22 tháng 6, 2017

Nguyễn Thông - Quốc hội xắn nhát xẻng cuối cùng đào huyệt chôn giới luật sư


Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi, định viết, định thôi. Xứ này thiếu gì luật sư, luật gia, thày cãi, có cả Liên đoàn luật sư quốc gia, rồi tỉnh thành nào cũng có Đoàn luật sư, họ im không lên tiếng, mắc mớ gì tới mình. Nhưng sự khó chịu để âm ỉ trong người, giữa những ngày bức bối nhiệt độ cao thế này, không xả ra có khi điên mất. Thôi thì dăm ba chữ, chả nhằm cứu ai, trước hết chỉ cứu cái thân mình.
Nguyễn Thông
Chả là chiều 20.6, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự sửa đổi (2015) với đa số phiếu, trong đó vẫn giữ nội dung “luật sư phải tố giác thân chủ”. Khi luật đã được thông qua và ban hành thì chỉ có chấp hành, cấm cãi.
Điều đáng nói, nội dung này khi còn dự thảo được trình Quốc hội để lấy ý kiến đã bị dư luận phản đối dữ dội. Hầu hết cho rằng không thể như vậy được, trên thế giới chả có ai làm thế. Xưa nay, xứ ta cứ thích đi một mình một đường, cứ đòi “áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam”, đường ta ta cứ đi, kệ chông gai ngăn trở. Cũng có trường hợp đi được tới đích nhằm chỗ sáng tươi, nhưng phần nhiều đâm đầu vào ngõ cụt, vực sâu, mà trường hợp dứt khoát yêu cầu luật sư phải tố giác thân chủ là một ví dụ.
Người ít học nhất cũng hiểu rằng luật sư là người bảo vệ cho thân chủ. Dân gian gọi nôm na là thầy cãi. Luật sư có nhiệm vụ cãi cho người mình nhận bảo vệ trước tòa. Dù thân chủ là bị cáo (cáo buộc có tội) hay nguyên cáo (đứng ra tố cáo, khởi kiện) thì luật sư được bên nguyên hoặc bên bị thuê đều phải tìm mọi cách bảo vệ khách hàng của mình (thân chủ). Đó là trách nhiệm của luật sư, và chỉ có trách nhiệm ấy, không còn gì khác.
Luật pháp quy định người bị cáo buộc phạm tội bị đưa ra tòa xét xử luôn có quyền yêu cầu luật sư bảo vệ. Rất nhiều trường hợp bị cáo không nêu ra yêu cầu ấy thì cơ quan pháp luật chỉ định luật sư đứng ra làm việc đó. Tức là không để bất cứ ai bị thiệt thòi quyền bào chữa trước tòa. Cũng có trường hợp bị cáo nói rõ không cần luật sư mà sẽ tự bào chữa, pháp luật cũng chấp nhận.
Khi bị cáo thuê luật sư, hoặc có những luật sư tự nguyện bào chữa và được bị cáo chấp nhận thì đã xác lập mối quan hệ giữa luật sư và thân chủ. Bị cáo tin tưởng, thâm chí tin tưởng tuyệt đối vào luật sư, sẵn sàng cung cấp mọi tài liệu cần thiết, thổ lộ mọi sâu kín, bí ẩn để luật sư nắm vững vụ việc, từ đó luật sư tranh cãi có lợi cho thân chủ của mình. Bị cáo đặt niềm tin vào luật sư, giống như trao cả cuộc đời mình vào vị cứu tinh.
Hãy đặt ra trường hợp, sau khi luật sư nhận được những thông tin từ thân chủ, thay vì dùng nó để bào chữa cho bị cáo, thì luật sư đem đi báo nhà chức trách (công an, kiểm sát). Hành động ấy, nói cho cùng, là sự phản phúc, phản bội, không chỉ đối với người đã đặt niềm tin vào mình, mà cả đối với lương tâm mình, nghề nghiệp của mình. Chỉ bằng việc tố cáo, luật sư đã tự biến mình thành mật thám, Giuda (Judas) chứ không còn là trạng sư, thầy cãi nữa.
Thời phong kiến, ngay cả những bộ luật bảo thủ bảo hoàng nhất cũng còn cho phép bậc cha mẹ có quyền không tố cáo con cái nếu chúng vi phạm pháp luật. Vấn đề mà luật phong kiến xem xét là khía cạnh đạo đức, lương tâm.
Cũng có thể cơ quan pháp luật sau khi tiếp nhận thông tin (tố cáo) sẽ giữ bí mật về nguồn cung cấp nhưng tôi đoan chắc rằng luật sư tố cáo đó sẽ không bao giờ yên ổn về lương tâm nghề nghiệp, rồi sớm muộn cũng phải bỏ nghề, trừ trường hợp là kẻ táng tận lương tâm. Tưởng không ai biết nhưng trời biết, kẻ nhận thông tin từ mình biết (sẽ coi mình chả ra gì), bản thân mình biết, giấu làm sao được.
Một khi luật sư đã đứng ra tố thân chủ thì đương nhiên không thể tiếp tục bảo vệ cho người ta nữa. Ai sẽ đứng ra bảo vệ tiếp cho bị cáo. Không ai cả. Quyền được bào chữa sẽ bị tiêu hủy, quyền con người bị dập tắt, chỉ bởi một quy định không giống ai.
Và thật lạ, một hệ thống luật pháp lại ngang nhiên sử dụng những kẻ phản bội, phản phúc, rồi nó sẽ đi về đâu.
Đã từ khá lâu rồi luật sư ở xứ này bị nhà cai trị lợi dụng, coi như cây cảnh, bonsai, để trang trí cho bức tranh dân chủ công lý. Nay thêm nhát xẻng này, cái hố đã xong, chỉ cần lấp đất là hoàn thành cuộc chôn vùi.
Lão Maddox hàng xóm nhà tôi, khi đọc cái thông tin về sự tố cáo phản bội kia đã chốt lại rằng không ngờ cơ quan chuyên đẻ ra luật pháp lại thông qua một thứ luật vô pháp đến vậy.

21.6.2017

Nguyễn Thông

(FB Nguyễn Thông)

19 tháng 6, 2017

Cơn sốt Đỏ tại Việt Nam

Đăng bởi Elvis Ất on Monday, June 19, 2017 | 19.6.17

Trung Quốc đã trở thành quá khứ, giờ đây Việt Nam đang phát triển mạnh. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh, kể từ khi nhà nước cộng sản này mở cửa cho thị trường thế giới. Đồng lương gia tăng cũng như sự tương phản giàu nghèo.
Kinh tế kế hoạch, nhưng lại làm khác với những điều đã định trước: Hồ Chí Minh nhìn vào những cao ốc văn phòng, Biểu tượng của chủ nghĩa tư bản tự do. (Theo báo Đức: Zeit.de) [1]
Có lẽ những người cộng sản đã hình dung tương lai các thành phố của mình như vậy: Ở trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh đang hình thành một khu phố mà trên những tờ rơi quảng cáo trông giống như sự viễn tưởng của quá khứ: Các tòa tháp gần giống nhau xếp hàng ngạo nghễ dọc theo sông Sài Gòn, chậm nhất là tới năm 2018, tòa nhà cao nhất Việt Nam sẽ hoàn tất tại đây, Tháp 81 cao hơn 450 m sẽ vươn lên trời.
Nhưng không phải nhà nước xây dựng khu phố này mà là Phạm Nhật Vượng, doanh nhân giàu nhất nước với tài sản trị giá 2,2 tỉ USD, kiếm được từ thực phẩm ăn liền và bất động sản. Và không phải những người công nhân bình thường chuyển tới ở tại những tòa tháp này mà là giới tinh hoa kinh tế mới của đất nước, trong đó có 6 triệu phú tự làm giàu, nhưng cũng có cả nhiều cán bộ đảng đã giành được cho mình những chức vụ béo bở trong các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ căn hộ một phòng ở đây đã có giá tương đương gần 200.000 Euro, một con số khổng lồ đối với hầu hết người Việt Nam, bởi vì đồng lương tối thiểu ở Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ khoảng 150 Euro một tháng.
Mặc dù Việt Nam vẫn được gọi là Cộng hòa XHCN. Nhưng Đảng Cộng sản của nước này chẳng còn muốn liên quan gì tới nền kinh tế kế hoạch nữa. Thay vì điều đó, nước này ngày càng trở thành một nhà nước TBCN mẫu mực. Việc mở cửa với toàn cầu hóa đã mang lại cho nước này sự bùng nổ về kinh tế, với tất cả ưu điểm và nhược điểm mà CNTB mang theo.
Sự khốn khó đã thúc đẩy những cải cách kinh tế: Cách đây 35 năm, Việt Nam còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Trong Chiến tranh Việt Nam, mặc dù những người cộng sản đã đánh cho siêu cường Mỹ phải chạy trốn. Nhưng về mặt kinh tế, những người chiến thắng đã đẩy đất nước tới chỗ lụn bại. Thay vì sự sung túc, nền kinh tế tập trung đã mang lại nạn đói.
Giữa những năm 80, Chính phủ đã nhận ra rằng không thể tiếp tục như thế này. Với những cải cách được gọi là „Đổi mới“, họ đã tự do hóa nền kinh tế, trong đó áp dụng những biện pháp tương tự như nước láng giềng lớn Trung Quốc: Trước hết, họ dành cho nông dân có nhiều tự do hơn và cho phép các doanh nghiệp tư nhân được hoạt động, để sau đó mở cửa đối với toàn cầu hóa.
Về mặt chính thức, Đảng Cộng sản giờ đây gọi hệ thống của mình là „Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN“. Hệ thống này tiếp tục dành cho nhà nước một vai trò lớn, nhưng nó cũng muốn tận dụng sức sản xuất của CNTB: Ít nhất là về mặt chính thức, sự sung túc của toàn bộ dân chúng phải tăng lên và được phân chia càng đều càng tốt. Trong đó, giới lãnh đạo ngày càng đặt cược nhiều hơn vào bàn tay vô hình của thị trường, hy vọng vào những hiệp định tự do thương mại mới các nước như Nhật Bản, Úc và Chile và e sợ chủ nghĩa bảo hộ mới của Mỹ. Bởi vì Việt Nam muốn tăng cường lĩnh vực xuất khẩu đang tăng mạnh của mình và ngày càng thuần phục hơn những quy tắc của CNTB toàn cầu.
Quả thực, sự mở cửa kinh tế đã giúp cho nước này rất nhiều. Khi bắt đầu đổi mới, thu nhập bình quân của người Việt Nam mới là khoảng 90 Euro một năm, giờ đây là 1.900 Euro. Ngân hàng Thế giới gọi đất nước này là „câu chuyện thành công về chính sách phát triển“.
Không khí phấn khởi chưa phải đã hết. Theo công ty nghiên cứu thị trường Nielson, Việt Nam là một trong năm quốc gia mà người tiêu dùng tin tưởng nhất vào tương lai. Tầng lớp trung lưu đang phát triển tiêu tiền ở những nơi như Vincom Mega Mall ở Hà Nội, một trong những trung tâm mua sắm dưới mặt đất lớn nhất ở châu Á. Hầu như không còn ai mong muốn Chủ nghĩa Cộng sản trở lại: Theo Viện nghiên cứu thị trường Pew của Mỹ, có tới 95% tất cả người Việt ủng hộ nền kinh tế thị trường, tỉ lệ cao nhất trong tất cả các quốc gia.
Các doanh nghiệp trước hết đánh giá cao lương giá rẻ ở Việt Nam, hiện nay thấp hơn 2/3 so với ở miền duyên hải Trung Quốc.
Trong khi ở Trung Quốc, các hàng hóa phức tạp hơn, kể cả tự phát triển được sản xuất, thì từ các nhà máy Việt Nam chỉ có hàng hóa sản xuất hàng loạt đơn giản. Vì vậy, mới đây hãng Microsoft đã đóng cửa hai nhà máy sản xuất điện thoại thông minh ở Trung Quốc, để sản xuất ở Việt Nam. Hãng dệt may Lever Style, sản xuất cho các thương hiệu như Hugo Boss cũng ngày càng tăng cường cho gia công may ở Việt Nam.
Điều này cũng có lý do là nhà nước mời chào các tập đoàn với việc trợ giá và ưu đãi thuế. Các doanh nghiệp sau đó hầu hết chuyển tới các khu công nghiệp khổng lồ quanh Hà Nội hoặc Thành phồ Hồ Chí Minh. Nhiều mặt hàng còn được sản xuất thủ công: Ở các công xưởng lớn, hàng ngàn công nhân ngồi san sát bên nhau để may, dán và lắp các sản phẩm lại với nhau.
Đặc biệt là tập đoàn điện tử Samsung của Hàn Quốc đã phát hiện ra Việt Nam. Hầu hết các điện thoại thông minh của hãng này giờ đây được sản xuất tại Việt Nam với hơn 100.000 người lắp ráp các máy này. Mục tiêu đối với năm 2016 là 200 triệu máy điện thoại thông minh. Như vậy, phần lớn hàng điện tử xuất khẩu, hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam là từ các nhà máy của Samsung. Nhiều hàng dệt may và thực phẩm cũng được Việt Nam xuất khẩu. Việt Nam cũng nổi tiếng về cà phê từ Tây Nguyên, nhưng việc bán hải sản, ví dụ như tôm từ những cơ sở nuôi thả ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lại có vai trò quan trọng hơn về mặt kinh tế.
Đồng thời, ngành du lịch cũng ngày càng quan trọng hơn. Trong đó, Việt Nam được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế của các nước láng giềng: Hầu hết du khách đến từ Trung Quốc, tiếp theo đó là từ Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở những điểm nóng du lịch như Vịnh Hạ Long, người ta có thể gặp hàng đoàn người châu Á vui chơi trong các quán Karaoke hoặc ăn lẩu trong các nhà hàng.
Mặc dù làm ăn kinh doanh trên toàn cầu, ở Việt Nam vẫn còn những tàn dư XHCN: Các doanh nghiệp nhà nước lớn vẫn chi phối nền kinh tế. Thậm chí vẫn còn kế hoạch 5 năm mà Quốc hội chỉ thông qua 5 năm một lần. Vào những dịp Quốc hội họp này thì thủ đô Hà Nội được trang hoàng với hàng ngàn biểu ngữ tuyên truyền và khẩu hiệu được xếp bằng hoa. Tuy nhiên, những Kế hoạch 5 năm này không còn xác định phải sản xuất những mặt hàng gì, mà trong đó, Ban lãnh đạo quyết định sẽ hỗ trợ đặc biệt cho những ngành và khu vực nào trong những năm tới.
Nhà nước vẫn có nhiều ảnh hưởng, nhưng không thể ngăn chặn khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng mạnh trong nước. Ngân hàng Thế giới cho rằng, chẳng bao lâu nữa, người dân sẽ ngày càng cất cao tiếng nói kêu gọi phân chia công bằng hơn những sự phồn thịnh gia tăng. Trong khi một số trẻ em còn không đủ ăn thì số lượng người siêu giàu lại phát triển nhanh chóng.
Trong khi đó, các doanh nghiệp lại khốn khổ vì nạn tham nhũng tràn lan và không phải lúc nào cũng tin tưởng được những luật pháp hiện hành. Nhưng không có một cuộc tranh luận công khai hoặc thậm chí biểu tình về vấn đề này, bởi vì giống như ở Trung Quốc, mặc dù Ban lãnh đạo cởi trói cho nền kinh tế. Nhưng Đảng Cộng sản hầu như không cho phép công dân có những tự do chính trị.

Theo báo Zeit.de

Trung Khoa dịch


18 tháng 6, 2017

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ CỤ LÊ ĐÌNH KÌNH NGƯỜI Ở THÔN HOÀNH XÃ ĐỒNG TÂM HUYỆN MỸ ĐỨC HÀ NỘI  (TÍNH ĐẾN NĂM 2017) 82 TUỔI ĐỜI VÀ 50 TUỔI ĐẢNG CỰU BÍ THƯ ĐẢNG ỦY XÃ ĐỒNG TÂM HUYỆN MỸ ĐỨC HÀ NỘI - MỘT THỦ LĨNH NÔNG DÂN KIÊN QUYẾT CHÔNG LẠI LỢI ÍCH NHÓM THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ BỊ CÔNG AN ĐÁNH GÃY XƯƠNG ĐÙI VÀ XƯƠNG CHẬU CỦA CHÂN BÊN PHẢI. HÌNH ẢNH VÀ VIỆC LÀM CỦA CỤ SẼ ĐƯỢC GHI VÀO LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ, NHƯ MỘT DẤU SON KHÓ PHAI MỜ










Đăng bởi Elvis Ất on Sunday, June 18, 2017 | 18.6.17

Những điều đạt được giữa Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung với người dân Đồng Tâm ngày 22/4/17 có thể gọi là thỏa thuận Đồng Tâm.

Đó không phải là câu chữ bột phát và thiếu ý thức, không phải hành động đơn phương và nhất thời, mà là một giao ước ràng buộc lẫn nhau. Về phía người dân, là giao trả người và trở về đời sống dân sự. Về phía ông Chung, là những gì đã viết trong Bản cam kết.

1.

Có ý kiến cho rằng viết cam kết này, ông Chung không có cơ sở pháp lý và đã xâm phạm đến tư pháp. Theo luật định và thực tế thì sao?
Khoản 3 Điều 22 Luật Tổ chức Chính quyền Địa phương quy định Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh có quyền: Lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh; thực hiện các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng (...).
Khoản 2 Điều 20, cũng của Luật trên, quy định: Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh gồm có các sở và cơ quan tương đương sở.
Cơ quan công an cấp tỉnh hiện nay không còn dùng chữ “Sở” (mà chỉ vỏn vẹn chữ “Công an”), nhưng theo phân cấp tại Khoản 1 Điều 16 Luật Công an Nhân dân, Công an tỉnh là một cơ quan tương đương sở. Và do đó, Công an tỉnh phải chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chủ tịch tỉnh khi ông này thực hiện nhiệm vụ về an ninh, trật tự, an toàn xã hội...
Khoản 1 Điều 153 Bộ luật Tố tụng Hình sự trao cho cơ quan điều tra thẩm quyền khởi tố vụ án. Ngoài việc tự mình ghi nhận dấu hiệu tội phạm và quyết định khởi tố, cơ quan này còn khởi tố dựa trên những căn cứ khác, quy định tại Điều 143 và Điều 155 của cùng Bộ luật. Theo đó, là các trường hợp sau: tố giác, có tin báo, tin từ truyền thông, kiến nghị, tự thú, người bị hại yêu cầu...
Đối chiếu qua trường hợp Đồng Tâm, giả như, cho dù cơ quan điều tra không ra quyết định khởi tố – như cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự của ông Chung – thì, nếu bất bình với cam kết của ông Chủ tịch, cá nhân nào đó vẫn có quyền tố giác, cơ quan nhà nước nào đó vẫn có quyền kiến nghị, người nào đó trong số 38 người bị giữ vẫn có quyền yêu cầu..., để công an Hà Nội phải khởi tố. Tuy nhiên, với thẩm quyền của mình (như đã nêu), Chủ tịch Chung hoàn toàn có thể chỉ đạo không khởi tố.
Điều đó có phải là can thiệp của hành pháp vào công việc của tư pháp? Dù có khác biệt trong vận hành tư pháp giữa Việt Nam và chuẩn mực tiến bộ của thế giới, thì bộ máy an ninh công quyền (tức “công an”) ở đâu cũng thuộc về hành pháp. Nên, nếu Nguyễn Đức Chung có chỉ đạo không khởi tố, thì đó vẫn nằm trong thẩm quyền hành pháp của ông. Và công cụ để kiểm soát và điều chỉnh sự lạm dụng thẩm quyền này – nếu có – là hội đồng nhân dân cùng cấp, hành pháp cấp trên, và công luận.
Cũng có ý cho rằng Bản cam kết do ông Chung viết tay và lăn tay đó không có con dấu, nên không có hiệu lực. Thế nhưng, hiệu lực là ở đâu nếu trước hết không phải là ở chính tư cách Chủ tịch Thành phố Hà Nội của ông?
Chỉ với buổi làm việc với tư cách ấy thôi, đã cho ông thẩm quyền viết Bản cam kết.
Nó sẽ đương nhiên vô hiệu nếu ông Chung đến Đồng Tâm chỉ với tư cách một người bình thường. Nhưng với tư cách ấy, trong trường hợp ấy, thì dân Đồng Tâm cũng đã đương nhiên không cần cái gọi buổi đối thoại ấy, không cần phải tiếp cái ông có tên Nguyễn Đức Chung đồng dân vô quyền ấy.
Cùng với tư cách và thẩm quyền như vậy, với sự chứng kiến và xác thực bằng chữ ký của hai đại biểu quốc hội, trước sự chứng kiến và xác thực thực tế của người dân Đồng Tâm, Bản cam kết của Chủ tịch Chung không những có giá trị pháp lý mà còn mang giá trị đạo lý và giá trị chính trị.
Muốn hủy bỏ nó, nếu trên tinh thần của công lý và công minh, của sự chính trực và chính danh, không thể đơn giản là nại ra con dấu, mà phải xem xét đến sự tồn tại của chính chức vị của ông Chủ tịch, cũng như cần đến những định chế và tiến trình chính trị lẫn pháp lý khác (chẳng hạn, tòa án hiến pháp, ủy ban điều tra độc lập của quốc hội... mà hiện không có). Không thể không ghi nhận sự vận hành theo cơ chế con dấu ở Việt Nam, nhưng cần thấy rằng, khi đi ngược lại với chữ “nếu” vừa nêu, phủ nhận giá trị pháp lý của nó theo kiểu giũ áo phủi bỏ, thì dứt khoát cũng là đã chà đạp lên giá trị đạo lý và hủy diệt giá trị chính trị, mà hậu quả chắc chắn không thể nhỏ.

2.

Tiến trình của sự việc và thời điểm của quyết định khởi tố ngày 13/06/17 khiến cho khó mà không có nghi vấn, rằng đấy chỉ là việc bình thường của công an, hay có những toan tính khác thường? Đấy là những giả định có thể có, theo mức độ tiêu cực giảm dần:
· Thỏa thuận Đồng Tâm chỉ là biện pháp tình thế và giả tạo ngay từ đầu, chính quyền vẫn quyết thắng dân cho bằng được.
· Các thế lực tương nghịch trong Đảng Cộng sản Việt Nam chống nhau hoặc chống lại hướng đối thoại vừa manh nha.
· Trước nguy cơ mất sân golf Tân Sơn Nhất, nhóm lợi ích có liên quan dùng Đồng Tâm để đổi chác, hoặc ít ra là “đáp lễ”.
· Cá nhân Nguyễn Đức Chung bị chống đối, bị chơi xỏ.
· Khởi tố như một đòn gió, nhằm thỏa mãn nhóm người bảo thủ muốn giữ “kỷ cương phép nước”, hoặc để đáp ứng cho thế lực công an không muốn bị mất mặt.
· Khởi tố như một đòn gió, để một vài nhân vật sẽ ghi điểm khi thay đổi được tình thế.
· Khởi tố như một đòn gió, giữ cho tất cả trong thế cùng thắng.
· Khởi tố như một đòn gió, nhân đang nóng vụ sân golf Tân Sơn Nhất, tái kích hoạt công luận về dự liên quan của quân đội tại đây nói riêng, và hoạt động kinh tế của quân đội nói chung, cũng như về sở hữu đất đai.
· Và, những kết hợp của vài trường hợp trên.
Dù với bất kỳ trường hợp nào vừa nêu, nếu có bất cứ án tù nào cho người dân Đồng Tâm, thì cá nhân ông Nguyễn Đức Chung cùng toàn thể Bộ Chính trị đương nhiệm cũng sẽ gánh lấy trách nhiệm.
Thỏa thuận Đồng Tâm vẫn là một thỏa thuận lịch sử hay sẽ là một sự lật lọng lịch sử, là tùy ở các vị ấy.
Cơ may giữ lại một niềm tin mong manh cuối cùng cho sự cải tổ hòa bình, đã sơ khởi mở ra từ đối thoại Đồng Tâm, sẽ được tiếp tục hay bị kết liễu sớm, để rồi sẽ đi đến một cuộc động loạn rộng khắp trong tương lai, là tùy ở các vị ấy.

14 - 16/06/17

Lê Tuấn Huy

(Bauxitevn)

Ts Nguyễn Sĩ Dũng: Không chống độc quyền, thân hữu thì không có Chính phủ kiến tạo

Đăng bởi Elvis Ất on Sunday, June 18, 2017 | 18.6.17

 “Phải chống cho được chủ nghĩa tư bản thân hữu. Nếu không quen quan chức chả làm ăn gì được thì cạnh tranh cái gì. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản thân hữu là vấn đề rất lớn của thể chế. Và ở khung khái niệm bảo đảm môi trường cạnh tranh ở đây, không chống chủ nghĩa tư bản thân hữu không thể làm được”, TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nói.
Ts Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Môi trường kinh doanh quan trọng nhất là tự do tài sản, tự do kinh doanh

Theo TS Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam từ khi đổi mới có mô hình gần giống với các nước Đông Bắc Á – nhà nước đề ra đường lối phát triển công nghiệp, can thiệp vào thị trường. Tuy nhiên, trong khi các nước Đông Bắc Á thành công thì Việt Nam lại thất bại. “Nguyên nhân là vì chúng ta không có một bộ máy hành chính công vụ chuyên nghiệp, thuộc giới tinh hoa và độc lập như các nước đó”, TS Dũng nói.
Bình luận về việc xây dựng Chính phủ kiến tạo, TS Dũng cho rằng, dù trong thời gian qua cụm từ này được nói đến nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa hình hành một khung khái niệm rõ rệt.
Nhìn vào các hoạt động của Chính phủ, của Thủ tướng, TS Dũng cho rằng có 4 bộ phận hợp thành Chính phủ kiến tạo – theo quan điểm của Việt Nam, gồm: cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm chi phí, đảm bảo cạnh tranh và cung cấp dịch vụ công chất lượng, giá rẻ. 


Về cải thiện môi trường kinh doanh, TS Dũng nhận định, đó không chỉ là cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục mà quan trọng nhất phải là tự do tài sản, tự do kinh doanh, tự do khế ước, đảm bảo hợp đồng được thực thi và khi có tranh chấp thì xử lý được nhanh, hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đảm bảo quyền tự do tài sản vẫn còn nhiều khiếm khuyết, đặc biệt là quyền tự do tài sản đối với đất đai. 
Bên cạnh đó, TS Dũng cũng cho rằng, một môi trường kinh doanh tốt thì phải tránh được cho doanh nghiệp, người dân những rủi ro về chính sách. “Mua miếng đất xây nhà thì hôm sau quy hoạch ở đó, thế là phá sản luôn. Một nguyên tắc của pháp quyền để đảm bảo môi trường kinh doanh là chính sách pháp luật phải đoán định được. Nếu rủi ro chính sách quá lớn thì không ai có thể nói môi trường kinh doanh đó tốt được”, ông nói.

Không có người dân nước nào nuôi bộ máy quản trị lớn như dân ta

Bộ phận cấu thành thứ 2 của khái niệm Chính phủ kiến tạo là cắt giảm chi phí. Theo TS Dũng, việc cắt giảm chi phí phải được hiểu rất rộng, bởi chi phí nền quản trị quốc gia của chúng ta quá lớn. Không có dân nào nuôi một bộ máy quản trị lớn như dân ta. Nếu dân Mỹ nuôi 10 người công chức thì chúng ta phải nuôi trên 100 người. “Rõ ràng, việc cắt giảm chi phí không chỉ thực hiện với doanh nghiệp mà còn thực hiện cho cả người dân”.
Muốn cắt giảm chi phí, TS Dũng cho rằng phải có một bộ máy khác so với hiện tại. Cái khác đó là không nên có 2 bộ máy cũng làm chính sách. 
“Làm chính sách bên Đảng rồi lại làm chính sách bên Nhà nước, trùng lặp như vậy thì dân nào trả nổi mà nuôi? Tôi nghĩ phải nhất thể hóa giữa Đảng và Nhà nước để quy trình chính sách xảy ra ở một nơi thôi. Khi đó có thể cắt giảm chi phí ở chỗ, những tổ chức bán nhà nước thì trả về cho xã hội dân sự; những cái gì xã hội và doanh nghiệp làm được thì Nhà nước đừng ôm đồm”, TS Dũng phân tích. 
Số lượng người ăn lương nhà nước quá lớn đang là gánh nặng cho ngân sách và xã hội
Một việc quan trọng khác là cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân. Chi phí này hiện nay là khổng lồ. Ví dụ như ban hành quy định xe ô tô phải có bình chữa cháy. Ban đầu một bình xịt chỉ có giá 50.000 đồng, khi có lệnh ấy lập tức lên 150.000 – 200.000 đồng. Nhân lên sẽ thấy chi phí tuân thủ pháp luật của xã hội cho một quy định nho nhỏ như vậy là rất lớn.
“Tôi ví dụ Luật Đầu tư công, Luật này với chi phí như vậy thì nó khủng khiếp luôn. Bây giờ Quốc hội đang chất vấn vì sao không giải ngân (vốn đầu tư công – PV) được. Không giải ngân được là vì tuân thủ cái luật đó. Chả có cách gì để giải cả! Đấy là chi phí tuân thủ pháp luật quá lớn. Và đây nên là đòi hỏi bắt buộc của chương trình lập pháp, phải tính xem chi phí này là bao nhiêu”, TS Dũng nói.

Thể chế chống độc quyền còn rất yếu

Chính phủ hiện nay đang thúc đẩy việc đảm bảo cạnh tranh và thúc đẩy cạnh tranh. Nhưng việc thúc đẩy cạnh tranh đang vướng phải vấn đề độc quyền. Độc quyền hiện nay vẫn còn, gồm độc quyền tự nhiên, độc quyền nhà nước, độc quyền bán nhà nước. Nhưng điều đáng lo ngại hơn nữa là thể chế chống độc quyền hiện nay rất yếu. 
Vấn đề đáng lo nữa là chủ nghĩa tư bản thân hữu. TS Dũng cho rằng phải chống cho được chủ nghĩa tư bản thân hữu. “Nếu không có quen quan chức chả làm ăn gì được thì cạnh tranh cái gì. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản thân hữu là vấn đề rất lớn của thể chế. Và ở khung khái niệm bảo đảm môi trường cạnh tranh ở đây, không chống chủ nghĩa tư bản thân hữu thì không thể làm được”.

Độc quyền, chủ nghĩa tư bản thân hữu đang là những chướng ngại lớn của Chính phủ kiến tạo
Ngoài ra, TS Dũng cũng nêu lên, để thực sự là Chính phủ kiến tạo, cần phải cung cấp các dịch vụ công chất lượng và giá rẻ.
“Vấn đề không chỉ là cải cách thủ tục mà quan trọng là thu hút được người tài vào lĩnh vực công. Bởi nếu anh cũng nói nghị quyết như quan chức chính trị thì đâu có giải quyết được gì. Người dân muốn xin cái giấy phép, anh chả biết cấp thế nào. Hay như dịch vụ về công lý, 10 năm không có, 10 năm xét xử vẫn cứ vòng vo thế thôi. Công lý bị trì hoãn là công lý bị chối từ. Và có thể nhiều người Việt chúng ta bị chối từ công lý đấy. 
“Một dịch vụ công để đảm bảo công lý là quan trọng nhất. Đây là cấu thành không thể thiếu của nhà nước kiến tạo”, TS Dũng kết luận.

Thụy Khanh

(Vietnamfinance)



Thối mồm!


Trần Kỳ Trung giới thiệu: Sau khi tập hợp được hơn 150 truyện cực ngắn và truyện ngắn thành một tập sách được một nhà văn tôi kính phục biên tập, một NXB nhận in, phát hành trong quý 4 năm 2017 ( Dự kiến), tôi phải ngưng viết một thời gian để...tĩnh tại. 
Quả thật có lúc nhìn máy vi tính, nhìn màn hình, tôi sợ. Không biết có người viết văn, viết báo nào giống tâm trạng tôi không? Lấy lại tâm thế thăng bằng, ngồi để viết, không dễ....
Nay, con tôi giục: " Sao ba không viết nữa, để con đọc!". Một bạn đọc trung thành nói như thế, tôi lại quyết tâm...quyết tâm... thắng nỗi sợ hãi, ngồi trước bàn vi tính...
Bắt đầu từ hôm nay...
Có điều ,như nhiều người bạn thân thiết góp ý: Suy nghĩ kỹ, thật chín, viết chậm, đạt chất lượng hơn số lượng...
Tôi sẽ cố thực hiện điều này.


Ông điên tiết.

Trước đây ông nói chuyện, báo cáo, giao giảng nghị quyết…tất cả ngồi im, giờ lại khác.
Thôi thì…nếu ông đứng trên cao, nhìn xuống không thấy đã đành, nay đứng gần nói chuyện với thuộc hạ, chúng cứ lấy cớ lảng trảnh gần hết, thậm chí có thằng, tưởng ông không nhìn thấy, nhổ nước bọt, mặt nhăn nhó…
Cơ quan, xã hội là vậy, về nhà không hơn.
Cũng trước đây, gia đình hay đợi ông về ăn cơm cho vui cửa, vui nhà thì bây giờ ngược lại. Lúc thì... vợ ông lấy cớ đi làm sớm ,ăn vội, lúc thì... thằng con lại bảo: “ Bố ăn trước đi, con có việc ở trường, về muộn!”. Ông hay ăn cơm một mình. Nói chuyện với vợ, với con ít hẳn. Mà có nói chuyện thì như gượng gạo, tránh mặt...
Thế là thế nào?
Ông là quyền uy, là bố thiên hạ, nói nhất mực mọi người phải nghe mà bây giờ… Cả cơ quan, cả xã hội, cả gia đình đều có thái độ phản ứng xấu tìm cách lánh ông!
Đúng rồi , chúng nó nhiễm phải bả của những kẻ xấu, thế lực thù địch, của những kẻ hay gây chia rẽ, muốn phá vỡ sự ổn định của xã hội, của gia đình …nên có thái độ như vậy!!!
Ông trừng trị.
Trong cơ quan , ông bắt mọi người học tập những nghị quyết, báo cáo nói về đạo đức con người. Mọi người phải thảo luận, viết thu hoạch, tự đánh giá lời nói ,tác phong…có gần lãnh đạo hay không ?
Ở nhà, ông bắt cả vợ, cả con, dù có đói, có bận…cũng phải đợi ông về ăn cơm…
Dẫu vậy, tình hình vẫn không thay đổi mà có vẻ lại nặng nề hơn.
Một hôm.
Trong nhà chỉ có ông và bà giúp việc. Bà giúp việc sợ ông hơn sợ cọp, nhưng được cái đức thật thà, nói thật. Ông hỏi bà về thắc mắc của mình. Bà ấy rụt rè thưa:
- Ông cho con nói thật, con mới dám nói!
- Bà nói đi, tôi cho phép!
Bà ấy thẽ thọt:
- Mọi người không dám đứng gần, không dám nói chuyện với ông vì…vì… ông có bệnh …thối mồm!
- Bà nói sao? Tôi …bị bệnh…thối mồm…- Ông ngạc nhiên.
Bà giúp việc gật đầu:
- Dạ, thưa! Đúng thế …mỗi khi ông nói chuyện…hơi thối trong miệng bay ra… mọi người đều sợ…họ không dám đứng gần hoặc lảng tránh…
-Nhưng sao… tôi không ngửi thấy… mà mọi người…
- Cái đấy thì con chịu…Ông nên đi đến bác sỹ…! Mọi người sợ ông, không ai dám nói. Còn con, ông cho phép…nên con nói thật!
Ông đến gặp bác sỹ. Bác sỹ khám tổng quát rất kỹ rồi kết luận:
- Đúng là ông bị bệnh thối mồm.
- Nhưng sao tôi lại không ngửi thấy?
Ông bác sỹ giải thích:
- Người bị thối mồm, thường không biết bệnh của mình. Chỉ khi người đó nói ra, người đứng xung quanh mới biết, còn người đó không biết…
- Nhưng trước đây tôi có bị thế đâu?
Ông bác sỹ lắc đầu:
- Mầm bệnh này có từ lâu rồi, có điều ông không biết. Mọi người đều biết cả, vì họ sợ ông nên không nói. Giờ mồm ông thối quá, người nghe chịu không được, mới phản ứng…
Ông hoảng sợ:
- Vậy, liệu có cách nào để chữa bệnh này không?
Ông bác sỹ nhìn ông hồi lâu, nói cân nhắc:
- Bệnh của ông thành mãn tính. Quan trọng nhất là ít nói…nhưng ông lại làm cái nghề nói nhiều.
Càng suy diễn, càng nghi ngờ …lại càng nói nhiều…mà càng nói nhiều lại càng thối…Bệnh khó chữa lắm….
Ông bác sỹ kết luận.



Trần Kỳ Trung



(FB Trần Kỳ Trung)