25 tháng 8, 2017

Vụ ông Trịnh Vĩnh Bình khiến ‘mất cả sự tôn nghiêm của pháp luật’

Khánh An - Tiến sĩ Nguyễn Vi Khải hiện là Phó Viện trưởng Viện các vấn đề phát triển (VIDS). Ông là thành viên trong Ban Cố vấn của Thủ tướng Phan Văn Khải trong thời gian diễn ra đàm phán, thương lượng giữa ông Trịnh Vĩnh Bình với Chính phủ Việt Nam trong vụ kiện ở Tòa trọng tài lần thứ nhất (năm 2003 – 2006).Là thành viên lâu năm nhóm think-tank của Thủ tướng, ông biết khá tường tận các ngóc ngách của vụ án Trịnh Vĩnh Bình. Trong cuộc trả lời phỏng vấn với VOA ngày 17/8/2017, TS Nguyễn Vi Khải cho biết thêm một số chi tiết của vụ này và phân tích về tình trạng “hình sự hóa các quan hệ kinh tế – dân sự”, điều mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gần đây cam kết sẽ chấm dứt.

VOA: Thưa Tiến sĩ, Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải nhận được tin doanh nhân Hà Lan gốc Việt Trịnh Vĩnh Bình bị bắt và bị kết án trong hoàn cảnh nào? Phản ứng của Ban ra sao?

TS Nguyễn Vi Khải: Lúc đó, tôi mới bắt đầu về làm thư ký khoa học ở Tổ Lý luận trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng. Lúc đó có nhiều vụ tương tự như vụ của ông Bình nên chúng tôi rất băn khoăn. Đây là ví dụ của tình trạng “hình sự hóa các quan hệ kinh tế” rất nặng nề.


VOA: Tại sao sau khi cả nguyên Thủ tướng lẫn đương kim Thủ tướng, Chủ tịch nước… can thiệp, ông Bình vẫn bị xử nặng? Có điều gì lấn cấn ở đây khiến sự việc xảy ra trái với logic thông thường?

TS Nguyễn Vi Khải: Vâng. Có thể các vị từ bên ngoài, các vị không thể hiểu được việc xử án của Việt Nam trong thời điểm đó. Người ta xử án theo kiểu “bỏ túi” (tức là án Kangaroo). Các cấp trên có can thiệp vào thì cũng phải theo án lệ này. Cho nên dù là Thủ tướng hay vị nào cấp cao nữa thì cũng chỉ là gõ ở trên thôi. Chứ còn ở dưới cơ sở người ta đã ký y án và “rất đúng quy trình.” Đấy là thực tế đáng buồn của một nền tư pháp “đang có vấn đề” của Việt Nam.

VOA: Ngoài lý do án “bỏ túi”, án Kangaroo, theo tiến sĩ, còn có những nguyên nhân nào khiến cho vụ án về ông Bình trở nên nổi cộm trong những năm bấy giờ, khiến những người đứng đầu hai chính phủ, cả Hà Lan lẫn Việt Nam, thậm chí một số bộ trưởng và nghị sĩ từ EU đều muốn đứng ra dàn xếp mà không xong?

TS Nguyễn Vi Khải: Cần phân biệt giữa hai mảng, mảng con người và mảng chính sách. Về con người tôi không muốn bình luận sâu, vì phần lớn những người “gieo quả” làm hại ông Bình thì họ đều đã nhận phần của mình theo luật nhân quả. Tôi biết có vị quan chức ở Bà Rịa-Vũng Tàu đã phải vào nhà thương điên, không biết là để trốn việc quy trách nhiệm hay bị điên thật.

Ở đây tôi muốn đề cập đến một vấn đề cho đến hôm nay vẫn còn mang tính thời sự, mà điều này, thì mới đây Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa phải tái cam kết rằng, chính phủ của ông sẽ không “hình sự hóa” các quan hệ kinh tế – dân sự.

Trong khi đó, lại có một tình trạng khác vào thời đó và cho đến bây giờ vẫn còn, làcác trọng tội làm thất thoát hàng nghìn tỷ tài sản quốc gia thì đáng nhẽ phải hình sự hóa những vụ đó, thì lại hành chính hóa các tội phạm này. Để cho các tội phạm này trốn ra nước ngoài dễ dàng bằng cách đi chữa bệnh, đi học… như trường hợp Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy…

Thủ tướng Phúc đã nói tình trạng hình sự hóa kinh tế hiện nay rất nặng nề. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều vụ chìm xuồng. Các quan chức mà đáng lẽ phải khởi tố hình sự thì họ lại lờ đi, chẳng hạn như vụ vỡ nước sông Đà.

VOA: Trở lại với vụ kiện sắp tới của ông Trịnh Vĩnh Bình, ngoài thiệt hại về vật chất mà người dân đóng thuế phải gánh chịu, tiến sĩ có nhận định gì khác về vụ án kéo dài này không?

TS Nguyễn Vi Khải: Ngoài thiệt hại về vật chất, đây còn là một vấn đề nóng bỏng của nhiều người dân bị oan ức hiện nay.

Thứ nhất, thiệt hại vật chất đã là quá lớn, nhưng thiệt hại tinh thần đối với người dân còn khủng khiếp hơn. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.” Một ngày ở trong tù người ta đã khốn khổ lắm rồi, huống chi mấy năm như thế thì bao nhiêu là thiệt hại về tinh thần, sức khỏe và cả cuộc đời của họ. Tiền tỷ cũng không đền bù được.


Nhà nước Việt Nam có mất tiền tỷ trong vụ này thì tôi cho điều đáng suy nghĩ hơn là mất uy tín trên thương trường quốc tế, đặc biệt khi ta tuyên bố hội nhập, bình đẳng, cùng một sân chơi…

Nhưng vụ án này đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Việt kiều, rất băn khoăn về chuyện về nước.

Từ hồi nổ ra vụ kiện của ông Trịnh Vĩnh Bình và ông ấy đã nhận được một phần bồi thường, nhưng từ đấy cho đến nay, tuyệt nhiên không hề Nhà nước này nhắc đến trách nhiệm của các cơ quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng như các cấp trên đứng sau việc này. Phải xử lý họ thế nào? Không thể chỉ phê bình, góp ý hay cho về hưu. Như vậy là luật pháp không nghiêm.

Tôi cho rằng trong vụ này Việt Nam có nhiều mất mát. Mất cả uy tín, mất cả sự tôn nghiêm của pháp luật.

VOA: Thưa tiến sĩ, điều gì làm ông nhớ nhất trong các chỉ thị của Thủ tướng liên quan đến vụ án Trịnh Vĩnh Bình?

TS Nguyễn Vi Khải: Tôi nhớ nhất là bút phê của Thủ tướng Phan Văn Khải và công văn gửi qua Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương. Tôi còn nhớ nội dung đại thể: Anh Hương chỉ đạo cho Công an Bà Rịa—Vũng Tàu xem lại trường hợp của Trịnh Vĩnh Bình. Thủ tướng Hà Lan đã nêu vấn đề. Tôi đã trực tiếp hỏi một số đồng chí lãnh đạo tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, anh Bình không có lỗi đến mức phải xử như vậy. Do anh ấy dựa vào người trong nước, nên đã bị họ lừa gạt, làm bậy.

VOA: Vâng, điều tiến sĩ vừa nói cũng giống với những tư liệu mà chúng tôi có được. Vậy theo ông, tại sao một chỉ dụ như vậy không được cấp dưới thực thi?

TS Nguyễn Vi Khải: Tôi thấy thấm thía điều dân nói: “Trên bảo dưới không nghe.” Điều này biểu hiện một nhà nước pháp quyền không theo đúng quy luật khống chế quyền lực và không có cơ chế để bảo vệ quyền lực một cách chính đáng. Nó cho thấy một nền chính trị, pháp quyền rất yếu, không dung nạp được sự thật và làm cho người dân mất lòng tin rất lớn. Và tình trạng này là hiện nay, chứ không phải chỉ trong thời cách đây hơn 20 năm.

VOA: Ông có đánh giá nào về xác suất thắng, thua của vụ tái kiện sắp tới hay không?

TS Nguyễn Vi Khải: Tôi cho rằng vụ kiện này chỉ có ý nghĩa về mặt tinh thần đối với ông Bình. Còn để thắng hoàn toàn và theo ý ông Bình, tôi cho rằng rất khó. Bởi vì cơ chế phán xử quốc tế là như thế, nhưng luật lệ của Việt Nam lại là một đằng khác. Nên đây sẽ là một cuộc giằng co, dây dưa kéo dài. Để ông Bình được đền bù vật chất, được đền bù tinh thần, được xin lỗi… tôi cho rằng sẽ rất khó khăn!

VOA
http://huynhngocchenh.blogspot.de/2017/08/tiet-lo-moi-cua-nguoi-trong-cuoc-trong.html#more

Lần thứ 5, Thanh tra Chính phủ tiếp tục lùi lịch công bố kết luận vụ "biệt phủ" Yên Bái


 Cục trưởng Phạm Trọng Đạt cho hay, do lãnh đạo Thanh tra Chính phủ chưa ký kết luận chính thức nên chưa có lịch để công bố kết luận thanh tra vụ tài sản của gia đình ông Quý.

Lần thứ 5, Thanh tra Chính phủ tiếp tục lùi lịch công bố kết luận vụ "biệt phủ" Yên Bái
Ảnh khu nhà ông Phạm Sỹ Quý. Nguồn: vtv.vn
   Trao đổi với PV vào sáng 24/8, ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục chống tham nhũng (Thanh tra Chính phủ) cho biết, hiện Thanh tra Chính phủ vẫn chưa ấn định thời gian chính thức công bố kết luận thanh tra tài sản của gia đình ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở TN - MT tỉnh Yên Bái.

"Hiện nay lãnh đạo Thanh tra Chính phủ vẫn đang tiếp tục xem xét kỹ nội dung dự thảo kết luận thanh tra và chưa ký kết luận chính thức, do đó, vẫn chưa có lịch chính thức để công bố", ông Đạt nói.

Theo ông Đạt, dù bị lùi thời gian công bố chính thức nhưng cũng không ảnh hưởng đến nội dung các vấn đề liên quan đến dự thảo kết luận đã được xây dựng.

"Việc thanh tra đã được đoàn làm rất công tâm, khách quan, rõ ràng nên không có vấn đề gì. Còn khi nào lãnh đạo Thanh tra Chính phủ ký chính thức, có thời gian công bố chúng tôi sẽ thông báo đến các cơ quan báo chí bởi việc này là công khai, minh bạch", ông Đạt nêu rõ.

Như vậy, tính đến hôm nay, việc công bố chính thức kết luận thanh tra về tài sản của gia đình ông Phạm Sỹ Quý đã bị lùi 5 lần.

Cụ thể, Cục Phòng chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ dự kiến công bố kết luận thanh tra từ ngày 30/7 hoặc đầu tháng 8/2017. Sau đó, lại lùi vào chiều ngày 9/8 hoặc sáng 10/8 tại trụ sở Thanh tra Chính phủ.

Tiếp đó, dự kiến thời gian dự kiến công bố kết luận vào ngày 14/8 nhưng đến sát ngày đó lại lùi tiếp đến ngày 18 hoặc 19/8.

Đến ngày 21/8, ông Đạt cho hay, việc công bố có thể diễn ra trong ngày đó hoặc sang ngày 22/8. Tuy vậy, đến ngày 22/8, Cục trưởng Cục chống tham cho biết, sẽ công bố vào ngày 24/8.

Lý giải về các nguyên nhân dẫn đến việc lùi công bố kết luận thanh tra, theo ông Đạt, thời gian qua, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) phải gánh chịu hậu quả nặng nề của lũ ống, công tác cứu hộ và khắc phục hậu quả được đặt lên hàng đầu nên Thanh tra Chính phủ quyết định lùi thời gian công khai kết luận thanh tra.

Sau đó, ông Đạt cho biết thêm, một nguyên nhân khác là do Thanh tra Chính phủ đang có sự thay đổi nhân sự, tân Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Bùi Ngọc Lam sẽ phụ trách lại vụ việc này nên cần phải xem xét lại hồ sơ vụ việc.

Cần sớm công bố để tránh nghi ngờ về tiêu cực

Cũng trong sáng 24/8, trao đổi với PV, một lãnh đạo tỉnh Yên Bái cũng cho hay, hiện nay vẫn chưa nhận được giấy mời của Thanh tra Chính phủ để dự buổi công bố kết luận thanh tra tài sản của gia đình ông Quý.

Vị này cũng nhấn mạnh, khi có lịch của Thanh tra Chính phủ, tỉnh sẽ chấp hành nghiêm túc, tham dự, đồng thời, thực hiện đúng theo tinh thần kết luận.

Cũng trao đổi với PV, đại biểu Phạm Tất Thắng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cũng cho rằng, việc lý do khách quan về thiên tai ở Yên Bái có thể lùi thời hạn công bố kết luận thanh tra.

Tuy nhiên, việc lùi này phải đảm bảo theo các quy định của pháp luật và cần thông báo công khai, rõ ràng cho người dân được biết.

Theo ông Thắng, khi việc thanh tra được thực hiện theo đúng luật, quy trình và kết luận thấy đã rõ ràng, khách quan, minh bạch thì nên công bố sớm cho người dân được biết.

"Việc công bố công khai, minh bạch rõ ràng, sớm sẽ giúp người dân yên tâm, tránh sự nghi ngờ liên quan đến tiêu cực", ông Thắng nói.

Hoàng Đan

(Trí Thức Trẻ)

Mật vụ Nguyễn Hải Long chính thức bị CS Đức bỏ tù vì tội làm gián điệp v...

Thời mạt

Thơ Nguyễn Trọng Tạo

Nguyễn Trọng Tạo: Ngồi đọc sử Triều mạt, thấy buồn tê tái. Viết bài thơ để ghi nhớ cảm xúc lúc này.
THỜI MẠT
Vua kém tài thiếu đức
Quan thả sức lộng quyền
Coi dân như tôi tớ
Công lý thì đảo điên
Chức từ to đến nhỏ
Mua bán thành chợ đêm
Làm giàu bằng dự án
Làm mõ cũng moi tiền
Thi nhau xây biệt phủ
Đâu chỉ đám “hòa thân”
Những đại án nghìn tỷ
Chung thân cũng đếch cần
Nay chia bè kéo cánh
Mai lập hội ủ mưu
Ghét nhau không nhìn mặt
Vẫn kính thưa kính mời
Dân ngửa mặt kêu trời
Trời làm ngơ làm điếc
Chén rượu trên bàn tiệc
Thuốc độc đã sủi tăm
Một vương triều nát tan
Nước chia ba chia bảy
Dân đầu rơi máu chảy
Sặc tiếng cười ngoại bang
Thời mạt vết mực đen
Bôi bẩn vào pho sử
Ai là người chăn dân
Thoát con đường “tử lộ”?…
18.7.2017
Nguyễn Trọng Tạo

24 tháng 8, 2017

Đảng CSVN đã lỡ một chuyến tầu


Nếu Lịch sử biết nói thì thời gian 43 năm lặng lẽ trôi qua sẽ bảo các Nhà viết sử Cộng sản Việt Nam rằng: "Vì kiêu ngạo và nhát gan mà đảng cầm quyền đã lỡ một chuyến tầu."


Tại sao?

Vì rằng đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã để mất chính nghĩa chủ quyền quốc gia ở Biển Đông ngay khi quần Hoàng Sa bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân của Việt Nam Cộng hòa ngày 19/01/1974.

Thời đó, chính quyền miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã không dám hé răng phản đối Bắc Kinh vì sợ mất viện trợ và bị cắt đường tiếp vận vũ khí của Nga và các nước Đông Âu Cộng sản cho miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng hòa đi qua lãnh thổ Trung Cộng.

Bây giờ, 43 năm sau, bộ sách “Lịch sử Việt Nam" từ khởi thủy đến năm 2000, gồm 15 tập có tổng số gần 10,000 trang đã không còn dùng từ “ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn” để chỉ chính thể Việt Nam cộng hòa trước 1975. Và khi làm việc này, đảng CSVN nhắm đạt được 2 điều: 

Thứ nhất, việc công nhận Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam là một thực thể chính trị, song song với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975 “có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc”, theo quan điểm của giới nghiên cứu Việt Nam.

Thứ hai, mở ra một cánh cửa mới trong nỗ lực hòa giải, hòa hợp dân tộc giữa hai miền Nam-Bắc nói chung và giữa đảng cầm quyền CSVN với ngót 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, nói riêng.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ (PGS.TS) Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, Chủ tịch Hội khoa học lịch sử Việt Nam, tổng chủ biên bộ sách nói với báo chí trong nước rằng: "Đây là tâm huyết của nhiều thế hệ cán bộ sử học. Hơn 30 nhà nghiên cứu sử học mất 9 năm để biên soạn bộ sử."

PGS Cường cho rằng: "Vấn đề Việt Nam Cộng hoà trong các bộ sử tới sẽ phải nêu rõ hơn, khi đây là một thực thể tồn tại ở miền Nam Việt Nam gần 21 năm. Có một sự gối nhau khi năm 1954 có thể chế nữa gọi là Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm truất Bảo Đại để làm quốc trưởng, rồi trưng cầu dân ý, bầu Tổng thống...

Thời gian trước, nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, nhiều người vẫn quen gọi là nguỵ quân, nguỵ quyền. Nhưng trong bộ sách gọi trung tính hơn là "quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn". Theo ông Cường, lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận." (VNExPRESS 19/8/017)

Vẫn theo VNEXPRESS, ông Cường nói thêm: "Khi viết tập 12, giai đoạn 1954 đến 1965, chúng tôi cũng có những tranh luận rằng có nên dùng "nguỵ quân, nguỵ quyền" như trước đây không? Từ lâu, giới nghiên cứu đã cho rằng không nên dùng, nói hay viết cũng đều không sai, nhưng mang hơi hướng miệt thị. Trong bối cảnh hoà hợp dân tộc thì có những cách gọi cần thay đổi. Khái niệm dùng trong văn bản khoa học nên có sự khách quan, trung tính nên cuối cùng qua vài buổi tranh luận, tổ biên soạn quyết định dùng từ quân đội Sài Gòn, chính quyền Sài Gòn.”

Trên lãnh thổ Việt Nam từng tồn tại những thực thể chính quyền. Thời chống Pháp (1945 - 1954) ngoài chính thể là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì ở các đô thị lớn thuộc vùng tạm chiếm, Pháp đã thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve), ở miền Nam cũng có chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Dĩ nhiên, thực thể này không chính danh, không hợp pháp.

Ngoài nói thẳng tính chất phụ thuộc về mặt chính trị của chính quyền ấy, bộ sử cũng không né tránh khi viết về những thay đổi về kinh tế, văn hoá, xã hội ở những vùng chiếm đóng. Thậm chí, thừa nhận nền kinh tế hàng hoá miền Nam khi ấy phát triển hơn ở miền Bắc kế hoạch hoá tập trung; hay chính quyền ấy cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo, khi Trung Quốc ra tay đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974...”

Trong câu nói này, ông Giáo sư Cường đã “tiền hậu bất nhất”. Một mặt ông bảo “lịch sử cần phải khách quan, viết thế nào để cho mọi người chấp nhận” nhưng ông lại cho rằng nói hay viết (nguỵ quân, nguỵ quyền) cũng đều không sai . 

Tại sao nó “đúng” và như vậy là không “mang hơi hướng miệt thị” hay sao?

Ông còn “nửa tỉnh nửa say” khi nói “chính quyền Việt Nam Cộng hoà” được thành lập ở miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ (Geneve) 1954, không chính danh, không hợp pháp.

Tại sao “không chính danh” và “không hợp pháp” khi VNCH (1955-1975) là một thực thể chính trị độc lập, có một chính quyền do dân bầu, có Hiến pháp và được 78 Quốc gia công nhận?

Trong khi, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) của đảng CSVN, từ năm 1954 đến năm 1976 cũng là nhà nước độc lập nhưng không do dân bầu và chỉ quản lý thực tế miền Bắc Việt Nam.

Nhưng trong đầu lãnh đạo đảng và các nhà khoa bảng Cộng sản Việt Nam thì chỉ có nhà nước VNDCCH mới “chính danh” và “hợp pháp” trên toàn lãnh thổ.

Bằng chứng như cái loa tuyên truyền của Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) từng xuyên tạc: "Có thể nói, ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” đã không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Mãi tới tận năm 1955 nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…).

Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau cuộc Cách mạng tháng Tám của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.

Không những vậy, sau năm 1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự (với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ chối thiện chí đó!" (VOV, ngày 23/04/2015)

Lu loa như thế chỉ đúng nửa sự thật. Bởi vì từ sau Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hay liên hiệp Quốc-Cộng 1946, và Quốc hội có dân bầu đầu tiên 1946, dù nhiệm kỳ cho đến 1960 mới chấm dứt, nhưng lực lượng phá hoại của đảng CSVN do hai ông Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn chỉ huy đã tìm mọi cách để đánh phá hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để chiếm độc quyền cai trị.

Bằng chứng đã được ghi trong Bách khoa Toàn thư mở: "Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này."

Như vậy, dù có “chính danh” trên giấy tờ nhưng chính phủ liên hiệp ban đầu đã thay hình đổi dạng bằng một Chính phủ và Quốc hội đảng cử dân bầu của riêng đảng CSVN. Từ đó cho đến ngày được gọi là “thống nhất đất nước chính thức”, sau cuộc tổng tuyển cử ngày 25 tháng 4 năm 1976 và sau 20 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng CSVN chủ động xâm lược VNCH từ 1955 đến tháng 4/1975, cái “chính danh” của Quốc hội đảng cử dân bầu và nhà nước do đảng độc quyền lãnh đạo chưa bao giờ là “của dân, do dân và vì dân” như nhà nước tuyên truyền.

Lời Nguyễn Cơ Thạch

Nhưng tại sao Chính phủ VNDCCH ở miền Bắc đã không dám phản đối Trung Cộng khi Bắc Kinh xua quân đánh chiếm Quần đảo Hoàng Sa tháng 1/1974?

Ông Dương Danh Dy, một chuyện gia về Trung Hoa của Việt Nam đã trích lời Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vào thời điểm xảy ra vụ Hoàng Sa để trả lời cho thắc mắc này.

Báo Tuần Việt Nam của Bộ Thông tin và Truyền thông CSVN, trong số ra ngày 6/1/2014 viết: "Nhân kỷ niệm 40 năm ngày Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa, 19.1.1974, có một băn khoăn của nhiều người là tại sao lúc đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng.

Có phải chăng như sử gia Nguyễn Đình Đầu đã nghĩ rằng tình đồng chí giữa những người Cộng sản lúc đó còn lớn hơn lãnh thổ?

Tuanvietnam có cuộc phỏng vấn với nhà nghiên cứu Trung Quốc lão thành Dương Danh Dy - người có may mắn biết được nội tình câu chuyện.

Phóng viên: Có một câu hỏi mà nhiều người thắc mắc là, hồi Trung Quốc đánh Hoàng Sa đầu năm 1974, tại sao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại không lên tiếng phản đối?

Và, đối với một số người, thậm chí còn đặt vấn đề nặng hơn là Việt Nam lúc đó đã nể, sợ Trung Quốc. Thậm chí không ít người còn chỉ trích Ban Lãnh đạo Việt Nam lúc đó còn đặt tình đồng chí cao hơn lãnh thổ quốc gia?

Dương Danh Dy: “Tôi xin nói rằng đó chính là câu hỏi mà tôi cũng thắc mắc cách đây 40 năm, khi còn là một tổ trưởng theo dõi quan hệ Việt - Trung. Tất nhiên, tôi phàn nàn với mấy anh bạn đồng nghiệp thôi. Nhưng không hiểu sao, ông Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Thứ trưởng Ngoại giao, nghe được, và cho gọi tôi lên gặp ông.

Ông Thạch, vốn rất quý tôi vì biết rõ tính ngay thẳng của tôi, đã nói luôn:

"Dy ơi, sao cậu dại thế! Đất nước đã thống nhất chưa? Thống nhất đất nước so với việc Trung Quốc chiếm nửa Hoàng Sa thì cái nào lớn hơn?

Cậu có biết rằng viện trợ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu dành cho chúng ta chủ yếu đi qua đường nào? Rồi cậu chắc biết hơn những người khác rằng Trung Quốc viện trợ cho chúng ta như thế nào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ...

Thế mà bây giờ, vì cái chuyện Hoàng Sa, mà đằng nào họ cũng chiếm của Việt Nam rồi, chúng ta lên tiếng, đã không làm được gì còn ảnh hưởng tới sự nghiệp lớn hơn."

Lúc đó, ông Thạch chỉ nói cho tôi đến thế thôi, và tôi cũng thông."

Ông Dy “thông” nhưng lịch sử thì không vì vào năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Trung Hoa Chu Ân Lai nhìn nhận chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong một dịp khác, lời nói của ông Dương Danh Dy còn được phổ biến trên Internet nhận định rằng: "Việc không nói để không ảnh hưởng tới sự nghiệp thống nhất đất nước thì rõ rồi. Nhưng việc không nói còn làm cho Ban Lãnh đạo Trung Quốc chủ quan, nghĩ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi nhẹ vấn đề biển đảo mà không tìm cách đánh chiếm luôn quần đảo Trường Sa nữa.". 

Rất tiếc dự đoán về ý đồ của Trung Cộng ở Trường Sa của chuyên gia Dương Danh Dy không hoàn toàn đúng. Thay vì “đánh chiếm hết”, Trung Cộng đã làm chủ 7 đảo quân sự được tân tạo từ các bãi đá có vị trí chiến lược ở Trường Sa để đe dọa trực tiếp Việt Nam.

Đó là: đá Châu Viên, đá Chữ Thập, cụm đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Tư Nghĩa, đá Vành Khăn và đá Xu Bi.

Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Cộng sẽ chỉ dừng chân ở 7 vị trí này.

Như vậy, qua lời ông Nguyễn Cơ Thạch, ai cũng thấy rõ việc bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đối với đảng và chính phủ miền Bắc khi Hoàng Sa bị Trung Cộng đánh chiếm năm 1974 không quan trọng bằng việc phải đánh phá để chiếm Việt Nam Cộng hòa!

Bây giờ, có sáng mắt ra cũng đã quá muộn vì dù sách sử mới có nhìn nhận VNCH thì Hoàng Sa và một phần Trường Sa cũng đã nằm trong tay Trung Cộng.

Cho nên nếu Tiến Sỹ sử học Nguyễn Nhã (thời VNCH ở lại) cho rằng "Việc thừa nhận này (VNCH) có lợi trước nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam" (Tuổi Trẻ online, ngày 20/08/017) thì cũng chi là mong ước mà thôi.

Bởi vì khi Phi Luật Tân mời Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Cộng ra tòa án Quốc tế năm 2013 để bác bỏ chủ quyền tự nhận của Bắc Kinh trong hình Lưỡi Bò (hay đường 9 đoạn), chiếm ¾ diện tích trên 3 triệu cây số vuông biển đảo ở Trường Sa thì Việt Nam không dám làm.

Tiến sỹ Nguyễn Nhã cũng nói với báo Tuổi Trẻ rằng: "Từ năm 1954 - 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục."

Nhưng tại sao phải mất tới 43 năm, kể từ khi Trung Cộng dùng võ lực đánh chiếm quấn đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, từ tay Hải quân VNCH, sách sử của nhà nước CSVN mới biết nhìn nhận có một Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam để có lợi về mặt chủ quyền biển đảo ở Biển Đông nói chung và Hoàng Sa nói riêng?

TS Nguyễn Nhã còn lạc quan, theo tường thuật của Tuổi Trẻ: "Trong cái nhìn triển vọng về việc thừa nhận chính thể Việt Nam cộng hòa, ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt".

Không chỉ thế, theo ông Nhã, “...Thừa nhận Việt Nam cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

Quả là nhiêu khê đấy. Nếu chỉ cần tập sách sử biết nhìn nhận có một Chính quyền VNCH ở miền Nam từng kiểm soát chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa mà đảng CSVN lấy lại được chính nghĩa để vận động toàn dân hy sinh bảo vệ lãnh thổ thì rẻ quá.

Nhưng cái giá mà nhà nước CSVN phải trả cho hòa hợp, hòa giải dân tộc với người Việt Nam Cộng hòa trong và ngoài nước còn cao gấp vạn lần hơn. 

Còn cao hơn, nếu cụm từ “ngụy quân ngụy quyền” chỉ có giá trị trên trang sách mà trong đầu thì không. 

Chỉ lỡ một chuyến tầu thôi mà khổ thế đấy. -/-

(07/017)

Phạm Trần

23 tháng 8, 2017

Ai có thể ‘soán’ ghế chủ tịch nước?


Câu hỏi trên có thể bị xem là “phạm thượng,” bởi lẽ đương nhiên ông Trần Ðại Quang vẫn còn là chủ tịch nước mà chưa có bất cứ một quyết định nào của Bộ Chính Trị đảng CSVN nhằm thay thế ông, không giống với một tiền lệ mới đây khi Tổng Bí Thư Trọng cho Chủ Nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Trần Quốc Vượng “tham gia thường trực Ban Bí Thư” thay cho ông Ðinh Thế Huynh “bị bệnh.”


“Bàn giao quyền lực” hay thay thế?

Tín hiệu mang tính đòi hỏi thay thế rõ nhất lại thuộc về một blogger mạng xã hội nhưng mang đậm dấu ấn “lề đảng” là Huy Ðức. Chỉ ít ngày sau thời điểm 26 Tháng Bảy khi ông Trần Ðại Quang chính thức vắng bóng trên chính trường cho tới nay, blogger này đã “nhân danh nhân dân” tung lên facebook cá nhân một thông tin về “Ðại Tướng Trần Ðại Quang bị bệnh” và yêu cầu ông Quang cần “bàn giao quyền lực.”

Nếu Huy Ðức chỉ là một blogger bình thường, có lẽ chẳng ấy người chú ý đến yêu cầu trên. Nhưng từ nửa cuối năm 2015 và ngay trước đại hội 12 của đảng cầm quyền, blogger này đã lộ ra vai trò “lobby” không cần che giấu dành cho phe “Sang Trọng.” Từ đó đến nay, nhiều bài viết của Huy Ðức đã gắn liền với tính tín hiệu về cuộc chiến quyền lực xâu xé trong đảng, để dư luận xã hội ngày càng chú ý một cách đặc biệt đến lối thông tin nửa úp nửa hở của cây bút này liên đới mật thiết đến cơ triển vọng “ai sẽ bị kỷ luật,” “ai sẽ bị bắt” hoặc thậm chí “ai sẽ… chết.”

Từ khoảng 3 năm qua, cuộc chiến quyền lực trong nội bộ đảng đã được xung kích và đặc trưng bởi cuộc chiến trên mạng xã hội của một số cây viết “lề phải.” Không cần ngạc nhiên khi thấy giới dư luận viên ủng hộ Trần Ðại Quang gọi Huy Ðức là “hổ” chứ không phải là “ruồi.”

Chỉ có điều ngay sau tin tức gần nhất của Huy Ðức về Trần Ðại Quang, nhiều người đã bình phẩm: “Tôi là nhân dân đây, nhưng tôi đâu có quan tâm đến chuyện ông Quang phải bàn giao cho ai đó, còn chuyện đám quan chức cắn xé lẫn nhau thì đó là việc của họ, nhưng đừng đem nhân dân hay dân chủ ra làm bình phong….”

Ba tuần lễ sau khi “đi chữa bệnh,” Tướng Trần Ðại Quang vẫn không thể xuất hiện trên ống kính truyền hình vào “ngày truyền thống công an nhân dân 19/8.” Một lần nữa trong nhiều lần kể từ khi ông Quang “biến mất,” báo đảng ồn ào đưa tin về một bài viết của chủ tịch nước nhân ngày 19 Tháng Tám, cùng vài tấm ảnh của ông Quang được chụp từ… năm 2016.

Có nét gì đó khá tương đồng với hai “truyền thuyết không không thấy” trong dĩ vãng gần là vụ Nguyễn Bá Thanh cuối năm 2014 và vụ Phùng Quang Thanh giữa năm 2015.

Trong lúc số phận của ông Trần Ðại Quang vẫn chưa có gì rõ ràng, lại xuất hiện những đồn đoán trên mạng xã hội về hai phương án “chủ tịch nước mới”: hoặc Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ kiêm chức vụ này theo “mô hình Tập Cận Bình” ở Trung Quốc, hoặc một ủy viên Bộ Chính Trị nào đó sẽ được lựa chọn để thay ông Trần Ðại Quang.

Dường như ủy viên Bộ Chính Trị đầu tiên được đề cập cho sự thay thế trên là Nguyễn Thiện Nhân – hiện là bí thư Thành Ủy TP.HCM.

Nguyễn Thiện Nhân là người thế nào?

“Vô danh vô diện”

“Một bí thư thư Thành Ủy vô danh vô diện” – mới đây, tờ Asia Times đã rút cái tít mỉa mai chưa từng có như vậy cho một bài bình luận chính trị của nhà báo David Hutt.

“Ông Nhân được cho là không phù hợp với công việc. Thời gian làm bộ trưởng Bộ Giáo Dục nhìn chung là thất bại cho dù có những hy vọng ban đầu rằng ông có thể mang lại sự tinh tế về quản lý. Kết quả là ông ta đã bị trả về lại trung ương và được bổ nhiệm làm phó thủ tướng, một vị trí có tiếng nhưng ít quyền hạn” – David Hutt nhận định và gọi ông Nhân là “người ba phải.”

Quả thực, những kết quả mà Nguyễn Thiện Nhân tạo ra suốt từ thời còn là phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM, ra Hà Nội làm bộ trưởng Giáo Dục và Ðào Tạo, sau đó làm phó thủ tướng, cho đến chức vụ gần nhất trước khi về lại TP.HCM là chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, là quá khiêm tốn.

Ông Nguyễn Thiện Nhân nổi tiếng với câu nói bốc đồng “đưa TP.HCM trở thành Thung Lũng Silicon.” (Hình: Getty Images)
Nói cách khác, Nguyễn Thiện Nhân đã chuyển từ tư thế “nói nhiều làm ít” sang “khép miệng” đối với rất nhiều vấn đề nước sôi lửa bỏng trong các lĩnh vực mà ông phụ trách.

Rốt cuộc, thách thức lớn nhất đối với Nguyễn Thiện Nhân chính là bản thân ông.

Rất nhiều người hâm hộ và ủng hộ ông trước đó đã chuyển sang tâm thái thất vọng. Sau thất vọng là chỉ trích. Ngay cả những người còn giữ được cái nhìn về một Nguyễn Thiện Nhân “trí thức” và “sạch” cũng đâm ra hoài nghi về năng lực hành động của ông.

Nếu một người đã giữ được tâm thế không dám nói hoặc dám nói nhưng chẳng dám làm gì trong suốt một thập niên ngụp lặn nơi chính trường, sẽ có lý do thúc bách nào để nhân vật đó phải mở miệng hay hành động vào cái thời “thiên hạ đại loạn” cùng rủi ro quan chức vọt đến mức cao nhất?

Có thể cho rằng ưu điểm của Nguyễn Thiện Nhân từ khi về Sài Gòn làm bí thư Thành Ủy vào Tháng Năm năm 2017 là lắng hẳn so với thói ồn ào khoa trương của đời bí thư trước là Ðinh La Thăng. Nhưng ba tháng sau khi nhậm chức, ông Nhân lại chưa chứng minh được bất kỳ kết quả thực tế nào, ngoài vài ba tư duy quá trừu tượng như “đưa TP.HCM trở thành Thung Lũng Silicon,” “TP.HCM trở thành thành phố thông minh,” “kiến nghị nâng gấp đôi lương công chức TP.HCM”… hệt thời “đào tạo 2 vạn tiến sĩ” ở ngành giáo dục.

Song một mâu thuẫn kinh khủng ở Việt Nam trong rất nhiều năm qua là chỉ cần “ngoan hiền dễ bảo” là “cứ thế đi lên.” Nếu trước đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016 đã có tin về Nguyễn Thiện Nhân có thể được “ngồi” ghế chủ tịch nước, sẽ không quá ngạc nhiên nếu sang năm sau Tổng bí thư Trọng chọn ông Nhân cho vị trí này. Và nếu sự thể diễn ra đúng như thế, Nguyễn Thiện Nhân sẽ có cơ hội phát huy năng lực và cũng là sở đoản gần như duy nhất của ông từ trước tới nay: nói tiếng Anh với người nước ngoài không cần thông qua phiên dịch.

Tuy nhiên, nhiều người vẫn cho rằng “phương án Nguyễn Thiện Nhân” chỉ là phụ. Phương án số một vẫn là Nguyễn Phú Trọng.

Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư?

Mới đây, ông Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo Bộ Chính Trị ban hành quy định về tiêu chuẩn cán bộ cao cấp, trong đó có nội dung có vẻ mang khẩu khí của ông Trọng: “Ủy viên Bộ Chính Trị tuyệt đối không tham vọng quyền lực.”

Nhắc lại, ngay trước khi quyết định cho Trần Quốc Vượng thay Ðinh Thế Huynh được công bố, facebook của blogger Huy Ðức đã trở thành nguồn tin đầu tiên thông báo về tình trạng ông Huynh “bị bệnh.”

Nếu cách hành xử “đúng quy trình” trên được lặp lại, có thể sắp tới người ta sẽ chứng kiến một quyết định nào đó của Bộ Chính Trị về việc “thay thế Trần Ðại Quang.”

Và nếu một nhân vật mang tính tín hiệu khác là Nhị Lê – Phó tổng biên tập Tập chí Cộng Sản, nơi mà Nguyễn Phú Trọng đã từ đó đi lên – tỏ ra có cơ sở lạc quan khi bắt đầu đề cập đến kịch bản “nhất thể hóa” ngay trước đại hội 12, ông Trọng có thể bằng việc “ông Quang bị bệnh” để được tập thể bộ Chính Trị cho “nhất thể” vào cái ghế chủ tịch nước kiêm tổng bí thư, theo đúng “mô hình Tập Cận Bình” ở Trung Hoa.

Tuy thế, hình như mọi việc vẫn chưa suôn sẻ lắm. Sau một thời gian bị xem là “bệnh,” những ngày gần đây lại xuất hiện tin tức ông Trần Ðại Quang “khỏe lại.” Cùng lúc lại hiện ra một cuộc phản công trả đũa rất lộ liễu của giới dư luận viên ủng hộ Trần Ðại Quang đối với blogger Huy Ðức. Trận phản công mang tính “tàn sát.”

Không biết thực hư như thế nào, chỉ biết rằng cuộc chiến quyền lực giữa các phe phái trong nội bộ đảng vẫn còn lắm cam go, bất ngờ và có thể bể dâu ghê gớm.

Phạm Chí Dũng

(Người Việt)

SỰ VÔ MINH TRONG QUY ĐỊNH 90 - QĐ/TW
Nguyễn Đình Cống
22-8-2017


TBT Nguyễn Phú Trọng, là người ký ban hành 90 -QĐ/TW. Nguồn ảnh: Reuters.

Ngày 04/8/2017 ĐCSVN ban hành Quy định số 90- QĐ/TWTiêu chuẩn đánh giá cán bộ Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư. Về QĐ này tôi đã đọc được một số phản biện và nhận xét rất hay của Tô Văn Trường, Lê Phú Khải, Hòa Ái, Hạ Đình Nguyên, Bùi Quang Vơm đăng trên trang Boxitvn. Chỉ xin có vài ý kiến bổ sung.
Vô minh là khái niệm thường dùng trong Phật giáo để chỉ tình trạng không hiểu biết thấu đáo về bản chất của sự việc, tạo ra nhận thức nhầm lẫn và hành động sai trái, dẫn đến kết quả lợi ít hại nhiều. Vô minh là cách nói văn hoa, còn theo dân giả, nói trắng ra là sự ngu tối. Trong tác phẩm “Thất bại lớn”, Brzezinski chỉ ra rằng Chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sụp đổ, mà nguyên nhân cơ bản là “ Thiếu trí tuệ”, hoặc nói cách khác là vô minh.
ĐCSVN vì vô minh mà đã phạm nhiều sai lầm như CCRĐ, Cải tạo tư sản, Hợp tác hóa NN, Kinh tế quốc doanh, vụ Vinashin, Vinaline, Bô xit Tây Nguyên, Formosa, Trịnh Xuân Thanh, Trịnh Vĩnh Bình v.v…Trong các nước dân chủ, khi đảng cầm quyền chỉ phạm một trong những sai lầm loại trên thì đã bị mất tín nhiệm, bị nhân dân dùng lá phiếu loại bỏ. Ở VN, mặc dầu vì vô minh, ĐCS mắc hết sai lầm này đến sai lầm khác, nhưng dựa vào bạo lực, tuyên truyền và trên nền dân trí thấp mà vẫn giữ được sự thống trị tạm thời.
Để tỏ ra sự sáng suốt ĐCS viết và công bố hết nghị quyết này đến NQ khác, hết Quyết định này đến QĐ khác. Nhưng xem ra trong các NQ và QĐ đó, ngoài những khẩu hiệu và ngôn từ sáo rỗng, còn chứa đựng nhiều điều vô minh. Xin phân tích vài điều như vậy trong QĐ số 90- QĐ/TW.
1- Mục đích của QĐ
Sau khi QĐ được công bố, nhiều người hỏi nhau: Mục đích của QĐ này là gì. Hỏi rồi đưa ra lời đoán. Đoán thì có thể đúng hoặc sai. Không có giải thích rõ ràng và trung thực, thế là đã vô minh. Đề ra Tiêu chuẩn (TC) để đánh giá chứ không phải TC để lựa chọn. Ừ thì TC đánh giá và TC lựa chọn có thể giống nhau, nhưng TC lựa chọn là thuộc tiềm năng, còn TC đánh giá là dựa vào công việc đã làm. Trong hơn tám chục năm tồn tại của ĐCSVN tôi chưa thấy có khi nào tổ chức đảng đưa ra tiêu chuẩn cụ thể để lựa chọn cán bộ mà chủ yếu dựa vào bầu cử ở các đại hội. Ở đó, về hình thức có các khẩu hiệu “Sáng suốt lựa chọn…”và bầu cử dân chủ. Nhưng dưới chế độ CS, càng ngày bầu cử chỉ là cách hợp pháp hóa của một sự áp đặt độc đoán. Những người được bầu chủ yếu đạt tiêu chuẩn quan trọng nhất là “được lòng cấp trên” và cùng phe cánh với các nhóm lợi ích.
Bỗng dưng xuất hiện QĐ 90. Phải chăng vì từ trước đến nay không có TC đánh giá nên mới làm cho Đảng nát bét như hiện nay và rồi với QĐ này ĐCS VN sẽ trở nên trong sạch, vững mạnh, tiến thêm một bước vững chắc hay QĐ 90 chỉ là cái cớ để các phe phái lợi dụng đấu đá lẫn nhau. Vậy mục đích là vô minh.
2- Phương pháp thể hiện
Đặt ra TC là để vận dụng. Tùy vào đối tượng mà TC cần rất cụ thể hoặc có tính khái quát hóa. Sự khái quát ở mức cao đưa về 2 khái niệm tốt và xấu. Ở các nước dân chủ, để chọn lựa người đứng đầu nhà nước hoặc một tổ chức nào đó chỉ cần TC quan trọng và duy nhất là được sự tín nhiệm của đa số cử tri. Để đánh giá sự hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức cũng chỉ cần TC quan trọng và duy nhất là được lòng hay mất lòng đa số cử tri. Để loại bỏ một người khỏi cương vị (ví như Tổng thống Nicxơn của Mỹ, Tổng thống Păckinhee của Hàn quốc) chỉ cần vạch ra một tội nào đó đáng kể, chẳng cần những TC dài dòng. Để chọn lựa quan chức của chính quyền, ông Lý Quang Diệu chỉ dựa vào 2 TC: có tài năng và liêm chính. Các cụ của chúng ta ngày trước cũng có một số TC được khái quát hóa thành Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín, hoặc Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, hoặc gần đây là Cần, Kiệm, Liêm, Chính v.v…. Sự đánh giá một con người, một cán bộ nhiều khi và có thể quan trọng nhất là một sự cảm nhận tổng hợp về mức độ lương thiện và năng lực, mức độ đáng tin cậy. Cần gì phải viết cho dài dòng, kể ra nhiều thứ như trong QĐ 90.
QĐ 90 có TC chung lại có TC chức danh cụ thể. Trong TC chung có 5 mục: 1- Về chính trị tư tưởng. 2- Về đạo đức lối sống. 3- Về trình độ. 4- Về năng lực và uy tín. 5- Về sức khỏe. Mỗi mục lại có nhiều TC cụ thể. Tôi cố đọc đi đọc lại các TC, nếu tách ra từng thứ thì TC nào cũng đúng, cũng cần, nhưng ghép chung lại thì thành một mớ hỗn loạn. Như vậy về hình thức trình bày QĐ 90 cũng thuộc loại vô minh.
3- Về một số TC cụ thể
Nhiều TC đưa ra là những tính cách thông thường, cần thiết cho bất kỳ một con người lương thiện nào, thí dụ: trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm chính, không tham nhũng, cơ hội, chống tệ quan liêu, tiêu cực, lãng phí, cửa quyền. Nhiều TC là thông thường đối với bất kỳ cán bộ hoặc đảng viên nào, thí dụ: Nắm chắc tình hình chung và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực, địa bàn, địa phương, cơ quan, đơn vị được phân công. Kịp thời phát hiện những mâu thuẫn, thách thức, thời cơ, vận hội, vấn đề mới, vấn đề khó, hạn chế, yếu kém trong thực tiễn; chủ động đề xuất những nhiệm vụ giải pháp có tính khả thi và hiệu quả. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; nói đi đôi với làm; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ ; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao…. Đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ; Có tinh thần yêu nước nồng nàn; có trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp.
Đưa ra nhiều TC của người bình thường để gán cho cán bộ cấp cao cũng phạm vào lỗi vô minh.
TC  « tuyệt đối không tham vọng quyền lực » đã được một số người phân tích, tôi chỉ viết thêm. Vấn đề quan trọng không phải là tham hay không tham quyền lực mà người ta định dùng quyền lực để làm gì, tương quan giữa năng lực và quyền lực có phù hợp không. Nếu lên án sự tham vọng quyền lực chung chung thì những ứng viên tổng thống của tất cả các nước đều bị lên án và loại bỏ. Không tham vọng quyền lực là một khái niệm vô minh.
TC « Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng ». Đây là một khái niệm mơ hồ vì chưa thấy một văn bản nào định nghĩa lợi ích của Đảng gồm những thứ gì. Thỉnh thoảng có được nghe giải thích, ngoài lợi ích của dân tộc thì Đảng không còn lợi ích nào khác. Bây giờ lại có thêm « Trung thành với lợi ích của Đảng ». Việc trung thành này có gì khác so với trung thành với các lãnh đạo chóp bu của Đảng. Trong điều lệ đảng không thấy viết gì về quyền lợi của Đảng. Sự trung thành này thuộc dạng vô minh.
TC “Kiên định Chủ nghĩa Mác- Lênin (CNML)” thể hiện sự vô minh rõ ràng nhất. Điều này không cần chứng minh thêm. Một mặt bắt kiên định CNML, mặt khác đề ra TC năng động sáng tạo, sự vô minh càng lộ rõ.
TC “tốt nghiệp đại học trở lên” thể hiện cái nhìn thiển cận về bằng cấp, sự vô minh về cách đánh giá trình độ. Các bậc tiền bối như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Đỗ Mười v.v… chắc sẽ giật mình khi biết TC này.
TC “Sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng”. Hỏi rằng hiện nay Đảng đang định làm cách mạng gì nữa trong lúc khẳng định là đảng cầm quyền.
TC “Có trình độ cao về lý luận chính trị, xây dựng Đảng” là một TC mơ hồ, vô minh. Những lý luận chính trị theo CNML, đường lối xây dựng đảng theo mô hình CNML đã tỏ ra quá lỗi thời, quá lạc hậu. Ai đánh giá trình độ này. Liệu có dám đối thoại công khai để thể hiện trình độ này cho toàn dân biết không.
Trong QĐ có khá nhiều nhầm lẫn giữa TC đánh giá và TC lựa chọn.
4- Kết luận
Sự vô minh hoặc kém trí tuệ là một bệnh nặng và cố hữu của phong trào cộng sản. Tại sao lại như vậy, nguyên nhân từ đâu. Phải truy tìm từ gốc. Chủ nghĩa cộng sản được sinh ra từ sự vô minh là đánh giá sai động lực phát triển xã hội, vạch ra con đường sai lầm làm cách mạng và chuyên chính vô sản. Không thấy được cái sai, hoặc thấy nhưng vì để củng cố quyền lợi cá nhân mà cố níu giữ, càng đẩy sâu thêm vào trạng thái vô minh. Từ vô minh trong nhận thức dẫn đến vô minh trong hành động.