29 tháng 2, 2016

Sao tự trói tay, bịt mắt giữa thế giới hội nhập?

 

Tuần qua, đọc trên mạng thấy thiên hạ phê phán, kêu gọi tẩy chay hàng loạt cuốn sách đồ sộ về Đặng Tiểu Bình. Giật mình thấy, nếu có quá nhiều nhà xuất bản Việt Nam rất khách quan vô tư dịch và in nguyên xi sách của Tàu ca ngợi nhân vật nổi tiếng này, thì sao lại không có đến một cuốn sách nào của tác giả Việt Nam nghiên cứu về Đặng Tiểu Bình, trong đó có câu chuyện mà kẻ xâm lược, kẻ giết người hàng loạt Đặng Tiểu Bình xua quân tấn công toàn tuyến biên giới Bắc Việt Nam, để “dạy cho Việt Nam một bài học”?
Không ai nói lại hay được phép nói lại sự thật đẫm máu năm 1979? Tôi nhớ lại không khí căng thẳng tại cuộc họp điểm báo tháng 2 năm 1997, khi Đặng Tiểu Bình tạ thế, tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn đã có bài viết về tư tưởng cải cách kinh tế của nhân vật, đồng thời nói rõ Đặng Tiểu Bình LÀ KẺ ĐÃ PHÁT ĐỘNG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM. Tiếp nhận phê phán nặng nề từ Ban Tuyên huấn, Tổng Biên tập Võ Như Lanh điềm tĩnh trả lời, đó là sự thật lịch sử và tôi là nhà báo Việt Nam, tôi có trách nhiệm nhắc bạn đọc của tôi về điều đó.
Sau này, trong bài báo tưởng nhớ anh (vẫn còn trên mạng), ban biên tập TBKTSG còn nhắc quan điểm này: “Anh cho rằng một khi đã tin tưởng điều gì là đúng và cần thiết phải thông tin thì hãy thông tin, sau khi đã cân nhắc đầy đủ lợi hại và sẵn sàng đón nhận những khó khăn có thể đến. Như khi Đặng Tiểu Bình qua đời vào tháng 2-1997, anh đã chủ trương đưa tin nói rõ cả những mặt sáng và mặt tối của nhân vật này”.
Nói chuyện Đặng Tiểu Bình, không thể không buồn cười nhớ tới nhân vật được biết đến nhiều hơn và ái mộ rộng khắp Việt Nam: vua Càn Long. Nhiều tháng, năm, truyền hình Việt Nam chiếu liên tu bất tận những tập phim về vị “minh quân xuất chúng” Càn Long khiến khán giả Việt yêu quí say mê, rồi yêu luôn tài tử Trương Thiết Lâm, Trương Quốc Lập. Nhiều ký sự về đời tình ái của hai tài tử này một dạo bán rất chạy, giăng đầy mặt báo .
Duy có những điều về vua Càn Long liên quan trực tiếp tới Việt Nam thì hầu như rất xa lạ, hầu như sau này chưa thấy báo nói tới. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống sai người sang Trung Quốc cầu viện.. Cuối năm 1788, chính vua Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hơn 29 vạn quân, hộ tống Lê Chiêu Thống về Việt Nam, vào chiếm đóng Thăng Long. Đúng ngày 22 tháng 12 năm 1788, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, và trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu – 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, tổn thất lớn.
Giật mình, 1789-1979. Vậy là từ khi vua Càn Long định chiếm Đại Việt bị thất bại, cho đến cuộc xâm lược của Đặng Tiểu Bình là tròn 190 năm. Những mảnh lịch sử Việt Nam liên hệ đến họ đã được nói rõ ràng, công bằng đến đâu?
Chuyện đó cũ, còn chuyện này mới tinh. Hôm qua, tờ Petrotimes đưa tin: Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm 25/2 có bài kêu gọi quân đội nước này hãy “dạy cho Mỹ một bài học” nếu Washington tiếp tục có những hành động táo bạo. Tờ báo cũng chung gốc với Nhân Dân Nhật Báo là Hoàn cầu Thời báo thì rổn rảng hơn, quy cho Mỹ đang làm rùm beng chuyện Trung Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa HQ-9 ở Hoàng Sa.””là không chỉ gây áp lực cho Bắc Kinh về vấn đề biển Đông mà còn kích động xung đột giữa Bắc Kinh với các nước khác”.
Trung Quốc có đánh Mỹ không? Chưa biết. Tuy vậy, điều lạ là lần này, Trung Quốc xả cảng cho cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng và nhà nước Trung Quốc nhắm thẳng Mỹ mà hăm dọa kích động như vậy.
Rõ ràng là Trung Quốc đã cân nhắc kỹ, đã chơi rất bản lĩnh, rất có tính toán trong cuộc chiến truyền thông. Binh chủng nào, lúc nào, nói gì, “ton” gì, nhắm vào ai… là có đủ loại để nghênh chiến, thay đổi rất linh hoạt để đạt nhưng kết quả khác nhau, chứ không hoàn toàn đồng phục và đơn điệu nhàm chán.
Nhớ hồi chiến tranh, ta đánh ba thứ quân, phối hợp chính quy với du kích. Vậy sao lúc ngư dân sôi sục vì bị rượt đuổi, bắn, giết, cướp tàu khi ra khơi làm ăn trong biển của mình thì báo chí của Mặt trận, của Hội Nghề cá, của Hội Phụ nữ, Thanh niên… không thể lên án tội ác, đòi bồi thường, đòi quốc tế có thái độ với kẻ ý lớn hiếp đáp? Nhiều loại báo, đại diện nhiều đối tượng nhiều giọng, nhiều nội dung, nhiều cách thức tham gia linh hoạt vào cuộc chiến; mà bây giờ làm vậy cũng là “học” cách họ đang xài đủ thứ binh chủng vậy thôi.
Rõ ràng trong một thế giới hội nhập, ta cần tính lại chiến lược, sách lược cho cuộc chiến truyền thông. Sách nghiên cứu về chiến lược của kẻ thù phương Bắc xâm lược Việt Nam. Phim về cuộc tiến quân anh hùng của Quang Trung và biềt bao anh hùng khác. Báo chí của nhiều tầng lớp nhân dân vốn trực tiếp hứng chịu nhiều đau thương tang tóc từ kẽ thù, lẽ nào chỉ có sự câm lặng đồng phục? 
V. K. H.
Nguồn: FB Vũ Kim Hạnh

28 tháng 2, 2016


Cười té ghế ... "cái điền đô!" 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GS ĐẶNG VŨ KHIÊU : Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, đổi chữ cho người mẫu Kỳ Duyên để được hôn cô một cách nghiến ngấu, dối già.

*

(từ quê choa)

CƯỜI TÉ GHẾ HAY ĐAU THẮT LÒNG VỚI CHỮ SỬA CHỮA TRUYỆN KIỀU ?

Đặng Vỹ




Ngôn từ Truyện Kiều đang bị người ta dùng bạo lực can thiệp!

Mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!

“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua mỗi cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Mỗi người thứ có thứ không
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”


Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?



1/3 kiệt tác bị sửa!


Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.


Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!


Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta! Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều - Nguyễn Du). Đó là trong cuộc hội thảo Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ - Từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch - NXB Văn hóa - Thông tin in năm 2012. 


Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên. Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế.  Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ rơi vào 1 câu, thì với  Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác của đại thi hào!

Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác. Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.


Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!


Cười đến… dào mạch Tương!


Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu “Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích… đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều mạng nào bằng!


“Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành “xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang sang cho tình lang Kim Trọng!




   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 2
Trộm nghe thơm nức hương lân,"Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều"! (Đỗ Minh Xuân)


Nhưng chưa! Điều đáng sợ là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng:


Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng Tước khóa Xuân hai Kiều”


đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!


Không thể nào nói hết cái ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư. Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa. Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:


“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
Mái Tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng…”


Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:


“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang”!


Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện "Tây Sương ký" để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và “Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay, khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?


Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và chết, hai người vợ là  Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc. Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”!

Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!


Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là “thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành “kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ - danh từ riêng, một người nghe đàn giỏi - được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với nhau!...


Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.



   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 3
Hiện nay Truyện Kiều có quá nhiều dị bản. Người ta cố giữ những bản Kiều cổ vì muốn tìm về đúng nguyên bản của nó.


Được cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!


Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử!


Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu!


Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương! Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc những dòng đề tựa của vị giáo sư này:


Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”


Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!


Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biếtTruyện Kiều, chứ không phải như ông Xuân nói là ít người đọc.

Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt: Ngôn ngữTruyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu. Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm, vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều... Biết bao nhiêu là hoạt động phong phú, thể hiện dân ta đâu có... dốt Kiều, như ông Xuân nói.


Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là "làm cho dễ hiểu", thì có còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!


Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích, thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn "Từ điển Truyện Kiều", giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều như vậy, thì có lẽ công trình của ông Đào Duy Anh đành phải... vứt sọt rác?

Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”. Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.


Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được giáo sư Vũ Khiêu cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này mà đem phổ biến ra, tức là thực sựTruyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận theo kiểu Đề-các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi! Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!

27 tháng 2, 2016

ĐỈNH CỦA ĐỈNH

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 
Bí thư thành ủy Hà Nội
Bí thư Thành ủy HN Hoàng Trung Hải ngày 23/2 khi ông về làm việc với huyện Ba Vì.,nói :

"Kinh tế chưa phải là số một. Số một là xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng cho DN, tạo môi trường sinh sống an lành cho nhân dân. Thà sống nghèo mà công bằng, yên bình còn hơn giàu mà không công bằng, không yên bình. Đây là nhiệm vụ mà nòng cốt phải làm cho tốt”(VietNamNet, ngày 23/2)




Ông Hoàng Trung Hải xuống đồng đầu năm Bính Thân 2016
(Người bên trái, áo xanh, trắng)

HÌNH ẢNH NGHÈO NHƯNG YÊN BÌNH

























HÌNH ẢNH CHỦ TỊCH NƯỚC ĐI CÀY
 
Chủ tịch Trương Tấn Sang

 
Chủ tịch Nguyễn Minh Triết
---------------------
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 




Tại Hội nghị Tham tán Thương mại năm 2016 diễn sáng nay (ngày 26/2/2016), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói: 

“Kinh tế mà không phát triển đừng nói chuyện khác, nghèo khó nói chuyện lắm, nợ nần người ta đòi đủ thứ. Kinh tế tăng trưởng cao, làm ăn tốt, tướng đi cũng khác, nợ nần tướng đi co ro lắm”,
Nguồn Internet

GS Nguyễn Minh Thuyết - Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn


VietTimes — Cần phải cải tiến mạnh mẽ công tác bầu cử. Phải có cơ chế để người dân tự ra ứng cử và phải có tranh cử để cử tri lựa chọn được những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội. 



Điều cần nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để QH có thực quyền hơn.Đó là ý kiến của GS.TS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (QH).



                                                                      ***



Đảng cần thay đổi phương thức lãnh đạo để QH có thực quyền hơn



Thưa Giáo sư, sau 10 năm làm đại biểu Quốc hội, ông thấy điều gì cần được quan tâm nhất để đổi mới hoạt động của QH nhiệm kỳ tới nhằm đạt hiệu quả hoạt động cao hơn?



– Điều cần nhất là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng. Hiến pháp, rồi Luật Tổ chức QH đều khẳng định QH là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng trong thực tế hoạt động QH, có nhiều vấn đề QH vẫn phải chờ ý kiến của Trung ương hoặc Bộ Chính trị, Ban Bí thư mới quyết định được.Đương nhiên có những việc thuộc thẩm quyền của Đảng thì Đảng quyết, nhưng cũng cần phân định rõ những việc gì phải xin ý kiến Trung ương hoặc Bộ Chính trị, Ban Bí thư; những việc gì giao Đảng đoàn QH bàn bạc rồi đưa ra QH quyết luôn.



Ví dụ, khi những người đứng đầu các cơ quan nhà nước thuộc diện QH bầu và phê chuẩn vi phạm pháp luật hoặc không đủ khả năng và phẩm chất để đảm nhiệm chức vụ nữa thì QH cần có quyền lập Ủy ban lâm thời để điều tra, bỏ phiếu bất tín nhiệm và làm thủ tục miễn nhiệm người đó, chứ không phải chờ đến khi Trung ương họp, có ý kiến rồi QH mới xử lý được.



Hay là, đối với các dự án quan trọng quốc gia, cần thay đổi quy trình “bàn bạc – chỉ đạo – quyết định” theo hướng: Trước hết, để cho các cơ quan chuyên môn của QH thẩm định, QH bàn thảo kỹ; sau đó báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư có ý kiến chỉ đạo; nếu cần thì Bộ Chính trị báo cáo BCH TƯ ra nghị quyết; chứ không nên làm ngược lại, dẫn đến tình trạng QH bàn rồi, đại biểu đề nghị thông qua hoặc không thông qua rồi lại bảo “cái này TƯ đã thống nhất thông qua, đề nghị QH cho thông qua”.



Ông có thể đưa ra dẫn chứng cụ thể những trường hợp như vậy không?



– Ví dụ, chuyện thông qua dự án mở rộng Thủ đô năm 2008. Khi thăm dò thì số đại biểu ủng hộ và phản đối dự án ngang nhau, đều 226. Tuy nhiên, sau đó các đại biểu là ủy viên TƯ, Trưởng các Đoàn đại biểu được triệu tập và nhận ý kiến chỉ đạo là phải quán triệt đại biểu thông qua vì TƯ đã quyết rồi. Thế là ngày hôm sau bỏ phiếu, kết quả 92,9% đồng ý thông qua dự án; chỉ có 4 phiếu chống, 13 phiếu trắng.



Sau này, khi bàn về chủ trương làm đường sắt cao tốc Bắc – Nam, Bộ Chính trị đã thay đổi phương thức lãnh đạo, nghĩa là Trung ương không quyết trước mà chỉ nhất trí cho trình dự án ra QH, để QH toàn quyền bàn thảo và quyết. Kết quả là dự án đường sắt cao tốc ấy không được thông qua.



 [GS Nguyễn Minh Thuyết: Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn] Cần phải đổi mới để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng.

               [GS Nguyễn Minh Thuyết: Đảng cần đổi mới để Quốc hội thực quyền hơn]



Cần phải đổi mới để QH có thực quyền hơn, chủ động hơn trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng.



Trong công tác lập pháp và giám sát cũng vậy, QH có thực quyền thì mới có thể xây dựng được những đạo luật phù hợp với thực tế; giám sát mới có hiệu quả. Vì vậy Đảng cần thay đổi phương thức lãnh đạo để QH có thực quyền hơn.



Cần có cơ chế tranh cử công khai



Một trong những chức năng quan trọng nhất của QH là làm luật. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải đại biểu nào cũng có kiến thức cao về pháp luật. Thế mới có chuyện trước đây ông Vũ Đức Khiển, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH phát biểu rằng “QH làm văn tập thể”. Thưa GS, liệu có phải việc quá ít đại biểu chuyên nghiệp nên ảnh hưởng đến chất lượng làm luật của QH không?



– Không có QH nước nào mà tất cả hoặc phần lớn đại biểu đều là những nhà chuyên môn về luật cả. Đại biểu đại diện cho các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Ngay cả các nghị sĩ chuyên nghiệp thì họ cũng là những nhà chính trị hơn là chuyên gia về luật. Còn về câu hỏi “Liệu có phải việc quá ít đại biểu chuyên nghiệp nên ảnh hưởng đến chất lượng làm luật của QH không?” thì theo tôi là có ảnh hưởng, nhưng không lớn lắm vì QH làm luật là làm chính sách, chứ không phải làm kỹ thuật luật. Những kỹ thuật cụ thể có các chuyên viên làm, nước nào cũng thế thôi.



Ông Vũ Đức Khiển phải nhận xét “QH làm văn tập thể” chính là vì khi thảo luận về dự thảo luật, nhiều đại biểu chỉ đề nghị thay từ này bằng từ kia, thay dấu chấm bằng dấu phẩy v.v. mà không tập trung phân tích xem các chính sách trong dự thảo có hợp lý không, có phù hợp với thực tế không, có phù hợp với nguyện vọng của dân không, có cần bổ sung, sửa đổi gì không.



Tuy nhiên cũng phải thừa nhận là nhiều luật của ta chất lượng chưa cao. Có nhiều lý do. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây, là việc thông qua một đạo luật phụ thuộc vào nhiều bên chứ không phải chỉ có cơ quan lập pháp là QH. Luật còn phụ thuộc vào cơ quan trình, tức là Chính phủ. Rồi thì ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, BCH TƯ. Luật càng quan trọng (ví dụ như Luật Đất đai, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Biểu tình, Luật về Hội, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Báo chí) thì càng có nhiều ý kiến chỉ đạo, tham gia.



Thứ hai, các cơ quan trình luật thường có xu hướng bảo vệ lợi ích của mình, nên thiết kế các điều luật có lợi cho họ hoặc cho công việc của họ. Khi dự thảo đưa ra, dù QH có không hài lòng, nhưng cũng không dễ mà chỉnh sửa được. Đó là chưa kể cơ quan trình còn tác động đến cấp này cấp kia để giữ nguyên. Thậm chí, dù cho đại biểu bác bỏ một cách có lý, cấp có thẩm quyền vẫn còn thuyết phục đại biểu thông qua, như lời một bài hát của ông Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng QH, người đã từng tham gia QH 5 khóa liền: “Ý kiến đại biểu tuy rất hay. Nhưng nếu tiếp thu thì rất gay. Mong đại biểu cho giữ nguyên như cũ. Và tiếp tục phát biểu hăng say”. Bài hát được ông Vũ Mão lúc còn đương chức “trình diễn” nhiều lần không phải bên bàn trà mà trước các hội nghị.



Thứ ba, ở nước ta luật ra rồi nhưng phải chờ nghị định. Có nghị định rồi lại phải chờ thông tư hướng dẫn. Nhiều khi nghị định và thông tư lại “làm méo” cả luật.



Thứ tư, cũng còn có lý do nữa là nhiều khi các cơ quan trình luật và cả đại biểu đành tạm chấp nhận theo kiểu “đặt một chân” vào đã rồi tính sau. Vì nhiều khi không làm thế thì luật không thể thông qua được.



QH của chúng ta hiện nay vẫn “cơ cấu” theo kiểu “mặt trận” bằng việc quy định tỷ lệ đầy đủ các tầng lớp trong xã hội. Rồi thì có những trường hợp người dân đi bầu theo cảm tính chứ nhiều khi có biết năng lực, phẩm chất của ứng cử viên ấy ra sao đâu. Thế mới có chuyện những đại biểu được bầu như Hoàng Hữu Phước của Tp.HCM đã gây rất nhiều tai tiếng ở nhiệm kỳ vừa qua. Thậm chí đại biểu Trần Du Lịch còn gọi ông Phước là “không bình thường”. Vậy tại sao chúng ta không có cơ chế tranh cử công khai để người dân lựa chọn, thưa Giáo sư?



– Cơ cấu QH có đại biểu đại diện cho các thành phần khác nhau như công nhân, nông dân, trí thức, dân tộc ít người, thanh niên, phụ nữ v.v. là chuyện bình thường vì QH là cơ quan đại biểu của dân, cần có đại diện cho các tầng lớp khác nhau, hay nói theo cách khác là đại diện cho các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, theo tôi, cũng không nên quy định cứng nhắc về cơ cấu thành phần. Ví dụ, cơ cấu ít nhất 35% đại biểu là phụ nữ, 10% đại biểu là người ngoài đảng, 10% người dưới 40 tuổi,… , thì đó là chỉ tiêu phấn đấu, còn đạt bao nhiêu là tùy thuộc vào nỗ lực của ứng cử viên và sự lựa chọn của cử tri.



Cơ cấu quá cứng nhắc, hình thức có thể làm cho cử tri giảm dần ý thức trách nhiệm trong bầu cử. Thế mới có chuyện một người đi bầu thay cho cả gia đình. Thậm chí ra tới nơi bầu cử rồi mới đọc qua sơ yếu lý lịch của ứng cử viên để bầu. Có cử tri còn hỏi người trong tổ bầu cử là nên để ai, gạch tên ai. Để khắc phục tình trạng này, theo tôi, cần phải cải tiến mạnh mẽ công tác bầu cử.



Phải có cơ chế để người dân tự ra ứng cử bình đẳng với người được các tổ chức giới thiệu ra ứng cử; ứng cử viên phải trình bày, thậm chí tranh luận về chương trình hành động để cử tri lựa chọn được những đại biểu xứng đáng.



Theo Giáo sư thì có cần cải cách gì về cách thức chia các đơn vị bầu cử như hiện nay không?



– Theo tôi thì cần chia nhỏ các đơn vị bầu cử; mỗi đơn vị bầu cử chỉ bầu một đại biểu thôi. Ví dụ, tỉnh X trước đây có 2 đơn vị bầu cử; mỗi đơn vị gồm 5, 6 huyện thị, được bầu 6 đại biểu và hình thành một đoàn đại biểu; bây giờ nên chia thành 6 đơn vị bầu cử và mỗi đơn vị chỉ bầu một đại biểu. Làm như vậy, đại biểu đó sẽ phải gắn chặt trách nhiệm với cử tri và được cử tri giám sát chặt chẽ. Trong nhiệm kỳ, năng lực, trách nhiệm của đại biểu đó ra sao, cử tri người ta thấy rõ ngay.



Còn như hiện nay, tất cả hoạt động trong một đoàn đại biểu, trách nhiệm chịu chung. Khi đoàn đi tiếp xúc cử tri, thậm chí một, hai đại biểu vắng mặt, cử tri cũng thấy bình thường. Có đại biểu cả nhiệm kỳ 5 năm không một lần phát biểu tại nghị trường, không giải quyết được một việc gì cho cử tri cũng chẳng phải chịu trách nhiệm gì.



Thu thập chữ ký và vấn đề kiều bào về ứng cử, bầu cử



Hiện đã có một số người tuyên bố là sẽ ra tranh cử QH nhiệm kỳ tới, thậm chí có người còn đưa ra cả chương trình hành động để tranh cử nữa. Cũng có ý kiến cho rằng thay vì MTTQ tổ chức hiệp thương như hiện nay, nên để cho những người có nguyện vọng ra tranh cử thu thập chữ ký cử tri. Giáo sư nghĩ gì về những vấn đề này?



– Trước hết phải nói rằng việc ngày càng có nhiều người tuyên bố ra ứng cử đại biểu QH là dấu hiệu tích cực. Điều đó chứng tỏ hoạt động của QH từ khi đổi mới đến nay, đặc biệt trong thời gian qua, đã thu hút được sự quan tâm của người dân. Hơn nữa, việc có nhiều người dân ra ứng cử như vậy thể hiện ý thức chính trị, ý thức với công việc chung của đất nước đã được nâng lên. Đấy là điều đáng quý.



Đọc chương trình hành động của một số người tuyên bố sẽ ra tranh cử, tôi thấy về kỹ thuật có thể còn có vấn đề này kia, nhưng về ý tưởng là nghiêm túc và cũng có những ứng cử viên có những chương trình hành động khá hấp dẫn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tạo điều kiện để những người này có cơ hội tham gia ứng cử.



Còn việc thay vì hiệp thương, nên để ứng cử viên thu thập chữ ký nơi mình công tác, sinh sống để tham gia tranh cử, theo tôi, cũng là một hướng mà QH khoá tới nên cân nhắc để điều chỉnh luật. Làm như vậy cũng là một cách để nâng cao ý thức của cử tri.



Vừa qua có nhiều trí thức người Việt ở nước ngoài lên tiếng rằng chúng ta nên tạo điều kiện cho đồng bào ở nước ngoài có thể ứng cử và bầu cử QH. Giáo sư có ý kiến gì về vấn đề này?



– Tôi nghĩ về mặt nguyên tắc thì đồng bào mình sống ở nước ngoài, còn giữ quốc tịch Việt Nam phải được tham gia bầu cử và ứng cử. Có điều là từ trước đến nay, vì nhiều lý do khác nhau nên chúng ta chưa tổ chức được cho đồng bào ứng cử, bầu cử. Tôi xin lấy một ví dụ cụ thể để chúng ta thấy sự phức tạp của vấn đề. Ở một vài địa phương nước ngoài, một bộ phận người Việt treo quốc kỳ Việt Nam, thậm chí là chỉ cắm chảo antenna để bắt sóng truyền hình trong nước cũng bị nhóm người Việt khác đập phá.



Trong bối cảnh như vậy mà tổ chức hòm phiếu để bầu cử sẽ rất khó đảm bảo kết quả. Còn việc người Việt Nam ở nước ngoài về tham gia ứng cử thì QH cũng đã có bàn bạc, thảo luận rồi, nhưng có cái khó là cử tri trong nước hầu như không biết rõ về các vị đó; và nếu có trúng cử QH thì các đại biểu này cũng khó sát với cử tri. Vì vậy, việc này cần phải có thời gian và lộ trình cụ thể.

Xin cám ơn Giáo sư!

(VietTimes)