn nguyên sâu xa là áp lực từ phương Bắc. Lịch sử dân tộc, và lịch sử con đường cái quan Bắc Nam đã cảnh báo chúng ta về việc tư duy và lựa chọn nhà thầu xây dựng con đường này.

Một điểm lưu ý rằng, từ trước tới nay trong tư duy bảo vệ đất nước, chúng ta thường nghĩ đến nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều ngang, do miền Trung hẹp, đường bờ biển dài và trong thực tế chia cắt Bắc Nam đã từng xẩy ra. Tuy nhiên, cần nhìn nhận, nguy cơ mới, nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều dọc của nó, mà theo tôi nghĩ, đang ngày càng hiện hữu.

Phan Văn Thắng: Từ góc nhìn lịch sử, ông nghĩ như thế nào về tính biểu tượng của tuyến đường Bắc Nam của Việt Nam?

Trịnh Định: Như tôi đã nhắc đến ở trên, tuyến đường Bắc Nam của Việt Nam mang tính biểu tượng năng lực thống nhất quốc gia, biểu tượng cho sự độc lập, là lời tuyên bố của sự khác biệt về căn cước và trí tuệ Việt Nam, nó còn là xương máu của cha ông trong nhiều nghìn năm.

Chúng ta nhớ lại lịch sử, để có được đất nước liền một dải, là công lao của biết bao anh hào trong lịch sử dân tộc. So với bất kỳ con đường nào khác, đường vô Nam, đường Bắc - Nam không phải là con đường cơ học như những con đường khác, nó là con đường lịch sử, linh thiêng, là con đường tâm linh, sinh lộ Việt, mất nó hoặc để nó vào tay giặc là đồng nghĩa với việc chúng ta đánh mất những gì thiêng liêng nhất, lại một lần nữa trao nỏ thần vào tay giặc.

Một việc nữa không được phép quên là các nghĩa trang trải dài theo con đường này. Trong những nghĩa trang đó có rất nhiều người con vô tự, họ hi sinh khi còn rất trẻ, quá trẻ trên con đường cái quan này vì dân tộc. Những đoàn người vô tự của đất mẹ Việt chúng ta nằm dọc từ Bắc vào Nam để giữ sinh lộ này cho đất nước. Khi sống họ mở đường, giữ đường quốc thổ; khi ngã xuống họ là thần linh hộ mệnh cho những tuyến đường. Tuyệt đối không để quân thù làm tổn thương những giá trị thiêng liêng đó. Điều này cần phải đặc biệt ghi nhớ.

Nếu lựa chọn nhà thầu  thực hiện cao tốc Bắc Nam không cẩn thận thì không chỉ là rước về nguy cơ bất an mà còn là xúc phạm đến xương cốt và tinh thần của tiền nhân đã hi sinh! Người Việt Nam không cho phép bất cứ ai làm điều đó.

Phan Văn Thắng: Tôi nghĩ là nếu ai đó cố tình làm nhất định sẽ phải trả với giá đắt nhất. Thưa ông, ông có thấy có mối liên hệ nào giữa đường cao tốc Bắc Nam với Vành đai và Con đường  Trung Quốc?

Trịnh Định: Cần phải nói rõ thế này, Việt Nam có vị trí địa chính trị độc nhất vô nhị so với tất cả các quốc gia mà cả Vành đai và Con đường đi qua. Không một nước nào như Việt Nam, là nơi mà tất cả hệ thống trọng điểm cả Vành đai và Con đường đi xuống và tiền đề để tiến tiếp xuống Đông Nam Á, Biển Đông, Ấn Độ Dương. Việt Nam là điểm khởi đầu của con đường Biển - Đảo mà Vân Đồn là điểm đảo đầu tiên của Con đường trên biển. Quảng Ninh -  Lào Cai là điểm đầu tiên của con đường tơ lụa trên bộ đổ xuống. Sông Mê Kông, điểm đến sau cùng cũng là Việt Nam. Và nay, cao tốc Bắc Nam là trọng tâm của Vành đai - Con đường của Trung Quốc.

Không nghi ngờ gì nữa, cùng với chuỗi đảo ở vị trí cực kỳ then chốt của Tổ quốc được người ta định danh đơn giản từ góc độ kinh tế là đặc khu như Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc, đại dự án cơ sở hạ tầng - chính trị cao tốc Bắc Nam Việt Nam sẽ là trọng tâm chiến lược của chiến lượcVành đai - Con đường của Trung Quốc ở Việt Nam. Điều này có nghĩa, dự án này sẽ được cả hệ thống chính trị Trung Quốc đứng đằng sau để bằng mọi giá thắng thầu. Nếu nhìn sâu hơn, Trung Quốc đã ém sau lưng chúng ta ở Lào và Campuchia cũng bằng dự án Vành đai - Con đường. Nếu họ thực hiện điều đó ở Việt Nam và chúng ta lại thông qua luật đặc khu thì có thể hình dung đất nước ta sẽ bị bao vây từ tất cả mọi hướng, mọi phía.

Nếu vậy, tôi nghĩ, nhiều khả năng, Hoa Vi và các công ty công nghệ khác của Trung Quốc cũng sẽ theo sau chân các nhà thầu Trung Quốc để hiện diện một cách khéo léo, lồng vào hệ thống cao tốc của Việt Nam bằng các thiết bị điện tử để theo dõi, thu thập thông tin của chúng ta. Đến lúc đó các thông số kỹ thuật và các thông tin của tuyết đường sinh lộ sẽ không còn là bí mật nữa. Nên nhớ, độ an toàn thông tin của tuyến sinh lộ này có vai trò cực kỳ to lớn với an ninh của quốc gia.

Phan Văn Thắng: Trục Bắc - Nam, cao tốc Bắc Nam có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ với Trung Quốc, trong quá khứ và hiện tại, cũng như tương lai?

Trịnh Định: Nhìn lại lịch sử, ông sẽ thấy, trục Bắc Nam là trục sống của người dân Việt Nam. Có sự cộng hưởng, kết nối, gắn kết của cộng đồng các dân tộc, đặc biệt là có các dân tộc ở miền Trung và miền Nam, chúng ta mới đủ sức chống đỡ sức bành trướng Trung Quốc liên tiếp nhiều nghìn năm trong lịch sử. Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn đã nói:Chúng ta lập quốc nền tảng ở phương Nam (Minh Mệnh chính yếu). Tức là căn cước văn hóa để xác lập và trường trụ trên nền tảng phương Nam, khác với phương Bắc. Và cũng vì có phương Nam, chúng ta mới đủ sức trụ vững cho đến ngày nay, mới đủ sức vượt qua vòng kim cô thế giới Hán hóa để đến với thế giới văn minh. Nếu để Trung Quốc thực hiện đường cao tốc Bắc - Nam, có nghĩa chúng ta phải đối mặt với nguy cơ trở lại với thế giới Hán hóa thêm một lần nữa.

Như mọi người Việt đều biết, dù công khai hay không, một cái nhìn từ biển, Trung Quốc đang chiếm từng đảo của chúng ta đi dọc từ phía Bắc xuống Nam. Tham vọng điểm đến của họ sẽ là Trường Sa và nhiều đảo, cụm đảo khác và xa hơn nữa…. Với họ, không có điểm kết, lòng tham của họ là vô hạn. Điều này chắc không phải bàn cãi.

Còn đi vào đất liền, họ đã phân khúc Việt Nam với những lát cắt theo kiểu chiếc cầu “Nam Hải đại kiều” (cầu lớn Nam Hải) nối Đảo Hải Nam với Hà Tĩnh và những phân khúc dọc miền Trung xuống miền Nam.

Nếu như để nỏ thần trao tay giặc thì có phải là một phát nỏ sẽ chẻ dọc đất nước ta theo phương thẳng đứng từ đỉnh đầu (thủ đô Hà Nội liêng thiêng), dọc xuống miền Trung xương sống và đến tận cùng Nam Việt Nam.

Như vậy, nếu nhìn thẳng, đất nước ta sẽ bị chia làm đôi. Từ trước đến nay, cái chúng ta lo sợ miền Trung hẹp và bờ biển dài nên nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều ngang rất cao. Nhưng chia cắt đất nước theo chiều dọc, chia cắt đất nước làm hai mảng Tây và Đông thì là lần đầu tiên trong lịch sử có một nguy cơ như vậy.

Phan Văn Thắng: Thực ra trong câu chuyện, từ đầu chúng ta đã nói đến chuyện an nguy của đất nước nếu TQ thắng thầu xây dựng cao tốc Bắc Nam. Ở đây tôi muốn chúng ta trao đổi kĩ hơn mà thôi. Thưa ông,sau khi có quyết định xây dựng cao tốc Bắc Nam, như ông biết, có nhiều thông tin về việc triển khai xây dựng nhất là việc lựa chọn nhà thầu. Có thông tin lan truyền về khả năng các nhà thầu TQ sẽ tham gia và trúng thầu vì như một quan chức Bộ GTVT thì “chỉ có các nhà thầu TQ quan tâm” đến công trình quan trọng này. Ông bình luận gì về thông tin này? Nếu điều đó trở thành hiện thực thì lợi và hại sẽ như thế nào?

Trịnh Định: Có chi tiết là, ngay sau khi Việt Nam có thông báo về xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, nhà thầu Trung Quốc đã đến đặt vấn đề, tức là có khả năng họ biết trước thông tin và có sự chuẩn bị sẵn. Ý nghĩa của việc này là gì? Tại sao họ lại là người đầu tiên đến. Việc này dẫn đến nhiều suy tư? Như chúng ta đã biết, Trung Quốc sẽ trả thầu thấp nhất, như vậy rõ ràng các nhà thầu của các nước khác sẽ khó có cơ hội. Với sự nhạy cảm và kinh nghiệm của mình, các nhà thầu có tư cách họ sẽ rất cân nhắc hoặc thậm chí họ muốn tham gia nhưng sẽ không mặn mà hoặc không tham gia, bởi họ sẽ biết chắc rằng Trung Quốc sẽ thắng thầu. Vậy sự hiện diện sớm của nhà thầu Trung Quốc, mang rất nhiều ý nghĩa. Theo tôi, nó có nghĩa tuyên bố với các nhà thầu trên thế giới, miếng mồi này đã thuộc về Trung Quốc, nếu có tham gia vào cũng vô ích mà thôi. Bước đi này, thực sự có tính toán kỹ lưỡng từ không chỉ một bên, nếu bỏ thầu chỉ có một hồ sơ thì khi đó kết quả thế nào mọi người đều biết. Nếu điều đó trở thành hiện thực thì nguy cơ đất nước bị chia cắt theo chiều dọc không còn là nguy cơ, mà nó đang được, đúng hơn là bị, hiện thực hóa. Lúc đó, Sinh lộ  biến thànhtử lộ.

Phan Văn Thắng: Tôi cũng rất lo ngại về nguy cơ này nhưng không quá bi quan như ông. Vì tôi tin vào trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm của người Việt Nam mình không phải là dễ bị lừa. Vả lại, cha ông mình nói rồi, “cha nó lú có chú nó khôn”. Cha con An Dương Vương bị lừa nhưng rồi người Việt vẫn lấy lại được nước đó thôi, dẫu là giá quá đắt. Trở lại, ông có tin là người VN hoàn toàn có thể tự lực xây cao tốc Bắc Nam, con đường huyết mạch của đất nước? Vì sao?

Trịnh Định: Tôi không phải chuyên gia về xây dựng, tôi chỉ nhìn những nguy cơ của nó từ chiều lịch sử và ảnh hưởng và hệ quả chính trị nếu Trung Quốc tham gia xây dựng đường cao tốc. Về cá nhân, tôi tin và mong muốn người Việt chúng ta sẽ chủ động xây dựng sinh lộ cho mình, nếu cần tham vấn hoặc mời thầu thì nên lựa chọn những nhà thầu từ Nhật, Đức, châu Âu hoặc Mỹ....

Tôi tin rằng người Việt hoàn toàn làm được.

Phan Văn Thắng: Tôi lại tin hơn, rằng người VN sẽ không những làm được mà còn làm tốt. Theo ông, cần như thế nào để chúng ta không nằm trong vòng kim cô thế giới Hán hóa mới, vẫn có thể quan hệ bình thường, bình đẳng và không bị phụ thuộc với TQ?

Trịnh Định: Thế giới Hán hóa mới có cái tên chính thức rất mỹ miều là: Vành đai kinh tế con đường tơ lụa và con đường tơ lụa thế kỷ XXI, tức nói tắt là Vành đai - Con đường. Trong đó, dự án cao tốc Bắc - Nam là có thể được coi là đại dự án trọng điểm cơ sở hạ tầng chính trị của Vành đai của Trung Quốc ở Việt Nam.

Để quan hệ bình đẳng, bình thường và không phụ thuộc với tất cả các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, đã có nhiều người nói rồi, tôi chỉ kể một chi tiết từ kinh nghiệm bản thân khi tôi đi ra nước ngoài thôi. Trong các chuyến đi đó, tôi ngộ ra một điều, khi nào mình tự tôn trọng mình, kiên quyết không quỳ gối thì họ sẽ tôn trọng mình. Theo tôi lý lẽ chỉ giản dị như vậy thôi. Nhưng làm được thì lại không dễ. Nên chỉ bằng cách giáo dục con người Việt Nam biết tự tôn trọng mình và không quỳ gốimới có thể làm được diều đó. Đến đây, tôi nhớ đến cụ Phan Chu Trinh và tinh thần vượt thời đại của cụ. Chỉ cần như vậy, đất nước mình, người Việt Nam mình sẽ được tôn trọng. Đây hoàn toàn là câu chuyện nhân cách không phải là câu chuyện tiền bạc.

Trên quan điểm tổng thể, với tư cách là một người dân, tôi đề nghị đến người có quyền lực cao nhất và chỉ người đó mới thấu hiểu điều này, cần quán triệt một nền tảng triết lý trên cơ sở thấu hiểu lịch sử, thấu hiểu tầm quan trọng của con đường, tính đặc biệt, độc đáo và vai trò của con đường Bắc Nam trong tiến trình hình thành quốc gia dân tộc để có một nhận thức sâu sắc và toàn diện về cao tốc Bắc Nam. Nó phải là tuyến đường đi tiếp của truyền thống cha ông, nó là sinh lộ chứ không phải tử lộ, không nên để lực lượng trấn yểm bên ngoài vào phá vỡ long mạch, huyết mạch, sinh lộ truyền thừa từ cha ông để lại.

Tóm lại, chủ trương và ý tưởng của Quốc hội và Chính phủ là đúng đắn. Nhưng cách làm là phải cân nhắc thật thấu đáo, kĩ càng. Phải luôn nhớ đây là con đường biểu tượng cho năng lực thống nhất Tổ quốc nên bắt buộc phải loại bỏ mọi nguy cơ tiềm ẩn từ chính nó.

Phan Văn Thắng: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này. Hi vọng vấn đề này sẽ được nhiều người quan tâm và trao đổi.

  
 Minh họa của Trần Nhương.

23 tháng 6, 2019

CÓ PHẢI TRUNG CỘNG ĐANG Ở THỜI ĐIỂM TAN RÃ? 
FB Nguyễn Quang Duy - Hai triệu người Hồng Kông xuống đường biểu tình chống Dự Luật Dẫn Độ, vào chủ nhật 16/6/2019, cho thấy sách lược “một quốc gia hai thể chế” đã hoàn toàn thất bại, hệ quả có thể là một Trung cộng chia năm xẻ bảy.Trong hình ảnh có thể có: 1 người, văn bản
Vì sao Anh trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh?
Theo Điều Ước Nam Kinh ký năm 1842, nhà Thanh vĩnh viễn nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc.
Sau đó, năm 1860, theo Điều Ứớc Bắc Kinh, lại nhượng vĩnh viễn cho Anh bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu.
Đến năm 1898, Anh Quốc lại thuê đảo Lạn Đầu và một số vùng phía bắc Cửu Long trong vòng 99 năm để lập ra khu Tân Giới.
Năm 1982, Anh Quốc ban đầu định giữ đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long, còn trao trả phần còn lại cho Trung cộng nhưng bị Đặng Tiểu Bình bác bỏ.



Họ Đặng hứa sẽ đối xử với Hồng Kông như một lãnh thổ tự trị, tiếp tục duy trì hệ thống tự do chính trị, pháp lý, kinh tế, tài chính, văn hóa và giáo dục, chỉ ngoại giao và quân sự thuộc quyền kiểm soát của Bắc Kinh.

Lời hứa của họ Đặng được coi là sách lược “một quốc gia hai thể chế”.

Năm 1984, Tuyên bố chung Trung-Anh ra đời, Hồng Kông trở thành đặc khu hành chính thuộc Trung cộng, nhưng duy trì phương thức sinh hoạt tự trị trong ít nhất là 50 năm.

Phía Anh Quốc tin vào lời hứa, và nghĩ rằng sau cải cách kinh tế Trung cộng sẽ tiến hành cải cách chính trị, như tiến trình dân chủ hóa tại Đài Loan và Nam Hàn, nhưng điều này đã không hề xảy ra.

Ngày 4/6/1989, Trung cộng nổ súng tàn sát Phong Trào dânchủ tại Thiên An Môn.

Năm 1990, mặc dù bị Bắc Kinh phản đối, Thống đốc Chris Patten đã phê chuẩn Bộ Luật Cơ bản và cải cách phương pháp bầu cử vào Hội Đồng Lập Pháp Hồng Kông.

Chuyển giao êm thắm

Trước đây, Thống đốc Hồng Kông được Nữ Hoàng Anh bổ nhiệm, nhưng cư dân Hồng Kông có cuộc sống hoàn toàn tự do.

Luật pháp Hồng Kông được xây dựng dựa trên Luật pháp Anh, mọi quyền tự do đều được bảo đảm.

Hồng Kông là một thương cảng tự do và mở cửa hấp thu tư tưởng từ khắp nơi trên thế giới.

Kết quả chuyển giao tốt hơn mọi dự đoán, tới ngày trao trả, 1/7/1997, chỉ hơn 10% cư dân rời bỏ Hồng Kông, và sau đó không xảy ra một làn sóng thuyền nhân chạy trốn cộng sản như trường hợp Việt Nam.

Thời gian đầu, sinh hoạt chính trị Hồng Kông có phần cởi mở. Nhưng càng ngày mọi sinh hoạt chính trị càng bị kiểm soát và bị lèo lái bởi Bắc Kinh, làm dân Hồng Kông lo ngại các quyền tự do căn bản của họ sẽ bị Bắc Kinh tước đoạt dần dần.

Năm 2003, nửa triệu người tham gia biểu tình tuần hành phản đối Dự Luật An Ninh “chống lật đổ chính quyền” do Đặc Khu Trưởng Đổng Kiến Hoa (Tung Chee hwa) đề nghị.

Người biểu tình lo ngại Dự Luật này sẽ tước đi quyền tự do biểu lộ chính kiến, tự do ngôn luận và cả tự do tôn giáo, buộc Đổng Kiến Hoa phải hủy bỏ và sau đó từ chức.

Thời đại Tập Cận Bình.

Đầu năm 2014, Quốc hội Trung cộng tuyên bố đặc khu trưởng Hồng Kông sẽ do 1,200 đại cử tri đoàn bầu, và phải được Bắc Kinh bổ nhiệm.

Một cuộc trưng cầu dân ý trên mạng được mở ra đòi người Hồng Kông được quyền trực tiếp bầu Đặc Khu Trưởng. Trong ba ngày đã có gần 600 ngàn người tham dự ký tên.

Phong trào mở thêm 15 phòng bỏ phiếu với kết quả 787 ngàn người bỏ phiếu trong số 3.5 triệu người có quyền đi bầu.

Sau đó Phong Trào Dù Vàng dấy lên cuộc biểu tình đòi tự do bầu cử, làm tê liệt Hồng Kông trong vòng hai tháng, nhưng Tập Cận Bình dứt khoát không chấp nhận.

Năm 2017, bà Carrie Lam được bổ nhiệm làm Đặc Khu Trưởng, vào tháng 11/2018, bà đã cùng Ban cố vấn bay sang Bắc Kinh để gặp Tập Cận Bình.

Theo tin Tân Hoa Xã, ông Tập cho biết Hồng Kông phải ban hành các đạo luật an ninh quốc gia chống lại nổi loạn, lật đổ, ly khai và phản quốc.

Dự luật dẫn độ.

Nhân vụ án giết người ở Đài Loan nhưng thủ phạm lại bỏ trốn về Hồng Kông, bà Carrie Lam đề nghị Dự Luật Dẫn Độ cho phép đặc khu trưởng ký chấp nhận yêu cầu dẫn độ sang Đài Loan và Trung cộng, mà không cần thông qua Hội Đồng Lập Pháp.

Có ý kiến cho rằng nên gia tăng quyền tư pháp để những vụ án xảy ra bên ngoài Hồng Kông có thể được xử bởi tòa án Hồng Kông.

Chính phủ Đài Loan công khai biểu lộ lo lắng về quyền tự do của người Hồng Kông bị lạm dụng nên không đòi hỏi và cũng không chấp nhận việc dẫn độ về Đài Loan.

Bà Carrie Lam từ chối mọi đề nghị, làm dấy lên dư luận Trung cộng lợi dụng vai trò của đặc khu trưởng để giới hạn dần quyền tự do người Hồng Kông, họ lo sợ bị ghép tội, bị bắt bớ và bị xử không công bằng như vẫn thường xảy ra ở Trung cộng.

Mỹ can thiệp?

Thủ Tướng Anh Quốc, Theresa May, đã lên tiếng phản đối dự luật dẫn độ và tuyên bố sẽ xem xét lại Tuyên Bố Chung Anh-Trung năm 1984.

Năm 1992, Quốc Hội Mỹ thông qua Đạo luật Chính Sách Mỹ cho Hồng Kông một quy chế đặc biệt tự do và tự trị tách biệt khỏi Trung cộng.

Nhờ thế, Hồng Kông tiếp tục được chuyển giao kỹ nghệ tiên tiến, tự do thương mãi, tự do trao đổi giữa đô la Mỹ và đô la Hồng Kông, công nhận là trung tâm tài chính thế giới…

Đạo luật cũng trao cho tổng thống Mỹ quyền ban hành sắc lệnh trừng phạt nếu Hồng Kông mất quyền tự trị đầy đủ theo các điều khoản trong Tuyên Bố Chung 1984.

Trong hoàn cảnh hiện nay, một sắc lệnh như thế sẽ ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, kỹ nghệ và tài chính Trung cộng vốn đang trên đà tụt dốc.

Mọi hàng hóa từ Hồng Kông xuất cảng sang Mỹ sẽ bị cùng một mức thuế như hàng Trung cộng.

Trung cộng sẽ mất trung tâm tài chính Hồng Kông, vốn đầu tư sẽ bị rút khỏi Hồng Kông, các công ty Trung cộng sẽ bị phong tỏa tài chính từ nguồn tư bản của Mỹ và giá trị của các công ty nhà nước niêm yết trên sàn trao đổi chứng khoán của Hồng Kông sẽ sụt giảm thảm hại.

Ngày 12/6/2019, Quốc Hội Mỹ cho tu chính đạo luật về Hồng Kông năm 1992, yêu cầu Bộ Ngoại Giao mỗi sáu tháng phải phúc trình Quốc Hội về tình trạng tự trị của Hồng Kông, xem còn đáng hưởng quy chế đặc biệt nữa không.

Biểu tình, bài học cần rút tỉa…

Ngày 14/6/2019, từ trung tâm giam giữ Lục Chi Giác, Joshua Wong kêu gọi Mỹ phải đánh giá lại Đạo Luật Chính Sách Hồng Kông năm 1992, xem xét Đạo Luật Nhân Quyền và Dân Chủ Hồng Kông và điều chỉnh quan hệ giữa hai bên Mỹ-Trung.

Dân chúng Hồng Kông đều biết nếu Mỹ phong tỏa kinh tế Trung cộng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, nhưng vì tự do và dân chủ họ chịu hy sinh quyền lợi nên đã kêu gọi Chính Phủ và Quốc Hội Mỹ hành động.

Mọi người tham dự biểu tình có mục tiêu chung là phản đối dự luật dẫn độ, đòi bảo đảm quyền tự do và đòi bà Carrie Lam từ chức.

Mọi người quyết giữ những mục tiêu này và không cho bất cứ ai đại diện thương lượng hay tìm cách chia rẽ hàng ngũ để tránh "việc chưa thành đã tranh giành kết quả."

Cuộc tuần hành lên đến 2 triệu người, không có người tổ chức nhưng lại được tổ chức một cách toàn hảo nhờ ý thức trách nhiệm của mọi người.

Họ tự động sửa soạn mọi thứ, thay vì dựa vào người khởi xướng, tổ chức hay lãnh đạo và liên kết gắn bó với nhau.

Mọi người nhịp nhàng kết hợp giữa đấu tranh ôn hòa và đấu tranh bạo lực, không tranh cãi về phương cách đấu tranh.

Khi cảnh sát tấn công đàn áp, người ôn hòa rút xuống phía dưới, nhường chỗ cho những thanh niên sẵn sàng đối đầu ngăn chặn cảnh sát.

Lực lượng cảnh sát ít lại bị chia mỏng so với số người biểu tình, và với sự hổ trợ của truyền thông báo chí, của những người không đi biểu tình nên kết quả nhà cầm quyền phải thối lui.

Mặc dù bà Carrie Lam đã xin lỗi và tuyên bố hoãn dự luật dẫn độ nhưng mọi người tiếp tục đòi bà phải từ chức và kêu gọi tiếp tục biểu tình làm áp lực.

Nếu bà Carrie Lam từ chức thì sẽ là một thất bại vô cùng to lớn của Tập Cận Bình trước các đối thủ trong đảng cộng sản và trước thế giới, vì thế họ Tập sẽ không chấp nhận, ngay cả khi bà Carrie Lam thực sự muốn từ chức.

Trung cộng đang tan rã?

Tập Cận Bình vừa ngon ngọt “một quốc gia, hai thể chế” với Đài Loan, lại vừa hăm dọa sẽ sử dụng vũ lực để thống nhất đất nước.

Tổng Thống Đài Loan Thái Anh Văn tuyên bố Đài Loan ủng hộ Hồng Kông, bà cho biết:

“Tự do là một giá trị mà người dân Đài Loan trân trọng, Đài Loan đang ngày càng tự do dân chủ hơn, trong khi Hồng Kông đang mất dần tự do…”

Chủ nhật vừa qua, trước Quốc Hội Đài Loan, khoảng 10 ngàn người biểu tình mang theo biểu ngữ “Đài Loan ủng hộ Hồng Kông”, “Nói không với luật dẫn độ sang Trung cộng” và kêu gọi Quốc Hội chính thức ra tuyên bố lên án Dự Luật Dẫn Độ của Hồng Kông.

Gần đây, Mỹ thông qua “Đạo Luật Bảo Đảm Đài Loan 2019”, ủng hộ Đài Loan tăng chi tiêu quốc phòng, thường xuyên bán vũ khí, dụng cụ quốc phòng cho Đài Loan, ủng hộ Đài Bắc tham gia các tổ chức quốc tế, nhìn nhận Đài Loan là quốc gia và sử dụng Quốc kỳ Đài Loan.

Lời hứa “một quốc gia, hai thể chế” không được thực hiện nên Hoa Kỳ cũng đang từng bước nhìn nhận lại Đài Loan và Hồng Kông như hai thể chế độc lập.

Nhà Thanh đã nhường vĩnh viễn đảo Hồng Kông, bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu cho Anh Quốc, nên nhiều người Hồng Kông muốn thành phố của họ quay về với nước Anh và được độc lập với Trung cộng.

Thế giới cũng đang rất quan tâm đến hàng triệu người Tân Cương đang bị giam trong các trại tù "tập trung cải tạo" ở Trung cộng.

Tình hình an ninh và chính trị Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và nhiều nơi khác cũng không được ổn định, vì thế Bắc Kinh phải thiết lập cả hệ thống an ninh dùng kỹ nghệ tối tân để kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát ý thức chính trị của người dân.

Quốc Hội Mỹ hiện đang xem xét việc chế tài các công ty cộng tác với Bắc Kinh trong việc đàn áp nhân quyền.

Tiến trình sụp đổ nhanh chóng của Đông Âu và Liên Xô trước đây dường như đang tái diễn.

Các tiền đồn cuối cùng của Xã Hội Chủ Nghĩa bao gồm Trung cộng, Bắc Hàn, Việt Nam,… đang bộc lộ những khủng hoảng khó có thể thoát qua.

Hồng Kông, Đài Loan, Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông… sẽ đứng lên giành lại tự do và độc lập.

Việt Nam sẽ thoát khỏi sự thống trị tàn ác của đảng cộng sản Việt Nam, và thế giới sẽ thanh bình, thoát khỏi ác mộng bá chủ toàn cầu của Tập Cận Bình và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
19/6/2019

8 tháng 6, 2019

Hai bài viết có tính dự báo của KTS Trần Thanh Vân 

Bài 1
Thâm Quyến là nơi nào và Phạm Minh Chính là kẻ nào?
3-7-2018
Có hai sinh viên (một nam một nữ) ở lớp Quy hoạch thuộc Khoa Kiến trúc khóa 1961 – 1966, Trường Đại học Đồng Tế thành phố Thượng Hải, là Quách Nhữ Trân và Vương Đồng Hội, sau một thời gian dài đi làm Hồng vệ binh để đập phá hò hét, do “cải tạo tốt”, họ đã may mắn được phân công công tác.
Họ được điều về một vùng bãi biển làng chài thuộc tỉnh Quảng Đông, cách thành phố Hồng Kông con sông Thâm Quyến, dân cư lúc đó có khoảng 30.000 dân. Họ được giao nhiệm vụ lập đồ án Quy hoạch một thành phố mới, có tên là Thâm Quyến.
Thâm Quyến năm 1964
Đây là một nhiệm vụ chính trị mà ông Đặng Tiểu Bình, lãnh tụ tối cao của ĐCS Trung Quốc lúc đó đề ra là: Quyết tâm xây dựng một Hồng Kông của TQ. Đặng Tiểu Bình cay cú vì thời kỳ CMVH, chính ông ta cũng bị vô hiệu hóa và Mao Trạch Đông đã để cho bà vợ văn công Giang Thanh lãnh đạo bè lũ 4 tên lộng hành, phá nát cả đất nước Trung Hoa. Nhiều người dân lục địa, kể cả người Thượng Hải đã phải bỏ quê hương, tìm đường sang Hồng Kông lánh nạn.
Cay cú, họ cho hai sinh viên QH học chưa xong về vùng chài này vẽ một đồ án quy hoạch trên một vùng đất gần như trống. Những ngày đầu gian nan ấy, hai Hồng vệ binh học chưa đến đầu đến đũa phải vừa học vừa làm và quân đội phải nhảy vào thi công xây dựng… Hồng Kong có những ngôi nhà chọc trời, họ cũng phải có những ngôi nhà chọc trời đối phó với Hồng Kong.
Nhưng đâu có dễ, mãi đến ngoài năm 1990, nhà nước TQ phải cử các đoàn sang Mỹ học từ đầu và phải tổ chức các cuộc thi quốc tế, gồm Mỹ, Nhật, Hồng Kong, Singapore… Người Mỹ và người Nhật đã trúng thầu những khu quan trọng nhất, như khu Trung tâm Phúc Điền, như quy hoạch Núi Liên Hoa, thì tình hình mới tạm ổn định. Có quy hoạch rồi, nhưng khó là có tiền để xây dựng hay không?
Ông Đặng Tiểu Bình với đầu óc cách tân từ năm 1920 khi bước chân lên tàu đến thành phố Marseille nước Pháp du học, rồi sang Nga, rồi thấm nhuần chủ nghĩa Marx – lê. Ông xứng đáng là lãnh tụ đứng đầu nước Trung Hoa, ông có khả năng làm những việc kinh thiên động địa, không chỉ dồn toàn thể nhân tài vật lực của cả TQ đầu tư TP Thâm Quyến sánh với Hồng Kong, ông còn có thể chỉ huy vụ thảm sát Thiên An môn khủng khiếp, và thâm hiểm hơn cả, ông đã vạch nhiều kế hoạch thâm sâu để nuốt đất nước VN.
Thế nên, khi Đặng Tiểu Bình mất đi thì Thâm Quyến đã thành công và trở thành miếng mồi cho nhiều kẻ ngu xuẩn VN nằm mộng giấc mộng Trung Hoa.
Thực ra Thâm Quyến có đáng gọi là “Giấc mộng Trung Hoa” hay không? Ngày nay Thâm Quyến là thành phố có 12 triệu dân từ nơi khác đến, nhưng đời sống dân cư thì cũng như mọi nơi khác của TQ thôi.
Xin mời xem những hình ảnh sau đây. Trung Quốc đã cố gắng xây 4 đặc khu Kinh tế khác, nhưng có thành công đâu. Chẳng nhẽ có ai đó cãi lại là hình ảnh này là người Trung Quốc ở thành phố khác, chứ không phải người Thâm Quyến?
Đời sống thực của dân Thâm Quyến hiện nay khi TP đã có 12 triệu người.
Thâm quyến “thành công” chỉ thấy đèn và nhà cao tầng.
Khi đó, Thâm Quyến vẫn là một làng chài nghèo với khoảng 30.000 dân. Giờ đây, Thâm Quyến là một siêu đô thị với 12 triệu dân, hơn 1.000 tòa nhà cao tầng, trong đó ít nhất 169 tòa cao trên 150 m. Không có gì bất ngờ khi mùi hương đồng cỏ mà ông Houng ngửi được năm ấy đã được thay thế bằng mùi của các cao ốc văn phòng và cửa hàng đắt tiền.
Phạm Minh Chính nghe nói học ngành xây dựng ở Romani về, tài năng thì chẳng có, chơi bời là chính, nhưng được cái nhanh nhạy láu cá, lại nịnh hót giỏi, được lòng quan trên, nên có người trợ giúp, anh ta cứ lên vù vù.
Nghề được đào tạo thì ông ta chỉ là anh kỹ sư xây dựng tốt nghiệp năm 1985, nhưng không biết học từ bao giờ mà lại có bằng Tiến sĩ và hàm Giáo sư về Luật học dễ dàng? Đã thế ông ta từng là cán bộ Bộ Ngoại giao và cũng có cả các chức tước tại Văn phòng Chính phủ. Đặc biệt chui được vào ngành công an chứ không học ngành an ninh mà được phong tướng cũng rất nhanh.
Năm 2007 được lên Thiếu tướng và 2010 đã lên Ttrung tướng và được phong Thứ trưởng Bộ công an, không rõ ông này có công gì, tài cán gì, mà lên hàm nhanh như vậy? Nhưng tài năng xuất sắc nhất của ông Phạm Minh Chính này là bắt đầu từ năm 2011, khi ông ta được trúng UVTWĐ khóa 11, ông ta về làm Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh, thì ông ta bắt đầu kề vai sát cánh với Trung Quốc xây dựng Đặc khu Kinh tế Vân Đồn.
Website của Trung tâm nghiên cứu Đặc khu Kinh tế Trung Quốc thuộc Trường Đại học Thâm Quyến, ngày 14/3/2013 đăng tin: ngày 19/1/2013, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã mời 5 chuyên gia của Trung Quốc, trong đó có bà GS Đào Nhất Đào sang Quảng Ninh dự Hội thảo khoa học về Đặc khu Kinh tế, các hình ảnh Ông Phạm Minh Chính và bà Đào Nhất Đào kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng Đặc khu Kinh tế Vân Đồn.
.
Phạm Minh Chính, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, gặp bà Đào Nhất Đào ngày 19/1/2013, là ngày TQ chiếm Hoàng   Sa. Ảnh: ĐH Thâm Quyến.
Phạm Minh Chính (thứ 3 từ phải sang) và những người trong phái đoàn TQ gặp nhau ngày 19/1/2013. Ảnh: ĐH Thâm Quyến.
  
Nguyễn Văn Đọc (thứ tư từ phải sang), Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, gặp phái đoàn TQ ngày 19/1/2013. Ảnh: ĐH Thâm quyến
Báo Quảng Ninh của cơ quan Tỉnh ủy Quảng Ninh, ngày 19/3/2014 cũng đăng một bài phỏng vấn bà GS Đào về Khả năng có thể thành Đặc khu Kinh tế của Khu vực Vân Đồn… Khả năng gì? Tại sao lại lấy Thâm Quyến làm tấm gương cho Vân Đồn noi theo?
Như tôi đã nói ở trên, Đặc khu kinh tế Thâm Quyến là ý chí chính trị của Đặng Tiểu Bình từ những năm 70 của thế kỷ trước, thực chất làng chài bên bờ sông Thâm Quyến cạnh Hồng Kông không có chút tiềm năng gì cả. Họ chỉ quyết tâm xây nhiều nhà chọc trời và đưa công nghệ ở chỗ khác đến, di dân ở chỗ khác đến mà thôi.
Thâm Quyến nằm cạnh Hồng Kông. Ảnh: Google map
Vậy Vân Đồn có gì? Và tại sao họ lại mang kinh nghiệm và hình ảnh như Thâm Quyến đến đây? Vân Đồn không có gì cả ngoài du lịch. Mà Du lịch thì không cần nhà chọc trời.
Vân Đồn lại là một khu quân sự. Mà Quân sự thì không thể giao cho người nước ngoài đầu tư. Thế mà hôm nay, luật đầu tư chưa được thông qua mà Pano giới thiệu quy hoạch Đặc khu Kinh tế Vân Đồn đã làm xong và đã quảng cáo khắp nơi rồi. Rõ ràng quy hoạch này do TQ làm để TQ thực hiện?
Mất Vân Đồn là mất Vịnh Hạ Long, là mất nước. Thưa ông Trung tướng Phạm Minh Chính, ông có hiểu điều đó không? Chắc ông có hiểu, ông rất hiểu.
Nhưng ông vẫn làm, vì ông đã thực sự đã là tay sai của TQ mất rồi, khi ông đã là UVBCT, đã làm Trưởng ban Tổ chức TW, ông đã tiếp tay cho bọn bán nước làm hai đặc khu Kinh tế nữa là Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Tôi không cần nói dài, hai địa điểm đó cũng rất quan trọng về quân sự, nhưng Trung Quốc đang biến nó thành các ổ cờ bạc đĩ điếm.
Chỉ vì ông quá tinh ranh nên ông vẫn che mắt được thế gian đấy thôi. Hơn nữa, cũng có thể có người biết rõ hết rồi, nhưng chưa đến lúc quật lại ông đấy ông tướng ạ. Nhưng ông tướng ơi, Trời có mắt và rất công bằng.
Tôi xin tiết lộ với ông tôi có khả năng nhìn thấu tim gan ông đó. Ông có muốn biết khả năng của tôi không? Xin kể: Sáng ngày 1/7/2013, tại phòng khách của UBND tỉnh Yên Bái, tôi được ông Phạm Duy Cường, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái tiếp. Tôi gặp ông ta, với thiện chí khuyên ông ta đôi điều.
Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một đám mây đen bay qua trán ông ta.
Tôi dừng lại hỏi:
– Anh Cường ơi, anh sinh năm nào?
– Tôi sinh năm 1958 chị ạ.
– 1958?
Tuổi Mậu Tuất?
– Chó ăn giữa chợ? Anh tinh khôn nhanh nhạy lắm: Đớp đâu trúng đấy, đánh đâu thắng đấy. Nhưng hãy cẩn thận. Sẽ có lúc anh bị cái gậy phang vào đầu… tôi khuyên anh…
Tôi không ngờ, vừa leo lên Bí thư Tỉnh ủy thì ông ta ăn đạn chết tươi. Còn ông, thưa ông Trung tướng? Ông sinh ngày 22 Tháng Chạp năm Dậu, tức là đã sang tuổi Mậu Tuất được gần hai tháng rồi. Ông không những tinh khôn mà còn phản chủ nữa. Nhìn khóe môi của ông là tôi thấy điều đó.
Tôi khuyên ông hãy mau mau sám hối đi. Với bản chất tinh khôn, ông thừa sức lập công chuộc tội. Công gì và tội gì ông tự biểt. Nếu ông thực tâm sám hối, đại họa sẽ qua. Bằng không, đại họa khó tránh lắm đó ông ạ.
Tôi thành thật khuyên ông, còn người đàn bà trong nhóm tội phạm bán nước với ông là bà Nguyễn Thị Kim Ngân thì đã đến lúc mạt vận rồi.
T.T.V.
Bài 2:

Viết trong những ngày đất nước đang chuyển mình
30-4-2019
Tôi không phải là nhà chính trị, cũng không phải là một fortune teller, nhưng với những năm tháng từng trải của mình, tôi hiểu sâu sắc rằng, đất nước VN đang ở trong những ngày biến động dữ dội, nhưng mỗi ngày một sáng sủa hơn.
Đại gia đình tôi đã trải qua 72 năm và có ít nhất 3 thế hệ sống trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thành lập ngày 2/9/1945 và đến hôm nay là những ngày cuối cùng của Cộng hòa XHCN Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo. Nhìn vào những biến động của đại gia đình mình trong 72 năm qua, tôi “nhìn thấy” sự biến động của đất nước và tôi tin chắc rằng mọi thứ đang được phát triển theo một quy luật mà không thế lực nào cưỡng nổi.
Thế hệ thứ nhất
Năm 1945, cha tôi là một thanh niên 30 tuổi, đầy lòng yêu nước, ngây thơ và hăm hở theo Việt Minh rồi trở thành Đội viên Đội tự vệ Hoàng Diệu từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Cha trở thành công an mật Hà Nội năm 1947, được kết nạp vào ĐCS năm 1948, rồi lên chiến khu Việt Bắc, rồi trở về Hà Nội ngày giải phóng Thủ đô năm 1954…
Khi cha tôi mất năm 2002, cụ vẫn là một cán bộ cách mạng lão thành, sống kham khổ, trong sạch và khi nhắm mắt xuôi tay, cha mãn nguyện ra đi vì đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Tôi thương cha, đến phút chót cuộc đời, cha không hiểu hết con đường cách mạng của mình đúng sai ở chỗ nào?
Cậu ruột, em trai thứ 3 của mẹ tôi thì khác hẳn. Là một thanh niên học sinh yêu nước của trường Bưởi Hà Nội, cậu tôi rủ các bạn cùng trường, đi quyên góp gạo tiền, nấu cháo phát chẩn cho bà con nghèo đói ở các làng quê, nạn nhân của nạn đói 1945… Nhưng cậu tôi không theo Việt Minh, ông và các bạn ông hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Trần Trọng Kim, khi Chính phủ Trần Trọng Kim bị Việt Minh đánh đổ, cậu tôi bị Việt Minh bắt giam và bị giết chết.
Thế hệ thứ hai
Chồng tôi và tôi cùng lớn lên trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Khác với tôi, chồng tôi luôn tỏ ra là một người sống có kỷ luật, ngoan ngoãn và trung thành với chế độ. Chồng tôi được kết nạp vào ĐCS năm 1961, ông được tổ chức cơ quan và chính quyền nhà nước cưng chiều, được cử sang Anh tu nghiệp tiếng Anh năm 1979, sang Hà Lan, sang Nhật học tập về Quy hoạch quản lý kinh tế. Ông được Ủy ban Hợp tác kinh tế đối ngoại của Chính phủ phân công phụ trách khối Bắc Âu, đã từng có quan hệ thân tình với Thụy Điển, là khách quý được cố Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme mời tới nhà riêng ăn cơm chiều…
Đã đặt chân tới hơn 40 nước phi XHCN, chồng tôi có dịp tiếp cận, kết bạn và tìm hiểu khá kỹ về “chế độ tư bản giẫy chết”, ông từng cố gắng mang những hiểu biết của mình, thuyết phục, phân tích cho các quan chức cùng thời. Có người ủng hộ và muốn làm cuộc cải cách, như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ, nhưng các vị đó suy nghĩ nhiều mà chẳng làm được việc gì.
Khi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bị ám hại qua đời, chồng tôi hiểu rằng mọi cố gắng chưa hợp thời đều bị thất bại; ông về hưu năm 2000, bỏ ĐCS, ông ở nhà nuôi dạy thằng Út, hy vọng thằng con lớn lên sẽ không bỏ phí cuộc đời như cha nó.
Khác hẳn với chồng, tôi ngang bướng và rất “vô kỷ luật”, tốt nghiệp kiến trúc tại Thượng Hải năm 1966, theo học “The International Post-Granduate Training Course on Ecosystem Management” ở Dresden năm 1980-81. Trở về nước, tôi chỉ chăm lo công tác chuyên môn là nghiên cứu kiến trúc cảnh quan, bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về Phong thủy. Tôi từ chối mọi cơ hội được đề bạt thăng chức, tôi không nộp đơn xin vào ĐCS và năm 1992, tôi nằng nặc đòi nghỉ hưu khi mới 51 tuổi.
Từ ngày được sống cuộc đời tự do, tôi lập công ty tư nhân, tự đi kiếm việc làm thuê để nuôi sống bản thân và gia đình, tôi bắt đầu quan tâm đến xã hội xung quanh và vận mệnh đất nước.
Càng hiểu sâu về Phong thủy, tôi càng khao khát cơ hội được phục hồi HÀO KHÍ THĂNG LONG của các triều đại Lý, Trần, Lê, khi xưa. Tôi bắt đầu quan tâm và không ngần ngai hiểm nguy, tôi lên tiếng ngăn cản Dư án Thủy cung Thăng Long ở Bán đảo Tây Hồ năm 1998, lần đầu tiên có một quan chức cao cấp là Phó TT Ngô Xuân Lộc mất chức và có kẻ vào tù.
Thế hệ thứ ba
Chồng tôi bị trọng bệnh và qua đời cuối năm 2012. Còn lại một mình, tôi bán nhà và cho thằng Út theo học Trường quốc tế tại Hà Nội rồi đi du học tại Vương quốc Anh từ năm 2017. Trong 7 năm theo học tại trường quốc tế song ngữ Hanoi Academy, con tôi được tiếp xúc với các thầy cô giáo quốc tế, với khẩu hiệu “Becoming a Global Citizen” in trên trang phục, tôi muốn đứa con nhỏ được lớn lên trong bầu không khí lành mạnh, được thoát khỏi mọi kỷ niệm đau buồn mà gia đình đã trải qua.
Thỉnh thoảng nhà trường tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, các cháu quyên góp quần áo, sách vở và dụng cụ học tập trợ giúp những học sinh kém may mắn ở vùng cao, vùng xa… nên đến khi nộp hồ sơ để đi du học, thầy giáo quốc tế hỏi cháu muốn chọn ngành gì? Cháu trả lời: Nghiên cứu Tâm lý Xã hội. Hỏi tại sao? Cháu nói: Nhiều người cần giúp đỡ quá, phải hiểu họ thì mới giúp họ được. Thầy giáo chủ nhiệm người Mỹ nói với tôi rằng đó là câu trả lời nghiêm túc của một một đứa trẻ sống có trách nhiệm. Và tôi hoàn toàn yên tâm, tiễn con ra đi. Ở xa, vài ngày cháu lại gọi về động viên mẹ ăn ngủ điều độ và đừng làm việc quá sức.
Tôi không làm việc quá sức. Tôi biết điều tiết bản thân và giữ gìn sức khỏe. Ở nhà một mình, tôi rảnh rang theo dõi mọi biến động của xã hội. Đến nay, đã có hàng chục, hàng trăm và hàng ngàn dự án chiếm đất làm giàu của rất nhiều tập đoàn bất động sản trên khắp đất nước. Và đến nay tôi hiểu sâu sắc rằng sự suy thoái xã hội đã đến bước trầm trọng, không ai cứu vãn nổi nữa.
Mặt khác, tôi cũng nhận ra nền tảng xã hội đang chuyển mình rõ rệt và mỗi ngày một rõ rệt hơn. Các lệnh cấm đoán, bắt bớ tù đày không ngăn cản được lòng dân suy nghĩ và nói lên mọi suy nghĩ của mình.
Nếu 20 năm trước, một nhóm KTS chúng tôi có thể ngăn chặn một Dự án Thủy cung Thăng Long tội lỗi và đánh đổ ông Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc, thì hôm nay có nhiều Thủy Cung Thăng Long khác tội lỗi hơn và trong số đó có một đệ tử gần gũi của ông Ngô Xuân Lộc khi xưa, là ông Đinh La Thăng, Ủy viên BCT cùng một lũ đầu trâu mặt ngựa đã phá nát và đục khoét đất nước mà công chúng mong mỏi làm sao có được một Bao Công tái thế” để chống lại lũ cuồng tiền bạc đó, nên họ hướng về cái lò lửa được nhen lên từ ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước mà họ sốt sắng mệnh danh cho là công cuộc “đốt lò vĩ đại” của cụ Tổng Chủ.
Thử hỏi, trong tất cả những kẻ đã bị ném vào lò của cụ Tổng Chủ, có kẻ nào bị oan uổng không? Không có kẻ nào oan uổng cả. Nhưng tôi e rằng, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước sẽ không có đủ lò để đốt hết lũ sâu mọt chúng nó đâu, bởi vì lũ sâu mọt kia là sản phẩm của cơ chế XHCN mà ông là thủ lĩnh. Mỗi ngày lại xuất hiện thêm nhiều kẻ độc ác tham lam, khốn nạn hơn, bọn đó không chỉ đáng ném vào lò, mà cần phải bị tru di tam tộc.
Có lần tôi đã viết thư gửi cho ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước, xin ông đừng nghĩ tôi không phải đảng viên cộng sản thì tôi chống đảng. Cha tôi, chồng tôi từng là những ĐVCS ưu tú, từng sống trong sạch tận tụy vì lợi ích của đất nước… nhưmg thời đó qua rồi. Còn ông, tôi khuyên ông tự giải tán Đảng Cộng sản trước khi bị nhân dân lật đổ.
Năm 2018, bà Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân quăng các bản hồ sơ Đặc khu kinh tế lên bàn hội nghị Quốc hội, ép Quốc hội thông qua Luật Đặc khu với lời tuyên bố tỉnh bơ “Bộ Chính trị đã quyết”, nhưng cuối cùng Luật đặc khu đã bị ngăn lại. Công của ai, tội của ai tôi không tiện bàn, tôi chỉ khẳng định công lý đã thắng thế và trong giới chóp bu cộng sản, có người đã tỉnh ngộ.
Cũng như vấn đề Biển Đông sôi động nhiều chục năm qua, khiến cả nước căm hờn, phẫn nộ, khi người “bạn vàng”, “thân thiết như môi với răng” của VN ta xưng xưng nói rằng, Biển Đông của ta là Biển Hoa Nam của họ. Nhưng xin chớ bi quan, cho đến hôm nay, quan hệ hợp tác về quốc phòng giữa VN và Hoa Kỳ đã là Hợp tác chiến lược toàn diện. Vào những ngày ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước lâm bệnh nặng, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương đến thăm Việt Nam, đã được VN đón tiếp nồng hậu; cũng như khi đoàn nghi sĩ Thượng viện Hoa Kỳ do Thượng nghĩ sĩ Patrick Leahy dẫn đầu đến thăm VN, họ đã được VN đón tiếp thân tình, kể cả việc họ được đến thăm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị Thiền sư nổi tiếng thế giới có lúc đã bị giới chóp bu CS coi như kẻ bán nước.
Và vài tháng nữa thôi, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước hoặc người đại diện cho ông sẽ đi thăm Hoa Kỳ. Chắc chắn sẽ có nhiều văn bản hợp tác về kinh tế và các vấn đề hệ trọng khác về hợp tác khai thác dầu khí và bảo vệ Biển Đông sẽ được ký kết.
Tóm lại, tôi không quan tâm lắm về bệnh tình của ông TBT-CTN ốm đau ra sao, ông có bị ai ám hại hay không, ở trong một chính đảng đã đến thời suy thoái, lại ở sát sườn với một thằng bạn xấu sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mình, thì tôi hiểu rằng bị kẻ xấu rình rập ám hại và mỗi người phải trả giá cho những sai lầm của đời mình là dễ hiểu.
Có điều tôi biết chắc chắn rằng, đã đến lúc Đảng Cộng sản sẽ phải tự giải tán, chế độ độc tài sẽ phải tự thủ tiêu và năm bảy năm nữa khi lứa tuổi trẻ như con tôi trở về, chúng sẽ có đủ trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết điều hành đất nước.
Quy luật tất yếu đó sẽ không một ai, không một sức mạnh nào ngăn cản được.
T.T.V.
Tác giả gửi BVN

1 tháng 6, 2019

MỘT BÀI PHÂN TÍCH CỰC HAY VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN CỦA TIẾN SỸ HÀ SỸ PHU 

Vài điều tóm lại cho gọn

Hà Sĩ Phu
31-5-2019
Chủ nghĩa CS đã được thực tiễn và cả thế giới văn minh chứng minh là con đường sai lầm và phản tiến hóa thì phải từ bỏ, mọi cách làm khác đều chỉ là ngụy biện và lừa bịp!
Bài chia làm 2 phần:
Phần 1: Lý thuyết Mác-Lê xuất phát từ những nhầm lẫn, phản tiến hóa
Phần 2: Một tà thuyết, sao có thể bùng lên, kinh thiên động địa một thời?
***
Phần 1: Lý thuyết Mác-Lê xuất phát từ những nhầm lẫn, phản tiến hóa
Xin không bàn về những lý thuyết thuần túy Triết học của Marx, mặc dù Duy vật biện chứng và Duy vật lịch sử Mác-xít cũng có những điều rất cần phải tranh luận về mặt Triết học. Điều có ý nghĩa thực tế cần thiết cho xã hội ở đây là chỉ xét những “lý sự” gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin được dùng làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi chủ trương của ĐCS, những điều đã thành nhận thức phổ thông, tuyên truyền phổ cập ai cũng biết. Hiện nay về lý thuyết cũng như thực tiễn CS tuy có những biến đổi để hòng thích nghi nhưng bản chất chủ thuyết căn bản vẫn không có gì thay đổi.
Trong bài Từ Nguyễn Phú Trọng đến Lê Hiền Đức (2012, đăng trên trang mạng của nhà văn Phạm Thị Hoài) tôi đã kể qua 9 điều “nhầm lẫn nhỏ” (mà các Cụ nhà ta thường dùng chữ rất hay là “bé cái nhầm”) của Mác-Lênin khi dựng một học thuyết “cao siêu và vĩ đại”. Ở đây chỉ xin nhắc lại trong 5 điều nhầm lẫn quan trọng nhất.
1/ Mác-Lênin hiểu nhầm về thời đại mà các ông đang sống: Tại sao có thể nói các nhà Mác-xít kinh điển đã “đọc nhầm” thông điệp của Thời đại?
Thế kỷ 18-19 và đầu thế kỷ 20 là thời kỳ phôi thai bột phát của nền văn minh Công nghiệp, vừa đem lại những thành quả nhảy vọt nhưng đồng thời cũng tạo ra những tai họa nhất thời mà lúc đầu chưa có phương án chế ngự, đó là sự áp chế của một số chủ Tư bản đối với Công nhân và sự áp chế của các nước đại công nghiệp đối với các nước còn lạc hậu cổ hủ, sự áp chế được gọi là Chủ nghĩa Đế quốc và Chủ nghĩa Thực dân.
Chủ nghĩa Đế quốc-Thực dân ấy thực ra chỉ là bước chập chững, loạng choạng, hăm hở chào đời của một “đứa hài nhi” sẽ thành khổng lồ, nhưng Mác-Lê tưởng “Chủ nghĩa Đế quốc là giai đoạn tột cùng của Chủ nghĩa Tư bản”! Đã là “giai đoạn tột cùng” rồi thì tất nhiên là già nua sắp chết, nên phải nghĩ ngay ra một Chủ nghĩa mới để thay thế, trước mắt là huy động “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” để đào mồ chôn nó đi! Nhưng rồi theo thời gian đứa hài nhi có gien khổng lồ ấy “cứ giãy mãi mà không chết”, ngày càng trưởng thành và sửa chữa những điều ấu trĩ của mình, còn cái chủ nghĩa với đội quân đi “đào mồ chôn” nó thì cứ huyênh hoang vô địch nhưng bỗng lăn ra chết ngay tại quê hương của mình, mà chẳng thấy giãy giụa gì.
2/ Mác-Lênin hiểu nhầm Lịch sử, tưởng Lịch sử chỉ là một chuỗi đấu tranh giai cấp, và coi đấu tranh giai cấp là động lực của Tiến hóa.
Theo Mác, Lịch sử là một chuỗi những cuộc đấu tranh giai cấp, với tư cách là động lực của Tiến hóa (Trích: Giai cấp bị trị và giai cấp thống trị luôn đối kháng nhau về quyền lợi nên sinh ra đấu tranh giai cấp. Nô lệ chống chủ nô làm chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã. Nông dân chống địa chủ phong kiến làm chế độ phong kiến tan rã. Giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản làm chủ nghĩa tư bản sụp đổ…
…Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những cuộc cách mạng xã hội.)
Mác nhìn lịch sử Tiến hóa của nhân loại như một chuỗi những đoạn đứt khúc do các cuộc Cách mạng, dùng bạo lực lật đổ nhau để tạo ra thể chế mới và cứ mỗi lần như thế thì xã hội tiến hóa lên một bước mới. Đó là quan điểm Chính trị Mác-xít xuất phát từ Chủ nghĩa Kinh tế (khi hạ tầng Kinh tế thay đổi thì thượng tầng Chính trị cũng thay đổi theo).
Nhưng trên quan điểm khoa học thì phải hiểu sự Tiến hóa như thế nào?
Trước hết, trong thế giới động vật, Tiến hóa là sự chọn lọc tự nhiên trong đấu tranh sinh tồn, đấu tranh giữa sống và chết, do đó cơ thể phải biến đổi để thích nghi. Động vật thích nghi với điều kiện sống chỉ bằng chính cơ thể của nó, loại cơ thể nào không biến đổi được để thích nghi thì bị tiêu diệt. Tiến hóa để lại dấu ấn trên cấu tạo cơ thể động vật và do đó cũng thay đổi các tập tính.
Nhưng sự Tiến hóa của con người, sống thành xã hội, thì khác hẳn:
Do có TRÍ TUỆ, là sự phát triển cao nhất của Sinh giới, nên hình thành tiếng nói và chữ viết để ghi lại những thành quả của thế hệ trước để thế hệ sau tiếp tục “ngồi lên vai” mà tiến cao hơn. Sự tích lũy và gia tăng của Trí tuệ để lại dấu ấn trong sách vở, trong công cụ lao động và cả trong phương thức quản lý-điều hành xã hội. Con người thích nghi với môi trường bằng những công cụ và những phương tiện do Trí tuệ và lao động của mình tạo ra, nên cấu tạo cơ thể không cần thay đổi mà cả xã hội vẫn tiến hóa ngày một cao hơn.
Như vậy, sự tích lũy và gia tăng Trí tuệ, tức động lực của Tiến hóa, xảy ra có tính liên tục, và có sự cộng tác, hiệp lực với nhau trong xã hội, cho dù vẫn còn mâu thuẫn với nhau về quyền lợi. Còn sự Đấu tranh giai cấp cũng chỉ là một mặt trong sinh hoạt xã hội, đấu tranh giai cấp bằng các cuộc Cách mạng như thế là những bước gián đoạn, có thể thúc đẩy sự Tiến hóa nhưng cũng có khi làm hại cho Tiến hóa ( cuộc đấu tranh giai cấp, một mất một còn trong CCRĐ và trong Cải tạo Tư bản tư doanh của xã hội VN do ĐCS chỉ huy là một ví dụ làm hại cho Tiến hóa, biến VN từ một xã hội có đoàn kết nhân ái và có tiềm năng phát triển biến thành một xã hội đầy thù hận và “không chịu phát triển” như bấy lâu nay).
3/ Mác-Lênin tưởng nhầm vai trò lịch sử của mình, nên đoạn tuyệt với các giá trị truyền thống, không đi tiếp con đường văn minh của nhân loại .
Do tiếp nhận được tinh thần “vạch đường cho nhân loại, cải tạo cả nhân loại” của chủ nghĩa Mác-Lê cực đoan và ngạo mạn, nhà thơ mê tín CS Tố Hữu đã có những câu thơ để đời ca ngợi Cách mạng vô sản Tháng Mười Nga như sau:
Thuở Anh (CM-10) chưa ra đời,
Trái đất còn nức nở,
Nhân loại chưa thành người”.
Người CS coi cả nhân loại này không đáng là người khi chưa được Mác-Lê dẫn lối. Họ muốn xóa bỏ loài người cũ không đáng là người, để nhận trách nhiệm lịch sử dựng một loài người mới cho xứng đáng là người ư? Ngông cuồng đáng khôi hài đến thế là cùng!
Về quản lý xã hội thì Mác-Lê coi mọi Nhà nước xưa nay chẳng qua là công cụ để bóc lột người lao động, nên phải tiến tới làm cho nhà nước tiêu vong đi để cho giới lao động trực tiếp làm lấy việc quản lý. Thế là không thèm hiểu về sự phân công xã hội. Cũng do không thèm hiểu về sự phân công xã hội nên mới coi giai cấp công nhân, giai cấp lao động, chính là “giai cấp tiền phong, giai cấp lãnh đạo, giai cấp tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến nhất”(!).
Mặc dù có nhà lý luận cố bênh vực Mác rằng “Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản không phải là “ý muốn nhân tạo”, hoặc “lựa đặt ngông cuồng” của C.Mác mà do địa vị kinh tế – xã hội khách quan quy định”, nhưng thực tế thì một giới lao động nào đó cũng chỉ là sản phẩm của một nền văn minh tương ứng sinh ra, chứ tiêu biểu và dẫn dắt cho nền văn minh đó phải ở giới chuyên viên và trí thức tinh hoa, có đủ Trí tuệ, đủ trình độ điều hành, vì đó là sự phân công tự nhiên trong xã hội.
Thực ra đến thời các ông Mác và Lê ra đời tức thời kỳ Văn minh Công nghiệp Nhân loại đã tiến được những bước khá xa, đã có ý thức nâng đỡ sự phát triển cá nhân để tạo ra mọi giá trị, đồng thời biết quản lý xã hội theo nguyên tắc Dân chủ và Pháp trị: DÂN CHỦ để cá nhân có điều kiện phát triển nhưng đồng thời cần PHÁP TRỊ để khống chế sự phát triển Tự do cá nhân sao cho không thể ảnh hưởng xấu đến người khác và đến cả cộng đồng.
Trong xã hội Pháp trị “Đạo đức phải trở thành thừa”: không cần anh đạo đức, anh cứ làm đúng Pháp luật là đúng đạo đức rồi. Giáo dục đạo đức chỉ là biện pháp hỗ trợ, rất cần cho tuổi thanh thiếu niên. Khi trưởng thành, sống trong xã hội thì “Trường đời” mới là trường học tự nhiên hun đúc con người. Xã hội có Pháp trị lành mạnh thì hun đúc ra những con người tử tế, xã hội vô pháp thì hun đúc ra những con người lưu manh. Khi bộ máy cầm quyền còn hư hỏng thì làm sao các công dân lại có thể sống cho tử tế được, dù có giáo dục đạo đức bao nhiêu cũng bằng thừa, vì “Trường đời” đã giáo dục tất cả.
Khi Mác (1818-1883) và Lê (1870-1924) ra đời là đã có những nhà tư tưởng về Dân chủvà Pháp trị như John Locke (16321704), Montesquieu (1689-1775), Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778), Voltaire (1694-1778)…, họ đã tạo ra một thời đại Khai sáng, với lý thuyết về Khế ước xã hội, chống chủ nghĩa chuyên chế và xây dựng Chủ nghĩa tự do, đặc biệt là hình thành lý thuyết về Tam quyền phân lập để điều hành xã hội. Lịch sử loài người hàng nghìn năm mới đạt đến trình độ như vậy, nền văn minh ấy đã đạt được rất nhiều thành quả nhưng lại tạo ra những mâu thuẫn mới mà xã hội cần tìm cách khắc phục, chứ không thể nói nhân loại lúc ấy “chưa thành người”!
Chính Mác-Lê “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với các giá trị truyền thống” mới là người mắc bệnh “phủ nhận quá khứ”, mà “phủ định sạch trơn” một cách vô lý nhất, chứ những người dân chủ ngày nay có phủ định con đường Mác-Lê cũng chỉ là “phủ định sự phủ định” đúng phép biện chứng để trả lại cân bằng cho thế gian, đem lại bình yên cho cuộc sốngmà thôi!.
Nếu trào lưu CS chỉ như một làn sóng phản biện, chỉ vạch trần, phê phán những yếu kém, những bất công do xã hội Công nghiệp lúc ấy tạo ra thì quá tốt, để giúp xã hội buộc phải thanh toán những khuyết tật của mình. CS muốn tranh giành quyền bính cũng tốt thôi, nhưng phải giành bằng cách cạnh tranh công khai-dân chủ, chứ không thể “cướp” chính quyền, và giành được chính quyền rồi thì đi tiếp con đường tiến bộ của nhân loại tức con đường Dân chủ đa nguyên Pháp trị như các nước Bắc Âu bây giờ (đó là nền Dân chủ Xã hội bắt nguồn từ Quốc tế 2), rồi cũng thực hiện đường lối Lao-Tư lưỡng lợi như cụ Phan Châu Trinh đã nghĩ đến ( tạo điều kiện để các nhà Tư bản kinh doanh chân chính và thu lãi nhiều để có tiền góp cho các quỹ Phúc lợi xã hội, trợ cấp người lao động, người nghèo, người già yếu tàn tật…).
Con đường Dân chủ Xã hội (đừng dịch nhầm là Xã hội chủ nghĩa) của Bắc Âu tuy có tiếp nhận Mục đích tốt đẹp mà Mác-Lê gợi ý, nhưng Phương tiện tiến hành thì hoàn toàn khác nên thành công rực rỡ, dù bị các nhà lý luận Mác-xít ghét bỏ như kẻ thù (nhất là lý luận gia CS Nguyễn Đức Bình), bởi Dân chủ xã hội là đối chứng hùng hồn nhất, chứng minh Mác-Lê muốn làm điều tốt nhưng cách làm hoàn toàn sai lầm nên gây hiệu quả ngược với mục đích.
Lối thoát danh dự cho CS VN hiện nay là từ bỏ con đường cực đoan ảo tưởng Mác-Lê của Quốc tế 3, để theo con đường Bắc Âu (tức con đường từ Quốc tế 2 mà Thụy Điển là tiêu biểu, cũng là con đường Phan Châu Trinh chủ trương (con đường bị HCM phê phán là hữu khuynh thân Pháp). Thực chất cái gọi là “chủ nghĩa Tư bản” chẳng qua là một giai đoạn khá cao trong tiến trình Tiến hóa tự nhiên của xã hội loài người, giai đoạn văn minh Công nghiệp và đại Công nghiệp, gọi là “chủ nghĩa” nhưng không ai nghĩ ra trước, không có tác giả như trường hợp “chủ nghĩa CS”.
Nhưng sai lầm chết người ở chỗ phong trào CS tưởng nhầm là lịch sử giao cho mình nhiệm vụ phải làm lại thế giới, cướp lấy chính quyền để xây dựng một chế độ Mác-xít, theo một chủ nghĩa do một vài tác giả cụ thể bốc đồng nghĩ ra trong một thời gian ngắn, một Thiên đường hết sức chủ quan, thiếu hiểu biết, rất phản khoa học, phản quy luật. Cái chủ nghĩa CS mới toanh ấy tuyên bố “đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với các giá trị truyền thống đã có”, nên gạt bỏ hết mọi giá trị mà nhân loại phải hàng nghìn năm mới đạt được là nền Dân chủ đa nguyên Pháp trị với thiết chế Tam quyền phân lập.
Mục đích CS thì cao siêu nhưng phương cách thực hiện là bạo lực cách mạng, là độc đảng toàn trị nên thực tế đã đạp đổ tất cả nền Dân chủ Pháp trị vừa mới manh nha. Người CS coi các giá trị đó là sản phẩm của chủ nghĩa Tư bản nên quyết tâm đào mồ chôn nó đi. Chính từ sự kiêu ngạo vô lối này, chủ nghĩa CS Mác-Lê đã tự đào mồ chôn chính mình trước lịch sử tiến hóa Nhân loại.
4/ Mác-Lênin ảo tưởng vì không hiểu bản tính Con người
– Mác-Lê dám tưởng tượng sẽ có ngày “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” vì tin rằng khi được chế độ CS giáo dục thì “con người mới” sẽ rất thánh thiện chứ không ai tham lam, muốn làm ít mà đòi hưởng nhiều!
– Tuy Mác vẫn nhắc một danh ngôn cổ điển “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi ” nhưng có lẽ Mác vẫn không hiểu, không chấp nhận bản tính tự nhiên của con người. Nếu Mác-Lê biết bản tính con người vốn tham lam và lợi dụng khi không bị luật pháp kiềm chế thì Mác-Lê đã không cho phép ĐCS được độc quyền lãnh đạo mà không có đa nguyên kiềm chế, khiến cho các ĐCS cầm quyền đều mặc sức lạm quyền, mặc sức tham nhũng quyền lực như ở các nước CS ngày nay. (ví dụ: đã làm TBT lại muốn kiêm luôn Chủ tịch nước để nắm gọn toàn bộ quyền lực trong tay như Tập Cận Bình và những người tương tự)! Nếu hiểu bản tính tham lam của con người sao lại trao toàn bộ khối Công hữu khổng lồ của đất nước cho cơ quan nhà nước “thống nhất quản lý” để nó biến hết của công thành của tư? Chính luật pháp Tư bản hiểu rõ con người nên mới không cho tập trung quyền lực mà phải “Tam quyền phân lập” hẳn hoi, chứ không lừa dối bằng kiểu “tam quyền phân công” từ một đầu mối là sự chỉ huy thâu tóm của một đảng duy nhất.
5/ Mác-Lênin hiểu nhầm về nguyên nhân khổ ải và bất công, và do đó sai lầm về các biện pháp giải quyết :
Đi vào những việc cụ thể Mác-Lê cũng mắc những nhầm lẫn. Mác-Lê quy nguyên nhân mọi tai họa là do tính Tự do cá nhân và tính Tư hữu nên tìm mọi cách để “chống chủ nghĩa cá nhân” và diệt Tư hữu để công hữu hóa hết thảy, và để nhà nước CS duy nhất quản lý. Kết quả là không có gì phát triển được và chính cái nhà nước Vô sản độc quyền quản lý tài sản Công hữu thì nó biến mọi Công hữu thành Tư hữu của họ. Để tránh tệ nạn tham nhũng và cậy quyền thì ĐCS lại dùng biện pháp “phê và tự phê, tu dưỡng đạo đức, theo đạo đức Bác Hồ”, kết quả là những kẻ càng ca tụng đạo đức bao nhiêu thì sự tham lam lại ngày càng phát triển bấy nhiêu. Nền Kinh tế chỉ huy (với các kế hoạch 5 năm) và Kinh tế quốc doanh làm cho nhà nước và nhân dân đều kiệt quệ nhưng cái túi riêng của những “học trò xuất sắc của đạo đức Bác Hồ” thì căng đầy tiền tỷ đô la để gửi ngân hàng Thụy sĩ! Về sau, tuy biết sai lầm nên đã chuyển sang Kinh tế thị trường và ca ngợi Kinh tế tư nhân, nhưng tất cả vẫn nằm trong tay một đảng độc quyền và một “nền Pháp quyền XHCN” thì tất cả vẫn chỉ là sự “đánh bùn sang ao”, kể cả việc “đốt lò” rùm beng của ông Nguyễn Phú Trọng cũng vậy.
Công hữu hay Tư hữu, đó là một mấu chốt của tình hình diễn biến. Thuở ban đầu thì những người CS thật sự chân thành tin vào con đường Công hữu như lời Mác dạy. Nhưng khi bước vào thực hiện thì chút liêm khiết lúc đầu (của người CS có quyền) bị cái máu tham trong lòng tấn công. Máu tham tự nhiên cứ như một kẻ gian truyền kiếp ẩn nấp sẵn trong lòng những tín đồ CS, cứ đêm ngày xui họ dùng quyền lực để biến những của Công trong tay thảnh của Tư, một sự “cướp ngày” có giấy tờ rất đúng quy trình! Và cứ thế tình hình mỗi ngày một xấu. Cái máu tham phục sẵn trong mỗi con người hỏi Mác có biết không, có “xa lạ” với Mác không?
Đã từ lâu, miệng nói Công hữu nhưng tay làm Tư hữu, nhưng không phải thứ Tư hữu lành mạnh công minh mà là Tư hữu gian manh. Cờ thì giương cao Búa và Liềm nhưng hành động thì cướp đất của Nông dân và không cho Công nhân tự lập hội để bảo vệ quyền lợi. Công và Nông là những người khổ nhất hiện nay, trong khi trên truyền hình toàn thấy những ông bà Nông dân (phần đông có gốc Bộ đội) có hàng chục héc-ta đất, thu lợi hàng chục tỷ mỗi năm, quá đẹp!
Trước tình trạng CS nói một đằng làm một nẻo như vậy thì tôi biết tranh luận những điều lý thuyết là hoàn toàn vô ích, vì người ta nói như vậy nhưng có làm như vậy đâu nên tranh luận về lời nói làm gì? Song, tôi vẫn muốn chốt lại một vài điều về lý thuyết chỉ để thấy cái gọi là học thuyết Mác-Lê và Chủ nghĩa Xã hội khoa học ngay từ đầu đã chỉ là một tà thuyết, phản khoa học, một ảo tưởng xuất phát từ khát khao đẹp đẽ muốn giải phóng con người.
Tà thuyết đã phản lại Thiện tâm, nó sẽ bị cuộc đời vứt bỏ, Nghị quyết 1481 của Quốc hội 46 nước châu Âu đã khẳng định Chủ nghĩa CS là một chủ nghĩa chống Nhân loại.
Nhưng trong xã hội VN hiện nay, đừng vội tưởng Ý thức hệ CS đã hết tầm quan trọng để không cần quan tâm đến nữa. Trái lại ĐCS vẫn còn giữ chặt và đẩy mạnh giáo điều Mác-Lê và xiết chặt bộ máy Chuyên chính hơn bao giờ hết, bởi đó là chất xi măng gắn kết của hệ thống và là cái áo giáp sắt giữ an ninh chế độ. Mỗi khi ĐCS mở cửa một chút thông ra thế giới thường khiến cho nhiều người vui mừng, vì nghĩ cứ mỗi ngày một chút, một tí chút thôi thì lâu dần, tích tiểu thành đại, cũng sẽ ngày một khá lên. Xin thưa, đấy là kiểu tư duy đơn giản thuận chiều của con nít. Mỗi lần mở ra cũng kèm theo một kế hoạch xiết lại, chặt hơn. Phía trước chờ ta luôn là một dấu hỏi, ngay bên cạnh một niềm hy vọng.
Phần 2Một tà thuyết, sao có thể bùng lên, kinh thiên động địa một thời?
1/ Quan hệ giữa Mục đích, Cứu cánh và Phương tiện
Ngày nay trên thế giới chỉ còn lại vài nước CS và đang biến dạng, nhưng đã có một thời kỳ CS phát triển thành một liên kết quốc tế đông đảo gây biến động thế giới.
Để hiểu vì sao lúc đầu ở một số nước số người ủng hộ CS lại đông đảo như vậy, tôi muốn trở lại bài lý luận đầu tiên tôi viết năm 1988 (Dắt tay nhau…) trong đó có sự phân chia con người thành 3 giới, 3 xu hướng DUY LÝ, DUY TÍN (hay Duy cảm), và DUY LỢI. Trong chủ thuyết CS thì có phần nói về MỤC ĐÍCH và phần nói về PHƯƠNG TIỆN tức các cách tiến hành để đi đến mục đích.
Mục đích nêu trong chủ nghĩa CS thì quá đẹp nên hấp dẫn ngay hai giới Duy lợi và Duy cảm. Giới Duy lợi có hai cực: cực thiểu số giàu có ở bên trên tất nhiên không ưa CS, cỏn cực lao động nghèo khổ ở dưới đáy là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội thì hưởng ứng CS ngay. Các trí thức văn nghệ sĩ thì đa số nặng về Duy tín hay Duy cảm, giới này có tác dụng lôi cuốn rất mạnh đối với quần chúng đông đảo. Hai giới này chỉ cần thấy mục đích tốt đẹp là theo, chứ không quan tâm đến Phương tiện vì nghĩ rằng dùng Phương tiện gì cũng được, miễn Mục đích tốt là được nên hưởng ứng CS ngay từ đầu là điều dễ hiểu. Đó là tình hình theo CS rất đông ở mấy nước châu Á và nước Nga.
Còn với giới Duy lý, phần lớn là các trí thức khoa học và dân chúng ở các nước đã trải nghiệm quá trình dân chủ thì có nhãn quan khác hẳn, họ luôn nhìn xem Chủ nghĩa ấy dùng Phương tiện gì tức dùng cách gì để đi đến mục đích. Họ hiểu Phương tiện mới là nhân tố quan trọng, Phương tiện đúng thì Cứu cánh 究竟 mới tốt (thuật ngữ Cứu cánh là cái kết quả cuối cùng, chứ không có ý nghĩa cứu giúp như số đông vẫn hiểu lầm). Cứu cánh biện minh cho Phương tiện (la fin justifie les moyens!). Phương tiện và Cứu cánh mới là cặp quan hệ nhân quả máu thịt, chứ Mục đích có khi chỉ là ảo tưởng hoặc tô vẽ để tuyên truyền! Nhìn vào Phương tiện, đường lối, thấy chủ thuyết CS chủ trương gạt bỏ Tự do cá nhân, gạt bỏ Tư hữu, chỉ ĐCS độc quyền lãnh đạo…là họ biết tương lai không thể đi đến cái đích tốt đẹp.
Cho nên mặc dù chủ thuyết CS phát sinh ở Tây Âu và ở đó cũng có các đảng CS nhưng nhân dân Tây Âu tránh xa CS ngay từ đầu và sau này còn cho ra một nghị quyết của Quốc hội 46 nước, nghị quyết 1481 kết tội chủ nghĩa CS là chống nhân loại.
2/ Con đường Cộng sản vào Việt Nam.
Ngoài quy luật chung, ban đầu hấp dẫn bởi cái đích trương ra rất huy hoàng, sự hấp dẫn của CS đối với dân VN còn có đặc điểm riêng.
– Tâm lý dưới đáy: Đi đến cái đích đẹp thì ai cũng tán thành, nhưng những kẻ ở dưới đáy tận củng thì có một cảm hứng đặc biệt riêng là cảm hứng muốn lật ngược xã hội để đổi đời. Ví dụ trong lớp có 50 học sinh thì những anh xếp thứ 30-40 biết tiến thêm vài bậc là đã khó khăn, nhưng anh suốt đời đội sổ thì trong giấc mơ nó phải vọt lên đứng đầu và chứng minh những đứa vẫn đứng đầu là không xứng đáng. Chỉ những anh lẹt đẹt sau cùng mới có cảm hứng “đi tắt đón đầu” để dẫn đầu nhân loại, thay thế những kẻ dẫn đầu cũ. Nay thấy chủ nghĩa Mác ảo tưởng đánh trúng tâm lý lật ngược xã hội ấy thì làm gì mà quần chúng lao khổ đói rách dưới đáy chẵng rầm rập đi theo?
Khẩu hiệu “Trí Phú Địa Hào, phải đào tận gốc trốc tận rễ” chẳng phải vì muốn thanh toán mà chính vì khát khao 4 ngôi vị đó, phải quật những kẻ đang ngồi trên đầu để mình thay vào, cho nên khi cướp xong chính quyền những người Cách mạng đã phát huy ngay mọi sáng kiến để trở thành Trí Phú Địa Hào mới một cách không tuyên bố, thực tế đã và đang thấy rất rõ.
– Sự hấp dẫn của ngọn cờ Độc lập Dân tộc, nhưng cuối cùng “mất cả chì lẫn chài
Mục đích của chủ nghĩa Mác là đánh đổ chủ nghĩa Tư bản để thiết lập chủ nghĩa Cộng sản nhưng điều ấy dân Việt Nam không quan tâm vì VN đã có chủ nghĩa Tư bản đâu mà cần đánh đổ? Nhưng chính tài liệu của Lê nin “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã “gãi đúng chỗ ngứa” của dân Việt Nam và dẫn Nguyễn Ái Quốc đi vào Quốc tế 3 ở Hội nghị Tours nước Pháp tháng 12 năm 1920. Chính người CS lão thành Nguyên Ngọc đã nhận định rằng sai lầm bắt đầu từ bước ngoặt thành Tours năm ấy. Tai họa của đất nước VN cũng khởi đầu ở chỗ này, chỉ vì yêu nước mà thành CS chứ không biết con đường CS là gì (không thể biết rằng chính vì theo đường CS để cứu nước nên sẽ mất nước về sau). Xuất phát đã như thế thì tất nhiên sự hăm hở ban đầu rồi cũng mau chóng tan đi, sau mấy chục năm hồ hởi với đảng, rồi trầm luân với đảng, nay đến lúc chính người đảng viên lão thành Nguyên Ngọc đành phải ly khai đảng vì thấy đảng của mình bây giờ chỉ “phản nước hại dân”!
ĐCSVN từ chỗ tay trắng mà rồi nắm được toàn quyền làm chủ giang sơn tất nhiên phải có sức mạnh ghê gớm, vậy sức mạnh ấy từ đâu, nếu không phải từ chính nhân dân?
Dân VN là dân tộc mà lòng yêu nước chống ngoại xâm đã thành một “gien” chảy trong máu (1000 năm Bắc thuộc và 80 năm Pháp thuộc thì còn gì là đời, hỡi người VN?), nên cứu nước chống ngoại xâm đã thành bản năng, thành tiềm thức, cứ thấy ngoại xâm là phải đánh đuổi bằng mọi giá (cứu được nước do bản năng này, nhưng vội vã lầm đường bị mất nước cũng do bản năng này, sẽ nói rõ trong đoạn sau). Tất cả sức mạnh VN nằm ở đó, những bà mẹ VN đứt ruột hiến cho đời cả 5-7 người con máu mủ của mình cũng vì cái lòng yêu nước ấy, chứ mẹ có tơ vương gì với cái gọi là Cộng sản? Nhưng CS vào được VN, hoảnh hành được ở VN là do mượn con đường của lá cờ yêu nước đó, CS thành công được là do ký sinh vào sức mạnh của lòng yêu nước đó. Vậy đối với lòng yêu nước VN thì chủ nghĩa CS như một con “Ký sinh trùng”, như con sán nhiều đầu móc vào khúc ruột VN để hút dinh dưỡng và gây bệnh, tôi đã từng nói và viết điều đó.
Nhưng nói về sức mạnh ban đầu của CS Việt Nam thì sẽ là thiếu sót nếu không biết đến vai trò của những lớp CS đầu tiên. Họ cũng từ nhân dân mà ra. Nhưng vì là đảng viên nên ngoài tấm lòng yêu nước họ có được trang bị một số nhận thức sơ đẳng về chủ thuyết CS và họ tin đó là Chân lý. Chính niềm tin, dù là niềm tin đơn sơ khi chưa có điều kiện hiểu biết tường tận, niềm tin chân thành đã cho họ sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, tù đày để cùng nhau tiến lên giành lấy chiến thắng. Những Trí thức khi ấy tin theo CS vì thấy những Trí thức lớn của thế giới như Aragon, Romain RollandJean-Paul Sartre, André Gide…cũng mê say CS kia mà? Nhưng họ không hiểu những Trí thức lớn ấy mê say CS cũng là do bệnh Duy cảm mà ra.
Trong diễn biến của xã hội VN sẽ có sự đổi ngôi dần dần giữa các yếu tố CHÍNH và PHỤ. Nội dung chính của chủ nghĩa Mác là chất CS, nhưng chỉ là yếu tố rất phụ trong tâm thức dân VN. Nhưng khi CS vào được VN thì yếu tố phụ kia chuyển dần thành yếu tố chính, yếu tố chính là tinh thần độc lập dân tộc thực tế đã bị đổi chỗ thành yếu tố phụ, tuy bề ngoài vẫn được hết sức tô vẽ, chứng cứ là nếu rất yêu nước mà đòi bỏ CS là bị bắt ngay, bởi yếu tố phụ ngày xưa (Ý thức hệ CS) nay đã thành yếu tố chính để xét xử.
Nếu Ý thức hệ CS đã mượn đường lá cờ dân tộc mà chui vào được đất nước VN, thì kẻ thù truyền kiếp Đại Hán lại mượn đường Ý thức hệ CS đó để chui vào VN một lần nữa, lần này nó mạnh hơn nhiều bởi có Ý thức hệ CS làm nội ứng như có con ngựa thành Troy. Mấy ai biết rằng CS Đại Hán giúp CS VN trong chiến tranh là giúp kẻ cùng Ý thức hệ, là tháp tùng Ý thức hệ CS để vào VN lần này với mưu đồ “giải giáp” dân tộc VN, phá hủy lòng yêu nước, hòng nô dịch VN một lần nữa?
Theo thời gian, yếu tố chính của tâm thức VN là lòng yêu nước chống ngoại xâm, chẳng những bị hạ xuống thành yếu tố phụ trong xét xử mà còn có nguy cơ bị tiêu vong, bởi chính kẻ ngoại xâm truyền kiếp đã lẻn được vào trong nhà, nó đã ngồi lên bệ và dùng nhiều cách thâm độc để thủ tiêu lòng yêu nước ấy. Lạ thật, tôi đã tiếp xúc với một số người, nói chuyện Tổ quốc mình đang bị Tàu áp chế khủng khiếp mà lòng họ lạnh như tiền, có lẽ bởi họ linh cảm thấy muốn Thoát Trung thì phải Thoát Cộng, nhưng muốn Thoát Cộng thì khó mà Thoát… Tù (!), nên thôi, mặc xác sự đời, hãy lo mà sống yên thân. Mất khát vọng Tự do-Hạnh phúc, mất xương máu, mất chủ quyền, lại mất nốt cả mạch nguồn yêu nước trong máu thì… “mất cả chì lẫn chài” rồi ư?
3/ Vấn đề Trái tim Đan-cô:
Trái tim Đan cô là câu chuyện ngụ ngôn của nhà văn Nga Maksim Gorky (ngọn cờ đầu của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa), ca ngợi sức mạnh linh thiêng tuyệt vời của TRÁI TIM có thể phát ánh sáng để động viên và dẫn dắt quần chúng lao khổ vượt qua đầm lầy tăm tối đến nơi an toàn và hạnh phúc.
Vâng, vượt trên sức mạnh cơ bắp, con người có 2 sức mạnh tinh thần tuyệt vời được cách điệu tượng trưng bởi hai bộ phận trong cơ thể là KHỐI ÓC và TRÁI TIM.
TRÁI TIM biểu trưng cho lòng hướng thiện, cho đức yêu thương, cho nghị lực để vượt qua sự bi quan và sợ hãi. Trong một xã hội mà cái giả dối ác độc còn đè nặng xuống những thân phận đau thương và bi lụy thì mọi người, đặc biệt là các nhà văn và trí thức duy cảm, đứng hẳn về “phía nước mắt” và “phía trái tim” là dễ hiểu.
Những Trái tim thì thường tìm đến Trái tim! Vì quá yêu Trái tim nên những tâm hồn đa cảm cũng mong Trái tim phát sáng để dẫn đường luôn, làm thay chức năng của Khối óc tức của Trí tuệ, mà quên rằng Trái tim tuy tuyệt vời nhưng không thể dẫn đường, vì bị một căn bệnh di truyền từ thời thượng cổ là dễ mù lòa, đã yêu nhau thì củ ấu cũng tròn, đã ghét thì ghét cả tông chi họ hàng.
Trái tim cho con người sự yêu thương và hướng thiện, Trái tim cho con người nghị lực, sự dũng cảm và lòng hăng say, nhưng Trái tim không tự tìm ra được đúng con đường phải chọn, nhất là ở những ngã ba, ngã năm, ngã bảy, vì trời không cho trái tim đôi mắt. “Sự mách bảo của trái tim” có thể là sự gợi ý rất quý, nhưng nếu không được khối óc kiểm tra lại cẩn thận thì có khi nguy hiểm. Sau khi Trí tuệ đã tìm ra con đường thì lúc ấy rất cần nghị lực của Trái tim, nhưng một khi “Trái tim lầm chỗ để trên đầu” thì chưa biết thân xác sẽ dạt về đâu?
Trái tim mà làm bà sơ phát cơm từ thiện thì tuyệt, chứ làm Hoa tiêu hoặc làm Quan tòa thì có khi bỏ sót tội phạm mà xử tử chính nạn nhân cần được bảo vệ, rồi sau tỉnh ra mới hối hận thì đã muộn rồi.
Tôi thường nói chuyện với bạn bè: Tôi rất sợ những Trái tim lớn mà cái Đầu không đủ lớn, nó dẫn dụ hàng triệu người rầm rập đi trong hiên ngang và nhân ái, nhưng chẳng may đi nhầm xuống những hầm hố lớn phủ lá ngụy trang thì chết cả nút, ôm nhau chết cả đám trong hào quang của đoàn kết, hướng thiện và yêu thương. Bài học của Việt Nam là thế.
Cảnh tượng hùng hồn khi dân chúng và trí thức Việt Nam hăm hở ủng hộ Việt Minh, đi vào con đường CS với tất cả tấm lòng, hy sinh cả tính mạng, gia đình và của cải… chính là bi kịch của Trái tim Đan cô Việt Nam! Bi kịch của liệt sĩ Nguyễn Thị Năm-Cát Hanh Long bỏ cả cơ nghiệp lớn ở Hà nội lên Thái Nguyên để nuôi Cách mạng, cuối cùng được các gót giày Cách mạng ấn vào một chiếc quan tài quá hẹp cho tên địa chủ “ hết ngoan cố”, trước sự chứng kiến của người dẫn đường lý tưởng HCM (theo Trần Đĩnh kể) cũng chẳng là một bi kịch đi theo Trái tim Đan-cô thiêng liêng đó sao?
Thực ra đây là vấn đề của “tầm văn minh”, tầm văn minh của xã hội và phản chiếu thành tầm văn minh trong mỗi con người. Thời văn minh Nông nghiệp cũng là thời kỳ của “văn minh Trái tim” phát sáng rực rỡ mà lịch sử cần ghi nhận và lưu giữ trong bảo tàng. Nhưng nhân loại tiên tiến ngày nay đã được chuyển cấp văn minh, được “văn minh Trí tuệ” chiếu sáng, dẫn lối chỉ đường, chắc chắn sẽ ánh xạ vào mỗi con người chúng ta, để ta biết đặt Khối óc và Trí tuệ vào đúng vị trí trên đầu của nó. Chuyển giai đoạn thế mới là tự cứu. Đối với kẻ cầm quyền ác tâm cao thủ thì Trái tim Đan-cô chính là cửa ngõ lý tưởng nhất để…lừa!
Nền văn minh Trí tuệ có một kẻ thù dai dẳng là sự ngu dốt, nhưng riêng ngu dốt chưa gây hại được gì. Ngu dốt phải cộng với Nhiệt tình, với sự Lý tưởng hóa, nhất là Lý tưởng hóa kiên định mới thành phá hoại. Cụ cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (được mệnh danh là “ ngài Thủ tướng vô tích sự” vì chắng quan tâm gì đế Luật pháp, chỉ chuyên thuyết giảng Đạo đức Bác Hồ) đã để lại cho đời một công thức đáng gọi là danh ngôn: “Nhiệt tình + Ngu dốt = Phá hoạiPhong trào CS là một phong trào phá hoại bởi có đủ hai yếu tố Nhiệt tình và Ngu dốt đó.
KẾT LUẬN
1/ Tai họa CS thật khó gỡ ra.
Để kết thúc, xin trích dẫn tinh thần của một Nghị quyết mang tính thế giới, Nghị quyết của Hội nghị Quốc hội 46 nước châu Âu về chủ nghĩa Cộng sản Mác-xít: Nghị quyết 1481, kết luận chủ nghĩa CS phá hoại xã hội toàn diện, nó là một chủ nghĩa chống Nhân loại. (1)!
Châu Âu đáng tin cậy vì là châu lục tập trung nhất, đồng đều nhất, giàu tính khoa học nhất, toàn diện nhất của văn minh nhân loại. Ở đó mọi lý thuyết đều được tự do giãi bày, được khảo sát, giới thiệu và lưu trữ bình đẳng. Tây Âu là tiếng nói khách quan nhất đối với Marx vì họ không phải là nạn nhân của học thuyết Marx, trái lại còn là quê hương và nơi nương tựa của Marx.
Nghị quyết 1481 do nghị sĩ người Thụy Điển Goran Lindblad đề xuất, Thụy Điển là nước theo thể chế Dân chủ xã hội, bắt nguồn từ Đệ nhị Quốc tế, như người anh em song sinh của Đệ tam Quốc tế Mác-Lênin. Thụy Điển có vị trí hàng đầu của văn minh và hạnh phúc trên thế giới, là quốc gia ân nhân thân thuộc bậc nhất với Việt Nam từ thời Cộng sản. Những tiếng nói như thế chính là khách quan, đáng tin cậy
Nhiều người lên án chủ nghĩa CS Mác-Lê ở thành tích giết chết 100 triệu người, lớn hơn tội của phát-xít Hitler, nhưng tôi nghĩ tội ác với hơn một tỷ người còn sống còn quan trọng hơn:
Về kinh tế, CS kìm hãm sự phát triển. Về văn hóa-xã hội, khi sự độc tài và “đểu cáng lên ngôi” (ý thơ Bùi Minh Quốc) nó làm cho con người sa đọa, vì phá hết niềm tin, vỡ hết lý tưởng, cạn hết những khát vọng tinh thần cao đẹp làm lẽ sống, làm cho con người trở về như một con thú vật tầm thường.
Nhưng muốn thoát ra cũng khó thoát được, vì cái chủ nghĩa ảo tưởng thoạt đầu tưởng như vô hại ấy, thực tế nó tạo ra một tai họa képlàm khổ đa số nhân dân nhưng làm sướng một thiểu số cầm quyền. Một mặt nó tạo ra các tai họa như trên vừa kể, nhưng mặt khác nó đồng thời tạo ra một lực lượng, một sức mạnh khủng khiếp để giữ chặt chủ nghĩa ấy một khi nó bị lộ bộ mặt phản diện. Lực lượng ấy, sức mạnh ấy là một ĐCS toàn trị với các thiết chế vũ trang cả vật chất lẫn tinh thần, tất cả phải bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê để giữ vững cái ngai vàng và mọi bổng lộc, lợi quyền lớn nhỏ. Cho nên đến khi biết chủ nghĩa CS là tai hại nhưng muốn thoát ra quả thực không hề dễ dàng.
Ngoài những tội chung đối với thế giới, riêng với VN, Mác-Lê còn nợ dân VN vì cái tội “cho Đại Hán mượn đường” vào VN, hòng nô dịch VN một lần nữa! Không có Ý thức hệ chung ấy, Đại Hán lấy cớ gì để áp sát VN, vừa nựng vừa đè, vừa hôn vừa cắn từng mảng như vậy được?
Tất nhiên ĐCSVN phản đối Nghị quyết 1481, nhưng khốn nỗi, sự phản đối của một đảng như ĐCSVN đối với điều gì đó chỉ càng làm cho điều đó thêm giá trị.
2/ Hòa nhập không hòa tan!
Chủ nghĩa Mác-Lê phản quy luật nhưng tự nhận “vô địch muôn năm” ấy không chịu thua ai, cuối cùng chỉ thua quy luật, thua cuộc sống thật. Ông Trường Chinh đã phải thốt lên “Đổi mới hay là chết” là lo sợ trước quy luật. Nhưng người CS dù đổi mới cũng đổi mới rất khác người: chỉ đổi mới một nửa, còn một nửa vẫn khóa chặt trong tay để “những lực lượng thù địch” không thể lợi dụng. Đồng thời khẳng định cái điều đổi mới ấy chính là của người CS, do người CS trước đây đã nghĩ ra, chứ không phải của bọn Tư bản.
Phải bỏ Kinh tế kế hoạch-kinh tế tập thể-kinh tế quốc doanh để theo kinh tế thị trường nhưng nói: kinh tế thị trường là của chung nhân loại, thậm chí đó chính là “chính sách kinh tế mới NEP của Lênin”, nên kinh tế thị trường phải theo định hướng XHCN.
Nghĩa là cắp sách đi học thiên hạ nhưng lại muốn bảo điều ta học đó là do ta nghĩ ra, ta giữ bản quyền tác giả, bản quyền phát minh, ta làm theo cách của ta. Điều này phải thông cảm, vì chẳng lẽ một đảng “quang vinh muôn năm” từng “thắng 2 Đế quốc to” lại phải cắp sách đi học cái thằng “Đế quốc Mỹ xâm lược” à? Về “tam quyền phân lập” cũng vậy: ta “phân công chứ không phân lập”, phân lập là loạn, đảng viên nào thích đa nguyên, thích tam quyền phân lập thì phải khai trừ.
Đó cũng là luận điểm “hòa nhập chứ không hòa tan” của ông Nguyễn Phú Trọng.
Một cục đường bỏ vào trong nước mà dứt khoát bướng không chịu hòa tan vì nó tưởng nó là cục đá kim cương thỉ mặc kệ nó thôi. Có thể cục đường này có tẩm chất chống tan gì đó nên nó cứ tan dần dần, ta mất công chờ một chút. Cuối cùng đâu rồi cũng vào đấy cả thôi.
Kết quả của những suy tư như vậy khiến tôi đi vào giấc ngủ. Và tôi mơ, một giấc mơ quái gở.
Tôi thấy mình cầm trong tay cuốn Tạp chí Cộng sản số mới.
Đọc thấy:
Lời Bác dạy, người Kách mệnh là phải bám sát thực tiễn và tôn trọng quy luật. Thí zụ: Đến một lúc, nếu quy luật chứng minh phải đa đảng đa nguyên, phải tam quyền phân lập thì dân mới được mở miệng, đất nước mới thoát cảnh nô lệ Tàu và sánh vai cùng thế giới 5 châu… thì người Kách mệnh sẵn sàng học theo thế giới. Và điều quan trọng nhất Bác nói với các chú về cái sự học: Học điều gì là phải học thực lòng, thực chất, chứ không chỉ học cái vỏ, còn cái ruột ta vẫn cố tình làm theo ý cũ của ta để zữ cái lợi cho mình thì người chiến sĩ Kách mệnh nhất định không bao zờ làm thế.
Ký tên: C.B..
Ôi chao, hay quá! Sao “Bác Hồ” lại bỗng dưng phát ngôn hệt như quan điểm của những người mà “đảng ta” bấy lâu vẫn liệt vào loại “các thế lực thù địch” thế này? Tốt quá, tốt quá, tình hình biến chuyển đến nơi rồi!
Thế là tôi giật mình, tỉnh ngủ, biết là mình vừa mơ, và buồn cười thay cho giấc mơ quái đản, ngớ ngẩn của mình, giống như mấy nhà lý luận nịnh đảng khuyên hãy trở về với “Bác Hồ kính yêu” vậy. Nhưng mơ như thế là có lý do:
Chẳng là, trong thâm tâm tôi biết mỗi khi lâm vào thế bí, buộc phải bỏ một sai lầm của mình để đi theo đà tiến bộ chung của thế giới thì “đảng ta” thường có một động tác chữa thẹn, gỡ thể diện của kẻ xưa nay vẫn tự xưng vô địch rằng “điều này là đảng ta thực hiện lời dạy vốn có của các lãnh tụ Vô sản, chứ không phải học theo bọn Tư bản giãy chết đâu” (Cục diện chuyển sang Kinh tế thị trường là một ví dụ). Thế thì một khi chuẩn bị chấp nhận thể chế Dân chủ đa nguyên như các nước Âu Mỹ để tự cứu, dứt khoát đảng ta phải chứng minh Dân chủ đa nguyên cũng vốn là tư duy có sẵn của các lãnh tụ, nhất là của…bác Hồ(!).
Sự mong mỏi và thấu hiểu ấy của tôi đã vào giấc mơ, khi nào “đảng ta” khẳng định “Tam quyền phân lập” là do “Bác Hồ” nghĩ ra thì đó là biểu hiện “đảng ta” đã chịu khuất phục trước chân lý Tam quyền phân lập rồi.
Nhưng nếu theo giấc mơ của tôi, vừa vô lý vừa có lý và rất khó xảy ra: nếu ĐCSVN sẽ thực lòng áp dụng thể chế Dân chủ đa nguyên, nhưng kèm theo là cái “ngụy biện chữa thẹn” cố hữu như trên, thì người trí thức và dân chúng sẽ phản ứng ra sao? Tôi tin chắc tất cả chúng ta đều vô cùng mừng rỡ, chẳng mấy ai mất công tranh luận về cái “bản quyền” Dân chủ đa nguyên làm gì, chỉ cần thực sự thực hiện Dân chủ đa nguyên như toàn dân mong đợi là được!
Suy cho cùng, những Chân lý vốn là của chung của cả thế giới loài người rất tuyệt vời này, và Tự do-Hạnh phúc của nhân dân mới chính là điều quan trọng vượt lên trên tất cả.
Ngược dòng lịch sử công bằng mà xét, thì trào lưu CS cũng chẳng qua là kết quả bi đát, khốn khổ từ một GIẤC MƠ đẹp, rất đẹp! Nhưng giấc mơ đẹp từ những TRÁI TIM thổn thức và bùng nổ ấy chưa được sự tham vấn Duy lý-Khoa học-và Thực tiễn của KHỐI ÓCnên Cứu cánh mới phản lại Mục đích như hiện thực ngày nay.
Nhưng rồi giấc mơ Duy cảm Mác-Lê ấy đã được tư duy Khoa học và Duy lý tiếp sức nên đã tạo ra kết quả tuyệt vời là thể chế Dân chủ Xã hội như ở Thụy Điển, Na Uy và mấy nước Bắc Âu, các nước luôn được thế giới văn minh ngày nay xếp lên hàng đầu về văn minh và hạnh phúc.
Gần đây ta nhận được thông tin “Ngày 10/5/2019, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) cùng với Tập đoàn Ericsson (Thụy Điển) đã thực hiện cuộc gọi đầu tiên trên mạng di động 5G  tại Việt Nam. Hoạt động nằm trong chương trình thử nghiệm kỹ thuật do Viettel thực hiện, nhằm đánh giá mọi mặt về khả năng ứng dụng công nghệ trong thực tiễn tại Việt Nam”.
Việt Nam liên kết với Ericsson -Thụy Điển (chứ không liên kết với Hoa Vi – của ông bạn vàng Trung Quốc) để thực hiện cuộc “Cách mạng 5G” dù sao cũng là một dấu hiệu đáng suy nghĩ.
Thế giới đang chuyển động như vũ bão trên nền Văn minh Trí tuệ thần kỳ, mọi xu hướng, mọi Chủ nghĩa, dù khác nhau nhưng nếu cứ bám lấy tư duy tư biện sơ cứng của mình thì đều là tự sát. Tất nhiên không ai muốn bị đào thải, ĐCSVN cũng vậy. Giấc mơ “Bác Hồ đã khuyên nên Dân chủ đa nguyên-Tam quyền phân lập” vừa như đùa vừa như thật biết đâu chẳng có lúc phải ló ra và biến dạng, một khi ĐCSVN nhận ra đó là sinh lộ không thể khác?.
Trong cuộc cạnh tranh sinh tồn hiện đại này, chẳng có ai ngu cả, nên thực lòng chẳng dám khuyên ai. Chỉ xin thành tâm chốt lại một niềm tâm sự:
Làm gì thì làm, Dân phải được hưởng nền Văn minh Tự do và Hạnh phúc! Sức mạnh đẩy thuyền và lật thuyền của lòng yêu nước là sức mạnh có thật trong máu người VN, lịch sử đã, đang và sẽ chứng minh. Chân thành thì sống, khôn vặt cũng chết, không lừa được nhau đâu. Nói yêu nước mà chặn Dân chủ, mà tăng cường bộ máy công an đến tận thôn xóm, mà đánh đập người nói lẽ phải, mà khéo mồm để tay vét túi dân thì không xong đâu. Tiểu kỷ không thể lừa Đại nghĩa, Tư lợi không thể trùm lên Công ích- Công tâm.
Năm 2014 tôi có đọc được một bài trên Tạp chí CS ca ngợi chiến thuật “mở đường lui cho địch” trong kế sách giữ nước của cha ông. Với kẻ thù xâm lược, khi có cơ hội ta còn mở đường cho địch rút lui, huống chi mâu thuẫn giữa dân chủ và độc tài chỉ là mâu thuẫn trong nội tình một Dân tộc VN mình? Hận thù nên cởi-không nên buộc, chỉ cần người đã nghĩ sai, làm sai phải biết lỗi mà sửa, mà bài viết nhỏ này xin góp mấy suy tư cặn kẽ, đã ôm ấp từ lâu, để cùng nhau phân định lỗi lầm, mong được quan tâm tham khảo một chút mà thôi.
Chủ nghĩa CS đã được thực tiễn và cả thế giới văn minh chứng minh là con đường sai lầm và phản tiến hóa thì phải từ bỏ, mọi cách làm khác đều chỉ là ngụy biện và lừa bịp!
Nói chuyện “giấc mơ” cũng là một mong ước từ lòng nhân ái, cũng là chiến thuật “mở đường lui cho địch” của cha ông chúng ta (mà chính Tạp chí CS cũng đã ca ngợi). Nhưng mở đường lui cho ĐCSVN trở về với Dân tộc thành “người tử tế” có chút khả năng hiện thực nào không, thực tiễn hành động sắp tới của ĐCSVN sẽ trả lời nhân dân một lần cuối.
H.S.P.
19/5/ 2019