17 tháng 2, 2019

'Trung Quốc dự liệu đúng về Liên Xô khi tấn công Việt Nam năm 1979'
Lãnh đạo Bắc Kinh phán đoán Liên Xô không mạo hiểm huy động lực lượng lớn đánh trả Trung Quốc, dù Việt - Xô quan hệ khăng khít. Cách đây 40 năm (17/2/1979), Trung Quốc nổ súng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, gây nhiều đau thương cho người dân. VnExpress có cuộc trao đổi với Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng về những mưu toan của Bắc Kinh khi gây chiến.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân. Ảnh: Gia Chính
- Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc rạn nứt từ thời điểm nào, thưa ông? 
- Để hiểu rõ hơn, cần đặt mối quan hệ Việt - Trung trong mối quan hệ cũng như tính toán chiến lược giữa các nước lớn. Cụ thể là giữa Việt Nam - Trung Quốc; Liên Xô - Trung Quốc và Liên Xô - Mỹ. Giai đoạn 1950-1964 được coi là thời kỳ "trăng mật" của quan hệ Việt - Trung. Hai nước là láng giềng gần gũi, hữu nghị truyền thống, chung ý thức hệ, chung nhu cầu đảm bảo an ninh quốc gia. Vì thế Trung Quốc là nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Việt Nam cũng luôn ủng hộ đường lối đối ngoại của Trung Quốc, tuy không ký kết bất kỳ hiệp định đồng minh chính thức nào. 

Dù vậy, Bắc Kinh luôn giữ tư tưởng bề trên. Luôn nói "không gây sức ép về chính trị, kinh tế thông qua viện trợ", nhưng Trung Quốc lại muốn Việt Nam thừa nhận vai trò lãnh đạo của nước này với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và thế giới.

Từ giữa thập niên 1960, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai mâu thuẫn, đối đầu toàn diện. Để tránh Việt Nam đứng về phía Trung Quốc, Liên Xô tìm cách lôi kéo Việt Nam.

Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ đánh du kích có giới hạn chống Mỹ, để họ dễ bề điều khiển, phục vụ ý đồ bắt tay với Mỹ. Trong khi Việt Nam muốn thống nhất đất nước. Việt Nam cũng muốn trực tiếp đàm phán với Mỹ, không qua trung gian và đã đàm phán từ năm 1968. Còn Trung Quốc thì phản đối, muốn Việt Nam tiếp tục chiến tranh đến khi Mỹ chấp nhận thua cuộc mới đàm phán.

Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và Trung - Mỹ ra thông cáo chung. Có ý kiến coi hành động này là sự phản bội của Trung Quốc. Cùng với đó, Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội đàm phán với Mỹ.

Năm 1974, Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) trong sự làm ngơ của Mỹ. Một năm sau, Việt Nam và Liên Xô ra Tuyên bố Việt - Xô, xác định quan hệ toàn diện giữa hai Đảng. Tháng 11/1978, Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị, hợp tác. Cùng năm đó, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) và được Liên Xô gọi là "tiền đồn đáng tin cậy của các nước XHCN ở Đông Nam Á".

Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh trong 25 năm. Theo đó, Cam Ranh trở thành nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống, máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô. Việt - Xô gần gũi và thân thiết bao nhiêu, thì lãnh đạo Trung Nam Hải lúc ấy tức tối bấy nhiêu.

Sau năm 1975, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pol Pot ở Campuchia, đây cũng là khoảng thời gian đội quân này mạnh tay tàn sát dân lành Việt Nam dọc biên giới Tây Nam, đẩy mâu thuẫn hai nước thêm gay gắt.

Khi Việt Nam đưa quân phản kích Pol Pot, giúp nhân dân Chùa Tháp thoát khỏi nạn diệt chủng thì quan hệ Việt - Trung lao dốc.


- Tam giác quan hệ Xô - Trung - Mỹ ảnh hưởng ra sao đến việc Bắc Kinh quyết định tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam?
- Đầu thập niên 1970, lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu chống Liên Xô, dựa trên cơ sở hướng tới hợp tác với Mỹ. Tuy nhiên thời điểm này Washington không hưởng ứng. Trung Quốc tin rằng lý do là Mỹ đang quan tâm hơn đến chính sách hoà dịu với Liên Xô.
Khi Trung Quốc lập liên minh chống Liên Xô, Việt Nam phản đối. Trung Quốc giảm mạnh viện trợ và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Một trong những điều kiện để Trung Quốc nối lại viện trợ là Việt Nam phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô. Trước việc Việt Nam quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc gọi Việt Nam là "tiểu bá", còn Liên Xô là "đại bá".
Đặc biệt sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27/1/1973), quan hệ Trung - Xô - Việt phức tạp hơn, lợi ích và xung đột về kinh tế, chính trị đan xen, rạn nứt Việt - Trung ngày càng rõ nét. 
Ngày 1/11/1977, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc gọi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất và coi Mỹ là đồng minh. Đầu tháng 4/1978, Liên Xô tuyên bố sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới. Mặt khác, Liên Xô cố gắng kéo dài hiệp ước hữu nghị, hợp tác Xô - Trung ký năm 1950 nhưng Trung Quốc tuyên bố chấm dứt sớm một năm.  
Đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô và tập trung 1,5 triệu quân dọc biên giới hai nước. Ngược lại, Liên Xô triển khai hơn 40 sư đoàn, thường xuyên tập trận bắn đạn thật. 
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP
Trung Quốc tin rằng Liên Xô và Việt Nam đang phối hợp để đe doạ nước này, nhất là Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng khó chịu vì nỗ lực của Việt Nam trong việc thiết lập quan hệ đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Campuchia. Thậm chí, Bắc Kinh cho rằng Liên Xô hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào đánh đuổi Pol Pot, giải phóng Campuchia. Vậy nên dưới góc nhìn của Trung Quốc, Việt Nam là mối đe doạ quân sự nghiêm trọng, cần thiết phải phát động cuộc chiến tranh "trừng phạt". 
- Cuộc xâm lược dưới danh nghĩa "trừng phạt" đó được lên kế hoạch như thế nào?
- Khi bàn kế hoạch tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã tính toán kỹ các khả năng Liên Xô có thể đáp trả. Họ nhận định Liên Xô sẽ không mạo hiểm huy động lực lượng lớn để tấn công Trung Quốc song có thể xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số lưu vong tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân Cương hoặc gây đụng độ nhỏ kích động căng thẳng ở biên giới. 
Các lãnh đạo Trung Quốc phán đoán cuộc tấn công Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn sẽ không đủ để kích thích Liên Xô can thiệp trực tiếp hay quốc tế phản đối. Tuy vậy, Bắc Kinh vẫn di tản dân gần đường biên và lệnh các đơn vị quân đội ở biên giới với Liên Xô sẵn sàng chiến đấu.
Việc tấn công Việt Nam còn để Bắc Kinh thăm dò khả năng giúp đỡ của Liên Xô và khả năng phòng thủ của Việt Nam khi là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Đến nay nhìn lại, cần thừa nhận rằng Trung Quốc đã dự liệu đúng phản ứng của Liên Xô.
Đối với Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một chấn thương nặng nề mà họ đang ôm trong lòng. Đồng thời, Mỹ muốn tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để tạo thế cân bằng trước Liên Xô. 
Trung Quốc nhận thấy điều đó nên hy vọng bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ cải thiện vị trí chiến lược của nước này, tạo điều kiện thuận lợi cho cải cách kinh tế. Xa hơn, đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ thuyết phục Mỹ rằng hai nước có lợi ích chung và sẵn sàng hợp tác chống Liên Xô.
Vì vậy, Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam ngay sau chuyến công du Mỹ của Đặng Tiểu Bình. 
- Còn vấn đề Hoa kiều thì sao thưa ông?
- Tháng 4/1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, ít nhiều liên quan tới người Hoa là thương nhân, nhà sản xuất, tiểu thủ công nghiệp... Đây là công việc đối nội của Việt Nam, nhưng Trung Quốc coi là sự thách thức với chính sách bảo vệ Hoa kiều của Bắc Kinh. Phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam nổi lên. Trung Quốc loan tin trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa hai nước, khiến cộng đồng người Hoa hoảng hốt.
Năm 1978, người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Đến tháng 2/1979, đã có khoảng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua cửa khẩu Hữu Nghị. 
Trung Quốc lập các trạm đón tiếp dọc biên giới và đưa tàu sang đón người Hoa về. Ngày 12/7/1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới với Việt Nam, làm cho hàng vạn người Hoa muốn về Trung Quốc bị kẹt tại biên giới.
Đặng Tiểu Bình lấy cớ cho rằng Hà Nội "vong ơn, bội nghĩa" tạo thêm sức ép cho quyết định tấn công Việt Nam.
- Cuộc phản công Pol Pot của Việt Nam ở biên giới Tây Nam ảnh hưởng ra sao đến kế hoạch của Bắc Kinh?
- Theo tài liệu của Trung Quốc, tháng 9/1978, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã họp bàn về vấn đề xung đột biên giới với Việt Nam. Lúc đầu, Bắc Kinh dự định tiến hành chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Tuy nhiên, sau khi có tin Việt Nam sắp phản công tự vệ ở biên giới Tây Nam và tiến công Pol Pot ở Campuchia, thì đa số giới lãnh đạo Bắc Kinh đặt quyết tâm, bất kỳ hành động quân sự nào cũng phải gây ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ chủ trương tiến công các đơn vị quân chính quy của Việt Nam trên địa hình rộng lớn. 
Riêng Đặng Tiểu Bình nhìn thấy cả thách thức lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách giải quyết tốt nhất là hành động quân sự. Tháng 1/1978, trong chuyến thăm chính thức Thái Lan, Malaysia, Singapore nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn, Đặng tuyên bố sẽ tiến công Việt Nam nếu nước này tiến vào Campuchia. Trong chuyến thăm này, Đặng tuyên bố với báo giới "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học". Hôm sau, báo chí Trung Quốc rút gọn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học".
Ngày 7/12/1978, Hội nghị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc họp và quyết định phát động "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam". "Mệnh lệnh triển khai chiến lược" được ban hành một tháng sau đó, nêu rõ mục đích cuộc chiến là "chi viện cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia chống Việt Nam xâm lược".
- Bắc Kinh đã tính toán như thế nào khi huy động 600.000 quân trong cuộc tấn công xâm lược này thưa ông?
- Lúc đầu Bắc Kinh dự tính sử dụng 6 quân đoàn chủ lực đánh 3-5 ngày vào một số huyện biên giới, tiêu diệt một đến hai sư đoàn Việt Nam. Ngày 31/12/1978, Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định mở rộng quy mô chiến tranh, tăng thêm 3 quân đoàn, đổi mục tiêu tấn công huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới; thời gian kéo dài lên 15-20 ngày, nhằm tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam. 
Sự chuẩn bị của Bắc Kinh diễn ra khá lâu trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê Kông đã chứng minh rõ ràng việc Trung Quốc rêu rao "trả đũa" Việt Nam tiến quân vào Campuchia chỉ là cái cớ. Từ lâu, Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng bá quyền nước lớn, ngấm ngầm tìm cách đánh Việt Nam. 
Trung Quốc coi cuộc chiến chống Việt Nam là phép thử với quan hệ Xô - Việt và lôi kéo Mỹ cùng chống lại Liên Xô. Đó mới là lý do sâu xa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc từ tháng 2/1979.
- Việt Nam đã ứng phó ra sao trước âm mưu và hành động của Bắc Kinh?
- Đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, Việt Nam tăng cường chuẩn bị các vị trí phòng ngự, sẵn sàng cho cuộc chiến. 
Lúc đó ở ta cũng có ý kiến tự hào vì được trang bị vũ khí của Liên Xô và của Mỹ thu hồi được, hơn hẳn trang bị của quân đội Trung Quốc. Tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi nổ súng, rằng chiến dịch quân sự này sẽ "giới hạn về không gian và thời gian" khiến có người tin tưởng khả năng cầm chân quân Trung Quốc ở biên giới chỉ bằng dân quân và bộ đội địa phương. 
Chúng ta đã huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân các tỉnh biên giới. Ngày 1/1/1979, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15/2/1979, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến một được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Một số đơn vị cho một phần bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, điều chỉnh lại đội hình.
Ngày 12/2/1979, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ra mệnh lệnh tấn công Việt Nam vào sáng 17/2.
Sáng sớm hôm đó, Trung Quốc huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân đoàn chủ lực ồ ạt tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam. Cùng ngày, Nhân dân Nhật báo đăng bài "Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu - báo cáo từ biên giới Trung-Việt" như cách công bố với thế giới Bắc Kinh đã tấn công Việt Nam. 
Trung Quốc còn thâm độc khi lựa chọn tấn công vào ngày Thứ Bảy. Khi đó, các phương tiện truyền thông còn khá lạc hậu, nên phải đến đầu tuần sau thông tin chi tiết về cuộc chiến cũng như phản ứng của Việt Nam mới được thế giới biết đến rộng rãi. 
Viết Tuân
https://vnexpress.net/40-nam-cuoc-chien-bao-ve-bien-gioi-phia-bac/trung-quoc-du-lieu-dung-ve-lien-xo-khi-tan-cong-viet-nam-nam-1979-3877111.html?fbclid=IwAR1qMM1H0COKcNH1_luSo5fGS5Skia6rDeJDP5B4N1mik1_PfQtGZv9DG94

13 tháng 2, 2019

Chiến tranh Việt-Trung 1979: Nguyên nhân và mục tiêu


Tác giả: Việt Long
Kính tặng những người đã đổ máu, sức lực cho biên giới mãi trường tồn
Ngoại giao bóng bàn và các chuyến đi bí mật của cố vấn Kissinger đã đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung năm 1972 tại Thượng Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi hẳn các tính toán của các bên trong ván bài Đông Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động của Bắc Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trung Quốc muốn duy trì hai miền Việt Nam trước quyết tâm thống nhất đất nước của Hà Nội để có một vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam. Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình.
Tuy nhiên, Việt Nam thống nhất năm 1975 đã làm đảo lộn tính toán của các nước lớn. Trong khi Việt Nam hân hoan với viễn cảnh đất nước bước vào một kỷ nguyên mới vĩnh viễn độc lập, tự do thì những bóng mây của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ ba đã tích tụ. Trung Quốc không cam tâm để Việt Nam tuột khỏi quỹ đạo của mình. Một thế trận gọng kìm đã được giương lên từ cả biên giới phía Bắc và phía Nam. Việt Nam và Trung Quốc tố cáo nhau về các cuộc xâm phạm biên giới, dời trụ mốc, lấn chiếm lãnh thổ trên đất liền, về vấn đề người Hoa ở phía Bắc. Khmer Đỏ với sự giúp đỡ của Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở phía Nam. Cuộc tiến công của bộ đội tình nguyện Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Cứu nước Campuchia vào Phnom Penh đầu năm 1979 đã làm kế hoạch của Bắc Kinh có nguy cơ phá sản. Trong thời điểm quân chủ lực Việt Nam chưa rút về nước, Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc.
Cuộc chiến tranh này kéo dài suốt hơn 10 năm (1979-1990), để lại nhiều hậu quả cho phía Việt Nam. Nó cũng là đề tài bất tận cho các sử gia, các nhà phân tích và bình luận quan hệ quốc tế khai thác. Rất nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ hoặc có những đánh giá khác nhau. Tại sao Trung Quốc đánh Việt Nam? Cuộc chiến tranh này có thể tránh được không? Số lượng quân tham chiến mỗi bên? Ai thắng ai bại và số lượng tổn thất? Tại sao Trung Quốc lại chọn thời điểm tháng 2 năm 1979?…Các tài liệu chiến tranh đều không được hai bên giải mật. Phần lớn các bài viết, nghiên cứu là từ các tác giả nước ngoài. Trong phần này chúng tôi chỉ tập trung vào những nội dung chính liên quan đến tiến trình giải quyết biên giới lãnh thổ và trên cơ sở các tài liệu công khai.
Mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc
Cuộc chiến tranh này là do Trung Quốc phát động nên câu hỏi đầu tiên là Trung Quốc làm nhằm mục tiêu gì? Đâu là mục tiêu chính?
Phân tích Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc ngày 18/2/1979 và các phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc cho thấy sự sắp xếp các mục tiêu của Trung Quốc theo một trật tự: biên giới, chính trị, quân sự, kinh tế.
Mục tiêu biên giới
Tuyên bố chiến tranh của Chính phủ Trung Quốc được Tân Hoa xã phát hành ngày 17/2/1979 nêu rõ:
Chỉ trong vòng sáu tháng qua người Việt Nam đã xâm nhập có vũ trang 700 lần, giết hại và làm bị thương hơn 300 lính biên phòng và dân sự Trung Hoa. Bởi chính những hành động xâm lược điên cuồng đó nhà cầm quyền Việt Nam đã cố ý kích động và tăng căng thẳng dọc theo biên giới phía Nam Trung Hoa và ngăn cản chương trình canh tân xã hội chủ nghĩa Trung Hoa. Hành động xâm lược đó nếu không bị ngăn chặn, chắc chắn sẽ làm nguy hiểm cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á, và ngay cả toàn châu Á.
Lập trường kiên định của Chính phủ và nhân dân Trung Hoa là “chúng tôi sẽ không tấn công trừ phi chúng tôi bị tấn công, – nếu chúng tôi bị tấn công, chắc chắn chúng tôi sẽ phản công”. Các đạo quân biên phòng Trung Hoa hoàn toàn chính đáng để đứng dậy phản công khi họ vượt quá sự chịu đựng. Chúng tôi muốn xây dựng đất nước và cần một môi trường quốc tế hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Chúng tôi không cần một tấc (inch) đất nào của người Việt Nam nhưng chúng tôi không muốn sự xâm nhập phá hoại vào lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả điều chúng tôi muốn là một biên giới hòa bình và ổn định. Sau khi đánh trả đích đáng những kẻ xâm lược Việt Nam, lực lượng biên phòng Trung Hoa sẽ nghiêm chỉnh bảo vệ biên giới nước mình. Chúng tôi tin rằng lập trường của chúng tôi sẽ được sự hưởng ứng, cảm thông và hậu thuẫn của các nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình và yểm trợ công lý ”.[1]
Theo tuyên bố này, hành động của Trung Quốc được biện minh bởi hai nguyên nhân: tranh chấp lãnh thổ và bảo vệ người Hoa. Mục tiêu nhất quán và cơ bản của chiến dịch năm 1979 là Phản kích tự vệ (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) , chống lại sự “tập trung một lực lượng vũ trang đông đảo dọc biên giới Việt – Trung và liên tiếp xâm nhập vào trong lãnh thổ Trung Hoa” để “có một đường biên giới hòa bình và ổn định” theo ý Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, mục tiêu cuộc chiến do Trung Quốc phát động là: “tiêu diệt một bộ phận lực lượng vũ trang của Việt Nam, phá hoại tiềm lực quốc phòng và kinh tế, chiếm đất đai của Việt Nam, kích động bạo loạn”.[2]
Drew Middleton, ký giả kỳ cựu của New York Times trên bài nhận định của mình ngày 26/2/1979 đã nhận định cuộc chiến mà ông Đặng nói có thể giống một cuộc chiến tranh mà Cộng sản Trung Hoa đã phát động năm 1962-1963 trên biên giới phía Bắc Ấn Độ để thực hiện điều mà Cộng sản Trung Hoa mong muốn là thiết lập một làn ranh giới mới mà họ cho rằng đó là đường biên giới của họ. Nhận định này sau này đã được chứng minh chính xác như một mục tiêu đầu tiên trong các mục tiêu Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến. Tuy tuyên bố không xâm phạm tấc đất nào của Việt Nam nhưng diễn biến chiến tranh cho thấy Trung Quốc chủ ý thay đổi biên giới có lợi cho mình, nhất là tại những nơi Công ước Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để, hợp pháp hóa các vùng đất người Hoa đã sinh sống sang phía Việt Nam, chiếm đóng và khống chế một số điểm cao, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán đồng thời nhằm đánh bại ý chí của Việt Nam trong tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và buộc rút quân khỏi Campuchia.
Để đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc đã chú trọng đẩy mạnh xung đột biên giới như một trong ba mũi giáp công gây sức ép với Việt Nam sau 1975: Pol Pot tấn công ở Tây Nam; xung đột biên giới và vấn đề Hoa kiều; cắt viện trợ, bỏ dở các công trình hợp tác và triệu hồi chuyên gia từ ngày 3/7/1978.
Tài liệu Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết: “Nếu số vụ khiêu khích lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc năm 1975 là 234 vụ, gấp rưỡi năm 1974, thì năm 1978 tăng vọt lên 2.175 vụ, gấp mười lần”.
Theo Nguyễn Ngọc Minh,[3] từ 1974 tới tháng 1/1979, Bắc Kinh đã gây ra 4.563 vụ xâm lấn biên giới, gây hận thù dân tộc (1974: 179 vụ; 1975: 294 vụ; 1976: 812 vụ; 1977: 873 vụ; 1978: 2175 vụ; 1979: trước ngày 17/2/1979, 230 vụ). Tài liệu của Huỳnh Văn Trình cho biết: năm 1974 – 179 vụ, trong đó có vụ rất nghiêm trọng xảy ra vào 01/6/1974 (500 lính và dân binh Trung Quốc bao vây chiến sĩ biên phòng Việt Nam suốt 24 giờ ở Phia Un (Trà Lĩnh – Cao Bằng) và vào 16/6/1974 (gây ẩu đả ở khu vực Phai Luông – Sóc Giang, Cao Bằng; dùng hàng ngàn người gây nên trận “mưa đá” làm hàng chục dân Việt Nam bị trọng thương); năm 1975 – 294 vụ (gấp đôi năm 1974); năm 1976 – 812 vụ (gấp 4 lần năm 1974), trong đó 10 lần dùng lực lượng từ 1000 đến 3000 người bao vây chiến sĩ biên phòng, 3 lần cướp giật vũ khí, gây xô xát … làm cho số bị thương của Việt Nam  lên đến 300 người; năm 1977 – 873 vụ, trong đó 25 lần dùng lực lượng đông người với hung khí  (búa, xà beng, súng cao su bắn tên sắt) và hành vi côn đồ gây thương tích cho 413 người Việt Nam, bắt đi 17 người (trong đó 15 chiến sĩ biên phòng); năm 1978 – 2175 vụ (gần gấp 3 lần năm 1977) với 24 vụ nổ súng làm chết và bị thương 72 dân và chiến sĩ biên phòng Việt Nam.[4]
Tài liệu của Trung Quốc cho rằng “từ năm 1975 đến 16 tháng 2 năm 1979, trước ngày Trung Quốc buộc phải thực hiện hành động đánh trả để tự vệ, nhà cầm quyền Việt Nam liên tục gây ra khiêu khích vũ trang và liên tiếp gây ra các sự kiện xâm lược với số vụ ngày càng tăng. Số liệu các sự việc đó như sau: năm 1975: 439 vụ; năm 1976: 986 vụ; năm 1977: 572 vụ; năm 1978: 1108 vụ; năm 1979 (tính đến ngày 16 tháng 2 năm 1979): 129 vụ.”
Khó có thể đánh giá con số nào là chính xác và sự thực ai là bên gây hấn, nước nhỏ hay nước lớn, do các tài liệu chính thức chưa được giải mật. Song một điều hiển nhiên chúng chứng minh tình hình biên giới đã căng thẳng gấp nhiều lần so với trước và đã xảy ra trước khi quân tình nguyện Việt Nam tiến sang Campuchia.
Vấn đề người Hoa cũng bị cuốn hút vào trò chơi chính trị, gây bất ổn trên biên giới. Nguyên nhân chính là sự khác biệt trong chính sách của hai nước đối với bộ phân dân cư này. Trung Quốc coi đó là Hoa kiều ở Việt Nam còn Việt Nam thì có chính sách coi đó là người Việt gốc Hoa, một bộ phận trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Do những nguyên nhân lịch sử đến năm 1954, Hoa kiều cư trú tại Việt Nam ước chừng hơn 1,5 triệu người, trong đó khoảng 80% Hoa kiều tập trung ở miền Nam Việt Nam. Chỉ tính số người Hoa sinh sống ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã chiếm khoảng trên 50% tổng số Hoa kiều ở Việt Nam. Hoa kiều ở miền Bắc có khoảng 300 ngàn người, phần lớn tập trung ở tỉnh Quảng Ninh 180 ngàn người, thành phố Hải Phòng hơn 50 ngàn người, và Hà Nội.
Năm 1955, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thỏa thuận là người Hoa ở miền Bắc là do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam. Trong vòng 20 năm (1955-1975), người Hoa ở miền Bắc được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam. Còn người Hoa ở miền Nam, từ năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, đã vào quốc tịch Việt Nam để được hưởng nhiều điều kiện dễ dàng trong việc làm ăn sinh sống.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện sự thỏa thuận năm 1955 giữa hai đảng về người Hoa ở miền Bắc, đồng thời tôn trọng thực tế lịch sử về người Việt gốc Hoa ở miền Nam, coi người Hoa ở cả hai miền là một bộ phận trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam đã sát cánh cùng các dân tộc anh em khác và có nhiều đóng góp trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng CNXH ở miền Bắc.
Việt Nam đề xuất đàm phán vì vấn đề người Hoa rất dễ giải quyết trên tinh thần những người đã vào quốc tịch Việt Nam, đã là một bộ phận người Việt gốc Hoa, được hưởng mọi quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam yên tâm ở lại, có một cuộc sống bình thường, không lo lắng, cùng với toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và cuộc sống hạnh phúc, phồn vinh cho chính họ. Những người đã vào quốc tịch Việt Nam và những người chưa vào quốc tịch Việt Nam nay muốn rời Việt Nam sẽ được cho phép bởi chính quyền Việt Nam sau khi họ thực hiện đầy đủ các thủ tục xuất cảnh và được phép mang theo đầy đủ tài sản. Những người không phải quốc tịch Việt Nam mong muốn ở lại Việt Nam sẽ được đối xử như những người nước ngoài định cư khác.[5]
Ngược lại, phía Trung Quốc phủ nhận thực tế lịch sử về những người Việt gốc Hoa ờ miền nam Việt Nam đã vào quốc tịch Nam Việt Nam, cho rằng chính sách của chính quyền Ngô Đình Diệm bắt người Hoa vào quốc tịch Việt Nam là phản động. Bắc Kinh cho rằng vấn đề người Hoa ở miền Nam Việt Nam, chiếm 90% người Hoa ở Việt Nam phải được giải quyết bằng tham vấn hai bên sau khi Việt Nam thống nhất.[6] Trong khi hai bên chưa thống nhất thì người Việt gốc Hoa tại Nam Việt Nam dù đã vào quốc tịch Việt Nam từ 1956 vẫn được coi là kiều dân Trung Quốc. Bắc Kinh đã triển khai lập các tổ chức “Hoa kiều hòa bình liên hiệp hội”, “Hoa kiều tiến bộ”, “Hoa kiều cứu vong hội”, “Đoàn thanh niên chủ nghĩa Mac – Lenin”, “Hội học sinh Hoa kiều yêu nước”, “Mặt trận thống nhất Hoa kiều”..,v.v.. mà không có sự đồng ý của Hà Nội.[7] Các tổ chức này tuyên truyền, nhập khẩu cách mạng văn hóa. Sau năm 1972, khi Trung-Mỹ bắt tay, người Việt Nam cảm thấy cuộc chiến đấu chống Mỹ của mình bị phản bội nên bắt đầu nhìn nhận những tổ chức này dưới con mắt ngờ vực. Các tổ chức này đã có những hoạt động chống lại các chính sách của chính quyền, chống lệnh đăng ký nghĩa vụ quân sự, chống việc đi xây dựng vùng kinh tế mới, kích động tâm lý huyết thống trong người Việt gốc Hoa, khơi lên phong trào đòi trở lại quốc tịch Trung Quốc. Sau năm 1975, một số chi bộ Hoa Kiều ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có vũ trang.[8] Để đối phó với sức ép chiến tranh biên giới Tây Nam, Việt Nam siết chặt chính sách một quốc tịch. Các hoạt động in tiền giả, đầu cơ tích trữ, nâng giá hàng trong một bộ phận tư sản mại bản, phá kế hoạch ổn định và phát triển kinh tế của các cơ quan Nhà nước ở miền Nam là nguyên nhân Việt Nam tiến hành cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp” năm 1978. Nó tác động đến hàng loạt các nhà tư sản trong đó có nhiều người Việt gốc Hoa.[9] Truyền thông Trung Quốc vu cáo Việt Nam “xua đuổi, bài xích, khủng bố người Hoa”, gây ra vấn đề “nạn kiều” cưỡng bức người Hoa ở Việt Nam ồ ạt di cư đi Trung Quốc. Hai tàu của Trung Quốc có tên Minh Hoa (Minghua) và Trường Lý (Changli) không có phép của Việt Nam đã được đưa ngay vào cảng Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh để đón người nhập cư và gây áp lực với chính quyền sở tại. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc kích động quần chúng người Việt gốc Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam một tâm trạng hoang mang, lo sợ chiến tranh sắp nổ ra, một tâm lý nghi ngờ, thậm chí thù ghét người Việt Nam, khiến họ ồ ạt kéo đi Trung Quốc. Đây là động thái gây xáo trộn về chính trị, xã hội, kinh tế ở Việt Nam, như họ đã làm ở một số nước Đông Nam châu Á và Nam Á trước kia, đồng thời kích động dư luận Trung Quốc, chuẩn bị sẵn sàng “đạo quân thứ năm” cho việc tiến hành xâm lược Việt Nam trong bước sau.[10] Tại biên giới phía Bắc, Trung Quốc tổ chức cho người Việt gốc Hoa  vượt biên giới trái phép rồi lại chặn họ lại, gây ra ùn tắc ở biên giới Việt – Trung để dễ bề kích động họ chống lại và hành hung những nhà chức trách Việt Nam ở địa phương. Chỉ riêng trong ngày 28/7/1978, đã có tới 4.000 người bị mắc kẹt tại biên giới do công an Trung Quốc không muốn đón “những khúc ruột ngoài ngàn dặm” khi họ không có giấy nhập cảnh của Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, còn công an Việt Nam chỉ đón nhận những người có quốc tịch Việt Nam. Đáng chú ý, trong khi phản ứng với chính sách một quốc tịch của Việt Nam thì Trung Quốc lại có một bước đi trái ngược và dứt khoát liên quan đến Hoa kiều – “đội quân thứ năm” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và ở nước ngoài. Hoa kiều được khuyến khích nhập quốc tịch nước sở tại. Trung Quốc thôi nhấn mạnh quan hệ huyết thống giữa cộng đồng người Hoa ở các nước này với lục địa; người Hoa đang sinh sống ở nước ngoài không còn đương nhiên được coi là công dân Trung Quốc; dỡ bỏ các đài phát thanh dành riêng cho cộng đồng người Hoa[11]…. Những chính sách nêu trên nhằm dẹp bớt những nghi kỵ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc tồn tại lâu đời nay, tranh thủ sự ủng hộ của các nước này khi Trung Quốc tấn công Việt Nam, chống  “tiểu bá” Việt Nam và “đại bá” Liên Xô.[12] Trung Quốc cũng có chính sách phân biệt giữa Việt Nam và Campuchia. Bắc Kinh đã không nói gì ngay cả khi Pol Pot thanh lọc người gốc Hoa. Khi cuộc diệt chủng khởi sự, nhiều người gốc Hoa và dân Campuchia đã chạy trốn sang Việt Nam. Dưới thời Polpot, đồng minh của Trung Quốc, thống trị Campuchia, có tới hơn 200 ngàn Hoa kiều bị Khmer Đỏ bức hại. Song chính quyền Trung Quốc đã không lên án hành động diệt chủng này. Trung Quốc lại lấy việc cứu vớt Khmer Đỏ diệt chủng làm lý do để tấn công Việt Nam.
Trung Quốc cáo buộc “đến cuối năm 1978, đã có 200 ngàn Hoa kiều và công dân Việt Nam gốc Hoa bị xua đuổi về Trung Quốc, đã buộc phía Trung Quốc phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về các mặt kinh tế và xã hội vv … Các cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề người Hoa bế tắc. Ngày 8/8/1978, Bắc Kinh tố cáo Hà Nội đang vi phạm Thỏa thuận 1955 giữa hai chính phủ về tình trạng Hoa Kiều.
Cần kinh phí hỗ trợ Hoa kiều hồi hương là lý do để lần đầu tiên, tháng 5 năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
Người Hoa ở Việt Nam ít nhất cũng trên 20 năm, được tạo điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam, có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật sở tại. Chính tài liệu của Trung Quốc cũng thừa nhận có bộ phận người Việt gốc Hoa nhưng họ lại đặt yếu tố Hoa Kiều lên cao hơn, đòi hỏi có quyền chi phối quyền lợi của những người này bỏ qua chính quyền địa phương. Bắc Kinh cố tình tạo hình ảnh Hà Nội bài Hoa, vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Ngược lại người Việt Nam tức giận vì công việc nội bộ bị can thiệp và sự “phản bội đồng chí” của Trung Quốc khi bắt tay với Mỹ. Việc gần 20 vạn người Việt gốc Hoa đột nhiên bỏ ruộng đồng, nhà máy đi Trung Quốc đã đưa đến cho Việt Nam những khó khăn gấp bội trong cùng thời điểm phải đối phó với những thiệt hại nghiêm trọng do những trận bão, lụt nặng nề nhất ở Việt Nam trong hàng trăm năm qua gây ra cũng như sự cắt đứt viện trợ từ Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới phía Bắc, rất nhiều tù binh bị Việt Nam bắt giữ là người Hoa ở Việt Nam đi Trung Quốc. Họ đã được chọn lựa đưa vào những “sư đoàn sơn cước” chuyên đánh rừng núi, thọc sâu vào hậu phương, hoặc những đơn vị đi trước mở đường, hoặc những đơn vị thám báo, dẫn đường, bắt cóc, ám sát, phá hoại cầu cống, kho tàng của Việt Nam vì đã làm ăn sinh sống lâu đời ở Việt Nam, thông thạo địa hình, phong tục, tập quán, có nhiều cơ sở quen thuộc cũ, có nhiều khả năng nắm được nhiều tin tức, tình hình.
Các nghiên cứu quốc tế khác hướng sự chú ý tới các mục tiêu khác không được viết rõ trong Tuyên bố chiến tranh của Trung Quốc hơn là mục tiêu biên giới lãnh thổ.
Theo Robert D. Mcfaddenm đó là các nguyên nhân sau:
  1. Việc Cộng sản Việt Nam nghiêng về phía Liên Xô làm tăng lo sợ cho Trung Quốc.
  2. Việt Nam đánh tư sản mại bản xua đuổi 1,2 triệu người Việt gốc Hoa đã khiến Cộng sản Trung Hoa có lý lẽ tấn công.
  3. Cuộc tranh cãi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
  4. Cộng sản Việt Nam xâm lăng Campuchia, một nước đàn em do Cộng sản Trung Hoa đỡ đầu.
Womack lập luận rằng các vấn đề đã dẫn đến cuộc chiến tranh Trung Hoa – Việt Nam bao gồm, “liên minh của Việt Nam với Liên Xô, cuộc xâm lăng của Việt Nam vào Campuchia trong tháng 12 năm 1978, sự ngược đãi và trục xuất người gốc Hoa của Việt Nam, và các tranh cãi về lãnh thổ”.[13]
Như vậy, ngoài mục tiêu biên giới, chúng ta có thể xem xét đến các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế của cuộc chiến biên giới 1979 mà Trung Quốc hướng tới.
Mục tiêu chính trị là buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu được chính quyền Pol Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin cậy.[14]
Bắc Kinh rõ ràng muốn dạy cho Việt Nam một bài học vì đã xâm lược Campuchia, đồng minh của Trung Quốc. Hai ngày sau khi quân tình nguyện Việt Nam vào Phnom Penh, Nhân Dân Nhật báo đăng xã luận cảnh cáo rằng “sự chiếm đoạt Phnom Penh bởi Việt Nam không có nghĩa là kết thúc mà đúng ra là sự khởi đầu chiến tranh”.[15] “Bắc Kinh đã nhìn biến cố đó (Việt Nam đưa quân vào Campuchia) không phải với tư cách giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng, mà nhìn nó như việc hoàn tất sự theo đuổi của Việt Nam từ năm 1930 về một Liên bang Đông Dương dưới sự thống trị của Hà Nội”.[16] Nhân Dân Nhật báo liên tục đưa ra các bài xã luận: “Hà Nội đang theo đuổi một chính sách bành trướng khu vực, thiết lập một Liên bang Ðông Dương, dưới sự che chở hay đồng lõa của đế quốc xã hội chủ nghĩa Nga Xô”.[17]
Tại họp báo trong chuyến thăm Bangkok tháng 11/1978, Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định phương cách đối phó với chính sách bá quyền khu vực của Việt Nam, tùy thuộc vào việc Hà Nội thực hiện đến đâu cuộc xâm lược của nó đối với Campuchia”.[18] Tại Washington, ngày 31/01/1979, Đặng cảnh báo một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam có thể xảy ra do Việt Nam chiếm đóng Campuchia và những căng thẳng trên biên giới Việt-Trung. Trên đường về qua Tokyo, Đặng tuyên bố cần phải dạy Việt Nam một bài học.[19] Herbert S. Yee bình luận “Một trong các mục tiêu chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào  và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung Quốc hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương phòng vệ yếu kém, và việc tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa vào trong một vũng lầy” tại Campuchia. Mục tiêu này của Trung Quốc được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Campuchia khi biên giới phía bắc của Việt Nam chịu cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội ra khỏi Campuchia mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Moskva một duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.[20] Tuy nhiên, nếu so sánh mục tiêu biên giới và mục tiêu buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia thì mục tiêu biên giới vẫn là chủ đạo khi kế hoạch đánh Việt Nam đã được chuẩn bị từ trước khi bộ đội Việt Nam vượt biên giới theo lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng Campuchia để cứu những người anh em khỏi nạn diệt chủng.
Dạy Việt Nam một bài học, theo Trung Quốc, còn do Việt Nam xích lại gần Liên Xô, kẻ thù số một của Trung Quốc, hơn cả Mỹ. Nếu Việt Nam coi Thông cáo Thượng Hải năm 1972 là sự quay lưng của người anh lớn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình,[21] thì Trung Quốc coi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô ký ngày 03/11/1978 là sự phản bội của đứa em với vai trò lãnh đạo cách mạng thế giới của mình, là sự bắt tay giữa đại bá Xô-viết và tiểu bá phương Nam. Điều 6 của Hiệp ước Việt – Xô quy định: “Trong trường hợp một bên bị tấn công hay bị đe dọa tấn công, hai bên ký kết Hiệp ước sẽ ngay lập tức tham khảo ý kiến lẫn nhau với quan điểm nhằm loại bỏ mối đe dọa đó, và sẽ áp dụng biện pháp thích hợp và hiệu quả để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước”. Hiệp ước này làm cả Mỹ và Trung Quốc không hài lòng vì lo sợ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng xuống Đông Nam Á. Khả năng Liên Xô sử dụng căn cứ Cam Ranh để kiềm chế Mỹ và Trung Quốc cũng gây lo ngại. Thông cáo báo chí chung Trung-Mỹ ngày 01/01/1979 có đoạn: “Không  bên nào tìm kiếm bá quyền tại châu Á-Thái Bình dương hoặc bất kỳ khu vực nào của thế giới và mỗi bên sẽ chống lại những cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nước nào nhằm xác lập bá quyền”.[22]
Ngày 05/11/1978, khi thăm các nước ASEAN, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Hiệp ước Việt – Xô là mối de dọa đối với các nước ASEAN và kêu gọi thành lập Mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, bao gồm Trung Quốc và khối ASEAN. Đặng Tiểu Bình cũng công khai ý định dùng biện pháp quân sự đối phó với Việt Nam. Một trong những mục tiêu đối ngoại của Trung Quốc lúc đó là hạ thấp vai trò của Liên Xô, khẳng định trung tâm nước lớn, các nước nhỏ phải thần phục. Đặng Tiểu Bình lý giải một trong ba lý do lớn để “trận này nhất định phải đánh” là: “Hành động này không đơn thuần là chỉ để bảo vệ biên giới, nó liên quan đến tình hình Đông Dương, cục diện Đông Nam Á, nói rộng hơn là liên quan đến cục diện thế giới” và “nếu chúng ta không đánh trả thì Việt Nam sẽ ngày càng trở nên kiêu ngạo, thúc đẩy phương Bắc lấn tới” trong khi “Liên Xô đã có mặt ở Afghanistan, Iran và tiếp đến là ở Việt Nam, gia tăng mối đe dọa đối với chúng ta từ phía Đông, do vậy, chúng ta cần phải đánh Việt Nam”[23]. Đánh Việt Nam cũng là nước cờ của Bắc Kinh giảm thiểu khả năng bị kẹp giữa hai gọng kìm ảnh hưởng của Liên Xô, một từ biên giới Xô – Trung, hai từ biên giới Việt – Trung thông qua vai trò của Việt Nam, nước mới gia nhập câu lạc bộ Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECOM) do Liên Xô đứng đầu. Bruce Elleman nhận định “một trong những mục tiêu ngoại giao quan trọng nhất đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm phơi bày rằng, những đảm bảo hỗ trợ quân sự của Liên Xô với Việt Nam là lừa gạt. Phơi bày nó ra ánh sáng, chính sách của Bắc Kinh thực tế là một thành công ngoại giao, kể từ khi Moskva không tích cực can thiệp, vì vậy cũng cho thấy những hạn chế thực tế của hiệp ước quân sự Xô – Việt … Trung Quốc đã giành được một thắng lợi chiến lược bằng cách giảm thiểu khả năng tương lai của một cuộc chiến hai mặt trận chống lại Liên Xô và Việt Nam.[24] Đánh Việt Nam là nước cờ giải tỏa mối lo sợ vĩnh cửu về một sự bao vây chiến lược với Trung Quốc.
Đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ khẳng định được với Mỹ không sợ Liên Xô, sẵn sàng đoạn tuyện với hệ thống XHCN, hợp tác chặt chẽ với Mỹ chống Liên Xô. Đánh Việt Nam là một món quà cho Mỹ, mong muốn phát triển quan hệ với Mỹ.[25]
Mục tiêu quân sự: tiêu diệt một bộ phận chính quy của Việt Nam, kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các “cối xay thịt” để trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.
Mục tiêu kinh tế: làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, buộc phải phụ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu đối nội: Tấn công Việt Nam để chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa quân đội là quan trọng, Đối với cá nhân ông Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó còn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ. Theo Thẩm Thính Tuyết,[26] Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xô. Hai là, để xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976).
Tổng kết các nhận định trái chiều trên có thể thấy về thực chất, đây là cuộc chiến nhằm hợp pháp hóa tranh chấp lãnh thổ biên giới, và nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích quốc gia và chiến lược quốc tế của Bắc Kinh.
Nếu so sánh xung đột biên giới Việt-Trung 1979 với chiến tranh biên giới Xô – Trung 1969 ta thấy có những điểm khá tương đồng. Xung đột tháng 3 năm 1969 là cần thiết với Chủ tịch Mao Trạch Đông khi ông tỏ rõ ý định đoạn tuyện hẳn với Liên Xô, tìm cách ve vãn Mỹ và đồng minh, củng cố ưu thế lãnh đạo trước Đại hội IX Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1969, đồng thời sử dụng xung đột để tác động tới Đại Cách mạng Văn hóa trong nội địa. Kết quả cuối cùng của biến cố 1969 chính là sự bắt tay Mỹ-Trung tại Thượng Hải 3 năm sau. Cuộc chiến biên giới Việt – Trung cho Đặng Tiểu Bình cơ hội thu hút đầu tư Hoa Kỳ, hiện đại hóa quân đội và củng cố quyền lực trong nước. Kết quả sau chiến tranh là sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ và Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô. Trong cả hai sự kiện này Trung Quốc đều tuyên truyền chỉ có tính “tự vệ” song thực tế là bên chủ động nổ súng tấn công trước, kết thúc trong thời gian ngắn đủ để có được kết quả chính trị. Trong chiến tranh biên giới Việt – Trung, mục tiêu quan trọng nhất là hợp thức hóa các khu vực tranh chấp biên giới và nếu có thời cơ mới tiến sâu. Điều này lý giải, Trung Quốc chủ động rút quân ngày 5/3/1979 trước khi Việt Nam điều đủ lực lượng tinh nhuệ lên biên giới và tổng động viên cho chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống xâm lược.
Mục tiêu của Việt Nam
Về phía Việt Nam, mục tiêu cao nhất là bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, tính độc lập trong đường lối đối ngoại. Mục tiêu này thể hiện rõ trong Tuyên bố đáp lại của Chính phủ CHXHCN Việt Nam ngày 18/2/1979: “Trung Quốc đã mở ra một cuộc chiến tranh xâm lược trên suốt chiều dài biên giới của nước ta. Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, những kẻ cầm quyền Trung Quốc đã động viên một lực lượng vũ trang lớn lao gồm cả lính bộ binh, pháo binh và lực lượng xe bọc sắt mở ra một cuộc chiến xâm lược vào lãnh thổ nước ta dọc theo biên giới từ Phong Thổ và Lai Châu đến thành phố Móng Cái, Quảng Ninh. Chúng dùng pháo binh tầm xa bắn bừa bãi vào các thành phố, thị trấn, các khu dân cư và làng xã đông đúc nhằm mở đường cho các đơn vị xe bọc sắt và bộ binh để mở những cuộc tấn công sâu vào lãnh thổ nước ta. …Cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc tại biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc các vùng biên giới đang gìn giữ truyền thống anh hùng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, kiên quyết đánh trả bọn xâm lược Trung Quốc từ ngay trận đánh đầu tiên trên tuyến đầu của tổ quốc”.
Các mục tiêu chiến lược của Việt Nam, trong khi it được nghiên cứu và phát biểu hơn, có thể gồm:
  • Bảo vệ biên giới lãnh thổ phía Bắc.
  • Tiếp tục giúp đỡ Campuchia truy quét Pol Pot và bảo vệ biên giới Tây Nam.
  • Tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới chống sự xâm lược của Trung Quốc.
  • Tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô theo các nghĩa vụ cam kết của Hiệp ước Việt-Xô 1978 ở mức có thể (các cố vấn, tái tiếp tế các vũ khí then chốt, và sự hiện diện của hải quân) mà không làm khó cho Liên Xô về khả năng can thiệp quân sự trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh quy mô lớn.
  • Đánh bại về mặt chiến thuật lực lượng của Trung Quốc mà vẫn bảo toàn được các lực lượng chính quy, không phải rút quân từ Campuchia hay phải tổng động viên sâu rộng, gây tốn kém.[27]
Cuộc chiến 1979 được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo diễn biến và mục tiêu phía Trung Quốc đặt ra. Lúc đầu nó được gọi là cuộc chiến ‘dạy cho Việt Nam một bài học”, là “phản kích tự vệ”, sau đó lại đổi thành “đánh trả”, dù nghĩa đó dùng cho phía Việt Nam mới tương xứng. Việt Nam xác định Trung Quốc “phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km”.[28]Phương Tây gọi nó là cuộc chiến giữa những người anh em đỏ. Song cái tên đúng nghĩa về cả không gian và thời gian của cuộc chiến  vẫn là chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Cuộc chiến này được Trung Quốc coi là “phản kích tự vệ” các hành động xâm lược của Việt Nam, một nước có diện tích, số dân và tiềm lực kinh tế nhỏ hơn Trung Quốc hàng chục, hàng trăm lần. Cuộc chiến 1979 xảy ra ngay sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia để thực hiện quyền tự vệ chính đáng và cứu dân tộc anh em khỏi họa diệt chủng. Phía Trung Quốc hoàn toàn chủ động lựa chọn thời điểm tấn công, quy mô chiến tranh và chỉ phải đối phó với lực lượng dân quân du lích của Việt Nam trong khi quân chính quy Việt Nam còn ở phía Nam. Trên góc độ chính trị, quân sự, rõ ràng Việt Nam không có lý do gì để “xâm lược Trung Quốc”, tự tạo ra thế bị ép hai mặt, khó tránh khỏi diệt vong.
Phía Việt Nam cho rằng đây là một cuộc xâm lược, sử dụng lực lượng lớn quân vũ trang chính quy, vào sâu lãnh thổ Việt Nam hàng chục km. Cuộc chiến đấu của Việt Nam thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc, thực hiện quyền tự vệ chính đáng theo điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc. Đó cũng là suy nghĩ, đánh giá chung của đa số các bình luận quốc tế.
Nhà phân tích quân sự người Anh – Thiếu Tướng Shelford Bidwell, chỉ ra “mô hình dạy một bài học” của Trung Quốc lần đầu tiên áp dụng trong cuộc chiến tranh Trung Quốc – Ấn Độ 33 ngày năm 1962.  “Cuộc động binh này được thiết kế bề ngoài để dạy cho Ấn Độ một bài học cho sự ủng hộ được thấy rõ của Ấn Độ dành cho Dalai Lama và cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Cuộc tranh chấp biên giới đã là một duyên cớ thuận tiện được khai thác bởi phía Trung Quốc để phóng ra một cuộc xâm lăng đột ngột và chóng vánh (đã làm cho Ấn Độ hoàn toàn bị bất ngờ), gây ra một sự thất trận cục bộ đáng xấu hổ và sau đó thực hiện một màn triệt thoái đơn phương hào hiệp được sắp đặt để nhấn mạnh đến sự bất lực của quốc gia nạn nhân.  Cũng với cùng “mô hình dạy một bài học” này mà phía Trung Quốc đã quyết định làm lại đối với Việt Nam.  Bất hạnh thay hay nói cách khác, họ chung cuộc đã học được vài bài học quân sự cho chính họ — bài học đầu tiên trong đó là nhu cầu hiện đại hóa quân đội của họ”.[29] Gerald Segal  kết luận “những tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công”.[30]
Hai lý do chính liên quan đến biên giới mà Trung Quốc đưa ra trong thông cáo chiến tranh (vi phạm biên giới và bài xích người Hoa) để biện minh cho hành động phản kích tự vệ đều khó thuyết phục.
Giữa các nước láng giềng có biên giới chung thì những tranh cãi về biên giới lãnh thổ là khó tránh khỏi. Các tranh chấp biên giới này, theo luật quốc tế,  hoàn toàn có thể giải quyết hòa bình thông qua thương lượng đàm phán mà không cần tới sử dụng vũ lực, sử dụng chiến tranh. Trung Quốc đã đưa quân vượt biên giới đánh sang đất Việt Nam thì không thể gọi là “phản kích tự vệ”. Sự kiện này phải được xem xét theo đúng định nghĩa “xâm lược” trong luật quốc tế.
Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động nước lớn tự cho mình quyền bắt nạt nước bé”, một “hành động trả thù vô cớ”, một điều đi ngược với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của luật quốc tế, vi phạm nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế cũng như 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình mà Trung Quốc vẫn được coi là một bên sáng lập.
(Còn nữa)

11 tháng 2, 2019

Cuộc chiến chống quân xâm lược 
Trung Quốc tháng 2 năm 1979

VietNamnet
11/02/2019

Nguyên nhân sâu xa của việc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc đầu năm 1979 có phải là nhằm làm suy yếu một nước Việt Nam thống nhất?

LTS: Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975, Trung Quốc liên tục có những động thái làm xấu đi quan hệ giữa hai nước, như cắt giảm viện trợ, thúc đẩy Hoa Kiều Việt Nam hồi hương, hay giúp Khơ-me đỏ Campuchia tiến hành chiến tranh biên giới phía Tây Nam. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của việc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc đầu năm 1979 có phải là nhằm làm suy yếu một nước Việt Nam thống nhất?

Câu hỏi này cần phải được giải thích từ nhiều nguyên nhân, phân tích từ nhiều góc nhìn. Bắc Kinh từng lu loa họ phát động “cuộc chiến tranh phòng vệ” nhằm đem lại hòa bình cho khu vực biên giới, vốn đã trở nên hỗn loạn từ năm 1977, ảnh hưởng tới đời sống thường nhật của người dân Trung Quốc. Tuy nhiên, sau đó, ngày càng có nhiều bằng chứng được các học giả nước ngoài công bố, cho thấy Bắc Kinh có những mục đích chiến lược xa xôi, ấp ủ từ lâu.

Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979 do Bắc Kinh khơi mào còn nhằm thử phản ứng của Liên Xô và qua đó đánh giá khả năng tác chiến của Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA).

Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết đầu tiên trong chuyên đề Biên giới tháng 2/1979, mời quý vị độc giả tham khảo và chia sẻ thêm các góc phân tích về cuộc chiến. 

Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước năm 1975, Trung Quốc liên tục có những động thái làm xấu đi quan hệ giữa hai nước, như cắt giảm viện trợ, thúc đẩy Hoa Kiều Việt Nam hồi hương, hay giúp Khơ-me đỏ Campuchia tiến hành chiến tranh biên giới phía Tây Nam. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của việc tấn công Việt Nam ở biên giới phía Bắc đầu năm 1979 có phải là nhằm làm suy yếu một nước Việt Nam thống nhất?

Biên giới Việt – Trung đêm ngày 17 tháng 2 năm 1979 trong khi một bên vẫn vui sống hòa bình thì phía bên kia một lực lượng phản ứng nhanh gồm 8 đơn vị bộ binh (20 lữ đoàn) và các đơn vị hỗ trợ, tổng cộng 300.000 binh sĩ (lúc đỉnh điểm lên tới 800.000) đã được tập hợp, được trang bị 1.000 xe tăng, ít nhất 1.500 khẩu pháo.

Rạng sáng hôm đó, Trung Quốc bất ngờ đưa hơn nửa triệu quân cùng hàng nghìn xe tăng, xe cơ giới tràn qua biên giới Việt Nam, đồng loạt tấn công 6 tỉnh phía Bắc từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) trên chiều dài 1.200 km.

Đối mặt với quân xâm lược, ban đầu chỉ là lược lượng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Việt Nam.

Đồi núi được biến thành pháo đài với đường hầm, hố chông.

Bằng kinh nghiệm của gần 30 năm chiến tranh, Việt Nam đã chống trả dữ dội và chia thành các đơn vị nhỏ, cấp tiểu đội, tiểu tổ để dùng cách đánh du kích chống lại quân xâm lăng.

Sau ba tuần giao tranh, Trung Quốc đột ngột tuyên bố đạt được các mục tiêu và quyết định rút quân.

Kể từ năm 1979, đã xảy ra ít nhất 6 cuộc xung đột lớn ở biên giới (vào tháng 7/1980, tháng 5/1981, tháng 4/1983, tháng 4/1984, tháng 6/1985 và tháng 12/1986 kéo dài đến tháng 1/1987). Tất cả đều do phía Trung Quốc khiêu khích, hoặc lên kế hoạch nhằm đạt các mục tiêu chính sách đối ngoại lớn hơn.

Vụ nã pháo vào Cao Bằng tháng 7/1980

Trong 6 tháng đầu năm 1980, cả Trung Quốc và Việt Nam đều ghi nhận một số lượng ngày càng tăng các sự cố biên giới.

Đầu tháng 7, hai bên đã trao đổi công hàm phản đối các hành động của nhau.

Ngày 4/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam cáo buộc pháo Trung Quốc đã bắn nhiều lần vào lãnh thổ Việt Nam từ ngày 28/6, làm nhiều dân thường thiệt mạng và bị thương. Ngày hôm sau, lực lượng biên phòng Trung Quốc cho biết đã bắn hàng trăm quả pháo sang Cao Bằng trong một vụ tấn công kéo dài 3 ngày.

Trong công hàm ngày 6/7, Trung Quốc giải thích các hành động của mình là nhằm đáp trả “những khiêu khích vũ trang không ngừng” ở khu vực biên giới của họ.

Các sự kiện trong giai đoạn này đã dẫn tới việc một phóng viên đưa tin rằng “căng thẳng ở biên giới đã đạt tới đỉnh điểm”. Sau đó, cũng nhanh như nó đã bắt đầu, cuộc xung đột chìm xuống.

Ngày 12/9, Việt Nam nhắc lại đề nghị tiến hành đối thoại hòa bình.

Tận hôm 23/6, Trung Quốc mới cho biết sẽ nối lại các cuộc hòa đàm tại Hà Nội “ngay khi xuất hiện một nhân tố tích cực ủng hộ đàm phán, dù rất nhỏ”.

Các nhà phân tích cho rằng Trung Quốc tìm cách giành lợi thế trong cuộc xâm lược của Liên Xô vào Afghanistan bằng cách quấy rối Việt Nam trong khi Moscow đang bận bịu ở chỗ khác.

Cuộc bắn pháo của Trung Quốc tháng 7 năm đó cũng có thể được xem như một cách đáp trả đối với đề nghị nối lại đàm phán của Việt Nam về bình thường hóa quan hệ, vốn đã đổ vỡ từ tháng 12/1979, cũng như một đề xuất khác của Việt Nam, theo đó hai bên nên thực hiện ngừng bắn nhân dịp năm mới.

Nói cách khác, Trung Quốc cố tìm cách chứng tỏ quyết tâm gây sức ép với Việt Nam để buộc quân đội Việt Nam phải rời khỏi Campuchia. 

Chiến tranh biên giới Việt - Trung nổ ra vào ngày 17.2.1979.

Vụ chiếm núi ở Lạng Sơn và Hà Tuyên tháng 5/1981

Ngày 2 tháng 1, Bộ Ngoại giao Việt Nam đề xuất ngừng bắn nhân dịp Năm mới, song bị giới chức Trung Quốc bác bỏ vào ngày 20/1. Tuy nhiên, hai bên đã tiến hành trao đổi tù binh. Trong những tháng tiếp theo, khu vực biên giới tương đối yên tĩnh.

Tháng 5, một cuộc xung đột lớn khác đã xảy ra với cường độ lớn chưa từng thấy kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 và tháng 3/1979.

Ngày 5 và 6 tháng 5, các lực lượng địa phương của Trung Quốc đã tấn công và chiếm đóng một dải đất hẹp ở biên giới, chiếm đồi 400 thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, và chiếm một số ngọn đồi chiến lược khác (mang số 1800 a, 1800b, 1688 và 1059) tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên. Giống như trước đây, Trung Quốc giải thích các hành động của mình là đáp trả các sự cố biên giới do Việt Nam khởi xướng trong quý đầu năm đó.

Việt Nam đã đáp trả bằng việc truy đuổi quân Trung Quốc sang tận lãnh thổ của họ.

Ngày 22/5, Trung Quốc rêu rao đã sát hại 85 người Việt Nam. Cùng ngày, nguồn tin Việt Nam cho biết một lữ đoàn Trung Quốc đã chiếm đóng và lập quyền kiểm soát một quả đồi ở huyện Vị Xuyên.

Giao tranh giảm dần và ngày 13/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam lại đề nghị nối lại đối thoại.

Cũng như tháng 7/1980, cuộc giao tranh ác liệt tháng 5/1981 do phía Trung Quốc gây ra, nhằm phục vụ mục đích chính trị xa xôi.

Các nhà ngoại giao ở Bắc Kinh đã nhanh chóng kết nối tình hình leo thang xung đột này với chính sách Campuchia của Trung Quốc. Nhiều kế hoạch sau đó đã được tiến hành nhằm sáp nhập 3 nhóm kháng chiến chính của Campuchia thành một mặt trận thống nhất chống Việt Nam.

Theo quan điểm này, các cuộc tấn công dọc biên giới phía Bắc được thiết kế nhằm buộc Việt Nam phải tăng cường phòng thủ.

Các nhà ngoại giao cũng ghi nhận rằng Hội thảo quốc tế tài trợ cho Campuchia đã được lên kế hoạch và sẽ làm theo mục đích của Trung Quốc, theo đó Việt Nam bị mô tả là một “kẻ hiếu chiến”. Sau đó, việc Trung Quốc tỏ ra cứng rắn trong chính sách “gây đổ máu cho Việt Nam” cũng là nhằm phục vụ lợi ích của họ và can ngăn ASEAN thông qua một chính sách hòa giải tại hội nghị ngoại trưởng tại Manila (Philippines) sau đó.

Theo quan điểm này, hành động của Trung Quốc sẽ lôi kéo các nước khác rằng việc họ không ngừng gây sức ép đối với Việt Nam chỉ là cách để buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Cuối cùng, Trung Quốc đã thúc đẩy việc ngăn Việt Nam tăng cường quân đội tại Campuchia vì đã phải tập trung lực lượng lên biên giới phía Bắc.

Sau các vụ đụng độ tháng 5/1981, căng thẳng biên giới Việt – Trung ở mức tương đối thấp cho đến tháng 4/1983. Dường như các sáng kiến cải thiện quan hệ Xô – Trung, cũng như các cuộc tiếp xúc giữa Trung Quốc và Việt Nam dẫn tới quãng thời gian tạm yên ắng này.

Các nỗ lực nhằm cải thiện quan hệ Xô – Trung xuất hiện từ tháng 9/1981, thậm chí trước đó, khi Liên Xô gửi một công hàm tới Trung Quốc đề nghị mở lại các cuộc thảo luận về vấn đề biên giới. Tổng Bí thư Brezhnev đã đẩy mạnh nỗ lực cải thiện quan hệ với Trung Quốc trong một tuyên bố quan trọng ở Tashkent ngày 24/3/1982.

Tháng 5, một bài bình luận dài trên tờ Pravda tuyên bố đã đến lúc cải thiện các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ Xô – Trung được mong đợi từ lâu.

Giới lãnh đạo Trung Quốc khi đó cũng công khai cách tiếp cận mới đối với Liên Xô tại một cuộc Đại hội Đảng đầu tháng 9, khi thông báo nối lại các cuộc đàm phán cấp cao thường kỳ.

Tháng 7, Việt Nam thông báo ý định rút quân một phần khỏi Campuchia.

Thái Lan đã đề xuất các hiệp ước không gây hấn với từng nước trong ba nước Đông Dương, cũng như thiết lập một “vùng an toàn” dọc biên giới với Campuchia do các lực lượng của Thái Lan và Campuchia cùng kiểm soát. Thái Lan cũng đề xuất “bước hai” hướng đến hòa bình. Cuộc rút quân của Việt Nam khỏi Campuchia đã diễn ra vào tháng 7.

Tháng 9/1982, lần đầu tiên Việt Nam gợi ý một thỏa thuận ngừng bắn nhân ngày quốc khánh của từng nước.

Tháng 10/1982, Việt Nam cho biết sẵn sàng thảo luận với Trung Quốc về bình thường hóa quan hệ “ở bất cứ cấp độ nào, ở bất cứ địa điểm nào và càng sớm càng tốt”.

Cũng trong tháng 10, Trung Quốc đã đưa ra một kế hoạch bí mật gồm 5 điểm nhằm giải quyết vấn đề Campuchia. Liên Xô ban đầu phản đối sáng kiến này, gợi ý thay vào đó rằng Trung Quốc nên tiếp xúc trực tiếp với Việt Nam. Trung Quốc tiếp tục gây sức ép với Liên Xô, hy vọng một phản ứng tích cực trước thềm hoặc trong khi diễn ra vòng đàm phán về bình thường hóa quan hệ tiếp theo dự kiến vào tháng 3/1983 ở Moscow.

Ngày 16/4, viện dẫn “các cuộc tấn công không tương xứng”, pháo binh Trung Quốc lại mở cuộc tấn công 4 ngày sang biên giới Việt Nam, tạo ra một “đợt thủy triều thù địch cao nhất” kể từ các vụ đụng độ tháng 5/1981.

Cũng như các vụ đụng độ quân sự lớn trước đó, các nhà quan sát ngoại giao đã nhanh chóng chỉ ra rằng các hành động quân sự của Trung Quốc chẳng liên quan nhiều đến tình hình quân sự tại biên giới với Việt Nam, mà liên quan nhiều hơn đến tình hình tại Campuchia.

Các sự kiện tháng 4/1983 đã được nhà báo Đông Dương Nayan Chanda gọi là “cuộc phòng vệ mang tính biểu tượng”. Chanda cũng dẫn lời các nhà phân tích quân sự phương Tây khi viết: “Người Trung Quốc dường như không có ý định tấn công mục tiêu nào cụ thể. Mục đích chỉ thuần túy là ghi điểm chính trị”.

Sau cuộc xung đột trên, cả Việt Nam và Trung Quốc đã quay lại bàn đối thoại.

Tháng 10, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã chấp nhận lời mời của người đồng cấp Trung Quốc tham dự một buổi chiêu đãi chính thức tại Liên hợp quốc nhân kỷ niệm Quốc khánh Trung Quốc.

Vụ chiếm đất đai tại huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Tuyên tháng 4/1984

Sự yên tĩnh bị phá vỡ vào tháng 4/1984 khi pháo binh Trung Quốc lại dội như mưa sang Việt Nam. Đây là cuộc tấn công lớn nhất kể từ năm 1979.

Theo sau đó là một cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc tại nhiều quả đồi của Việt Nam tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên.

Việt Nam gọi cuộc cuộc nã pháo này là một “cuộc chiến phá hoại”. Cuộc chiến do Trung Quốc khơi mào giờ đã trở thành “cuộc xâm lược lãnh thổ”.

Trong thời gian từ 2-27/4, hơn 60.000 quả pháo được cho là đã bắn sang 16 huyện biên giới. Quân đội Trung Quốc sau đó phát động các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam ở tỉnh Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Hoàng Liên Sơn. Một đại chiến sự đã diễn ra ở đồi 636 và 820 ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn ngày 6/4.

Ngày 28/4, hơn 500 quả pháo đã tiếp tục được bắn sang nhiều địa điểm ở Việt Nam. Bộ binh Trung Quốc, gồm 3 trung đoàn thuộc lữ đoàn số 40 đã tấn công và chiếm 3 cao điểm ở Hà Tuyên. Cuộc tấn công này được báo chí gọi là “cuộc xâm lược nghiêm trọng nhất của Trung Quốc kể từ năm 1979”. Một tài liệu sau này nói rằng các lực lượng Trung Quốc cũng đã chiếm một cụm cao nguyên (đồi 1250, 1509, 1030, 772 và 233) ở huyện Vị Xuyên và Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên.

Các báo cáo chính thức của Việt Nam trong thời gian từ 2/4-2/6, cho biết Việt Nam đã tiêu diệt một trung đoàn Trung Quốc = 9 tiểu đoàn và “vô hiệu hóa” 5.500 binh sĩ. Tháng 8, Việt Nam đã nâng con số này lên 7.500 trong vòng 4 tháng trước đó.

Ngày 13 và 16/4, Liên Xô đã cảnh báo Trung Quốc bằng cuộc tập trận trên biển đầu tiên với Việt Nam. Cuộc tập trận diễn ra dưới dạng một cuộc đổ bộ của hải quân Liên Xô gần cảng Hải Phòng.

Trung Quốc đáp lại bằng việc cử một đội tàu đi qua quần đảo Trường Sa. Về phần mình, họ cũng tiến hành các cuộc tập trận đổ bộ trên đảo Hải Nam.

Ngày 5/5, cả tờ Pravda và Izvestia đều kêu gọi Trung Quốc chấp thuận đề nghị của Việt Nam tiến hành “các cuộc đàm phán nghiêm túc, với một quan điểm giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ song phương bằng các biện pháp hòa bình”.

Đầu tháng 7, Tân Hoa Xã thông báo “Trung Quốc không muốn lao vào một cuộc mạo hiểm quân sự có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch hiện đại hóa của mình”. Sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình trước thềm chuyến thăm Mỹ đã tuyên bố tình hình dọc biên giới Việt Nam khá yên bình.

Cuối tháng 6 năm đó, có thông báo rằng Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sẽ thăm Moscow.

Giải thích về cuộc nã pháo sang Việt Nam tháng 4/1984 Giới chức Trung Quốc một lần nữa đổ lỗi cho Việt Nam. Nhưng cũng giống như các vụ trước, các nhà quan sát nước ngoài nhận định hành động này của Trung Quốc có liên quan tới vấn đề Campuchia.

Trung Quốc chọn mục tiêu của mình một cách kỹ lưỡng. Trung Quốc cố chứng tỏ rằng các mục tiêu của họ chỉ giới hạn ở việc buộc Việt Nam đi đến thỏa thuận về Campuchia. Trung Quốc cũng giành lợi thế đúng lúc Tổng thống Mỹ Reagan thăm Bắc Kinh tháng 4 để chứng tỏ sự quyết tâm của mình trong việc gây sức ép với Việt Nam. 

Chiến tranh biên giới Việt - Trung nổ ra vào ngày 17.2.1979.

Vụ nã pháo sang Vị Xuyên tháng 6/1985

Trong hầu như cả năm 1985 và những tháng đầu năm 1986, các tỉnh biên giới Việt Nam đã trở thành mục tiêu của nhiều đợt pháo kích tăng cường. Trong tháng 6, khi gần vào mùa khô năm 1984-1985, các lực lượng Trung Quốc đã phát động các cuộc tấn công đặc biệt mạnh tay nhằm vào huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên.

Các đơn vị biên phòng Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng chiến thuật “chiếm đất”. Từ tháng 5/1985, họ đã bắt đầu thả mìn nhựa vào các con sông chảy xuống Việt Nam. Cuối năm 1986, Việt Nam đã ghi nhận 100 vụ nổ mìn ở nhiều tỉnh khác nhau, làm 30 người thiệt mạng và 60 người bị thương.

Nhiều tài liệu của Việt Nam cho biết hơn 1 triệu quả đạn súng cối đã được bắn vào một khu vực rộng 10km2 của huyện này riêng trong năm 1985. 100 quả đồi chiến lược (như 233, 300, 400, 468, 500, 673, 685, 812, 900, 1100, 1509, đồi Quan Sát và đồi Co Ich), nhất là quanh khu vực giao lộ Thanh Thủy, đã trở thành mục tiêu của liên tiếp các vụ bắn phá và tấn công trên bộ. Trong giai đoạn từ ngày 27/5 – 13/6, các lực lượng của Trung Quốc đã bắn 226.900 quả pháo xuống Vị Xuyên.

Từ ngày 1-7/6, các lực lượng của Trung Quốc đã tiến hành 6 vụ tấn công lên đồi 400 và 1509. Một báo cáo trong nửa đầu năm cho thấy Trung Quốc đã cử hơn 60 trung đội đến trung đoàn tiến hành các vụ tấn công vào nhiều địa điểm ở Việt Nam.

Một tài liệu đánh giá hoạt động quân sự của Trung Quốc năm 1985 cho biết Trung Quốc đã chọn huyện Vị Xuyên là một mục tiêu “trả đũa”, nhằm đáp lại cuộc tấn công thành công của Việt Nam tại biên giới Thái Lan – Campuchia.

Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam trong buổi phát ngày 26/12/1985 đã điểm lại các sự kiện trong năm đó, nhấn mạnh vấn đề như sau: “Trung Quốc tiếp tục một cuộc chiến tranh chiếm đất ở biên giới chống Việt Nam một cách tàn bạo, đặc biệt là khu vực biên giới của huyện Vị Xuyên, Hà Tuyên. Có thể nói chưa bao giờ ngừng tiếng pháo cối của Trung Quốc tại đây kể từ năm 1984. Các cuộc nã pháo tàn bạo và các chiến thuật tác chiến mới được sử dụng trong việc chiếm các quả đồi của chúng ta”.

Trong 4 ngày, từ 5-8/9, gần 60.000 pháo hạng nặng đã dội sang Vị Xuyên.

Bất chấp vụ bắn pháo tháng 6, sự cải thiện quan hệ Việt – Trung đã được ghi nhận trong quý IV/1985. Ngày 1/9, Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm đã gửi thư chúc mừng người đồng cấp Trường Chinh nhân dịp Quốc khánh thứ 40 của Việt Nam. Sau khi ghi nhận “quan hệ truyền thống lâu đời” giữa Trung Quốc và Việt Nam, ông Lý nói về vấn đề bình thường hóa.

Nhưng ngay sau đó, một đợt giao tranh ngắn trong tuần đầu tháng 12, khi các lực lượng Trung Quốc một lần nữa được cho là đã tham gia hoạt động “chiếm đất” ở Vị Xuyên. Việt Nam cáo buộc Trung Quốc bắn hơn 60.000 quả pháo xuống tỉnh Hà Tuyên, trong đó 34.900 quả được bắn riêng trong ngày 2/12. Cùng lúc đó, Việt Nam thông báo đánh bại 5 vụ tấn công trên bộ tại đồi 685 ở Hà Tuyên, tiêu diệt 470 lính Trung Quốc.

Tân Hoa Xã trong một bài xã luận đã kết nối tình hình chiến sự tăng cường ở biên giới với một cuộc tập trung lực lượng Việt Nam tại Campuchia chuẩn bị cho một chiến dịch mùa khô khác.

Các cuộc nã pháo tháng 12/1986 - 1/1987

Trong suốt năm 1986, Trung Quốc duy trì sức ép với Việt Nam bằng việc tăng cường nã pháo. Đến giữa năm, gần 25.000 quả pháo đã được bắn sang lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1985, Vị Xuyên hứng chịu 20 sự cố bắn pháo riêng rẽ, liên quan đến hơn 800.000 quả pháo, trong tổng số khoảng 1 triệu quả được bắn sang Việt Nam.

Giữa năm 1986, Việt Nam cho biết 4/5 đạn pháo của Trung Quốc đã được bắn và rơi vào Vị Xuyên. Ngày 14/10/1986, làng Thanh Thủy ở Vị Xuyên đã “hứng” 35.000 quả pháo. Vụ bắn phá lớn nhất xảy ra tháng 1/1987, khi trong một ngày, pháo binh Trung Quốc bắn tới 60.000 quả pháo vào Vị Xuyên.

Các báo cáo cho thấy giao tranh trên bộ giảm dần từ tháng 7/1986. Tháng 10, tại vòng đàm phán Xô – Trung lần thứ 9, Trung Quốc cuối cùng đã được Liên Xô nhất trí thảo luận vấn đề Campuchia, vấn đề “nước thứ ba” vốn là một điều cấm kỵ trước tới nay.

Ngày 13/7, Việt Nam đã thả 72 thuyền nhân Trung Quốc từng xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. Ngày 1/8, Hội Chữ thập Đỏ tại Lạng Sơn đã gửi “chia buồn” tới người dân tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) sau một trận bão. Ngày 13/8, Việt Nam thông báo nhân dịp Quốc khánh của Trung Quốc và Việt Nam, sẽ thả 27 tù nhân Trung Quốc. Những trao đổi đã được tiến hành ngày 6/9, khi Trung Quốc thả 34 người Việt Nam và Việt Nam thả 26 người Trung Quốc.

Ngày 3/10, một đội bóng bàn của Việt Nam đã sang Trung Quốc tham dự giải bóng bàn châu Á lần thứ 8 ở tỉnh Quảng Đông. Và ở các cấp cao hơn, cụm từ “kẻ thù nguy hiểm và trực tiếp” khi nói về Trung Quốc đã không còn được nhắc lại.

Bất chấp các diễn biến tích cực trên, giao tranh vẫn tái diễn ở biên giới Việt – Trung. Ngày 14/10, Việt Nam thông báo rằng Trung Quốc đã bắn 35.000 quả pháo sang Việt Nam và các lực lượng Trung Quốc đã nối lại “các chiến thuật chiếm đất” ở đây.

Ngày 27/11, báo Nhân Dân của Việt Nam đăng một bài xã luận dài về quan hệ Việt Trung, trong đó viết: “Mới đây, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhắc lại sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc nối lại các cuộc đàm phán song phương với Trung Quốc bất cứ ở đâu, vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ cấp nào, nhằm tìm một giải pháp chính trị được hai bên chấp nhận, nhằm khôi phục sớm nhất các quan hệ bình thường giữa hai nước cũng như tình bằng hữu lâu năm giữa hai dân tộc. Tuy nhiên, thiện chí trên chỉ có một chiều.

Về phần mình, giới lãnh đạo Trung Quốc đã đáp lại bằng hàng trăm nghìn quả pháo và ra lệnh một loạt vụ tấn công quân sự vào huyện Vị Xuyên… Chúng tôi một lần nữa tái khẳng định rằng luôn quý trọng tình bằng hữu lâu năm với nhân dân Trung Quốc và muốn khôi phục quan hệ thân thiện và bình thường giữa hai nước vì lợi ích của hòa bình và ổn định tại châu Á, và của hai dân tộc”.

Bốn mươi năm đã trôi qua, cuộc chiến biên giới Việt-Trung vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được giải mật. Nhưng ngày càng nhiều chuyên gia phân tích độc lập chứng minh rằng, Trung Quốc khơi ra cuộc xung đột biên giới 1979 nhằm các tham vọng chính trị xa xôi, có cả vấn đề Campuchia tại thời điểm đó.

Diệu An tổng hợp

(Bài viết có sử dụng tư liệu Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War của học giả Carlyle Thayer. Ông đã trình bày nghiên cứu này tại Hội Nghị "An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương", Đại học Quốc gia Canberra tháng Tám năm 1987)