NHẶT VỤN (Trích theo Blog Văn Công Hùng)
5. Mình luôn hình dung, phàm là bí thư thì phải khác người, và té ra, hình
dung của mình là đúng. Nếu có thể, đề nghị bác bí thư này tặng vé xem
"Hồ Thiên nga" cho hội người mù luôn...
Trên thế giới có trường
hợp nhạc sĩ thiên tài Beethoven bị điếc, nhưng đấy là cá biệt, vô cùng cá biệt. Còn lại, phàm là
tranh, theo cách hiểu thông thường nhất của những người bình thường
nhất, thì nó là nghệ thuật của màu sắc và bố cục. Mà cả 2 thứ này thì đều
liên quan đến thị giác. Chả thế mà người ta gọi đây là nghệ thuật của
thị giác. Tặng tác phẩm nghệ thuật thị giác cho người khiếm thị, thì
theo cách hiểu thông thường nhất của người bình thường nhất, là cách chế
nhạo họ. Tất nhiên trong hàng nghìn người khiếm thị có thể có một vài
người thiên tài, xem được tranh, nhưng lại cũng là vô cùng cá biệt. Vậy
có nên lấy cái cá biệt để cho rằng nó là toàn thể không?
(Kha Duy : đảng csVN - đỉnh cao trí tuệ của loài người là điều không thể bàn cãi !)
4 tháng 8, 2015
3 tháng 8, 2015
BÚT MÁU
Được đăng bởi
Lyhong Tuan
vào lúc
16:11
Truyện răn dạy dân viết lách được biên bởi Vũ Hạnh. Còn Vũ Hạnh là ai thời anh biết đéo đâu hehe.
***
Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:
Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.
May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa.
Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Đến nhà, lậy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ.
Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:
- Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.
Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.
Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.
Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ.
Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.
Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.
Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Động biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thơ.
Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Đám đông có tiếng thì thào:
- Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!
Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.
Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.
Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.
Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?
Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.
Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đây:
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
- Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
- Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:
Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai.
Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.
May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa.
Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:
- Máu người tanh quá!
Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
Đến nhà, lậy cậu thưa lên:
- Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.
Người cậu giận lắm, bảo rằng:
- Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!
Lương Sinh cúi thưa:
- Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
Cậu nói:
- Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.
Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ.
Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:
- Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.
Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.
Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.
Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ.
Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.
Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.
Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Động biếc, thoáng cười tiên nữ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.
Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:
- Có người ám hại tiểu thơ.
Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.
Đám đông có tiếng thì thào:
- Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.
- Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.
- Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!
Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.
Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.
Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:
- Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.
Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.
Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.
Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.
Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.
Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.
Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.
Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:
- Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?
Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:
- Bác khóc thương thân quyến nào vậy?
Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:
- Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.
Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:
- Ông từ đâu mà đến đây:
- Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:
- Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.
Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:
- Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?
Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:
- Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".
Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:
- Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!
Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.
1 tháng 8, 2015
LƯU BÀI VIẾT
Làm
thế nào trong điều kiện đó, các cô gái trẻ dốt nát lại không cảm thấy
hãnh diện khi được vinh dự ngủ vài tiếng đồng hồ bên cạnh vị thánh sống ?
Việc này cũng như một lễ hiến tế tối thượng, và các cô sẵn sàng làm tất
cả để xứng đáng với niềm vinh hạnh lớn lao như thế. Tất cả những cô gái
này đều chưa chồng, vừa mới tròn hai mươi, hai mươi hai tuổi, và một
khi đã bị Mao chán chê thì cũng phải đợi đến khi chủ tịch cho phép mới
được lập gia đình.
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 9 năm 2012
Mao Trạch Đông và hàng ngàn thê thiếp (1)
![]() |
Bìa sách "Tình dục, dối trá và chính trị" của Pierre Lunel |
LND
: Tác phẩm « Tình dục, dối trá và chính trị » - Những kẻ bị ám ảnh đang
lãnh đạo chúng ta – của tác giả Pierre Lunel, nhà xuất bản L’Archipel,
Paris 2012 – gồm có ba phần. Phần đầu « Các nhà độc tài » viết về
Stalin, Mussolini, Mao Trạch Đông và Bokassa. Phần hai về các lãnh đạo ở
Mỹ : Kennedy, Bill Clinton, Arnold Schwarzennegger, và phần thứ ba dành
cho châu Âu : Mitterand, Giscard d’Estaing, Berlusconi, Chirac, DSK.
Pierre Lunel là cựu hiệu trưởng trường đại học Paris 8, tác giả nhiều đầu sách tiểu sử và biên khảo sử học.
Thụy
My xin giới thiệu một phần chương sách « Mao Trạch Đông và hàng ngàn
thê thiếp » trong tác phẩm trên, đã tạm lược bỏ 8 trang đầu nói về những
người vợ của Mao là Dương Khai Tuệ (Yang Kaihui), Hạ Tử Trân (He
Zizhen), Giang Thanh (Jiang Qing).
![]() |
Mao vẫn tiếp tục ngự trên quảng trường Thiên An Môn. |
…Mao
có tính cách giản đơn của các tên tuổi lớn. Đa số thời gian, ông xử lý
các vấn đề của Trung Quốc trên chiếc giường gỗ rộng mênh mông mà ông vẫn
mang theo khi di chuyển, hay bên cạnh hồ bơi riêng. Ông ta có thể không
mặc quần áo suốt nhiều ngày.
Mao
rất thích các hồ bơi và những món ăn mỡ màng, ngập trong dầu béo ngậy.
Ông ta không bao giờ đánh răng, chỉ súc miệng với nước trà. Mao không
bao giờ tắm, mà vệ sinh thân thể bằng cách bắt những người tình một đêm
dùng khăn nóng chà lên người mình. Bị chứng mất ngủ, ông có thể thức
trắng nhiều đêm, và các cán bộ của ông phải chuẩn bị tinh thần để bị
triệu đến lúc hai, ba giờ sáng. Làm việc với Mao thì cứ phải khỏe như
vâm.
Hai
mươi năm trước khi qua đời, Mao rất tự hào là một tay bơi giỏi, ông có
hai hồ bơi trong dinh thự của mình. Một hồ ngoài trời thì các nhân viên
có thể sử dụng, còn hồ kia có mái che, trên nguyên tắc được dành cho các
lãnh đạo cao cấp của Đảng. Nhưng dần dần các vị này thôi không sử dụng
nữa, và hồ bơi này trở thành một thứ tài sản riêng của Mao. Vì ông ta
dành nhiều thời gian ở đây, rốt cuộc người ta đã phải xây dựng cho Mao
một căn hộ ở ngay bên cạnh với phòng khách, phòng làm việc và phòng ngủ.
Chính
tại đây mà Mao Trạch Đông đã tiếp Tổng thống Mỹ Nixon và hàng loạt
nguyên thủ quốc gia khác. Cuối cùng người ta bèn gọi dinh thự của Mao là
« hồ bơi » cho nó gọn và xác thực.
Suốt
ngày hầu như ông ta lững thững chỉ với chiếc áo choàng tắm khoác hờ
trên người, để lộ bờ vai lực lưỡng và chiếc bụng to tướng. Mao có nước
da trắng đẹp, khuôn mặt đầy đặn luôn nở nụ cười, mái tóc đen dày.
Mao
vẫn giữ thói quen nông dân. Khi phải mặc đồ, ông ta tròng vào bộ quần
áo cũ mèm và đôi giày cà tàng. Bộ trang phục « kiểu Mao Trạch Đông » nổi
tiếng và những đôi giày bóng lộn được dành cho những dịp long trọng.
Chính trong cái bộ dạng kỳ khôi đó mà Mao đã lãnh đạo đất nước Trung
Quốc.
Khi
không có việc gì buộc phải ngồi dậy, ông ta nằm ườn trên chiếc giường
gỗ « khủng », kích thước to gấp đôi một chiếc giường đôi thông thường.
Người khách nào có óc quan sát có thể để ý thấy cái góc giường mà Mao
dựa lưng cao hơn khoảng mười phân. Nếu có ai liều lĩnh đặt câu hỏi, sẽ
được nghiêm chỉnh trả lời là đóng cao hơn để tránh cho khi ngủ mê không
bị té xuống giường. Nhưng thật ra chỉ là nhảm nhí – gờ giường đóng cao
theo yêu cầu của Mao để cho những trận bão tình ái được thuận tiện.
Mao
« tán » các con mồi qua những buổi tối khiêu vũ, đây là một điều đặc
biệt. Nhảy đầm đã bị Cách mạng cấm vì cho là lối sống suy đồi, và tất cả
các sàn khiêu vũ đều bị chính thức đóng cửa. Thế nhưng Mao hàng tuần
vẫn tổ chức những đêm khiêu vũ, tại sảnh Xuân Liên rộng mênh mông, không
xa căn hộ của Mao là mấy.
Khi
Mao vừa tới nơi khiêu vũ, là hàng chục thiếu nữ liền bổ nhào đến, năn
nỉ ông nhảy với mình một bản. Mao nhảy một cách nặng nề, nhưng điều đó
có nghĩa lý gì đối với các cô gái muốn được thần tượng chú ý bằng mọi
giá. Các cô được những người thân cận của Mao tuyển lựa từ các đội văn
công, theo tiêu chuẩn có ngoại hình đẹp và trung thành về mặt chính
trị.
Mao
nhanh chóng cho đặt một trong những chiếc giường size « khủng » của ông
ta trong một căn phòng giáp với phòng khiêu vũ. Sau khi nhảy được vài
ba bản, đại đế Mao tỏ ý muốn nghỉ ngơi, nắm lấy tay một trong những cô
gái hơ hớ tuổi xuân này và đưa vào phòng. Ông ta chỉ ra khỏi phòng chừng
hai tiếng đồng hồ sau đó, đa phần là với vẻ hài lòng vì đã được cô gái
phục vụ tận tình.
Mao
luôn bị ám ảnh với ý nghĩ một ngày nào đó sẽ bị mất đi khả năng tình
dục. Khi các bác sĩ báo cho biết là ông ta đã trở nên vô sinh, Mao trả
lời một cách xúc động :
- Thế là tôi đã thành hoạn quan rồi à !
Các
bác sĩ phải hết lời trấn an, nói rằng tuy « tinh binh » của Mao không
bình thường, nhưng không hề ảnh hưởng gì đến năng lực tình dục cũng như
ham muốn.
Thực
ra Mao chẳng hề quan tâm đến việc vô sinh, nhưng sợ hãi khi nghĩ đến
khả năng bị bất lực, nhất là khi ông ta mang nặng trong đầu ám ảnh là
năng lực làm tình sẽ chấm dứt vào tuổi sáu mươi. Đến tuổi này, ông ta có
đôi khi bị trục trặc, nên thường cho tiêm truyền chất bột nhung hươu,
mà tương truyền theo đông y là món thuốc cường dương đại bổ. Nhưng thấy
nhung hươu không giúp giải quyết được vấn đề, Mao bèn ngưng sử dụng và
quay lại với tây y - nói chung, ông ta không tin tưởng vào đông y.
Mao
muốn được lưu danh theo truyền thống các hoàng đế Trung Quốc, đặc biệt
là một vị theo truyền thuyết đã trở nên trường sinh bất tử nhờ quan hệ
với một ngàn thiếu nữ đồng trinh. Ông ta hy vọng theo gót được vị tổ sư
này. Không tin mấy vào năng lực tự nhiên, Mao say mê thu thập tất cả
những tin tức từ phương tây hay những nơi khác, loan báo việc phát hiện
các loại dược liệu giúp hoạt động tình dục cho đến chín mươi tuổi.
Trong
khi chờ đợi thần dược ra đời, Mao nhồi nhét vào người đủ loại nhân sâm
và đưa lên giường một số lượng đáng nể các cô thiếu nữ. Dù sao thì ông
ta vẫn cho rằng đi ngủ và tắm rửa là lãng phí thời gian.
Mời đọc thêm:
Mao Trạch Đông và hàng ngàn thê thiếp (2)
![]() |
Ảnh chân dung mới của Mao Trạch Đông được treo lên Thiên An Môn ngày 28/09/2012. |
Nếu
làm tình là thú tiêu khiển hàng đầu đối với Mao, thì ngược lại ông ta
không yêu mến ai cả. Mao không có khả năng yêu thương lẫn cảm tình. Cũng
có thể do ông ta đã chứng kiến quá nhiều thảm kịch và cái chết trong
đời. Người vợ thứ hai, Dương Khai Tuệ bị Quốc dân đảng xử bắn, cũng như
hai người em trai của ông. Nhiều người con của Mao đã chết trong cuộc
Trường Chinh. Tất cả những bi kịch này làm Mao Trạch Đông trở nên sắt
đá.
Trong
thâm tâm, Mao hài lòng đã sống sót được qua nhiều nghịch cảnh, mà theo
ông ta đó là dấu hiệu cho thấy mình sẽ trường thọ. Ông đã chứng tỏ trái
tim sắt thép qua tất cả những hành động trong đời sống thường ngày, theo
gương những hoàng đế Trung Hoa tồi tệ nhất. Chẳng hạn như Trụ vương đời
nhà Thương, vị hôn quân thích trưng bày cái xác bị tùng xẻo của các nạn
nhân, đổ đầy rượu vào hồ bơi, có hàng ngàn nàng hầu vây quanh. Hoặc Tùy
Dạng Đế (Sui Yangdi), một trong những bạo chúa tệ hại nhất trong lịch
sử Trung Hoa, đã bắt những cô gái trẻ đẹp phải kéo thuyền rồng đi ngược
gió bằng những dải lụa.
Một bằng chứng cho sự tàn bạo của Mao Trạch Đông, lịch sử đặc biệt ghi nhận câu trả lời của ông ta trước Nehru :
- Chúng
tôi chẳng việc gì phải sợ bom nguyên tử cả. Nếu ai tấn công tôi bằng
bom nguyên tử, thì tôi có thể trả đũa tương tự. Mười triệu hay hai chục
triệu người chết cũng chẳng ăn nhằm gì đối với chúng tôi !
Nehru không phải từ bi hỉ xả gì, nhưng cũng phải dựng tóc gáy khi nghe câu nói của Mao coi mạng người như ngóe.
Không
một điều gì có thể làm Mao xúc động. Trong chiến dịch Đại nhảy vọt,
nhiều triệu người dân nông thôn đã chết đói, nhưng ông ta vẫn ăn ngon
ngủ yên. Ngay cả đối với người thân trong gia đình cũng thế. Chỉ cần kể
ra đây thái độ đối với chính người con trai lớn của Mao.
Mao
Ngạn Anh (Mao An Ying) tử nạn ngày 25/11/1950, trong cuộc chiến tranh
Triều Tiên đã làm cho khoảng 400 ngàn người Trung Quốc thiệt mạng. Ngạn
Anh đã lấy vợ trước đó một năm và vợ anh, Lưu Tư Tề (Liu Xi Qi), từ vài
năm qua vẫn được xem như là con gái nuôi của Mao Trạch Đông. Ông ta
thích cô đến nỗi tỏ ra vô cùng giận dữ khi nghe tin Ngạn Anh và Tư Tề
đính hôn. Sự thực đằng sau cơn thịnh nộ này là: Lưu Tư Tề hết sức xinh
đẹp, và Mao ghen với người con trai sẽ được ngủ với cô. Ông ta cản trở
việc tổ chức đám cưới với những cái cớ kỳ lạ, chẳng hạn như phải chờ đến
lúc tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc ngày
01/10/1949…Khi nghe tin con trai mình tử thương, Mao phát biểu câu này
thay cho lời ai điếu :
- Đã là chiến tranh làm sao không có người chết cho được ?
Ông
ta không tỏ ra buồn phiền một chút nào, không hề nhỏ một giọt nước mắt.
Tư Tề suốt một thời gian dài vẫn không hay biết về cái chết của chồng,
và cuối cùng khi cô chất vấn Mao Trạch Đông về vấn đề này, ông ta trả
lời là Ngạn Anh đã chết. Lưu Tư Tề kề cận cha chồng gần như hàng ngày
trong suốt hai năm rưỡi trời, nhưng chưa bao giờ thấy Mao tỏ vẻ u sầu.
Thậm chí ông ta còn nói đùa với cô về Ngạn Anh, như là con trai vẫn còn
sống…
![]() |
Lưu Tư Tề và Mao Ngạn Anh |
Kể
từ năm 1958, trong cơn say Đại nhảy vọt, Mao trở nên ít kín đáo hơn
trong cuộc sống riêng tư. Cho đến nỗi nhiều người đều biết về cách sống
xa hoa, phóng đãng của ông ta, về những tòa biệt thự nằm rải rác khắp
đất nước Trung Quốc, và về việc cung cấp gái đẹp mà chính Mao gọi là «
tuyển lựa cung phi ». Các nữ nghệ sĩ trẻ của các đội văn công tham gia
các buổi dạ vũ, cạnh tranh với nhau để làm đẹp lòng Mao, và kết thúc
bằng việc qua đêm với ông ta. Các cô ganh tị lẫn nhau, cô nào được Mao
nắm tay dẫn vào phòng ngủ trở thành mục tiêu bị các cô khác thù ghét.
Một
hôm – và đây là lần duy nhất trong đời – Giang Thanh đã làm ầm ĩ lên
với Mao. Ông ta phản ứng bằng cách cấp tốc ra khỏi phòng. Giang Thanh
nhanh chóng hối hận vì cơn nóng giận này, và gởi đến Mao lời xin lỗi.
Ông ta chỉ nhún vai. Có nghĩa lý gì, vài cô hầu thiếp dành cho con người
quyền lực nhất, nhà sáng lập nước Trung Hoa cộng sản ?
Từ
đó Mao hoàn toàn yên ổn, không hề bị bà vợ chua ngoa chỉ trích. Ông ta
cũng không còn giấu diếm việc đi lại thường xuyên với các cô gần như là
gái gọi hạng sang. Thỉnh thoảng lại có một trong số những cô gái này,
nhờ quyến rũ hơn, đã được nâng cấp : thay vì là người tình một đêm, được
ân sủng trở thành quý phi.
Người
đầu tiên giành được vị trí ưu tiên này là một nữ nhân viên trẻ của Cơ
mật viện - một cô gái tuyệt đẹp có làn da trắng như tuyết, đôi mắt sáng
và cặp chân mày xinh như vẽ. Cô ta không thèm giấu diếm gì với Giang
Thanh, và còn tìm cách làm thân với bà. Giang Thanh, được nịnh hót và
vẫn còn áy náy vì mới đây đã nổi nóng với Mao, vui vẻ chấp nhận sự hiện
diện của cô ta. Bà tự hứa với chính mình là sẽ không gây sự với chồng vì
chuyện các cô bồ của ông ta nữa.
![]() |
Mao Trạch Đông và Giang Thanh, năm 1949 |
Những
người thân tín của Mao luôn tìm cách làm vui lòng ông ta. Ban đầu mỗi
tuần chỉ có một đêm dạ vũ, nhưng sau đó họ nhanh chóng thấy rằng để
chiều lòng chủ tịch thì như thế chưa đủ. Thế là từ một buổi dạ vũ trở
thành hai buổi mỗi tuần, có nghĩa là số cung phi dành cho Mao phải tăng
gấp đôi. Tất cả các đoàn văn công đều phải đóng góp vào. Sự chăm sóc này
không phải là quá đáng, vì chủ tịch càng cao tuổi thì ham muốn tình dục
lại tăng lên. Năm đó Mao đã 67 tuổi.
Khi
phải nhận lãnh những ngón đòn chính trị và bực tức trước những lãnh đạo
cao cấp khác của Đảng, Mao nằm lì suốt nhiều ngày và chỉ ra khỏi giường
để dự dạ vũ. Ông ta thường xuyên nhảy nhót cho đến hai giờ sáng, rồi
sang phòng bên cạnh « nghỉ ngơi » với các « đối tác ». Không một tiếng
động nào lọt ra khỏi căn phòng có cánh cửa bọc vải dày. Những cô gái
được chọn lựa không hề phàn nàn, mà hoàn toàn ngược lại.
Chưa
bao giờ, ngay cả trong những giấc mơ điên rồ nhất, các cô có thể tưởng
tượng ra có ngày lại được phục vụ cho thú vui nhục cảm của vị thượng đế
được hàng trăm triệu người tôn sùng. Rất ít người từ chối đề nghị của
chúa tể Trung Quốc. Có thể chỉ có vài cô y tá hay phụ nữ hơi cứng tuổi.
Cô y tá nào từ chối thì đó là vì đạo đức nghề nghiệp không cho phép lẫn
lộn vai trò, còn phụ nữ lớn tuổi thì do mắc cỡ khi phải gia nhập hậu
cung gồm toàn các thiếu nữ tuổi xuân hơ hớ. Còn tất cả những cô gái khác
đều phát cuồng vì Mao, và sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi dù có quá
quắt của ông ta.
Hầu
hết là những cô gái rất nghèo khó. Chẳng hạn cô Lưu từng đi ăn xin trên
đường phố cùng với mẹ, cô Chu là trẻ mồ côi. Thường thì cha mẹ các cô
này, đã qua đời, được xem là « liệt sĩ cách mạng ». Nhiều cô không được
học hành gì cả, và trở thành diễn viên múa nhờ có Đảng. Các đoàn văn
công đầy dẫy những thiếu nữ loại này, được tuyển mộ nhờ ngoại hình
chuẩn, để giúp người của các cán bộ cao cấp trong Đảng giải trí.
Các
cô được lên giường với Mao là « hàng tuyển trong số hàng tuyển », cho
dù chỉ vài tiếng đồng hồ. Điều này chỉ có thể hiểu được nếu chúng ta nhớ
lại nạn thần thánh hóa Mao Trạch Đông. Sự xuất hiện của Mao trong những
dịp lễ lạc trang trọng, oai vệ như một bức tượng đại đế tại quảng
trường Thiên An Môn, là một kỷ niệm không thể quên đối với mỗi người
tham dự. Chưa nói đến những người được đặc ân có một không hai là bắt
tay với Mao, họ không rửa ráy trong nhiều tuần lễ để giữ trên người loại
« nước thánh ». Có thể nói, Mao gần như một huyền thoại, và còn được
yêu mến và kính trọng hơn cả các đại đế Trung Hoa.
Mao Trạch Đông và hàng ngàn thê thiếp (3)
![]() |
Ảnh Mao Trạch Đông luôn ngự trên Thiên An Môn. |
Đôi
khi Mao cũng ngạc nhiên vì các cô gái không coi ông ta là một người đàn
ông, mà như Thượng đế. Điều ấy làm Mao bật cười, nhưng cái chính không
phải ở đó. Các thiếu nữ này phải chứng tỏ họ xứng đáng với ham muốn của
Mao, vốn chừng như không giảm sút đi với thời gian.
Gần
đến tuổi bảy mươi, Mao có vẻ đã nói lời vĩnh biệt với chứng bất lực mà
trước kia vẫn làm ông ta khiếp sợ mỗi khi nghĩ đến nguy cơ này. Trở
thành tín đồ nhiệt thành của các phương pháp làm tình theo tinh thần Lão
giáo, xem hành vi tình dục là nghi lễ phù hợp với luật âm dương của
trời đất để trường thọ, Mao cần những thiếu nữ có đủ điều kiện tham gia
và tỏ ra xuất sắc trong lãnh vực này.
Từ
đó, chiếc giường size « khủng » của Mao đón tiếp có thể đến một tá cô
gái cùng một lúc. Thực tế, quan niệm Lão Tử chỉ là cái cớ cho tính dâm
dục tự nhiên của ông ta. Những điều mà các người tình một đêm này cho là
hạ cấp đối với những người đàn ông khác, thì với Mao lại được coi là
tuyệt vời, và các cô tự hào kể lại những kỳ tích của Mao.
Các
cô gái không ngần ngại học hỏi kỹ năng làm tình để đáp ứng được những
đòi hỏi trớ trêu của ông ta, vì thật là tệ hại nếu không phục vụ được
ngang tầm. Cô nàng đó sẽ bị loại ngay lập tức, trong khi có hàng tá cô
gái khác đang chầu chực ngoài cổng. Một trong số các cô, một hôm đã ngây
ngất thổ lộ :
- Tất cả những gì ông ấy làm hết sức tuyệt vời, đê mê !
Ở tuổi bảy mươi, Mao vẫn cảm thấy cường tráng, mà ông ta cho rằng đó là nhờ hoạt động tình dục có thể sánh vai với Sardanapale (một vị vua thời cổ đại chỉ thích khoái lạc – ND). Mao thích làm tình hơn tất cả mọi thứ trên đời, cũng như các cô gái trẻ xinh xắn, đặc biệt là các trinh nữ.
Người
ta đưa các cô đến phục vụ cho Mao như là thức ăn hàng ngày, tuyển lựa
dựa theo các tiêu chuẩn cụ thể : phải thật đẹp và xuất thân từ thành
phần vô sản. Mao chúa ghét những phụ nữ tinh tế, học thức và ở lứa tuổi
chín chắn. Những cô gái trúng tuyển choáng ngợp trước vinh dự này.
Người
cầm lái vĩ đại thực sự là một con sư tử trong lãnh vực tình dục. Cho
đến lúc chết, cuộc sống riêng tư của Mao là một loạt những cuộc truy
hoan. Đó là thú vui duy nhất của ông ta, và Mao tiêu thụ một số lượng
thiếu nữ không thể đếm xuể.
Sự
ham mê sắc dục của Mao không chỉ giới hạn ở những cô gái trẻ. Ông ta
cũng thích các thanh niên đẹp trai lực lưỡng, như đa số các nam nhân
viên phục vụ vẫn thường xuyên phải đấm bóp cho ông dễ ngủ. Mao đòi hỏi
các chàng thanh niên này phải xoa bóp cả bộ phận sinh dục của ông ta
nữa. Và cũng không ít trường hợp khi đã được làm nóng, Mao lại vuốt ve
bộ phận kín của chàng trai. Đây không hẳn là khuynh hướng đồng tính
luyến ái, nhưng đúng ra là một nhu cầu tình dục mãnh liệt dưới mọi dạng
thức.
Đương
nhiên không phải là đơn giản khi để cho bằng ấy thiếu nữ có ngoại hình
hoàn hảo sống cùng một mái nhà với các chàng trai đẹp « lung linh ». Đội
ngũ cận vệ gồm đủ loại người, trừ các hoạn quan, và họ không ngần ngại
buông lời trêu hoa ghẹo nguyệt với các cô gái tuổi đôi mươi này. Nhưng
hãy coi chừng cơn thịnh nộ của vị chúa tể…Mao không ưa người khác đi săn
trên lãnh địa của mình, và đã có nhiều người học được bài học đắt giá.
Có
vài ba lần Mao say đắm tài năng của một trong số các tì thiếp cho đến
nỗi không cho cô ta kết hôn, khi cô phải lòng một anh chàng đẹp trai.
Thế là nhiều nhân chứng đã phải chứng kiến những vụ cãi cọ chẳng khác
ngoài chợ. Một cô ái phi khác thì dần dà có ảnh hưởng lớn đến mức cô ta
tự cho phép mắng Mao sa sả. Nhưng cô này làm tình rất nghệ thuật cho nên
Mao bỏ qua tất cả. Hơn nữa cô ta còn giới thiệu với Mao một lô một lốc
các người đẹp trong gia đình mình, cô sau lại còn đẹp hơn cô trước.
Vào
thời kỳ đó, cuộc sống tình dục của Mao Trạch Đông gần như trở thành
quan hệ gia đình. Ông ta nhanh chóng sủng ái một trong các cô em của cô
bồ đương nhiệm, và cô này đương nhiên bị hất cẳng. Cô em đã có chồng,
nhưng điều này có can hệ gì…Một buổi tối, Mao mời cả gia đình đến ăn
tiệc. Lúc đến món tráng miệng, ông ta bất thần nảy sinh ham muốn. Mao
yêu cầu anh chồng đi nơi khác để có thể « chăm sóc » cô vợ. Đương nhiên
là người chồng chẳng dám hé miệng, thậm chí còn cho rằng việc vợ mình
được Mao chọn lựa là một sự ưu ái. Mao ưa thích các phụ nữ trong gia
đình này cho đến nỗi ông ta có thể ngủ cả với người mẹ nếu bà còn sống…
**
Thời
gian càng trôi đi, các người tình của Mao càng trở nên ngạo mạn. Hãy
còn vô tư lúc mới gặp gỡ, chỉ cần được vời đến nhiều đêm trên giường của
Mao là những người đẹp này bỗng trở thành những cô ả đanh đá. Đa số vô
học, nên các cô nhanh chóng trở nên kiêu căng. Những người đẹp này ngu
ngơ cho đến mức khi bị lây nhiễm căn bệnh hoa liễu, vốn không có lý do
gì mà không ập đến chốn thanh lâu này, các cô còn tỏ ra hãnh diện vì
được Mao Trạch Đông lây bệnh cho. Những thiếu nữ này xem đó là một niềm
vinh hạnh, và nhất là, đây là bằng cớ chứng tỏ mình đã được ngủ với Mao.
Khi
phải chữa trị cho nhân vật là nguồn gây lây lan bệnh, thì lại là chuyện
khác vì Mao không bị ảnh hưởng gì, cho rằng đây là điều vô bổ. Các bác
sĩ cảnh báo nguy cơ :
- Thưa chủ tịch, điều gì sẽ xảy ra nếu đến lượt phu nhân Giang Thanh của ngài cũng bị lây bệnh ?
Mao cười lớn :
- Điều
đó chẳng bao giờ xảy đến đâu ! Tôi không quan hệ tình dục với bà ấy từ
đời nảo đời nào rồi…Tôi bảo với bà ấy là tôi già quá rồi, không thể làm
tình được nữa.
Nguy cơ lây truyền bệnh hoa liễu lại càng cao hơn vì Mao không bao giờ tắm rửa. Kể cả rửa « cái ấy ». Ông ta cười hô hố :
- Tôi rửa nó trong cơ thể phụ nữ rồi !
Hậu
quả là Mao Trạch Đông mang trong người vi trùng hoa liễu cho đến cuối
đời, và tiếp tục lây nhiễm căn bệnh cho hàng mấy trăm thiếu nữ…
(Theo Thụy My RFI)
(Theo Thụy My RFI)
27 tháng 7, 2015
Bộ trưởng Phùng Quang Thanh dự chương trình 'Khát vọng đoàn tụ'
20h10
ngày 27/7, Đại tướng Phùng Quang Thanh tham dự chương trình giao lưu
nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” nhân dịp kỷ niệm 68 năm Ngày Thương binh
liệt sĩ.
Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng và Bộ trưởng Phùng Quang Thanh (thứ hai bên phải) tham dự chương trình. Ảnh: Quang Dũng.
|
Chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” nhân kỷ niệm 68
năm Ngày Thương binh liệt sĩ (27/7/1947) được tổ chức tại hội trường Bộ
Quốc phòng, truyền hình trực tiếp trên VTV1 và kênh Truyền hình quốc
phòng Việt Nam.
Đến hội trường trước giờ bắt đầu chương trình vài phút, Bộ trưởng Phùng
Quang Thanh bước đi khoẻ khoắn và tươi cười bắt tay thăm hỏi mọi
người.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng
Quang Thanh, Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, Phó thủ tướng Vũ Đức
Đam...và gần 500 đại biểu là lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các mẹ Việt Nam
anh hùng, các đội quy tập hài cốt liệt sĩ tham dự chương trình.
Khi giới thiệu đến Bộ trưởng Phùng Quang Thanh, tiếng vỗ tay giòn giã hội trường, ông đứng dậy chào mọi người.
Đại biểu Đảng, Nhà nước, các mẹ Việt Nam anh hùng, đội quy tập hài cốt liệt sĩ...tham dự chương trình. Ảnh: Quang Dũng.
|
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước gửi lời
thăm hỏi ân cần đến các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các thương binh, bệnh
binh. Chủ tịch nước bày tỏ sự tri ân đến những chiến sĩ đã hi sinh ở
khắp các chiến trường để bảo vệ độc lập, tự do của đất nước.
Khẳng định Đảng, Nhà nước đã quan tâm, hỗ trợ thương bệnh binh có cuộc
sống tốt hơn, tổ chức nhiều đội quy tập để tìm kiếm và đưa hài cốt các
liệt sĩ trở về quê hương, nhưng Chủ tịch nước cũng cho rằng, chưa thể
yên lòng khi cuộc sống của một số người có công với nước còn gặp nhiều
khó khăn, việc chữa trị những vết thương do chiến tranh để lại, việc
chăm lo đời sống, việc làm cho con em thương binh có nơi còn chưa chu
đáo, nhiều hài cốt liệt sĩ còn chưa tìm được và chưa xác định được danh
tính.
"Điều đó để lại nỗi khắc khoải trong lòng người thân và mỗi chúng ta.
Tôi đề nghị các cấp các ngành, cùng đồng bào cả nước thực hiện tốt hơn
nữa công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có
công với đất nước, tiếp tục việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ và tu bổ các
nghĩa trang", Chủ tịch nước nói.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bắt tay Bộ trưởng Phùng Quang Thanh. Ảnh: Quang Dũng.
|
Kết thúc phần phát biểu, Chủ tịch nước đi xuống, bắt tay Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh.
"Khát vọng đoàn tụ" là chương trình tri ân các anh hùng liệt sĩ, thương
binh, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng; tôn vinh các Đội quy
tập mộ liệt sĩ; cơ quan, đơn vị, địa phương trong hoạt động tìm kiếm,
quy tập hài cốt liệt sĩ. Chương trình do Ban chỉ đạo Tìm kiếm hài
cốt liệt sĩ phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam và Trung tâm Phát
thanh - Truyền hình Quân đội tổ chức.
Chương trình được dàn dựng đặc biệt bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn của 5
lớp kịch dựa vào các câu chuyện có thật trên nền những tác phẩm âm nhạc
và phóng sự. Các lớp kịch gồm: Trước giờ ra trận; khát vọng đoàn viên;
lên đường đi tìm liệt sĩ; đồng đội đưa liệt sĩ trở về với mẹ; hoạt cảnh
quy tập hài cốt liệt sĩ.
Trước đó sáng 25/7, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh về nước sau một tháng chữa bệnh liên quan đến phổi ở Paris, Pháp. Trong thời gian ông chữa bệnh, ngày 20/7,
hãng DPA (Đức) đăng lên website bản tin cho rằng Bộ trưởng đã qua đời
tại bệnh viện. Thông tin này ngay lập tức bị Phó tổng tham mưu trưởng
Quân đội nhân dân Việt Nam - Trung tướng Võ Văn Tuấn bác bỏ. Bộ Ngoại
giao Việt Nam yêu cầu hãng phải cải chính thông tin sai sự thật trên.
Hơn nửa ngày sau, DPA thay thế bằng bản tin mới dẫn lời trung tướng Võ
Văn Tuấn cho biết sức khỏe của Bộ trưởng Thanh ổn định sau ca phẫu thuật
tại Bệnh viện Georges Pompidou.
Hoàng Thuỳ
25 tháng 7, 2015
NHỮNG NGƯỜI QUAN TÂM ĐẾN VẬN MỆNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NỨỚC MÀ KHÔNG ĐỌC BÀI NÀY THÌ HƠI BỊ PHÍ

Từ bao giờ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới xấu xa và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mới đẹp đẽ như thế?
Đối với người Việt Nam khi đó, mọi hành động của Mỹ đều đen tối, có động cơ không đàng hoàng; và vì thế mọi thế lực đối nghịch với Mỹ đều anh hùng, cao thượng. Dù có là khủng bố giết chết dân thường đi nữa, thì nước Mỹ cũng xứng đáng phải chịu hậu quả như vậy.
Trên cái đà đó, đương nhiên cuộc chiến Afghanistan để tiêu diệt Taliban của Mỹ cũng xấu xa, cuộc chiến Irag năm 2003 càng dơ bẩn. Chiến dịch tiêu diệt Saddam Hussein của Mỹ được thông tin đến nhân dân Việt Nam chỉ đơn giản là Mỹ muốn chiếm nguồn dầu mỏ của quốc gia Trung Đông.
Bin Laden và Saddam Hussein xuất hiện trên báo Việt Nam như những vị lãnh tụ vĩ đại khi bắt đầu cuộc chiến rồi như những con người thất thế đáng thương khi thua trận.
Không ai bận tâm tìm hiểu những người này thế nào, vì cứ chống lại Mỹ là tốt. Bin Laden tốt, Saddam Hussein tốt, Iran tốt, Triều Tiên tốt, Fidel Castro quá tốt, Putin cực tốt, và tất nhiên: Trung Quốc ít nhất cũng tốt hơn Mỹ.
Bin Laden và Taliban bị khinh bỉ như một bọn khủng bố man rợ, Saddam Hussein phạm tội diệt chủng, Triều Tiên không biết thương dân dân nghèo đói để phát triển vũ khí hạt nhân… tất cả đều là những thể chế độc tài, lạc hậu…
Putin mới đây vẫn còn là người hùng bỗng vụt biến thành một kẻ độc ác. Vụ máy bay MH17 bị bắn rơi năm ngoái đến nay vẫn chưa xác định được thủ phạm, nhưng rất nhiều người Việt Nam không ngần ngại khẳng định rằng Putin là kẻ chủ mưu chứ chẳng phải ai vào đây. Nếu sự kiện Nga sáp nhập Crimea diễn ra vào khoảng 10 năm trước chắc sẽ được ủng hộ nhiệt tình, nhưng nay người Việt coi đó là một trò hề.
Ngay đến cả cuộc khủng hoảng Hy Lạp mà truyền hình trong nước đưa tin hướng người xem nghĩ đến việc châu Âu đang chèn ép Hy Lạp, phần lớn mọi người vẫn tự tìm hiểu để biết rằng: đó là hậu quả của việc làm ít chơi nhiều.
Người Việt không còn hả hê với việc Iran và Cuba chống Mỹ đến cùng nữa, mà hồ hởi vì họ phải xuống nước để làm lành với phương Tây.
Thật ra thì việc Trung Quốc có những hoạt động trên biển có lẽ không phải chờ đến lúc đấy, nhưng đó là thời kỳ bùng nổ Internet ở Việt Nam nên mọi thứ không thể giấu giếm thêm được nữa.
Người Việt khi đó mới ngỡ ra rằng: nước mình chẳng mạnh mẽ gì, và Trung Quốc chứ chẳng phải Mỹ mới là kẻ thù thâm độc nhất.
Người Việt luôn tin tưởng vào vai trò “Canh giữ hòa bình thế giới” của mình và người anh em Cuba, cho đến khi bị Trung Quốc đe dọa, chúng ta mới biết rằng Việt Nam không có khả năng bảo vệ ai hết.
Rồi hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Tại sao nước mình lại nghèo thế, tại sao vị thế lại kém thế… Niềm tin vào những thứ vĩ đại mơ hồ trước đây đã lung lay. Và công cuộc tự tìm kiếm thông tin bắt đầu. Khi biết những chuyện như Hoàng Sa đã mất vào tay Trung Quốc mà bao năm xem dự báo thời tiết vẫn tưởng là còn của mình, người dân nhận ra có rất nhiều sự thật khủng khiếp vẫn được giấu kín.
Trước đó người Việt không có nhu cầu tìm hiểu và bác bỏ mọi thứ thuộc về hải ngoại. Qua thông tin chính thống, Việt Nam lúc nào cũng giỏi cả, và cái gì cũng nhất. Sự yên ổn giả tạo ru ngủ người Việt, làm cho họ vẫn sống với những ánh hào quang trong quá khứ do mình tự vẽ ra.
Nhưng sự đe dọa của Trung Quốc làm giấc mơ ấy phụt tắt, mọi thứ hết lung linh.
Trước đây, đối với người Việt, có những vị lãnh tụ không bao giờ được phép nói xấu và bất cứ ai động đến những thần tượng đó đều là xuyên tạc, vu khống. Nhưng nay, sự mất niềm tin làm cho họ nhận ra rằng: những thông tin kia có thể là sự thật lắm chứ.
Rồi hàng loạt cuốn sách của những người thân cận với các lãnh tụ ra đời, càng đọc người ta càng thấy những cái kém cỏi, xấu xa, dốt nát; và tất nhiên, càng ghét chế độ bao nhiêu thì người ta càng mê phương Tây bấy nhiêu.
Nhưng chú ý là những cuốn sách kiểu này không phải giờ mới có, chỉ có điều nếu không có bước chuyển niềm tin quan trọng như đã nói ở trên, chúng vẫn chỉ được xếp vào hạng “phản động, nói xấu chế độ” do nghe theo các “thế lực thù địch” mà thôi.
Việt Nam đã trở nên khiêm tốn hơn. Trước đây, chúng ta rất khó chịu với vai trò “Sen đầm quốc tế” của Mỹ. Chữ “Sen đầm” vốn được phiên âm từ “Gendarme” trong tiếng Pháp, nôm na là để chỉ cảnh sát. Từ này vốn không có gì xấu, nhưng Việt Nam gán với Mỹ để ám chỉ việc Hoa Kỳ can thiệp khắp nơi trên thế giới.
Nay, thay vì tự coi mình là “Cảnh sát quốc tế” với nhiệm vụ “Canh giữ hòa bình thế giới”, Việt Nam đã tự nguyện từ bỏ vai trò đó và mong muốn Hoa Kỳ phải giữ đúng trách nhiệm “Sen đầm” để giúp mình tránh khỏi sự đe dọa từ đất nước ở bên kia biên giới mà trên danh nghĩa vẫn là anh em đồng chí.
Như vậy, cần phải nhìn lại những tác động của nước láng giềng phương Bắc, nó không chỉ có tiêu cực mà còn có cả mặt tích cực nữa. Không có mối họa Trung Quốc, Việt Nam vẫn mãi ảo tưởng về bản thân và dậm chân tại chỗ.
Dù có thể chuyến đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Mỹ mới đây chủ yếu là bất đắc dĩ do sức ép của phe cải cách, kết quả của nó còn rất hạn chế và con đường để tiến tới dân chủ vẫn còn mông lung, nhưng có một điều chắc chắn: Trung Quốc càng siết chặt vòng vây bao nhiêu, Việt Nam càng phải cởi mở với Mỹ bấy nhiêu.
Ý kiến: May mà Trung Quốc tráo trở
Posted by admin on July 25th, 2015
BBC
Xuân Thành
Gửi tới BBC từ Đà Nẵng
25-07-2015

Mặc dù có tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông, giới lãnh đạo quân đội Việt Nam và Trung Quốc chưa bao giờ lớn tiếng.
“Đồng
hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ. Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước
Mỹ” – Câu thơ của Việt Phương phản ánh ý thức của nhiều thế hệ người
Việt ngày trước, đến nay vẫn còn được truyền tụng.
Thế mà bây giờ Việt Nam lại ào ào đòi
thoát Trung, người dân háo hức kỳ vọng về chuyến đi của Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng sang Mỹ. Mỹ – như một vị cứu tinh, một ngôi sao sáng
soi đường chỉ lối cho Việt Nam.Từ bao giờ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới xấu xa và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mới đẹp đẽ như thế?
Từ Mỹ xấu xa
Năm 2001, khi sự kiện 11-9 xảy ra, thầy giáo tôi đã nói trên lớp rằng: “Bin Laden là một anh hùng”. Tất nhiên câu nói được cả lớp ủng hộ nhiệt liệt.Đối với người Việt Nam khi đó, mọi hành động của Mỹ đều đen tối, có động cơ không đàng hoàng; và vì thế mọi thế lực đối nghịch với Mỹ đều anh hùng, cao thượng. Dù có là khủng bố giết chết dân thường đi nữa, thì nước Mỹ cũng xứng đáng phải chịu hậu quả như vậy.
Trên cái đà đó, đương nhiên cuộc chiến Afghanistan để tiêu diệt Taliban của Mỹ cũng xấu xa, cuộc chiến Irag năm 2003 càng dơ bẩn. Chiến dịch tiêu diệt Saddam Hussein của Mỹ được thông tin đến nhân dân Việt Nam chỉ đơn giản là Mỹ muốn chiếm nguồn dầu mỏ của quốc gia Trung Đông.
Bin Laden và Saddam Hussein xuất hiện trên báo Việt Nam như những vị lãnh tụ vĩ đại khi bắt đầu cuộc chiến rồi như những con người thất thế đáng thương khi thua trận.
Không ai bận tâm tìm hiểu những người này thế nào, vì cứ chống lại Mỹ là tốt. Bin Laden tốt, Saddam Hussein tốt, Iran tốt, Triều Tiên tốt, Fidel Castro quá tốt, Putin cực tốt, và tất nhiên: Trung Quốc ít nhất cũng tốt hơn Mỹ.
Cho đến Mỹ tốt
Thế rồi đột nhiên mọi việc quay ngoắt 180 độ. Đối với người Việt Nam bây giờ, cứ chống lại Mỹ và phương Tây là xấu, hoặc ít nhất phải có vấn đề gì đó.Bin Laden và Taliban bị khinh bỉ như một bọn khủng bố man rợ, Saddam Hussein phạm tội diệt chủng, Triều Tiên không biết thương dân dân nghèo đói để phát triển vũ khí hạt nhân… tất cả đều là những thể chế độc tài, lạc hậu…
Putin mới đây vẫn còn là người hùng bỗng vụt biến thành một kẻ độc ác. Vụ máy bay MH17 bị bắn rơi năm ngoái đến nay vẫn chưa xác định được thủ phạm, nhưng rất nhiều người Việt Nam không ngần ngại khẳng định rằng Putin là kẻ chủ mưu chứ chẳng phải ai vào đây. Nếu sự kiện Nga sáp nhập Crimea diễn ra vào khoảng 10 năm trước chắc sẽ được ủng hộ nhiệt tình, nhưng nay người Việt coi đó là một trò hề.
Ngay đến cả cuộc khủng hoảng Hy Lạp mà truyền hình trong nước đưa tin hướng người xem nghĩ đến việc châu Âu đang chèn ép Hy Lạp, phần lớn mọi người vẫn tự tìm hiểu để biết rằng: đó là hậu quả của việc làm ít chơi nhiều.
Người Việt không còn hả hê với việc Iran và Cuba chống Mỹ đến cùng nữa, mà hồ hởi vì họ phải xuống nước để làm lành với phương Tây.
Vì đâu có sự thay đổi đó?
Cái mốc cho sự thay đổi trong nhận thức của người Việt Nam bắt đầu từ khoảng 5 năm trước, khi Trung Quốc bắt đầu có sự gây hấn mạnh mẽ ở biển Đông.Thật ra thì việc Trung Quốc có những hoạt động trên biển có lẽ không phải chờ đến lúc đấy, nhưng đó là thời kỳ bùng nổ Internet ở Việt Nam nên mọi thứ không thể giấu giếm thêm được nữa.
Người Việt khi đó mới ngỡ ra rằng: nước mình chẳng mạnh mẽ gì, và Trung Quốc chứ chẳng phải Mỹ mới là kẻ thù thâm độc nhất.
Người Việt luôn tin tưởng vào vai trò “Canh giữ hòa bình thế giới” của mình và người anh em Cuba, cho đến khi bị Trung Quốc đe dọa, chúng ta mới biết rằng Việt Nam không có khả năng bảo vệ ai hết.
Rồi hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Tại sao nước mình lại nghèo thế, tại sao vị thế lại kém thế… Niềm tin vào những thứ vĩ đại mơ hồ trước đây đã lung lay. Và công cuộc tự tìm kiếm thông tin bắt đầu. Khi biết những chuyện như Hoàng Sa đã mất vào tay Trung Quốc mà bao năm xem dự báo thời tiết vẫn tưởng là còn của mình, người dân nhận ra có rất nhiều sự thật khủng khiếp vẫn được giấu kín.
Trước đó người Việt không có nhu cầu tìm hiểu và bác bỏ mọi thứ thuộc về hải ngoại. Qua thông tin chính thống, Việt Nam lúc nào cũng giỏi cả, và cái gì cũng nhất. Sự yên ổn giả tạo ru ngủ người Việt, làm cho họ vẫn sống với những ánh hào quang trong quá khứ do mình tự vẽ ra.
Nhưng sự đe dọa của Trung Quốc làm giấc mơ ấy phụt tắt, mọi thứ hết lung linh.
Trước đây, đối với người Việt, có những vị lãnh tụ không bao giờ được phép nói xấu và bất cứ ai động đến những thần tượng đó đều là xuyên tạc, vu khống. Nhưng nay, sự mất niềm tin làm cho họ nhận ra rằng: những thông tin kia có thể là sự thật lắm chứ.
Rồi hàng loạt cuốn sách của những người thân cận với các lãnh tụ ra đời, càng đọc người ta càng thấy những cái kém cỏi, xấu xa, dốt nát; và tất nhiên, càng ghét chế độ bao nhiêu thì người ta càng mê phương Tây bấy nhiêu.
Nhưng chú ý là những cuốn sách kiểu này không phải giờ mới có, chỉ có điều nếu không có bước chuyển niềm tin quan trọng như đã nói ở trên, chúng vẫn chỉ được xếp vào hạng “phản động, nói xấu chế độ” do nghe theo các “thế lực thù địch” mà thôi.
Kết quả
Dần dần, cái nhìn của người dân đối với chế độ đã thay đổi tạo nên một sức ép đáng kể buộc lãnh đạo phải thay đổi theo nếu không muốn mất quyền lực vào một ngày không xa.Việt Nam đã trở nên khiêm tốn hơn. Trước đây, chúng ta rất khó chịu với vai trò “Sen đầm quốc tế” của Mỹ. Chữ “Sen đầm” vốn được phiên âm từ “Gendarme” trong tiếng Pháp, nôm na là để chỉ cảnh sát. Từ này vốn không có gì xấu, nhưng Việt Nam gán với Mỹ để ám chỉ việc Hoa Kỳ can thiệp khắp nơi trên thế giới.
Nay, thay vì tự coi mình là “Cảnh sát quốc tế” với nhiệm vụ “Canh giữ hòa bình thế giới”, Việt Nam đã tự nguyện từ bỏ vai trò đó và mong muốn Hoa Kỳ phải giữ đúng trách nhiệm “Sen đầm” để giúp mình tránh khỏi sự đe dọa từ đất nước ở bên kia biên giới mà trên danh nghĩa vẫn là anh em đồng chí.
Như vậy, cần phải nhìn lại những tác động của nước láng giềng phương Bắc, nó không chỉ có tiêu cực mà còn có cả mặt tích cực nữa. Không có mối họa Trung Quốc, Việt Nam vẫn mãi ảo tưởng về bản thân và dậm chân tại chỗ.
Dù có thể chuyến đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Mỹ mới đây chủ yếu là bất đắc dĩ do sức ép của phe cải cách, kết quả của nó còn rất hạn chế và con đường để tiến tới dân chủ vẫn còn mông lung, nhưng có một điều chắc chắn: Trung Quốc càng siết chặt vòng vây bao nhiêu, Việt Nam càng phải cởi mở với Mỹ bấy nhiêu.
GẶP NGƯỜI VIỆT NAM LÀM "TÀU NGẦM TÀNG HÌNH, TỐC ĐỘ HƠN TÀU KHU TRỤC"
Theo ông Phan Bội Trân, cả vỏ tàu và ống tiềm vọng của
tàu ngầm Yết Kiêu đều làm từ vật liệu composite trong suốt với sóng điện
từ.
“Cấu tạo tàu ngầm đơn giản lắm”
PV: Xuất phát từ ý tưởng nào, ông đã quyết tâm chế tạo tàu ngầm với những điều kiện ở Việt Nam, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Tôi nghiên cứu về tàu ngầm với mục tiêu để phục vụ quốc phòng. Lúc tôi ở bên Pháp, tôi đã làm nghề đó và bây giờ mình ứng dụng. Thực tế, Nhật Bản hay Hàn Quốc đã làm được ra tàu ngầm nhưng điều đó không cho họ sức mạnh.
Tôi nghĩ rất nhiều và suy nghĩ về lịch sử: Muốn hùng mạnh thì khi giao chiến mình không bị tiêu hao lực lượng. Từ đó, tôi mới nghĩ ra vũ khí và tổ hợp khí tài khiến mình khó bị tiêu hao lực lượng.
Tiền thừa kế của tôi có thể giúp tôi chế tạo được một tổ hợp khí tài đủ mạnh. Và nếu chỉ có tàu ngầm thì sẽ chẳng làm được gì cả nên tôi thiết kế cả ngư lôi.
Ngư lôi của tôi là loại đặc chủng, không giống bất kỳ loại nào. Khi tôi làm xong, trên cơ sở đó, Nhà nước có thể sản xuất với số lượng lớn, đảm bảo vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
PV: Như đã có lần ông chia sẻ với báo giới rằng, vấn đề khi ông chế tạo tàu ngầm không phải nằm ở khả năng chế tạo thành công mà ở chỗ chế tạo với điều kiện Việt Nam.
Nhưng với nhiều người, nhắc đến tàu ngầm là nhắc tới một thứ vũ khí gì đó rất hiện đại và khó có thể tin được điều kiện kinh tế của Việt Nam có thể cho phép chúng ta chế tạo được nhiều tàu ngầm. Xin ông có thể chia sẻ rõ hơn về ý tưởng này?
Ông Phan Bội Trân: (Cười). Cấu tạo chiếc tàu ngầm thì đơn giản lắm. Thứ nhất, nó có dạng hình trụ hoặc dạng hình cầu. Đó là hai dạng có khả năng chịu áp suất rất tốt.
Thứ hai, nó có những bồn nước và có những kỹ thuật đặc thù của ngành composite để sản xuất bồn nước bằng composite.
Ngoài ra, các nguyên lý khác cũng rất dễ hiểu. Nếu bơm nước vào, làm giảm lực Ác – si- mét (lực nâng vật thể khi vật thể được nhúng trong chất lỏng – PV) thì nó sẽ lặn xuống, còn bơm nước ra làm tăng lực Ác – si – mét thì nó sẽ nổi lên.
Còn những chiếc van để xả nước hoặc bơm nước thì bạn nhìn trong nhà bếp, những chiếc van nước như thế nào thì những chiếc van trong tàu ngầm cũng tương tự như thế.
Ngoài vỏ tàu ta có thể chế tạo dễ dàng, về động cơ, đó là loại động cơ đặc chủng dành riêng cho tàu ngầm, không giống những loại động cơ bình thường.
Trước đây động cơ phải nhập khẩu từ nước ngoài nhưng hiện nay, sau khi đã mua bản quyền từ Pháp, chúng ta hoàn toàn có thể tự sản xuất được. Điều này có thể giúp chúng ta chủ động nguồn cung động cơ hơn.
Chiếc tàu ngầm đó chạy bằng động cơ điện 3 pha. Nhưng dòng điện 3 pha này được lấy từ dòng 1 chiều qua 1 thiết bị có thể điều chỉnh được cường độ, tần số.
Loại động cơ này cho phép tiết kiệm 30% năng lượng so với các loại động cơ khác nên nó cho phép tàu hoạt động trong thời gian dài hơn.
Còn về bảng điều khiển, tàu ngầm có 2 hệ thống điều khiển. Phần điều khiển động cơ thì chúng ta đã mua bản quyền và sản xuất được rồi. Còn hệ thống điều khiển chiếc tàu ngầm, chúng ta cũng đã thiết kế và sản xuất được.
Về vũ khí của tàu ngầm là ngư lôi, cái đó cũng do chúng ta sản xuất hoàn toàn nhưng phải theo quy định của Nhà nước.
Chiếc tàu ngầm của tôi có thể đứng yên một chỗ và quay được 1 vòng theo trục thẳng đứng, chạy tới chạy lui cả khi nổi lẫn khi lặn. Nó có thể chạy được 50 hải lý/h và đó là điều không tưởng với 1 chiếc tàu ngầm.

PV: Ông có nói là chiếc tàu ngầm Yết Kiêu của ông có khả năng “tàng hình”. Những điểm đặc biệt nào khiến chiếc tàu ngầm do ông tạo ra có khả năng thoát các phương tiện chống ngầm, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Trên mỗi chiếc tàu chống ngầm sẽ có một chiếc trực thăng và chiếc trực thăng đó bay lên thẳng. Chiếc trực thăng đó có thể đi xa và thả phao. Những chiếc phao đó là những chiếc máy ghi âm.
Tuy nhiên, về chiếc tàu ngầm của tôi, vật liệu được sử dụng làm vỏ tàu là vật liệu composite với nền nhựa và cốt là sợi thủy tinh.
Sợi thủy tinh trong suốt với radar và cũng trong suốt với ánh sáng. Còn nhựa là vật liệu trong suốt với radar. Vì vậy, sự kết hợp chúng thành vật liệu composite để làm vỏ tàu sẽ làm cho tàu gần như trong suốt.
Với ưu điểm là nhẹ nên tàu ngầm của tôi chạy với tốc độ [khoảng 50 hải lý/h] hơn một chiếc tàu khu trục. Đó là một sự đột phá.
Ngay cả ống tiềm vọng cũng làm từ vật liệu composite với thành phần như vỏ. Loại vật liệu này không bức xạ lại sóng điện từ nên radar của đối thủ sẽ không phát hiện được.

Mà động cơ làm bằng kim loại nên nó không thể tự “tàng hình” được. Ngoài ra những hệ thống điều khiển và các thiết bị khác trên tàu ngầm cũng không có khả năng tự tàng hình.
Vì thế, để tàu nổi trở nên “tàng hình” thì người chế tạo phải sơn 1 lớp sơn kim loại lên vỏ tàu để khi tia radar truyền đến thì lớp sơn này có tác dụng là đánh chệch hướng tia radar phản xạ, khiến cho radar không nhận được tia phản hồi. Như vậy nó sẽ “tàng hình” với radar.
Tuy nhiên, do tàu ngầm nằm sâu trong nước nên tàu ngầm không cần phải sơn lớp sơn đó. Nước lại là áo giáp không cho các tia radar tới. Nó chỉ bị phát hiện bởi ống tiềm vọng và tháp của tàu vì ở các loại tàu ngầm khác, ống tiềm vọng và tháp tàu được làm bằng kim loại.
Ở chiếc tàu ngầm của tôi, ống tiềm vọng và cả tháp tàu đều được làm bằng vật liệu composite nên nỗi lo đó đã được loại bỏ. Chính vì vậy tôi chỉ nghiên cứu chế tạo tàu ngầm chứ không chế tạo tàu trên bề mặt nước.
Và với 2 ưu điểm là lớp vỏ bằng composite cùng với tốc độ lớn nên khả năng thoát tàu chống ngầm của tàu ngầm do tôi tạo ra sẽ lớn hơn các loại tàu ngầm khác.
PV: Ngoài ưu điểm trên, tàu ngầm do ông tạo ra còn có ưu điểm nào nổi bật, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Còn một lợi ích rất lớn là lợi ích về kinh tế. Nếu vỏ tàu được chế tạo bằng vật liệu composite thì ưu điểm này sẽ cho phép chúng ta có thể tạo ra được rất nhiều tàu ngầm chỉ với chi phí nhỏ.
Chỉ với 10.000 USD là mình có thể làm được vỏ tàu cho một hạm đội rồi. Trong khi đó, 10.000 USD so với giá trị của 1 chiếc tàu ngầm Kilo thì không đáng kể.
Bên cạnh đó còn tổ hợp khí tài. Ngư lôi cũng chạy nhanh hơn ngư lôi của đối thủ và loại này bắn không phải dạng đục lỗ mà là loại ngư lôi có thể bắn gẫy đôi đối thủ.
Ngoài ra còn có những loại vũ khí khác… Vũ khí này được điều khiển và đuổi bám tấn công đối thủ tùy theo hướng của xạ thủ.
PV: Xuất phát từ ý tưởng nào, ông đã quyết tâm chế tạo tàu ngầm với những điều kiện ở Việt Nam, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Tôi nghiên cứu về tàu ngầm với mục tiêu để phục vụ quốc phòng. Lúc tôi ở bên Pháp, tôi đã làm nghề đó và bây giờ mình ứng dụng. Thực tế, Nhật Bản hay Hàn Quốc đã làm được ra tàu ngầm nhưng điều đó không cho họ sức mạnh.
Tôi nghĩ rất nhiều và suy nghĩ về lịch sử: Muốn hùng mạnh thì khi giao chiến mình không bị tiêu hao lực lượng. Từ đó, tôi mới nghĩ ra vũ khí và tổ hợp khí tài khiến mình khó bị tiêu hao lực lượng.
Tiền thừa kế của tôi có thể giúp tôi chế tạo được một tổ hợp khí tài đủ mạnh. Và nếu chỉ có tàu ngầm thì sẽ chẳng làm được gì cả nên tôi thiết kế cả ngư lôi.
Ngư lôi của tôi là loại đặc chủng, không giống bất kỳ loại nào. Khi tôi làm xong, trên cơ sở đó, Nhà nước có thể sản xuất với số lượng lớn, đảm bảo vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam.
PV: Như đã có lần ông chia sẻ với báo giới rằng, vấn đề khi ông chế tạo tàu ngầm không phải nằm ở khả năng chế tạo thành công mà ở chỗ chế tạo với điều kiện Việt Nam.
Nhưng với nhiều người, nhắc đến tàu ngầm là nhắc tới một thứ vũ khí gì đó rất hiện đại và khó có thể tin được điều kiện kinh tế của Việt Nam có thể cho phép chúng ta chế tạo được nhiều tàu ngầm. Xin ông có thể chia sẻ rõ hơn về ý tưởng này?
Ông Phan Bội Trân: (Cười). Cấu tạo chiếc tàu ngầm thì đơn giản lắm. Thứ nhất, nó có dạng hình trụ hoặc dạng hình cầu. Đó là hai dạng có khả năng chịu áp suất rất tốt.
Thứ hai, nó có những bồn nước và có những kỹ thuật đặc thù của ngành composite để sản xuất bồn nước bằng composite.
Ngoài ra, các nguyên lý khác cũng rất dễ hiểu. Nếu bơm nước vào, làm giảm lực Ác – si- mét (lực nâng vật thể khi vật thể được nhúng trong chất lỏng – PV) thì nó sẽ lặn xuống, còn bơm nước ra làm tăng lực Ác – si – mét thì nó sẽ nổi lên.
Còn những chiếc van để xả nước hoặc bơm nước thì bạn nhìn trong nhà bếp, những chiếc van nước như thế nào thì những chiếc van trong tàu ngầm cũng tương tự như thế.
Ngoài vỏ tàu ta có thể chế tạo dễ dàng, về động cơ, đó là loại động cơ đặc chủng dành riêng cho tàu ngầm, không giống những loại động cơ bình thường.
Trước đây động cơ phải nhập khẩu từ nước ngoài nhưng hiện nay, sau khi đã mua bản quyền từ Pháp, chúng ta hoàn toàn có thể tự sản xuất được. Điều này có thể giúp chúng ta chủ động nguồn cung động cơ hơn.
Chiếc tàu ngầm đó chạy bằng động cơ điện 3 pha. Nhưng dòng điện 3 pha này được lấy từ dòng 1 chiều qua 1 thiết bị có thể điều chỉnh được cường độ, tần số.
Loại động cơ này cho phép tiết kiệm 30% năng lượng so với các loại động cơ khác nên nó cho phép tàu hoạt động trong thời gian dài hơn.
Còn về bảng điều khiển, tàu ngầm có 2 hệ thống điều khiển. Phần điều khiển động cơ thì chúng ta đã mua bản quyền và sản xuất được rồi. Còn hệ thống điều khiển chiếc tàu ngầm, chúng ta cũng đã thiết kế và sản xuất được.
Về vũ khí của tàu ngầm là ngư lôi, cái đó cũng do chúng ta sản xuất hoàn toàn nhưng phải theo quy định của Nhà nước.
Chiếc tàu ngầm của tôi có thể đứng yên một chỗ và quay được 1 vòng theo trục thẳng đứng, chạy tới chạy lui cả khi nổi lẫn khi lặn. Nó có thể chạy được 50 hải lý/h và đó là điều không tưởng với 1 chiếc tàu ngầm.
Ông Phan Bội Trân chia sẻ về tàu ngầm Yết Kiêu với phóng viên
Tàu ngầm tàng hình và chạy nhanh hơn tàu khu trụcPV: Ông có nói là chiếc tàu ngầm Yết Kiêu của ông có khả năng “tàng hình”. Những điểm đặc biệt nào khiến chiếc tàu ngầm do ông tạo ra có khả năng thoát các phương tiện chống ngầm, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Trên mỗi chiếc tàu chống ngầm sẽ có một chiếc trực thăng và chiếc trực thăng đó bay lên thẳng. Chiếc trực thăng đó có thể đi xa và thả phao. Những chiếc phao đó là những chiếc máy ghi âm.
Tuy nhiên, về chiếc tàu ngầm của tôi, vật liệu được sử dụng làm vỏ tàu là vật liệu composite với nền nhựa và cốt là sợi thủy tinh.
Sợi thủy tinh trong suốt với radar và cũng trong suốt với ánh sáng. Còn nhựa là vật liệu trong suốt với radar. Vì vậy, sự kết hợp chúng thành vật liệu composite để làm vỏ tàu sẽ làm cho tàu gần như trong suốt.
Với ưu điểm là nhẹ nên tàu ngầm của tôi chạy với tốc độ [khoảng 50 hải lý/h] hơn một chiếc tàu khu trục. Đó là một sự đột phá.
Ngay cả ống tiềm vọng cũng làm từ vật liệu composite với thành phần như vỏ. Loại vật liệu này không bức xạ lại sóng điện từ nên radar của đối thủ sẽ không phát hiện được.
Tàu ngầm Yết Kiêu 1 trong lần thử nghiệm tại hồ bơi của Trường Trung cấp Kỹ thuật Hải quân TP HCM năm 2010.
Về khả năng tàng hình, nếu là tàu mặt nước, ưu điểm từ vỏ tàu không
thể làm cho nó tàng hình được theo đúng nghĩa bởi vật liệu composite gần
như trong suốt với sóng điện từ nhưng khi sóng điện từ từ radar của đối
phương truyền qua vỏ tàu, nó sẽ chạm lại động cơ.Mà động cơ làm bằng kim loại nên nó không thể tự “tàng hình” được. Ngoài ra những hệ thống điều khiển và các thiết bị khác trên tàu ngầm cũng không có khả năng tự tàng hình.
Vì thế, để tàu nổi trở nên “tàng hình” thì người chế tạo phải sơn 1 lớp sơn kim loại lên vỏ tàu để khi tia radar truyền đến thì lớp sơn này có tác dụng là đánh chệch hướng tia radar phản xạ, khiến cho radar không nhận được tia phản hồi. Như vậy nó sẽ “tàng hình” với radar.
Tuy nhiên, do tàu ngầm nằm sâu trong nước nên tàu ngầm không cần phải sơn lớp sơn đó. Nước lại là áo giáp không cho các tia radar tới. Nó chỉ bị phát hiện bởi ống tiềm vọng và tháp của tàu vì ở các loại tàu ngầm khác, ống tiềm vọng và tháp tàu được làm bằng kim loại.
Ở chiếc tàu ngầm của tôi, ống tiềm vọng và cả tháp tàu đều được làm bằng vật liệu composite nên nỗi lo đó đã được loại bỏ. Chính vì vậy tôi chỉ nghiên cứu chế tạo tàu ngầm chứ không chế tạo tàu trên bề mặt nước.
Và với 2 ưu điểm là lớp vỏ bằng composite cùng với tốc độ lớn nên khả năng thoát tàu chống ngầm của tàu ngầm do tôi tạo ra sẽ lớn hơn các loại tàu ngầm khác.
PV: Ngoài ưu điểm trên, tàu ngầm do ông tạo ra còn có ưu điểm nào nổi bật, thưa ông?
Ông Phan Bội Trân: Còn một lợi ích rất lớn là lợi ích về kinh tế. Nếu vỏ tàu được chế tạo bằng vật liệu composite thì ưu điểm này sẽ cho phép chúng ta có thể tạo ra được rất nhiều tàu ngầm chỉ với chi phí nhỏ.
Chỉ với 10.000 USD là mình có thể làm được vỏ tàu cho một hạm đội rồi. Trong khi đó, 10.000 USD so với giá trị của 1 chiếc tàu ngầm Kilo thì không đáng kể.
Bên cạnh đó còn tổ hợp khí tài. Ngư lôi cũng chạy nhanh hơn ngư lôi của đối thủ và loại này bắn không phải dạng đục lỗ mà là loại ngư lôi có thể bắn gẫy đôi đối thủ.
Ngoài ra còn có những loại vũ khí khác… Vũ khí này được điều khiển và đuổi bám tấn công đối thủ tùy theo hướng của xạ thủ.
Nguồn:
ĐẠI TƯỚNG SAU KHI XUỐNG SÂN BAY, RỒI LÊN XE VỀ NHÀ BẰNG CÁCH LEO VÀO CỬA SAU NHƯ THẾ NÀY À ?
Báo Tuổi trẻ
25/07/2015 07:01 GMT+7
"TTO - 7g sáng 25-7, chiếc Boeing 777 của Hãng hàng không Vietnam Airlines đã hạ cánh xuống sân bay Nội Bài. Đại tướng Phùng Quang Thanh bước xuống máy bay, tươi cười bắt tay nhiều người đón tiếp."
Đại tướng Phùng Quang Thanh, mặc complet màu nhạt chuẩn bị lên xe - Ảnh VIỆT DŨNG
Đại tướng lên xe THEO KIỂU VÀO CỬA SAU THẾ NÀY À ?
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)