28 tháng 11, 2016

Ngày 25/11, Fidel Castro – người cầm quyền đảo quốc Cuba qua đời. Trước cái chết của ông, đã có những thái độ khác biệt rõ rệt giữa chính quyền Obama và Trump.

Cựu lãnh tụ Cuba Fidel Castro (1926-2016).
Hôm 26/11, Tổng thống Obama ra một thông báo chính thức đăng trên trang web của Nhà Trắng có nội dung chia buồn với nhân dân Cuba về cái chết của lãnh tụ Fidel Castro của họ, ông cam kết sẽ tiếp tục nỗ lực để bình thường hoá quan hệ với Cuba. Thông báo viết:
Vào thời điểm nàykhi ông Fidel Castro qua đờichúng tôi mởrộng vòng tay hữu nghị tới người dân CubaChúng tôi biết rằnggiờ phút nàynhững người Cuba – tại Cuba  tại Mỹ – tràn đầynhững cảm xúc mạnh mẽcác bạn nhớ lại  số những biếnchuyển  Fidel Castro đã làm thay đổi cuộc đời của mỗi nhângia đình  toàn bộ đất nước CubaLịch sử sẽ ghi nhận phán xét những tác động to lớn của cá nhân này lên nhân dân thế giới xung quanh ông.
Trong gần 6 thập kỷ, quan hệ giữa Mỹ và Cuba chứng kiến những giai đoạn bất hoà và bất đồng chính trị to lớn. Trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, tôi đã nỗ lực để đặt quá khứ này lại đằng sau, theo đuổi một tương lai trong đó mối quan hệ giữa hai nước được xác định không phải sự khác biệt mà bằng rất nhiều điều chúng ta có thể chia sẻ với tư cách là hàng xóm và bạn hữu – mối liên kết gia đình, văn hoá, thương mại vànhân văn nói chung. Những liên kết này còn bao gồm sự đóng góp của người Mỹ gốc Cuba, những người đã làm rất nhiều điều cho đất nước chúng tôi và quan tâm sâu sắc tới những người thân yêu của họ tại Cuba.
Ngày hôm nay, chúng tôi xin chia buồn cùng gia đình Castro, và cầu nguyện cho nhân dân Cuba. Trong những ngày sắp tới, chúng ta sẽ nhắc lại quá khứ nhưng cũng sẽ hướng tới tương lai. Nhân dân Cuba nên biết rằng họ có một người bạn và đối tác nơi Hoa Kỳ”.
Trong khi đó, Donald Trump là một trong những người sớm nhất thông báo về cái chết của cựu lãnh tụ Cuba.
Ngay sau khi có tin, ông Trump viết lên Twitter một câu ngắn:
“Fidel Castro đã chết!”
Sau đó Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ ra thông báo chính thức đăng trên các tài khoản mạng xã hội của mình, trong đó ông viết:
“Hôm nay, thế giới chứng kiến sự ra đi của một nhà độc tài tàn bạo, người đã đàn áp nhân dân của mình trong gần 6 thập kỷ.
Di sản mà Fidel Castro để lại là di sản của các đội xử bắn, trộm cướp, những gian khổ vượt ngoài sức tưởng tượng, dân nghèo đói và bị tước các quyền làm người căn bản. 
Trong khi Cuba vẫn là một hòn đảo chuyên chế, tôi hy vọng rằng hôm nay sẽ đánh dấu một bước đi rời khỏi nỗi kinh hoàng mà các bạn đã phải chịu đựng quá lâu, để tiến về một tương lai trong đó những người Cuba tuyệt vời cuối cùng có thể sống trong tự do mà họ vô cùng xứng đáng.
Mặc dù những thảm kịch, cái chết và nỗi đau do Fidel Castro gây ra không thể xoá bỏ, chính quyền chúng tôi sẽ làm tất cả mọi việc có thể để đảm bảo người Cuba có thể bắt đầu hành trình hướng tới tự do và thịnh vượng.
Tôi xin được cùng sát cánh với nhiều người Mỹ gốc Cuba, những người đã nhiệt liệt ủng hộ tôi trong cuộc vận động tranh cử – kể cả Lữ đoàn 2506 của Hội Cựu Chiến binh, trong niềm hy vọng rằng một ngày nào đó không xa, chúng ta sẽ được chứng kiến một nước Cuba tự do.
Donald J. Trump”.
Phó Tổng thống đắc cử Mike Pence viết trên Twitter:
“Nhà độc tài Castro đã chết. Hy vọng mới bắt đầu. Chúng tôi sẽ đứng cùng những người Cuba bị đàn áp vì một Cuba tự do dân chủ. Viva Cuba Libre (Cuba tự do muôn năm)”.
Phản ứng của các lãnh đạo thế giới khác
Tổng thống Mexico Enrique Pena Nieto viết tin nhắn này trên trang Twitter: “Tôi thương tiếc cái chết của Fidel Castro Ruz, lãnh tụ cách mạng Cuba, và là một biểu tượng của thế kỷ 20.”
Tổng Thống Pháp Francois Hollande miêu tả Fidel Castro là một người khổng lồ của thế kỷ 20.
Tổng Thống Nga Vladimir Putin cũng ca tụng ông Castro là“biểu tượng của một thời đại”.
Cựu lãnh đạo Nga Mikhail Gorbachev ca ngợi ông Castro là đã “củng cố” đảo quốc Cuba. Hãng tin Interfax của Nga dẫn lời ông Gorbachev nói:
“Fidel đã đứng lên và tăng sức mạnh cho nước ông trong thời gian bị Mỹ cấm vận nghiêm ngặt nhất, khi mà áp lực đè nặng lên vai ông, cuối cùng ông đưa đất nước thoát khỏi cuộc cấm vận để tiến lên con đường phát triển độc lập”.
Theo Trithucvn.net

27 tháng 11, 2016

Fidel Castro: Con khủng long cộng sản cuối cùng

Luật Sư Ðào Tăng Dực

Khi các khoa học gia nghiên cứu sự sống còn của các loài sinh vật, nếu nhận thấy xác suất sống còn của một giống vật nào đó gặp nguy cơ diệt chủng, thì họ sắp xếp giống đó vào danh sách của “loài có nguy cơ diệt chủng” (List of Endangered Species). Các loài tê giác hiếm quý, loài voi Á Châu, loài gấu Panda, nhiều loài cá voi v.v…
Trong khoảng 200 quốc gia trên thế giới hiện nay thì còn 4 quốc gia duy nhất còn theo chủ nghĩa Ðộc Tài Cộng Sản. Ðó là Cuba, Bắc Hàn, Trung Quốc và Việt Nam. Trên bình diện chính trị học, dĩ nhiên thì các quốc gia trên cần phải được sắp xếp vào danh sách các quốc gia có “chính quyền Cộng Sản có nguy cơ diệt chủng”.
Sự khác biệt giữa những “loài có nguy cơ diệt chủng” và “chính quyền Cộng Sản có nguy cơ diệt chủng” là những loài vật đóng góp tích cực vào tính đa diện và sự phong phú của môi sinh hoàn vũ, đem lại niềm vui và phúc lợi cho muôn loài. Trong khi đó thì các chính quyền Cộng Sản lại độc tài, tham nhũng, bè phái, thiếu công minh và đem lại sự chậm tiến, bất công xã hội và nghèo khốn cho các dân tộc bất hạnh mà họ cai trị.
Chính vì thế trong khi nhân loại nỗ lực để đầu tư cứu giúp các loài có nguy cơ diệt chủng, thì không ai đoái hoài đến sự sống còn của các chính quyền cộng sản có nguy cơ diệt chủng. Trái lại dư luận thế giới ngày càng hiểu rõ hơn bản chất gian trá và phản tiến bộ của Cộng Sản chủ nghĩa, những nguy cơ chúng tạo ra cho nhân loại. Hậu quả là trào lưu dân chủ Hiến Ðịnh, Pháp Trị và Ða Nguyên là một trào lưu bất khả vãn hồi. Chính những thành phần trung kiên nhất của các đảng CS đang nắm quyền tại Cuba, Bắc Hàn, Trung Quốc và Việt Nam cũng phải thành thật công nhận sự thật này. Vấn đề của họ là làm sao duy trì quyền lực càng lâu thì càng dễ dàng trục lợi và tẩu tán tài sản.
Nếu các đảng CS nêu trên là những “chính quyền CS có nguy cơ diệt chủng” thì chúng ta phải coi nhà độc tài CS Cuba Fidel Castro là con khủng long CS cuối cùng còn sót lại từ thế kỷ 20.
Các con khủng long CS vĩ đại của thời đại hoàng kim CS của thế kỷ 20 như Lê Nin, Stalin của Liên Xô, Mao Trạch Ðông của Trung Quốc, Kim Nhật Thành của Bắc Hàn và Hồ Chí Minh của Việt Nam đều đã ra đi.
Ðối với đại khối nhân loại, hào quang giả tạo của họ phần lớn bị ánh sáng của khoa học, bước đi vững chắc của chân lý, của cuộc cách mạng tin học toàn cầu làm lu mờ.
Tuy nhiên đối với người CS, vì họ sống còn bằng sự thống trị độc tài, bằng sự đánh bóng và thần tượng hóa những nhân vật lãnh đạo, nên các nhân vật lịch sử trên còn giữ những vị trí quan trọng trong tâm thức họ. Nhất là thần tượng CS đang sống còn và ngự trị trên dân tộc Cuba: Fidel Castro.
Fidel Castro nắm quyền từ năm 1959 đến tháng 7 năm 2006 thì tạm thời trao quyền lại cho em minh là Raul Castro vì lý do sức khỏe. Fidel Castro là nhà lãnh tụ nắm quyền lâu nhất trên thế giới đương đại. Dĩ nhiên chỉ có trong các quốc gia “tự do dân chủ “ kiểu Cộng Sản thì những chuyện kỳ cục như vậy mới có thể xảy ra, kể cả việc trao quyền bính quốc gia lại cho em ruột của mình. Kim Chánh Nhất tại Bắc Hàn thừa kế ngôi vị của cha mình là Kim Nhật Thành và con của Kim Chánh Nhất là Kim Chánh Ân bây giờ là lãnh tụ tối cao cũng trong tinh thần ấy.

Vấn đề sự thật về tình trạng sức khỏe của Fidel Castro được bao trùm bởi một bức màn bí mật đen tối. Kể từ tháng 12, 2006, khi nhà độc tài Cuba không xuất hiện trong buổi thao diễn quân đội để kỷ niệm sinh nhật 80 tuổi của mình, thì các tin đồn đãi lại càng tăng tốc. Có nguồn tin cho rằng ông bị té gãy xương tay và đầu gối. Có nguồn tin cho rằng ông bị xuất huyết nội tạng. Có nguồn tin cho rằng ông bị ung thư. Có nguồn tin cho rằng ông bệnh nặng sắp chết. Tuy nhiên tất cả những tin đồn đó vẫn kéo dài cuộc sống bệnh hoạn của ông cho đến ngày 25 tháng 11, 2016 vừa qua, khi ông trút hơi thở cuối cùng.
Sau tháng 12, năm 2006, trên bình diện chính thức thì chính quyền CS Cuba vẫn nêu ra chiêu bài “Fidel Castro Muôn Năm” và “Hãy Lãnh Ðạo Chúng Tôi Thêm 80 năm nữa”. Tuy nhiên không ai biết thực sự tình trạng sức khỏe của con khủng long CS cuối cùng này ra sao. Các chế độ CS sống còn bằng sự bưng bít và dối trá. CS Cuba không ngoại lệ, nhất là trong tình trạng hiện tại của đảng CS Cuba: họ đang sống trong một thế giới mà chỗ chống lưng lớn nhất là Liên Xô đã tan vỡ, người lãnh đạo tối cao và hào nhoáng Castro đã quá lớn tuổi, và cả triệu rưỡi người Cuba tự do đang rình rập từ tiểu bang Florida Hoa Kỳ, chỉ cách một vùng biển nhỏ. Ngày hôm nay, Fidel Castro đã chết thật sự.
Câu hỏi trên vành môi mọi người là: Việc gì sẽ xảy ra sau cái chết của con khủng long CS cuối cùng này?
Một trong những điều mà các đảng CS Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Hàn sợ nhất là cái chết của Fidel Castro. Trước hết những chế độ CS không phải là những chế độ của tương lai, vì thế họ phải sống bằng quá khứ. Mặc dù Fidel Castro đã già nua, nhưng cái quá khứ hào nhoáng và hào hùng của ông một phần nào duy trì huyền thoại cách mạng vô sản của CS quốc tế.

Sự ra đi của ông sẽ đánh dấu một sự đoạn tuyệt với quá khứ vàng son ấy, và một phần nào nói lên tính cách giai đoạn và vô thường của những thần tượng Cộng Sản.
Nguy hiểm hơn nữa, là cái chết của Castro có xác suất đem lại sự cáo chung của đảng CS Cuba. Trong bốn đảng CS còn lại thì Cuba là lẻ loi nhất. Lẻ loi không những về địa dư mà còn lẻ loi về văn hóa nữa.
Trước hết Cuba không tiếp cận biên giới với bất cứ một nước CS nào để có thể nương tựa vào nhau như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn. Mặc dù có một vài quốc gia châu Mỹ La Tinh có cảm tình với khuynh hướng chống Hoa Kỳ của Cuba nhưng các quốc gia này vẫn chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Họ không chấp nhận đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ. Ðiều này hoàn toàn không có nghĩa là họ theo chế độ CS Cuba.
Các quốc gia CS như Trung Quốc, Việt Nam hoặc Bắc Hàn trên thực tế, vì sự xa cách địa dư cũng như khác biệt văn hóa (một bên là truyền thống văn hóa Ðông Á Tam Giáo nhưng không đặt nặng tôn giáo, một bên như Cuba là truyền thống Công Giáo) và Cuba không phải là một quốc gia đối tác quan trọng, nên không thể giúp đỡ thực tế lẫn nhau.
Fidel Castro nắm quyền được lâu, không những vì kỷ luật sắt và hiến pháp độc tài, mà còn vì ông có tư thế và cá tánh riêng. Người kế vị của ông là Raul Castro, tuy bảo thủ hơn nhưng lại không có uy tín bao trùm và khả năng ứng phó của ông. Chính vì thế Fidel chưa chết, mới chỉ bị bệnh thôi, mà Raul Castro không chịu nổi áp lực, đã ngỏ lời muốn thương thuyết với Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, dưới áp lực của Cộng đồng Cuba tự do, Hoa Kỳ không dễ dàng giải tỏa vô điều kiện các áp lực phong tỏa kinh tế Cuba. Trong tình huống đó, sự sống còn của Fidel Castro sẽ ảnh hưởng đến sự sống còn của chính quyền CS Cuba.
Bây giờ chúng ta thử đặt mình vào vị trí của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn.
Mặc dù trên nguyên tắc 3 quốc gia này cùng một nền văn hóa Ðông Á. Tuy nhiên khi nói đến Bắc Hàn chúng ta phải ý thức rằng chúng ta đang nói đến một thể chế rùng rợn không khác nào cộng sản thời Stalin. Sự bóc lột dân chúng Bắc Hàn và sự liều lĩnh của Kim Chánh Nhất và sau đó Kim Chánh Ân, trong việc chế tạo và sẵn sàng sử dụng võ khí nguyên tử để bảo tồn chế độ, đã biến chế độ CS này thành chế độ nguy hiểm nhất nhân loại hiện nay. Tóm lại đối với CS Bắc Hàn, hoặc là đảng CS nắm quyền, hoặc toàn thể đảng và dân tộc bi hủy diệt vì võ khí nguyên tử.
Chính vì thế chúng ta có thể suy đoán rằng hoặc đảng CS Bắc Hàn bị hủy diệt, kéo theo sự hủy diệt của toàn dân Bắc Hàn trong biển lửa nguyên tử, hoặc rất lâu sau khi các đảng CS Cuba, Việt Nam và Trung Quốc đã cáo chung, thì đảng CS Bắc Hàn vẫn ngự trị trên dân tộc Bắc Hàn, Kim Chánh Ân và bè lũ vẫn uống sâm banh, lái xe đua, có gái đẹp, sống trong nhung lụa, trên chiêu bài xã hội chủ nghĩa.
Riêng Trung Quốc và Việt Nam, mặc dù xa xôi và làm ra vẻ dửng dưng, vẫn sẽ chấn động tận gốc rễ vì sự ra đi của Fidel Castro. Sự cáo chung sau đó của chính quyền CS Cuba sẽ tạo ra một cơn địa chấn trong lòng cán bộ 2 chế độ này. Sự cô đơn của họ sẽ rõ rệt hơn và ngày tàn của họ sẽ nhanh chóng xảy ra hơn. Như một chiếc bàn có 4 chân, gãy đi một còn 3. Chiếc bàn chưa đổ lập tức nhưng sự hữu dụng của nó chắc chắn không còn đáng tin cậy.
Con khủng Long CS cuối cùng là Fidel Castro đã nằm xuống, thì điều này gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh rằng, vào thời đại tin học toàn cầu này, giấc mộng thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ của CSVN sẽ chấm dứt.
Ðảng CSVN dưới sự điều hướng của Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang và Nguyễn Thị Kim Ngân, nếu không chủ động xoay chiều để cùng toàn dân tiến bước trên con đường xây dựng dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính, thì sẽ thẳng tiến để chui tuốt vào chiếc sọt rác của lịch sử mà toàn dân đã sắp sẵn cho đảng ta.

(Viết nguyên thủy 6.11. 2006 và điều chỉnh 27.11.2016)
Luật Sư Ðào Tăng Dực

Hồi ký của nhà báo Tống Văn Công: Đến già mới chợt tỉnh – Từ theo Cộng đến chống Cộng


Về tác giả Tống Văn Công: cựu tổng biên tập báo Lao Động tuyên bố bỏ đảng: Được xem như một trong những nhà báo lão thành của nền “báo chí cách mạng”, ông Tống Văn Công đã trở thành “kẻ thù” của đảng chỉ vì nhìn ra chân tướng chế độ và mạnh mẽ lên tiếng đòi hỏi cải cách dân chủ. Ông bị quy chụp là “phần tử chống đảng điên cuồng”, chỉ vì ông bày tỏ quan điểm một cách ôn hòa. Ông Tống Văn Công vừa cho ra mắt quyển hồi ký “Đến già mới chợt tỉnh – Từ theo cộng đến chống cộng”. Ông thuật lại đời làm báo của mình. Ông cũng nhắc lại nhiều chuyện oái oăm khác trong chế độ mà ông từng phục vụ và từng tung hô để rồi nhận ra rằng chế độ ấy chỉ được dựng lên bằng dối trá. Dưới đây là vài trích đoạn trong hồi ký trên.

Ảnh bìa hồi ký Tống Văn Công
Kỳ 1: TÔN ĐỨC THẮNG, PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ VỤ ÁN ĐƯỜNG BARBIER

Năm 1949 anh Lê Văn Chánh (hiện nay là Phó Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam) bạn đồng hương của tôi được kết nạp vào Đảng, sau đó được học một khóa chính trị, chương trình học gồm có: Chủ nghĩa xã hội khoa học; Cách mạng dân chủ mới; Lịch sử Đảng. Trong giáo trình lịch sử Đảng, có một bài về tổ chức tiền thân của Đảng là Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Chủ tịch Kỳ ủy của tổ chức này (cấp lãnh đạo Nam Kỳ) là Tôn Đức Thắng.

Năm 1928 ông Tôn Đức Thắng chủ trì “tòa án cách mạng” xử tử hội viên Lê Văn Phát (người xã Mỹ Chánh, Ba Tri, Bến Tre) về tội yêu đương. Các hội viên thực hiện bản án bằng cách bóp cổ Lê Văn Phát đến chết, rồi đổ xăng đốt để không thể nhận diện. Anh Chánh và tôi vô cùng kinh ngạc, rồi tự an ủi “đó là một thời ấu trĩ đã qua”. Hàng chục năm sau, nhà thơ Hoàng Hưng trong dịp đi Pháp về kể, anh được đọc quyển hồi ký “Passion, Betrayal and Revolution in Colonial Saigon” của bà Nguyễn Trung Nguyệt, một trong bốn người thực hiện bản án nói trên kể lại chuyện xưa. (Ba người kia là Trần Trương, Ngô Thiêm, Nguyễn Văn Thinh bị tòa án Pháp xử tử, bà Nguyệt là phụ nữ nên được hạ mức án xuống tù chung thân, đày ra Côn Đảo).

Mãi gần đây tôi mới biết hồi ấy Tuần báo Phụ Nữ Tân văn (trụ sở ở số 42 đường Catinat, trước năm 1975 là đường Tự Do, nay là Đồng Khởi) số 14, xuất bản ngày Một tháng 8 năm 1929 đã có bài tường thuật như sau: “Trong đêm mùng 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928 xảy ra vụ giết người quá tàn bạo và dã man tại căn nhà số 5, đường Barbier mà hung thủ là những người trong Phân bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Nam Kỳ. Nạn nhơn là Lê Văn Phát, bí danh là Mỹ, Lang, bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội theo điều lệ của đảng: Lê văn Phát ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt”. Và tội phản bội theo điều lệ đảng được các đồng chí của Phát giải thích: “Phát không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng”. Ba đồng chí trẻ tuổi hơn hết trong tổ chức của Phát (23, 24, và 26 tuổi) thi hành bản án đã được tòa án cách mạng phán quyết.

Tôn Đức Thắng, 40 tuổi chủ trì tòa án vì ông là Chủ tịch Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Tòa án Pháp xử Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai. Phạm Văn Đồng 10 năm cấm cố vì “đồng ý bản án tử hình” nói trên. Bốn tên ra tay giết người, bị xử tử hình là Trần Trương, Ngô Thiêm, Nguyễn văn Thinh, cô Nguyễn Trung Nguyệt bị đày ra Côn Đảo.” Sau này các giáo trình Lịch sử Đảng viết lại vụ án đường Barbier: Bác Tôn bị thực dân Pháp gán vào tội chủ mưu giết người trong vụ ám sát một người hợp tác với chính quyền thuộc địa Nam Kỳ tên là Phát. Họ cho rằng, các đồng chí của ông thực hiện vụ giết người ở đường Barbier. Nhờ một đồng chí trẻ đứng ra nhận mình là chủ mưu và nhờ sự vận động của một số nhân sĩ trí thức như bà Trần Thị Cừu, đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh Đình Thảo, nên ông chỉ bị chính quyền thuộc địa tuyên án 20 năm chung thân khổ sai, đày ra Côn Đảo.

Lịch sử Đảng cho rằng trước đó cụ Tôn bị bắt lính năm 1914 và bị đưa sang Pháp, sung vào hải quân phục vụ cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ nhất. Khi Cách mạng Tháng 10 Nga nổ ra, Pháp đưa hạm đội đi đàn áp. Cụ Tôn đã làm binh biến kéo cờ đỏ trên thiết giáp hạm ở Hắc Hải. Sau đó Cụ về nước thành lập Công hội đỏ ở Xưởng Ba Son năm 1920. Năm 1925, Cụ Tôn lãnh đạo cuộc đình công ở Xưởng Ba Son giam chân chiến hạm Pháp khiến chúng không kịp đi tham gia đàn áp cách mạng Trung Quốc. Về các sự kiện nói trên, giáo sư sử học Christoph Giebel của Đại học Washington tác giả quyển sách “Tiền bối tưởng tượng của những nhà cộng sản Việt Nam: Tôn Đức Thắng và chính trị của lịch sử và ký ức” (Imagined Ancestries of Vietnamese Communism: Ton Duc Thang and the Politics of History and Memory) đã cho rằng: “Không có bằng chứng cho thấy ngay từ thời rất trẻ, thậm chí trước cả thời thế chiến thứ nhất, ông Tôn đã hoạt động rất tích cực trong các tổ chức cách mạng tại Sài Gòn. Ông Tôn không bị bắt lính mà được tuyển mộ. Và ông Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kỳ con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải. Bộ máy tuyên truyền đã dùng hình ảnh ông Tôn cắm cờ trên con tàu ở Hắc Hải để kết nối cách mạng Việt Nam với Cách mạng tháng Mười Nga.” Theo Giebel, “cuộc đình công ở Ba Son không phải là đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, và cũng không giam chân được chiến hạm Pháp trên đường sang Trung Quốc.”

…….

Kỳ 2: “Cụ Hồ bày ra Đảng Dân Chủ với Đảng Xã Hội để dụ khị mấy thằng trí thức đang lớ ngớ, gom vào hai cái đảng này để tiện việc quản lý, giáo dục đó thôi!”

Ngày Chủ nhật, tôi thường từ Cầu Diễn đi bộ ra Cầu Giấy rồi lên tàu điện ra Hà Nội tìm mua sách báo. Do không có nhiều tiền, tôi vào hiệu sách báo xem vài tờ báo rồi mua một quyển sách, sau đó tới cửa hàng sách báo khác, cũng lặp lại như thế. Tôi đã đọc theo cách đó tất cả các số báo Trăm Hoa và Nhân Văn Giai phẩm mà không phải bỏ tiền mua. Một hôm, vừa rời hàng sách bước ra đường thì tôi gặp bác hai Trần Trung Trực, nguyên Phó ty giáo dục Bến tre thời chống Pháp. Thấy tôi mặc quân phục bác rất vui: “Tao không ngờ ốm yếu như mày mà vẫn còn ở bộ đội. Mấy thằng con tao chuyển ngành hết rồi!”. Bác đâu ngờ tôi chỉ là chú lính gánh gạch, trộn vữa, học xây nhà! Bác đưa tôi đến Sở Giáo dục Hà Nội cơ quan của bác hiện nay, để bác cháu tâm tình. Bác nói bác đang là bí thư chi bộ, tôi hỏi: “Là bí thư chi bộ Đảng Dân Chủ hở bác Hai”?

Bác xua tay: “Bậy mày! Bí thư chi bộ Đảng Lao động chứ, tức là Cộng sản chứ”. Tôi nhắc lại chuyện bác giải thích với tôi về Đảng Dân Chủ hay hơn Đảng Cộng Sản ở chỗ ôn hòa, đi chậm mà chắc. Bác cười lớn: “Hồi đó tao có biết gì đâu. Sau này thằng Hiếu con tao làm con rể bác Năm Hưỡn trưởng ty, ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre! Là thông gia với nhau, bác Năm không ngại nói thẳng cho tao biết: Đảng Dân Chủ là do Bác Hồ thành lập để thu nạp những anh trí thức lơ tơ mơ, tạch tạch xè (những từ nói lóng để chỉ thành phần tiểu tư sản mà Đảng cộng sản cho là có quan điểm, lập trường bấp bênh cần phải kèm cặp, giáo dục không ngừng) mới tham gia cách mạng, còn e ngại cộng sản. Người trí thức vô đảng Dân Chủ thì coi như đã chịu đi theo con đường của Đảng cộng sản rồi. Bác Năm đứng ra giới thiệu tao vào Đảng cộng sản”.

Tôi hỏi thăm hai người con “mác xít” của bác. Bác cho là mình rất bất hạnh khi có đứa con thứ hai là Trần Trung Tín hư đốn. Tín rời bộ đội làm diễn viên điện ảnh, nhưng thích làm thơ. Bất ngờ có người cùng cơ quan phát hiện anh có những câu thơ: “Trái tim tôi không phải quả táo Tàu. Không thể dùng dao cắt chia ba phần to nhỏ” và “Chân lý không thể bị hành hình. Cái đẹp không thể vùi chôn”. Tín bị đưa ra chi bộ kiểm điểm. Người ta cho rằng anh công kích Tố Hữu, cũng tức là chống lại quan điểm văn nghệ của Đảng. Trần Trung Tín khẳng định mình hoàn toàn đúng.

Trước sự o ép liên tục của chi bộ, Tín xé thẻ Đảng vứt vào sọt rác, rồi định tìm đến cái chết. Trong giây phút tuyệt vọng, may thay anh bắt gặp niềm yêu say hội họa. Hội họa đã cứu sống anh. Anh ngồi vẽ suốt ngày bằng mực Cửu Long trên giấy báo Nhân Dân. Lúc ấy bác hai Trực và cả tôi nữa chỉ biết tin vào Đảng. Ông không thể ngờ con trai mình được họa sĩ Bùi Xuân Phái coi là “một thiên tài bẩm sinh”. (Bùi Xuân Phái cũng là người không được Đảng coi trọng). Sau khi bác Hai Trực qua đời, tranh của Trần Trung Tín được triển lãm ở nhiều quốc gia có nền mỹ thuật cao như Pháp, Mỹ, Anh, Nhật, Thái, Singapore… Tờ báo có uy tín The Independent đánh giá: “Trần Trung Tín là họa sĩ vĩ đại nhất của Việt Nam” và báo Time nhận xét tranh của Trần Trung Tín “bi thiết với màu sắc rực rỡ”.

Sau lần gặp bác Hai Trực, trong một dịp họp đồng hương tôi được gặp anh Lê Nguyên, ủy viên Ban chấp hành Đảng Dân chủ tỉnh Bến Tre thời chống Pháp. Năm 1945 anh thi tú tài xong thì Cách mạng Tháng Tám, rồi kháng chiến bùng nổ. Anh rời Sài Gòn về Bến Tre, lập tức được mời vào Đảng Dân Chủ, ít lâu trở thành cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh của Đảng này. Tập kết ra Bắc anh bắt đầu làm báo. Tôi hỏi, có phải anh làm báo Độc Lập do ông Nguyễn Việt Nam nguyên Ủy viên Ban thường vụ Kỳ ủy Đảng Dân Chủ ở Nam Bộ đang là tổng biên tập. Anh cười, rỉ tai tôi: “Cậu không biết Đảng Dân chủ chỉ là cái đảng dỏm à? Cụ Hồ bày ra Đảng Dân Chủ với Đảng Xã Hội để dụ khị mấy thằng trí thức đang lớ ngớ, gom vào hai cái đảng này để tiện việc quản lý, giáo dục đó thôi! Sau khi biết rõ như vậy, mình đã làm đơn xin ra Đảng Dân Chủ, rồi cố gắng “phấn đấu” và đã được kết nạp vô Đảng Lao Động hơn ba năm rồi”.

Chuyện của bác Hai Trực và anh Lê Nguyên làm tôi bùi ngùi nhớ cô giáo Thiệp đảng viên Dân Chủ ở trường trung học Huỳnh Phan Hộ tôi học thời chống Pháp. Thời ấy, các đảng viên Dân Chủ như bác Hai Trực rất tự hào về sự khác nhau – không muốn nói là ưu việt – của đảng mình so với Đảng Cộng Sản. Do đó những đảng viên cộng sản trẻ, đặc biệt là những đoàn viên thanh niên “cảm tình” Đảng cộng sản luôn muốn tỏ “lập trường cách mạng vô sản” đã coi Đảng Dân Chủ như là một bọn thù địch! Những buổi cô giáo Thiệp giảng bài, bọn học sinh chúng tôi bỏ học gần một phần ba, còn hai phần ba có mặt thì trò chuyện râm ran.

Năm 1965, tôi được tin cô giáo Thiệp bị bắt đã từ chối ly khai cộng sản, chấp nhận vào chuồng cọp ở Côn Đảo. Trong khi đó thày Triết bí thư chi bộ Đảng cộng sản của trường Nguyễn Công Mỹ lên đài Sài Gòn tuyên bố ly khai cộng sản! Năm 1981, tôi được bầu vào Hội đồng Nhân dân TP Hồ Chí Minh khóa 2. Trước khi biểu quyết những nghị quyết có thể phiếu bị phân tán, các đảng viên cộng sản được Đảng đoàn ở Hội đồng Nhân dân mời họp riêng để “quan triệt sự chỉ đạo của Thành ủy”. Ông Nguyễn Việt Nam chủ tịch Hội đồng Nhân dân là bí thư Đảng đoàn Đảng cộng sản, người mà thời chống Pháp đã được công khai là Ủy viên Thường vụ Đảng Dân chủ ở Nam Bộ, sau khi tập kết ra Bắc làm Tổng biên tập báo Độc lập cùa Đảng Dân Chủ Việt Nam. Dù đã biết nhiều sự thật, nhưng tôi không khỏi ngạc nhiên khi ông Nguyễn Việt Nam công khai nhân danh bí thư Đảng đoàn của Đảng Cộng Sản trong Hội đồng Nhân dân, chỉ đạo các đại biểu là đảng viên việc bỏ phiếu theo nghị quyết của Đảng! Đảng Dân Chủ “hữu danh vô thực” ngay khi thành lập. Đảng Xã Hội cũng thế. Phải trong tình trạng bối rối, sợ hãi đến mất khôn (Liên xô, Đông Âu xụp đổ), ông Nguyễn Văn Linh mới quyết định buộc họ phải “hoàn thành nhiệm vụ”.

…………

Kỳ 3: VỤ PHONG THÁNH 117 CHÂN PHÚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Ngày 22–6–1987 Giáo Hoàng Gioan – Phao lô II chủ trì cuộc họp tại Roma (Italia) quyết định phong Hiển thánh cho 117 Á thánh chết vì đạo ở Việt Nam từ 1625 đến 1861 và ấn định năm sau, ngày 19–6–1988 sẽ tổ chức lễ phong thánh tại Roma. Ngày 12–10–1987 Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam gửi công văn cho Ủy ban Nhân dân và Ban Tôn giáo các tỉnh, thành, đặc khu cả nước, nhận định: “Quyết định của Vatican là một việc làm có dụng ý chính trị xấu và xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam, kích động tâm lý cuồng tín “tử vì đạo” trong một bộ phận giáo dân và giáo sĩ Việt Nam; gây chia rẽ giáo, lương; làm tổn hại đoàn kết dân tộc của nhân dân ta, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta đang ra sức thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo, tăng cường đoàn kết toàn dân vượt qua mọi thử thách, khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”

“Trước tình hình đó, ngày 18–9–1987, thừa lệnh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Ban Tôn giáo của Chính phủ đã triệu tập các giám mục trong Ủy ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam để vạch rõ tính nghiêm trọng của sự kiện nói trên, nghiêm khắc phê phán việc làm sai trái này của một số giám mục trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, của Vatican và bàn biện pháp xử lý tình hình phức tạp có lý có tình”. Sau đó nhiều cuộc hội thảo được tổ chức khắp cả nước, nhiều cây bút sắc bén nhất của chế độ như Trần Bạch Đằng, Nguyễn Khắc Viện… viết bài theo quan điểm nói trên.

Bài viết của ông Nguyễn Khắc Viện có tựa đề “Chết vì đạo, chết cho ai”? Mở đầu ông cho rằng “Tôi vẫn cảnh giác cao độ với những mưu đồ xuất phát từ phương Tây mong lợi dụng đạo Ki tô để phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.” Ông cho rằng không thể biết chính xác tất cả những người được nêu tên đã chết trong hoàn cảnh nào, họa chăng tư liệu còn lại cho biết rõ trường hợp một vài người. Ông nhấn mạnh hai sự kiện: – Một là chuyện giám mục Adran đưa Hoàng tử Cảnh bái yết vua Pháp Louis 16 năm 1787, với kế hoạch tấn công Đà Nẵng. – Hai là chuyện người Công Giáo đã giúp Pháp tiêu diệt phong trào Văn Thân (Văn Thân có khẩu hiệu “bình Tây sát tả”, có nghĩa là dẹp tây, diệt đạo).

Nguyễn Khắc Viện nhận định Lễ Phong Thánh sẽ gây ra: “Rồi nhiều người trên thế giới, đặc biệt trong giáo dân, đâm ra thương hại cho Giáo hội Việt Nam đang sống trong cảnh bị áp bức, rồi một số người Việt Nam ngoại đạo, một số cán bộ sẵn có định kiến lại thốt lên: Đã bảo mà, tin sao được bên đạo, bao giờ họ cũng hướng về phương Tây. Rõ ràng việc phong thánh này là một đòn hiểm đối với khối đoàn kết dân tộc của chúng ta.” Thật là “thần hồn nát thần tính”, Đảng cộng sản Việt Nam cứ nghĩ là các thế lực thù địch lúc nào cũng đang âm mưu đánh phá mình, phong thánh chắc phải là đòn hiểm(!)

Thực ra tất cả 117 vị tử đạo không có người nào bị giết vì dính líu với thực dân Pháp, họ chỉ bị giết vì là “tả đạo”, trái với đạo Nho mà triều đình nhà Nguyễn tôn thờ. Các vị đều có lý lịch rõ ràng về quê quán, chức sắc, ngày bị giết, hình thức bị giết (xử trảm, xử giảo, hay chết trong tù). Những người công giáo chân chính có nhiều bài viết cho rằng chuyện phong thánh là việc riêng của giáo hội và việc này hoàn toàn đúng đắn bởi mục đích tôn vinh những giáo dân dám từ chối đạp lên thập giá, chịu chết vì đạo Chúa. Các Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Ngô văn Ân, Thanh Lãng có những bài viết, tham luận bác bỏ những lập luận không đúng sự thật lịch sử. Đặc biệt hai ông Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan đã từng hoạt động chống chiến tranh, chống sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam, đòi trả tự do cho tù chính trị, những người bị giam ở Côn Đảo, do đó họ đã bị chế độ miền Nam cho là thân cộng.

Sau 1975, hai ông được nhà nước cộng sản mời tục bản Đối Diện với tên mới là Đứng Dậy, nhưng chẳng bao lâu đã bị đóng cửa. Giờ đây với việc bảo vệ vụ Phong thánh, hai ông bị nhà nước cộng sản cho là phá bỉnh, đã dùng biện pháp “bịt mồm”, rồi một người bị quản chế tại gia, một người được mời rời khỏi xứ đạo, an trí ở Cần Giờ. Bài “Nói chuyện Tử đạo với ông Nguyễn Khắc Viện” của linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Bài có gửi cho báo Công Giáo Và Dân Tộc do linh mục Trương Bá Cần làm Tổng biên tập nhưng không được đăng) có đoạn: “… Ông muốn dạy dỗ chúng tôi, những người công giáo Việt Nam ‘nên nghĩ thế nào’ về việc phong 117 vị thánh liên hệ trực tiếp và trước tiên đến chúng tôi. Đó là quyền của ông, quyền hiểu theo nghĩa tự do chủ nghĩa (libéralisme) tạm gọi là của thế giới tư bản. Còn nếu “quyền” được hiểu với một chút màu sắc đạo đức nào đó thì thưa ông, tại sao ông không tự đặt cho mình một số câu hỏi tương tự như: Bài của ông là bài thứ mấy viết về vấn đề này? Ông có thể tính bằng đầu ngón tay thì phải…” Tại sao chỉ có giám mục Bùi Tuần có tiếng nói về vấn đề này trên tờ Công Giáo Và Dân Tộc? Các giám mục Việt Nam khác ở đâu? Các người Công Giáo khác ở đâu? Họ không biết nghĩ thế nào cả sao? Họ không biết viết thành câu cú những điều họ nghĩ sao?

Tại sao mấy trang góp ý của linh mục Chân Tín một người quen thuộc với cả báo chí trong nước và ngoài nước không hề được đăng trên báo Công Giáo Và Dân Tộc, khi mà những trang góp ý ấy đã được đọc lên trong buổi họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở quận 3 chiều ngày 18 tháng 1 năm 1988 và đã được giới Công Giáo chú ý đến nhiều? Tại sao ngay cả trong tập “Tài liệu tham khảo” về “Việc phong thánh các Chân phúc tử đạo Việt Nam” do Văn phòng Ủy ban Đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh in ronéo tháng 2 – 1988 trong phần II dành cho “một số bài viết liên quan đến việc phong thánh” người ta đăng 9 bài viết ở Việt Nam, trong số đó có bài của ông, hai bài của linh mục Thiện Cẩm ba bài của giám mục Bùi Tuần, nhưng vẫn không có bài của Chân Tín để rộng đường dư luận? Chúng ta đang sống ở thời nào đây? Thời Staline hay thời Gorbatchev? Thời báo Etudes Vietnamiennes của ông ngày trước hay thời tờ Đoàn Kết của Việt kiều ta bây giờ ở Pháp”?

Nguyễn Ngọc Lan phê bình cái tựa đề “Chết vì đạo, chết cho ai” là “lớn lối”. Ông Lan hỏi, giả sử “học giả nào đó viết mấy chữ ‘chết vì nước chết cho ai’ trên tấm bia liệt sĩ thì liệu có tờ báo nào vô ý thức, thiếu tự trọng đến mức có thể đăng lên một cái tựa đề như vậy? Còn nội dung bài thì cũn cỡn mà lại lạc đề, bởi vì 117 vị tử đạo không có ai bị giết bởi phong trào Văn Thân cả!” Linh mục Chân Tín kể: Ông bị ông đại tá Nguyễn văn Tòng giám đốc Sở Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh chất vấn vì sao báo nước ngoài đăng bài tham luận của ông ở Mặt Trận Tổ Quốc? Linh mục Chân Tín đáp: “Lẽ ra đó là điều tôi hỏi ông chứ không phải ông hỏi tôi! Bởi vì sau khi đọc xong, tôi nộp bản tham luận cho các ông”. Ông giám đốc Sở Văn hóa Nguyễn Văn Tòng đe dọa nếu gửi bài viết sai trái chủ trương chính sách của nhà nước ta ra nước ngoài thì có thể bị trừng trị. Chân Tín bảo mình đã bị chế độ Sài Gòn đe dọa như vậy nhiều rồi, nhưng mình đâu có ngán, lúc nào cũng vẫn hành động theo hai câu thơ Nguyễn Trãi: “Ung dung ta nói điều ta nghĩ, Cúi ngửa theo người quyết chẳng theo” Giám đốc Tòng nói, chính quyền Sài Gòn bắt ông là vinh dự cho ông, còn đây là nhà nước cách mạng bắt ông thì đó là ô nhục cho ông. Linh mục Chân Tín đáp: “Tôi thấy không có gì khác nhau cả, đều là quyền lực chống lại con người dám nói thẳng nói thật đó thôi”.

Tháng 5 năm 1990, linh mục Chân Tín bị trục xuất khỏi nội thành, lưu đày ra Cần Giờ. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã xuất tu và lập gia đình với bà Thanh Vân biên tập viên tờ Tin Quận 5. Ông Lan bị quản chế tại gia, bà Thanh Vân bị buộc thôi việc. Ông Lan qua đời năm 2007. Linh mục Chân Tín mãn hạn lưu đày trở về Dòng Chúa Cứu Thế năm 1993. Năm 2006 ông chủ trương tờ báo chui “Tự do ngôn luận” đòi quyền tự do căn bản cho người dân Việt Nam. Linh mục Chân Tín từ trần ngày 1 tháng 12 năm 2012. Cái “định kiến” mà ông Viện nêu ra vẫn còn cho tới hôm nay. Nguồn gốc của nó từ đâu? Vì quan điểm “tôn giáo là thuốc phiện của dân nghèo”, hay là vì “Công Giáo là đạo giáo được người Pháp ưu đãi”?

Trong quyển sách “Nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam hiện nay” của giáo sư, tiến sĩ Dương Phú Hiệp chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2010 nhận định: “Trong giai đoạn hiện nay, những thế lực chống đối trong và ngoài nước chưa từ bỏ việc lợi dụng tôn giáo để làm mất ổn định chính trị, gây hoang mang chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy cần giải quyết vấn đề tôn giáo dưới góc độ văn hóa và phải xem giáo dục tôn giáo là vấn đề quan trọng.”

Thật ra chẳng có thế lực trong ngoài nước nào gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc cả. Xin nêu một chuyện xảy ra ở Nhà thờ Thuận Phát, phường Tân Kiểng, quận 7, nơi tôi cư ngụ nhiều năm. Sau 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền Cách mạng yêu cầu nhà thờ giao 3 phòng họp trong khuôn viên của Nhà thờ. Từ đó, 3 phòng này được dùng để hội họp dân phố. Mấy năm gần đây, Nhà thờ Thuận Phát gửi đơn lên Quận ủy và Ủy ban Nhân dân quận 7 xin được trả lại 3 phòng họp này để sinh hoạt tôn giáo. Quận ủy chủ trương không trả lại. Đảng viên lão thành Lê Ngọc Tưởng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Quân ủy Nhà Bè (thời 1975 – 1980, vùng đất này thuộc quận 7 còn nằm trong Nhà Bè) gửi thư góp ý: Quận ủy nên đồng ý cho Ủy ban Nhân dân quận 7 trả 3 phòng họp lại cho Nhà thờ Thuận Phát dùng làm nơi sinh hoạt hội họp giáo dân. Ông Tưởng viết: “Giáo dân cũng là công dân, Đảng có trách nhiệm giúp họ có nơi hội họp, học tập. Làm được như vậy giáo dân sẽ gắn bó với chế độ do Đảng lãnh đạo”. Ông Tưởng không được những người kế nhiệm mình cầm quyền sau 40 năm (lúc ông cầm quyền, họ còn là những đứa trẻ, được ông đưa vô nhà trường xã hội chủ nghĩa) trả lời.

Họ phái một đại úy công an đến nhà ông Tưởng chất vấn: “Tại sao ông khuyến khích giáo dân ở giáo xứ Thuận Phát vùng dậy đòi phải trả 3 phòng họp”? Hội bảo vệ quyền tự do tôn giáo, trong báo cáo tổng kết tình hình Tự do Tôn giáo ở Việt Nam năm 2015 nhận xét: “Cả năm 2015 các cơ quan thuộc chính phủ Việt Nam đã có 50 vụ vi phạm quyền tự do tôn giáo. Các Giáo hội đều bị Nhà nước khống chế, lũng đoạn và xâm nhập. Các quyền tự do tôn giáo chính yếu đều bị cấm cản: – Mọi tôn giáo không được độc lập trong việc tổ chức nội bộ. Nhà cầm quyền tìm cách kiểm soát và ảnh hưởng lên việc chiêu sinh, huấn luyện, tấn phong, bổ nhiệm và thuyên chuyển hàng ngũ chức sắc lãnh đạo. – Mọi tôn giáo không được tự do trong sinh hoạt phụng thờ. Các sinh hoạt này chỉ được thực hiện trong những nơi thừa tự đã được nhà nước công nhận. Các lễ nghi hay lễ hội lớn đều phải xin phép nhà cầm quyền.

– Mọi tôn giáo không được truyền bá giáo lý bên ngoài các cơ sở của mình ra xã hội, qua các phương tiện truyền thông đại chúng, lên mạng thông tin toàn cầu.

– Mọi tôn giáo không được góp phần giáo dục giới trẻ qua hệ thống giáo dục từ tiểu học đến đại học. Hiện thời các giáo hội chỉ được mở trường mẫu giáo, nhưng vẫn dưới sự kiểm soát đủ mặt của chế độ.

– Mọi tôn giáo không được có tín đồ giữ các chức vụ cao trong bộ máy cai trị (quốc hội và chính quyền), trong hàng ngũ công an, quân đội cũng như trong hệ thống giáo dục. – Mọi tôn giáo đều bị chính quyền tước đoạt đất đai và cơ sở thừa tự trước đó, nhưng không được trả lại. Hiện nay các giáo hội đều không có sở hữu đất đai và không dễ dàng mở rộng cơ sở.

……….

Kỳ 4: HẦU BAN TUYÊN HUẤN

Làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa ngán nhất là phải hầu Ban tuyên huấn. Lâu nay khi bàn về tự do báo chí, người ta thường cho rằng vấn đề chủ yếu là được phép ra báo tư nhân. Không đúng! Sau tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản đã từng cho phép Tin Sáng và Đứng Dậy (Đối Diện của Chân Tín Nguyễn Ngọc Lan trước 1975) tái xuất bản. Nhưng cả hai tờ báo này hoàn toàn không có quyền tự do ngôn luân, tự do báo chí. Bởi vì hàng tuần họ phải đến nghe đại diện Ban Tuyên huấn của Đảng chỉ đạo: Việc nào được phép nói, và nói to hay nói nhỏ; việc nào tuyệt đối không được đụng tới, không được nói bóng nói gió. Đó là biện pháp “siêu kiểm duyệt”. Vậy mà cuối cùng Đảng vẫn không yên tâm, đã cho họ “hoàn thành nhiệm vụ”. Do đó, tự do báo chí trước hết là không bị Đảng cầm quyền chỉ đạo. Suốt đời “làm báo cách mạng” tôi phải chịu sự chỉ đạo và nhiều lần phải đi “hầu ban tuyên huấn”. Xin kể vài chuyện. Báo Xuân năm 1990, Hội Nhà báo tổ chức chấm giải báo đẹp có thưởng.

Báo Lao Động được giải B, không có giải A. Ban tổ chức cho biết lẽ ra Lao Động được giải A, nhưng vì đăng quảng cáo ở trang bìa, dù là bìa phụ, làm mất tính trang nghiêm nên bị hạ xuống giải B. Tôi nói, nếu vì lý do đó thì tôi không nhận giải, vì không chấp nhận cái gọi là mất tính trang nghiêm ở đây. Sau chuyện này, phó ban Tuyên huấn Hữu Thọ đưa ra góp ý trong cuộc họp đầu năm, lấy báo Nhân Dân để so sánh, coi đăng quảng cáo như dấu hiệu chạy theo thương mại.

Khi lên Trưởng ban Tuyên huấn, Hữu Thọ nhiều lần góp ý với tôi là nên đưa hai mục “Nói hay đừng” do Ba Thợ Tiện viết và “Tranh biếm liên hoàn” của Chóe ở trang nhất vào bên trong, với lý do là “phải giữ cho trang nhất một không khí trang nghiêm”. Tôi trả lời ông, bạn đọc cần nghiêm túc, chính xác, bổ ích chứ không cần trang nghiêm. Sau vụ tố cáo âm mưu diễn biến hòa bình, tôi bị cho về hưu, Hữu Thọ lại nhắc nhở Tổng biên tập Phạm Huy Hoàn điều này, hai mục trên được đưa vào trong cho tới nay. Năm 1992 nhà báo Lưu Trọng Văn đặt câu hỏi với nhạc sĩ Trần Kiết Tường rằng “bài hát ‘Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người’ ông sáng tác trong hoàn cảnh nào?”.

Nhạc sĩ Trần Kiết Tường trả lời: “Sở dĩ sáng tác được bài này là nhờ tôi ở ngoài Đảng.” Đọc câu này tổng thư ký tòa soạn Lý Quý Chung và phó tổng biên tập Hồng Đăng đều ngạc nhiên và thích thú, nhưng lại sợ bị quy “quan điểm, lập trường” nên chờ tôi đọc và yêu cầu, nếu tổng biên tập đồng ý thì xin cho một chữ ký dưới hai chữ “đã duyệt”. Đọc câu trả lời của nhạc sĩ Trần Kiết Tường tôi nhớ ngay đến chuyện Ban giám khảo văn nghệ Nam Bộ thời chống Pháp do ông Hà Huy Giáp phó bí thư kiêm Trưởng ban tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam phê phán bài “Tiểu đoàn 307” của Nguyễn Hữu Trí đảng viên, đại đội phó, trưởng ban quân nhạc khu 8 là một bài hát lai căng cả nhạc và lời.

Ý kiến phê bình vô lý đó đã khiến Nguyễn Hữu Trí rời bỏ quân ngũ về ở ẩn tại Cần Thơ quê nhà, còn Nguyễn Bính thì ra bờ sông ven Huyện Sử, mở quán bán sách báo. Ở vùng mỏ Quảng Ninh năm 1967,tại cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ trong tỉnh, ông Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy đã to tiếng phê bình một bức tranh vẽ cây cổ thụ cành lá quấn quýt xum xuê: “Tác giả bức tranh này không quán triệt nhiệm vụ phát triển ngành than, nền kinh tế chủ yếu của tỉnh nhà. Nếu trồng toàn những cây có cành lá uốn éo cong queo thế này thì làm sao có gỗ ngay thẳng để chống lò? Tất cả các mỏ hầm lò chắc chắn phải ngừng khai thác?”. Ý kiến trên đã được tờ báo địa phương in chữ đậm và tác giả của nó được suy tôn là “vị Các– mác của tỉnh nhà!”. Nhà văn Sơn Nam, người đã từng được Ban giám khảo do Hà Huy Giáp lãnh đạo chấm giải nhất những tác phẩm “Bên rừng Cù lao Dung” và “Tây đầu đỏ”, nhưng sau 20 năm “sống trong lòng địch” đã bị “tự diễn biến” cho nên nhiều lần “nói lén” với tôi: “Ông Công này, bao giờ còn dưới sự lãnh đạo của Đảng các ông thì không thể có tác phẩm ‘ra hồn’ được đâu”.

Do đó, tôi quyết định phải công bố ý kiến của Trần Kiết Tường. Quả nhiên báo in bài này vừa phát hành đã bị Bộ Văn hóa Thông tin phê bình trong Bản thông báo hằng tuần, tiếp theo là Ban Tư tưởng– Văn hóa chất vấn trong cuộc họp với các  Tổng biên tập do Trưởng ban Trần Trọng Tân chủ trì. Trả lời câu hỏi tại sao lại cho đăng “ý kiến oái oăm này”, tôi đáp: Theo tôi được biết, bản nhạc này vừa ra đời đã bị Tố Hữu phê bình là ủy mị không thể hiện đúng đắn tình cảm lành mạnh của nhân dân anh hùng ca ngợi lãnh tụ anh minh của mình. Trước nguy cơ bản nhạc sắp bị cấm, một số người đã đưa nó vào đêm nhạc giải trí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Hồ nghe bài hát ca tụng mình, đã rưng rưng xúc động. Một lúc sau, Cụ hỏi “chú nào là tác giả bài hát này?”. Câu hỏi ấy đã cứu bài hát khỏi bị bức tử và sau đó được xuất hiện trên các sân khấu ca nhạc nhiều hơn hẳn so với các bài ca ngợi Cụ Hồ trước kia. Tôi đã trả lời chất vấn của Ban văn hóa Tư tưởng rằng, đăng ý kiến trung thực của nhạc sĩ Trần Kiết Tường tác giả bài hát là để ngăn chặn những người lãnh đạo bảo thủ dùng quyền lực giết chết sự sáng tạo của nghệ sĩ đã từng xảy ra nhiều lần.

Tôi kể từ bài “Tiểu đoàn 307” thời chống Pháp đến tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, tiểu thuyết “Mùa hoa giẻ” của Văn Linh, thơ “Trò chuyện với Thúy Kiều” của Lý Phương Liên… đã bị bức tử ở thời xã hội chủ nghĩa. Ông Trần Trọng Tân im lặng hồi lâu rồi nói: “Tuy vậy những ý kiến này chỉ nên trao đổi trong nội bộ, chưa nên phổ biến trên truyền thông đại chúng gây những suy diễn không có lợi cho sự lãnh đạo của Đảng ta trên mặt trận văn hóa văn nghệ vốn rất phức tạp đã từng xẩy ra Nhân văn Giai phẩm”. Sau đó ông chuyển sang vấn đề khác. Năm 1991 trong vòng một tháng báo Lao Động có 4 bài phê bình 4 vị Bộ trưởng (Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song lem nhem giành nhà cửa; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sĩ Kiêm không nghiêm túc thực hiện sắc lệnh đổi mới ngân hàng; Bộ trưởng Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt phá rừng mà không trồng rừng bù lại; Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải chậm xây dựng nhà máy điện).

Tôi được Ban Tư tưởng Văn hóa mời riêng để góp ý. Lúc này ông Trần Trọng Tân đã vào Sài Gòn làm Phó bí thư Thành ủy. Ông Hữu Thọ lên Trưởng ban. Tôi nói, tất cả các bài báo đều rất chính xác. Nếu các Bộ trưởng không đồng ý thì xin cứ gửi bài phản biện, chúng tôi sẽ trả lời đúng quy định của pháp luật. Trưởng ban Hữu Thọ cười đáp: “Hôm nay Ban không mời Tổng Biên tập Tống Văn Công mà mời đảng viên Tống Văn Công, cho nên chúng ta không nói chuyện pháp luật mà chỉ nói về ý thức trách nhiệm của đảng viên đối với Chính phủ do Đảng mình lãnh đạo”. Tôi nói, dù chỉ xét về trách nhiệm đảng viên cũng vẫn phải căn cứ theo luật pháp chứ anh. Hữu Thọ cười, rồi thân tình nói bỗ bã theo kiểu bạn bè: “Tao hỏi mày, một Chính phủ mà chỉ trong một tháng bị mày phê phán te tua tới bốn vị Bộ trưởng thì còn đâu uy tín với trong, ngoài nước?” Tôi đáp, nếu Chính phủ chân thành tiếp thu phê bình và có cách sửa chữa tốt thì uy tín không hề giảm mà càng tăng cao, và quan trọng hơn là đất nước phát triển, nhân dân được lợi. Trong số báo 96–97–98 năm 2012 báo Lao Động tôi có kể lại câu chuyện trên. Trong dịp gặp nhau ở Hà Nội, Hữu Thọ vui vẻ nói “Tao có đọc bài mày chửi tao. Thù dai thế!”

Cao Trí

Thăm nhà nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (2)



Theo Thánh Gióng, sau khi làm Chủ Tịch nước ông về vui thú điền viên

                          

Chủ tịch Nguyễn Minh Triết: Thánh Gióng về Trời vui thú điền viên.

Xin thầy nhận cho tôi được vái thầy một vái

CTNN Nguyễn M Triết: Vietnam & Cuba canh giữ hòa bình thế giới

           Hài vãi rắm

Người lính gác cho hòa bình thế giới ở tây bán cầu : Fidel Castro tạ thế,  bây giờ còn một Việt Nam đứng gác ở phía đông bán cầu, liệu có thấy lạnh gáy không ?


                          


Dù sao thì Fidel Castro vẫn là một lãnh tụ độc tài, gia đình trị, kéo lùi lịch sử phát triển của Cu ba hơn 50 năm qua, ông đã dẫn dắt nhân dân của ông đi ngược xu thế của thời đại.Hãy xem cái di sản mà ông để lại cho đất nước và nhân dân Cu Ba từ năm 1959 tới nay là một quốc đảo tàn tạ.



Thế giới phản ứng trước cái chết của lãnh tụ Cuba Fidel Castro hôm nay, thứ Bảy 26/11, theo nhiều cách. Nhiều người trong cộng đồng người Cuba sống lưu vong tại Miami đổ ra đường ăn mừng trong khi một số nhà lãnh đạo thế giới bày tỏ đau buồn trước sự ra đi của nhân vật được coi là biểu tượng của cuộc cách mạng Cuba.

Người dân tại Little Havana, Miami ăn mừng sau khi nghe tin về cái chết của lãnh tụ cách mạng Cuba Fidel Castro, ngày 26 tháng 11 năm 2016.
Ngay sau khi chính phủ Cuba loan báo cái chết của ông Castro, người Cuba sống lưu vong ở Miami, bang Florida, đã tràn ra các đường phố để ăn mừng. Một số người quấn quốc kỳ Cuba vào người, một số người khác nhảy múa trên các đường phố, một số vẫn chưa tin được là ngày mà họ đã trông đợi từ lâu, giờ đã đến.

Đám đông hô khẩu hiệu “Nói Có với Cuba, Không với Castro!” trong khi một số người khác reo hò: “Cuba Tự do!”

Ông Gabriel Morales nói ông chưa thể tin hẳn là Fidel Castro đã chết. Cha mẹ của giám đốc tài chánh 44 tuổi này đã rời Cuba nhiều thập niên về trước.

Ông Carlos Lopez nói với tờ Miami Herald: “Chúng tôi không ăn mừng cái chết của một người, mà là cái chết của một ý thức hệ.”

Ông nói những người Cuba định cư ở Mỹ vui mừng vì hôm nay đã giành lại được một ít tự do với cái chết của Fidel Castro.

Dân biểu Mỹ Ileana Ros-Lehtinen, đại diện quận hạt 27 của bang Florida tại quốc hội nói trong một thông báo:

“Ngày mà nhân dân Cuba, ở trong và ngoài nước, chờ đợi từ lâu đã đến: Nhà độc tài đã chết, khởi sự cho một bình minh tại thành trì cuối cùng của cộng sản tại bán cầu Tây phương.”

Phản ứng bên trong đảo quốc lẫn lộn.

Anh Yoani Sanchez viết trên trang Twitter:

“Một số người bày tỏ thương tiếc, một số cảm thấy nhẹ nhõm, số còn lại không mấy quan tâm. Di sản do ông Castro để lại là một quốc gia bị tàn phá, nơi mà giới trẻ chỉ muốn bỏ đi.”

Nhưng một sinh viên ở La Havana, anh Sariel Valdespino nói anh cảm thấy đau buồn.

“Bất chấp ai nói gì thì nói, Fidel là một “nhân vật của công chúng mà cả thế giới đều tôn trọng và kính mến.”

Trên trang Twitter, Gloria La Riva viết: “Di sản mà ông để lại sẽ trường tồn bởi vì ông để lại một đất nước với những nhà cách mạng chân chính, phục vụ thế giới trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, xây dựng, đấu tranh cho cả nhân loại…”

Tổng thống Mexico Enrique Pena Nieto viết tin nhắn này trên trang Twitter: “Tôi thương tiếc cái chết của Fidel Castro Ruz, lãnh tụ cách mạng Cuba, và là một biểu tượng của thế kỷ 20.”

Tổng Thống Pháp Francois Hollande miêu tả Fidel Castro là một người khổng lồ của thế kỷ 20.

Tổng Thống Nga Vladimir Putin cũng ca tụng ông Castro là “biểu tượng của một thời đại”.

Cựu lãnh đạo Nga Mikhail Gorbachev ca ngợi ông Castro là đã “củng cố” đảo quốc Cuba. Hãng tin Interfax của Nga dẫn lời ông Gorbachev nói:

“Fidel đã đứng lên và tăng sức mạnh cho nước ông trong thời gian bị Mỹ cấm vận nghiêm ngặt nhất, khi mà áp lực đè nặng lên vai ông, cuối cùng ông đưa đất nước thoát khỏi cuộc cấm vận để tiến lên con đường phát triển độc lập.”

Báo tin lãnh tụ cộng sản Cuba Fidel Castro qua đời trên đài truyền hình nhà nước vào tối thứ Sáu 25/11, em trai ông, đương kim Chủ tịch Cuba Raul Castro cho biết sẽ hoả táng thi hài của Fidel Castro ngày hôm sau.

Ông Raul Castro nói:

“Tôi xin loan báo với các bạn hữu của chúng tôi ở Hoa Kỳ và thế giới, rằng người chỉ huy và lãnh đạo cuộc Cách mạng Cuba, Fidel Castro Ruz, qua đời vào lúc 10:29 phút (0329 giờ GMT) ngày 25/11. Thi hài ông sẽ được hoả táng vào sáng sớm thứ Bảy 26/11.”

(VOA)