24 tháng 10, 2015

NHỮNG MỐI TÌNH TRẮC TRỞ CỦA CÁC NỮ VĂN NGHỆ SĨ ( KỲ II )
(Sưu tầm trên mạng)



5. N SĨ ANH THƠ: OÁI ĂM ĐƯỜNG TÌNH 
 

Chuyện tình của các nữ thi sĩ Việt Nam cũng có nhiều điều lạ. Trong đó, trường hợp của nữ thi sĩ Anh Thơ phải gọi là… rất lạ, bởi nó không chỉ là trái ngang, là đau đớn, mà còn đẩy “nạn nhân” vào những tình thế hết sức oái oăm, khiến bà lắm lúc chỉ còn biết ôm đầu mà thở than “Cho hay muôn sự tại trời…”.




Theo lời kể của chính nữ thi sĩ Anh Thơ (trong tập hồi ký “Từ bến sông thương”) thì người đầu tiên dám đến tận nhà bà để bày tỏ tình cảm của mình là một sinh viên Trường cao đẳng Luật học.

Anh chàng này đã bị dội gáo nước lạnh khi bà nội của Anh Thơ từ trong buồng bước ra nói thẳng: “Gia phép nhà tôi không cho phép trai gái tự do gặp nhau. Nếu muốn lấy cháu tôi thì phải về nói với bố mẹ, để bố mẹ có manh mối hẳn hoi, mang lễ đến chạm ngõ cẩn thận, thì mới được thấy mặt cháu tôi”. Anh sinh viên xấu hổ ra về, chẳng mảy may khiến nữ thi sĩ tương lai bận lòng, vì trong thâm tâm, bà luôn mơ có người yêu là… thi sĩ.

Rồi bà cũng được một nam thi sĩ để mắt tới. Đó là một tác giả khá nổi tiếng trên thi đàn thời ấy. Trong cuốn hồi ký nhắc tới trên, bà viết tắt tên ông là B. Thoạt đầu, thông qua người anh con ông bác ruột của Anh Thơ, nhà thơ B. đã chủ động gửi những lời tỏ tình nồng thắm tới nữ thi sĩ, người cũng từng được giải thưởng thơ của Tự lực văn đoàn như ông và cũng có những vần thơ hay viết về thôn quê. Cứ vậy, tình cảm hai người được nuôi dưỡng thông qua những lá thư, để rồi một ngày, B. bất ngờ tìm về tận quê của “người trong mộng”.

Có thể nói, cái hình thức không thật “bắt mắt” cùng với những cử chỉ sàm sỡ của B. đã khiến Anh Thơ vừa thất vọng vừa hoảng sợ, đặc biệt là khi B. ngồi sát lại bên bà, nói tuột quan điểm: “Tình yêu thì cần gì phải mối lái, cưới xin? Sao em không nghĩ yêu nhau thì theo nhau…”. Đất dưới chân Anh Thơ như sụp xuống. Ảo mộng tan tành. Là một con nhà nề nếp gia phong, làm sao bà có thể chấp nhận lối sống buông thả như thế.

Người đàn ông đầu tiên đem đến cho Anh Thơ những giây phút thăng hoa thực sự trong tình yêu chính là thi sĩ Cẩm Văn. Hai người quen nhau tại Nhà xuất bản Nguyễn Du. Bấy giờ Anh Thơ đã là nữ ký giả, còn Cẩm Văn là biên tập viên xuất bản. Cẩm Văn là một người có quan điểm học thuật tiến bộ, và khá tinh tế trong cảm thụ văn chương. Đến với Cẩm Văn, đã có lúc Anh Thơ mãn nguyện thả tâm hồn mình đến với bao bến bờ mơ ước. Thậm chí, thông qua “bà mối” Vân Đài, Cẩm Văn đã thực hiện thành công lễ chạm ngõ.

Ai cũng nghĩ, việc trăm năm của đôi bạn trẻ đã chắc như đinh đóng cột rồi, vậy mà… Theo nữ sĩ Anh Thơ “hồi ức” lại thì sau gần một tháng xa cách nhau, từ Hà Đông, bà đi tàu điện ra Hà Nội. Khi tới cổng NXB Nguyễn Du (ở phố Hàng Đẫy, nơi Cẩm Văn làm việc), bà thấy đèn điện bật sáng hai tầng nhà. Có bóng người thấp thoáng xen lẫn tiếng đàn bà. Đoán có vợ chồng người bạn nào đó đến thăm Cẩm Văn, Anh Thơ cứ thế điềm nhiên bước thẳng lên gác.

Một cảnh tượng bất ngờ khiến bà chết lặng: Cẩm Văn đang ngồi bên một cô gái khoảng 24, 25 tuổi, mắt nhìn khắp lượt con người cô một cách “rất âu yếm”. Còn cô gái thì lả lơi dựa sát vào Cẩm Văn. Trong thoáng chốc, bà qụy xuống sàn gác. Và khi tỉnh lại, mặc cho Cẩm Văn và cô gái nọ ra sức thanh minh, rằng cô ta “chỉ đến để hát ca trù” cho Cẩm Văn nghe, Anh Thơ đã bật dậy, vụt bỏ chạy như… ma đuổi.

Có lẽ, đến mãi sau này bà vẫn không sao giải thích nổi, tại sao một người có học như Cẩm Văn mà lại “đánh bạn” với ả cô đầu già, thậm chí còn lả lơi, buông cái nhìn mê đắm cô ta, một người mà xét về mọi phương diện đều thua kém Anh Thơ rất nhiều.

Sau khi tan vỡ giấc mộng vàng với Cẩm Văn, Anh Thơ trở nên… khó yêu hơn trước. Bà cũng “cảnh giác” hơn nhiều trước những lời đường mật của cánh mày râu.




Đã có lúc, bà phải thẳng thừng từ chối lời tỏ tình của một người đàn ông bởi người này, oái oăm thay lại chính là… đức lang quân của cô bạn gái thân thiết của bà.

Đã có lúc bà được tổ chức vận động lấy một tiến sĩ người Đức, bấy giờ đang chiến đấu trong quân ngũ ta. Vì sự nghiệp chung, bà đã đồng ý, song sau đó tổ chức cân nhắc lại và quyết định dừng phương án này. Kết quả là bà bị “lỡ nhịp” với một người con trai đất Việt mà bà thầm yêu trộm nhớ…

Cũng khoảng thời gian trên (giai đoạn kháng chiến chống Pháp) đã có một người đàn ông yêu Anh Thơ đến độ sau khi “bị động lấy vợ” đã “lại tự động xin ly dị vợ” (chữ của Anh Thơ) và trước khi qua đời vì bạo bệnh, ông đã than thở với con gái một người bạn: “Suốt đời chú chỉ yêu mình cô Anh Thơ mà chả được chung sống cùng cô”.

Nhà thơ Xuân Diệu (theo hồi ký “Bên dòng chia cắt” của Anh Thơ) cũng từng tính chuyện trăm năm với bà, song rồi cân nhắc trên nhiều phương diện, ông đã viết thư cho Anh Thơ xin được từ bỏ ý định trên “tôi không muốn làm khổ đời chị. Vì chị lấy tôi sẽ không hạnh phúc đâu”.

Thật là một sự trớ trêu đối với Anh Thơ: Trong khi Xuân Diệu lo không mang lại hạnh phúc cho bà (ai cũng hiểu ý ông muốn nhắc đến chuyện ông không có khả năng sinh con), thì vì cảm ân nghĩa của bác sĩ Bùi Viên Dinh, bà đã đến với bác sĩ Dinh, kết duyên chồng vợ. Nhưng rồi chính bà lại phải phẫu thuật cắt bỏ dạ con khiến đôi bạn đời phải chịu cảnh trong nhà thiếu tiếng cười con trẻ.

Có thể nói, đường tình duyên của nữ thi sĩ Anh Thơ là vô cùng trắc trở, với những oái oăm khó ai có thể hình dung nổi. Kể ra vậy để thấy nghị lực của bà thật lớn. Không có nghị lực ấy, hẳn bà không thể vượt lên để sáng tạo và cống hiến cho đời những trang thơ, trang văn đằm thắm.

Theo Tường Duy (VNCA




6. NỮ SĨ ĐOÀN LÊ 
 
 Đoàn Lê (sinh 1943), còn có bút danh Hạ Thảo, tên thật là Đoàn Thị Lê, là một nhà văn, họa sĩ, diễn viên, nhà biên kịch, đạo diễn người Việt Nam. Bà là Giám đốc Trung tâm Văn hóa nghệ thuật thành phố Hải Phòng.[1]

Mười bảy tuổi, cô bé Đoàn Thị Lê vừa bước chân vào trường đại học đã phải lên xe hoa trong nỗi nuối tiếc tức tưởi, để mấy năm sau, vợ chồng mỗi người mỗi ngả. Rồi đến chút tình riêng thứ hai của chị cũng như cơn gió thoảng qua. Giờ đây, mỗi người mỗi phương, thương nhau đấy mà không thể nương tựa vào nhau khi chiều tà bóng xế. Vì thế khi viết đến hai câu kết của bài thơ Cho một ngày sinh, Đoàn Thị Tảo đã phải thốt lên: “Vấn vương với sợi tơ trời/ Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan”. Chúng tôi nghĩ rằng đó là những nét chấm phá biểu cảm nhất trong bức chân dung thơ của nữ sĩ Đoàn Lê mà cô em gái gần gũi chị nhất, thương chị nhất mới viết được. Quê nội ở Nam Trực, Nam Định, suốt thời thơ ấu, sinh sống và học hành ở quê ngoại Hải Phòng, xa nhà từ năm 1959, đến năm 1997 nhận sổ hưu, Đoàn Lê trở lại đất xưa, chọn một vùng non nước hữu tình nhất, một ngõ phố vắng vẻ nhất để dựng nhà nương náu. Nơi ấy, chị tiếp tục thỏa sức tung hoành cây bút trên trang giấy, cây cọ trên giá vẽ. Mấy năm qua, việc vẽ tranh của Đoàn Lê lại là nguồn sống chính. Phòng tranh của chị khi đầy, khi vơi và mỗi lần vơi là mỗi lần cuộc sống của chị Lê và chị Tảo lại thêm phần dư dật. Chị kể, bức tranh Hoa bèo vẽ năm kia đã có người mua tới hơn ngàn đôla Mỹ… Đã qua tuổi lục tuần, nhưng xem ra nữ sĩ Đoàn Lê còn dồi dào sức sống và sức sáng tạo lắm. Những dự định sáng tác còn đầy ắp trong chị. Vậy mà khi tiễn chúng tôi qua cổng có giàn hoa cát đằng rủ rím, chị vẫn bâng khuâng đọc hai câu thơ mà cô em gái vừa mới viết: “Phố biển vào xuân heo vắng lắm Em thơ chị thẩn ngẩn ngơ buồn…” Không, chúng tôi nghĩ, chị buồn vì con cháu ở nơi xa không về vui Tết cùng chị, chứ cái nghiệp sáng tác, càng heo vắng, càng buồn, có khi lại càng hay.. Theo Nguyễn Hồng Lĩnh - (CAND)
------------
Xem thêm: Nhà văn Đoàn Lê: “Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan” - Tin van hoa, http://vietbao.vn/Van-hoa/Nha-van-Doan-Le-Tinh-rieng-bo-cho-tinh-nguoi-da-doan/65044845/181/
Tin nhanh Việt Nam ra thế giới vietbao.vn





 7 . Nhà thơ ĐOÀN TH TO Sinh năm 1945 tại hải Phòng
 
 TÌNH RIÊNG B CHỢ

NGUYỆT HÀ



Nhà thơ Đoàn Thị Tảo sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hải Phòng có tới 12 anh chị em. Nhưng ngay từ thuở nhỏ, hai chị em liền kề nhau Đoàn Thị Lê - Đoàn Thị Tảo là một cặp, đi đâu cũng có chị, có em. Lớn lên, khi chị gái Đoàn Lê vội vã bước vào cuộc hôn nhân đầu tiên và sớm có con gái đầu lòng khi vẫn còn đang học lớp Sân khấu - Điện ảnh đầu tiên của Việt Nam, em gái Đoàn Thị Tảo đã chia sẻ với chị nỗi vất vả này. Sinh con được 15 ngày, Đoàn Lê gửi con gái bé bỏng ở nhà cho em nuôi để đi theo đoàn làm phim. 

Nhắc tới nhà văn Đoàn Lê là người ta thường nhắc tới những câu thơ gan ruột đầy dự cảm của người em gái là Đoàn Thị Tảo tặng chị mình trong bài thơ "Cho một ngày sinh". Sau này, khi bài thơ "kết duyên" với nhạc sĩ Trọng Đài để thành những câu hát đầy ám ảnh được nhiều người yêu thích: "Ngày chị sinh trời cho làm thơ/ Vấn vương mấy sợi tơ trời/ Tình riêng bỏ chợ/ Tình người đa đoan...". Nhưng ít ai biết rằng, bài thơ đó cũng rất đúng với chính cuộc đời Đoàn Thị Tảo. Bao nhiêu năm qua, Đoàn Thị Tảo vẫn sống lặng lẽ bên cạnh người chị thành danh của mình với hai công việc chính: Làm bếp và làm thơ tình!

Còn nhớ, lần trước khi chúng tôi đến thăm hai chị em nhà văn Đoàn Lê và nhà thơ Đoàn Thị Tảo ở xóm núi Đồ Sơn (Hải Phòng), nhà thơ Đoàn Thị Tảo cũng đang cầm đôi đũa đứng nấu vừa bếp quay ra cười vang nói vui với khách: "Tử vi nói rằng mệnh tôi đóng ở cung... bếp. Cứ ở bếp là rất rực rỡ. Cứ được nấu ăn, được ngắm mọi người ăn ngon miệng là tôi thấy hạnh phúc rồi. Lắm khi chẳng cần ăn nữa!".

Đã mấy chục năm nay, chị Tảo lấy bếp lửa làm vui, lấy trang thơ làm nỗi niềm tâm sự. Còn nhớ chừng hai mươi năm trước, khi chị Đoàn Lê xách chiếc va ly toàn quần áo của mình rời Hà Nội trở về xóm biển Đồ Sơn, dưới chân núi Mẫu, hai chị em mua đất làm nhà. Chị gái Đoàn Lê viết văn và vẽ. Còn cô em Đoàn Thị Tảo sắm vai một người nội trợ tảo tần. Hai chị em, hai căn nhà nhỏ liền kề, sống nương tựa vào nhau lúc tuổi đã vào hồi xế bóng! Tuy chung mà lại rất riêng. Đêm đến mỗi người một cõi, mỗi người mỗi mộng. Sáng sáng trở dậy, em Tảo đi chợ nấu ăn sáng, rồi hai chị em uống cà phê, nói chuyện cũ, có những chuyện từ thuở ấu thơ, để rồi mỗi người lại một việc. Chị Đoàn Lê lại mải mê trên xưởng vẽ hoặc lên gác viết văn. Em thì dọn dẹp cửa nhà, chuẩn bị bữa trưa và có khi cảm xúc đến bất chợt lại ngồi vào bàn viết truyện, làm thơ.

Đoàn Thị Tảo cứ lặng lẽ sống và viết như thế bên cạnh người chị gái Đoàn Lê đã dư thừa sự nổi tiếng và cả những nỗi đắng cay trong cuộc đời. Hiện nay, Đoàn Thị Tảo đã in ba tập thơ có tên: "Lá rụng". "Lỡ", "Thu biển" và một tập truyện mang nhiều nỗi niềm tự sự là "Chín người mười làng". Chị cũng không ngại ngần khi nói ra sự thật của thơ: "Thơ tôi/ Bán: chẳng ai mua/ Cho: phiền người nhận/ Cất ráo vào lòng/ Thi thoảng/ Ngày - Rỡ tung ra hong/ Đêm- ủ men say mèm/ Một mình ngất ngư tới sáng..."... Thế nhưng, thơ như một thứ bùa mê, đã vận vào người khó lòng gỡ ra cho nổi. Làm thơ từ thuở tóc thề chấm vai (Bài thơ "Cho một ngày sinh" tặng chị gái, Đoàn Thị Tảo làm từ năm 18 tuổi), bây giờ tóc bạc da mồi, đi qua nhiều cung bậc buồn vui sầu khổ... chị vẫn chưa nguôi nỗi niềm tha thiết với thơ. Tuy nhiên đến nay, Đoàn Thị Tảo vẫn được mọi người nhớ đến và yêu mến nhiều nhất qua bài thơ "Cho một ngày sinh" viết tặng người chị gái yêu của mình.

Nhà thơ Đoàn Thị Tảo sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hải Phòng có tới 12 anh chị em. Nhưng ngay từ thuở nhỏ, hai chị em liền kề nhau Đoàn Thị Lê - Đoàn Thị Tảo là một cặp, đi đâu cũng có chị, có em. Lớn lên, khi chị gái Đoàn Lê vội vã bước vào cuộc hôn nhân đầu tiên và sớm có con gái đầu lòng khi vẫn còn đang học lớp Sân khấu - Điện ảnh đầu tiên của Việt Nam, em gái Đoàn Thị Tảo đã chia sẻ với chị nỗi vất vả này. Sinh con được 15 ngày, Đoàn Lê gửi con gái bé bỏng ở nhà cho em nuôi để đi theo đoàn làm phim.

Chị chia sẻ: "Nuôi trẻ nhỏ mà lại là nuôi bộ thì em biết vất vả thế nào rồi đấy. Mà thời đó khổ lắm, thiếu thốn đủ thứ, đường cũng chẳng có chứ đừng nói sữa. Cả hai đứa con gái chị Lê lúc bé đều một tay tôi nuôi. Sau này, lấy ông Tự Huy cũng khổ lắm, thiếu thốn đủ thứ. Tôi thường phải về nhà xin vàng của mẹ đem bán để "cứu trợ" cho chị ấy. Rồi sau này đến hai đứa cháu của chị Lê cũng do chị chăm bẵm từ lúc đón ở nhà hộ sinh về đấy!".

Nhiều người nói rằng, Đoàn Thị Tảo giống như một người... chị gái của Đoàn Lê hơn là một người em gái. Thế nhưng, chị vẫn vui vẻ: "Người ta biết chị Lê là biết Tảo, như vậy là sướng rồi!". Sau này, khi mẹ già ốm nằm liệt 13 năm trời, đang làm ở Phòng Kỹ thuật của Sở Giao thông Vận tải Hải Phòng, năm 1982 Đoàn Thị Tảo phải xin nghỉ giữa chừng để ở nhà chăm sóc mẹ. Đến khi mẹ mất, chị lại sang ở với các con gái của Đoàn Lê 10 năm để trông nom các cháu thay chị. Chừng ấy năm, với chừng ấy bộn bề, ngoảnh đi ngoảnh lại Đoàn Thị Tảo mới giật mình nhận ra: "Mải vui để lỡ chuyến đò/ Ngẩn ngơ trách bến, oán bờ, giận sông/ Cái duyên giá những bao đồng/ Bán đi thì tiếc cho không ngậm ngùi…".

Chị Tảo chưa một lần  được mặc áo cô dâu, chưa một lần được hưởng hạnh phúc làm mẹ, dù đã nuôi hơn chục đứa cháu - con của các anh chị em trong nhà. Thật đúng là "Tình riêng bỏ chợ/ Tình người đa đoan" như câu thơ chị viết tặng chị gái năm nào và cũng là để tặng mình luôn.

Dường như Đoàn Thị Tảo là con người sinh ra để dành cho gia đình, ấy vậy mà mái ấm hạnh phúc gia đình với chị vẫn suốt đời ngoài tầm tay với như chị đã từng gửi vào thơ: "Cái người tôi gọi là chồng/ Chẳng qua chút nghĩa đèo bòng mà thôi...". Chị Tảo tâm sự: "Đời tôi chưa một lần được lên xe hoa, nhưng mà có sống "già nhân ngãi, non vợ chồng" với một người...". Đến khi người đàn ông ấy qua đời cách đây hơn chục năm, chị lập một bàn thờ nhỏ trong ngôi nhà nhỏ khiêm nhường của mình để ngày ngày hương khói cho bớt phần quạnh quẽ. 

Đoàn Thị Tảo là người sống giản dị, nhường nhịn. Chị vẫn thường tự ví von mình với Vân dại, Thị Màu như một lối nói rất "cầu thị" về tình yêu đôi lứa và nỗi khát khao hạnh phúc riêng tư. Bởi vậy, nhà thơ Trinh Đường sinh thời từng có thơ tặng: "Không tình cờ anh bỗng đến thăm em/ Gặp cùng lúc cả Thị Màu, Vân dại/ Bỗng ước một lần và mãi mãi/ Cùng em đầu thai trong tiếng trống chèo..." (Với một Vân dại ngoài đời). Đây cũng là bài thơ được chị chọn để thay lời giới thiệu cho tập thơ thứ hai có tên rất ngắn là "Lỡ" và chất chứa nhiều nỗi niềm tâm sự của một tâm hồn thơ nồng đượm tình người.

Đoàn Thị Tảo nói rằng, chị tuổi Dậu (1945), lại đẻ lúc nửa đêm nên là người ấp ủ nhiều thứ, cứ như con gà mái xòa đôi cánh và mang hết hơi ấm phủ lên ổ trứng của mình đợi bình minh. Dẫu chỉ có một mình, nhưng chị Tảo vẫn chọn cách sống giữ lấy nền nếp, gia phong cho các em, các cháu có nơi đi về, có nơi mà thương nhớ. Đoàn Thị Tảo cứ sống bình lặng, tự mình "lẩn" vào chính mình, "lẩn" vào thơ để "nói chuyện" với thơ.

Cho đến bây giờ, Đoàn Thị Tảo vẫn là người chăm chút mọi việc trong gia đình riêng của hai chị em. Mọi việc giỗ chạp hương khói đều một tay chị Tảo lo cả. Chị biết rằng, chị Đoàn Lê là người của văn chương nghệ thuật chứ không phải là con người của bếp núc đời thường. Dường như Đoàn Thị Tảo sinh ra để bù đắp những phần còn thiếu hụt của người chị. Chị cứ sống lặng lẽ bên cạnh sự thành công, rực rỡ của chị, trở thành một cặp bạn già, cặp "tung hứng" ăn ý hiếm có. Giữa họ, không chỉ có tình chị em ruột rà mà còn có tình bạn bè, tình đồng nghiệp văn chương luôn có sự đồng cảm và họ luôn là độc giả đầu tiên của nhau. Đoàn Thị Tảo - Đoàn Lê thật như cặp bài trùng không thể tách rời.

Đã hai năm nay, sức khỏe chị gái - nhà văn Đoàn Lê yếu đi nhiều. Hiện chị Lê đang là bệnh nhân ngoại trú khoa Tim mạch của một bệnh viện ở Thủ đô, nên 2 chị em Đoàn Thị Tảo - Đoàn Lê đã phải bỏ phố biển Đồ Sơn lên ở với con cháu cho tiện chăm sóc nhau và thăm khám, dưỡng bệnh. Hai căn nhà nhỏ ở xóm núi đã phải cửa đóng then cài, mỗi tháng chị Đoàn Thị Tảo lại đón xe trở về một lần để quét dọn, lau chùi và lo phần hương khói. Chỉ trong năm ngoái, đã có 3 người thân trong gia đình họ ra đi, nỗi buồn mất mát khiến cho hai chị em đều cảm thấy chống chếnh. Một lần nữa họ lại tựa vào nhau để đi qua đoạn đường đời gập ghềnh nhiều biến cố của gia đình.

Cũng đã hai năm nay, nhà văn Đoàn Lê bị con cháu "cấm túc", không cho viết văn hay vẽ vời gì nữa, Đoàn Thị Tảo lại càng thương người chị suốt đời nương tựa vào văn chương nghệ thuật của mình hơn. Đã từ lâu, cả hai chị em họ có chung một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ hãi lớn nhất là một ngày nào đó hai người chỉ còn lại một người.

Chị Tảo tâm sự về nỗi sợ hãi mơ hồ ấy: "Hai chị em như hình với bóng, đi về có nhau, khách của chị cũng là khách của em, bạn của chị cũng là bạn của em. Nếu chỉ còn lại một người thì chắc là buồn khổ lắm. Vẫn biết trước sau gì ngày ấy cũng sẽ đến, nhưng sao cứ nghĩ đến là thấy chẳng thể cầm lòng...".