22 tháng 9, 2021

 SẦU RIÊNG

Cả đời làm cuộc hành trình
Cuối cùng về lại với mình đơn côi
Lá rơi mấy độ thu rơi
Sương chiều đã nặng trên đôi vai gày
Đường về quá khứ heo may,
Gió mưa lầy lội. Đời này sắp qua.
Ngoài kia nhân ảnh nhạt nhòa,
Biết ai quân tử, ai là hồng nhan.
Ngàn xưa nức nở cung đàn
Ngàn sau vẫn cứ lỡ làng đường tơ
Biết ai, ai biết bây giờ ?




 CHỐNG THAM NHŨNG

Bác Cả nói :" Chống tham nhũng là ta đánh ta" . Bởi vậy tôi mới phải nói :
Chuyện đời nói cứ như đùa,
Chống tham nhũng, có đến mùa quýt sau.
Bởi tham nhũng ở những đâu,
Chứ thường Dân chỉ trước sau cần cù.
Không quyền lực thì phải ngu,
Mở miệng là bị dập trù thẳng tay.
Tham nhúng định nghĩa sao đây ?
- Là sự tha hóa những tay cầm quyền !

 VÊ HƯU MỚI LÀM "NGƯỜI TỬ TẾ" !

(Từ lời phát biểu của ông Dũng - không phải Dũng Lò Vôi - trước khi về hưu)
- Hóa ra cán bộ nước ta,
Khi còn đương chức, toàn là lưu manh.
Nên khi "hạ cánh" an lành,
Khuyên nhau cố gắng trở thành thiện nhân ( người tử tế). hế .hế !!!

16 tháng 12, 2020

 THAM NHŨNG: HỆ QUẢ CỦA "TÂM LÝ ĐỒNG CHÍ" SA ĐỌA
THÀNH "TÂM LÝ ĐỒNG LÕA"
Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

-Trước hết, trong khi ăn cắp chỉ là một hành vi phi đạo đức của con người khi bị thúc bách bởi những nhu cầu bậc thấp thì tham nhũng là hành vi sử dụng quyền lực để chiếm đoạt. Nói như vậy để thấy tham nhũng là một hành vi gắn liền với sự tha hoá của quyền lực; nói cách khác, tham nhũng là hành vi riêng có của những kẻ được nhân dân trao cho cương vị đại diện. Thứ hai, trong khi những kẻ ăn cắp vẫn còn cảm giác lén lút khi đi ăn cắp thì những kẻ tham nhũng đã trở nên vô cảm trước những hành vi chiếm đoạt của mình. Do đó, những kẻ ăn cắp vẫn còn thừa nhận sự tồn tại của pháp luật trong khi những kẻ tham nhũng chà đạp lên nó. Thứ ba, những kẻ ăn cắp không có khả năng truyền bá những ảnh hưởng chính trị còn những kẻ tham nhũng vẫn có thể tham gia hoạt động chính trị. Nếu nói một cách thẳng thắn hơn thì điều đó có nghĩa là những kẻ tham nhũng cần và phải đi qua con đường chính trị và sử dụng sức mạnh chính trị. 

-Chính nền dân chủ chứ không phải chế độ độc tài mới là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự phát triển của hiện tượng tham nhũng. Sự độc tài tự thân nó đã gắn liền với sự tha hoá quyền lực; đến lượt mình, nó sẽ không chỉ bắt đầu một hiện tượng tham nhũng mà còn khiến tham nhũng phát triển ở những quy mô lớn hơn với những mức độ trầm trọng hơn. 

Một số người đưa ra biện pháp công khai hoá nhưng chúng tôi hoàn toàn không tán đồng. Công khai hoá là gì? Công khai hoá là phủ lên tất cả những kẻ tham nhũng thứ ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng của sự trong sạch và những giá trị người cao quý và khiến tất cả chúng cùng lúc nhận ra rằng mình không phải là đối tượng duy nhất đã bị thú hoá, rằng quanh mình có không ít những kẻ đã bị thú hoá và nếu tập trung hết thảy những kẻ đã bị thú hoá lại, chúng sẽ có sức mạnh ghê gớm – sức mạnh của sự huỷ diệt. Do đó, nội dung khoa học của chương trình chống tham nhũng là phải chỉ ra thời điểm và mức độ công khai hoá thích hợp; nếu không, chính sự công khai hoá đó sẽ dồn những kẻ bị thú hoá vào đường cùng, chúng sẽ trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết bởi sự hành hạ và tra tấn của nỗi sợ và để tồn tại, chúng sẽ quay lại truy đuổi con người.

Trong đời sống hàng ngày của con người, tâm lý – trạng thái cảm hứng của con người khi hành động – đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, tâm lý là một đối tượng rất dễ bị ảnh hưởng hay nói cách khác, rất nhiều yếu tố có thể tác động tới tâm lý; trong trường hợp những thay đổi tâm lý diễn ra theo chiều hướng tiêu cực, người ta sẽ mô tả chúng như là sự biến dạng tâm lý.

Khi nghiên cứu sự biến dạng của tâm lý, chúng ta sẽ thấy rằng tham nhũng không phải là hiện tượng tiêu cực duy nhất gây ra biến dạng tâm lý nhưng nó là một trong những yếu tố gây ra những biến dạng khủng khiếp nhất, trên quy mô rộng lớn nhất, ở mức độ sâu sắc nhất và thậm chí, có thể nói, tham nhũng gây ra sự biến dạng nhân cách. Vì lý do đó, tham nhũng, với tư cách là nguồn gốc của sự biến dạng tâm lý, sẽ trở thành đối tượng nghiên cứu của bài viết này. Hy vọng rằng, những phân tích về vấn đề này sẽ có tác dụng như một lời cảnh tỉnh đối với những kẻ vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của sự biến dạng này.

Tham nhũng và sự biến dạng từ tâm lý đồng chí đến tâm lý đồng loã.

Tâm lý đồng chí là một trong những tâm lý rất căn bản vì bản chất hay mục tiêu của sinh hoạt chính trị là tìm kiếm sự đồng thuận. Bất kỳ sự đồng thuận nào cũng phải dựa trên tâm lý đồng chí tức là sự cùng chí hướng; nói cách khác, nếu không có tâm lý đồng chí làm nền tảng thì sẽ không có sự đồng thuận.Do đó, nghiên cứu tâm lý đồng chí chính là nghiên cứu điều kiện hình thành các tổ chức nói chung và các tổ chức chính trị hay các đảng chính trị nói riêng.
Tuy nhiên, không phải ở đâu tâm lý đồng chí cũng được cảm nhận và có giá trị giống nhau. Chẳng hạn, ở những môi trường không có sự cạnh tranh về chính trị, người ta sẽ không có điều kiện để đo đạc giá trị cũng như ý nghĩa của tâm lý đồng chí; ngược lại, xã hội càng dân chủ tức môi trường cạnh tranh chính trị càng gay gắt thì tâm lý đồng chí càng quan trọng bởi nó được thử thách trong sự cạnh tranh về mức độ sáng suốt chính trị giữa các đảng chính trị. Do đó, ở những quốc gia mà sự cạnh tranh chính trị diễn ra bình đẳng thì tâm lý chính trị sẽ trở thành tiêu chuẩn quan trọng nhất của việc hình thành các đảng chính trị – nó chính là dấu hiệu con người trong việc phân biệt các đảng chính trị khác nhau. 

Vậy, quá trình biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã diễn ra như thế nào? Khi con người phấn đấu vì một lý tưởng hay một mục tiêu chính đáng thì tâm lý đồng chí là tâm lý chi phối các tập thể chính trị nghĩa là tâm lý đồng chí trở thành tâm lý cơ bản của những con người sinh hoạt trong cùng một không gian chính trị. Tuy nhiên, khi lý tưởng hay mục tiêu cao đẹp không còn nữa thì tâm lý đồng chí sẽ bị biến dạng thành tâm lý đồng loã; nói cách khác, chính tâm lý đồng chí khi thất bại sẽ trở thành tâm lý đồng loã. Như vậy, quá trình thay đổi, biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã gắn liền với quá trình biến dạng hay sự lạc hậu của lý tưởng chính trị và lý tưởng xã hội.

Vậy tham nhũng xuất hiện ở đâu trong lộ trình từ tâm lý từ đồng chí tới tâm lý đồng loã? Khi nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của các tổ chức, chúng ta sẽ thấy một hiện tượng tương đối phổ biến là một đảng chính trị sẽ trở thành đảng cầm quyền sau khi đạt được những thành tựu chính trị nhất định và quá trình tha hoá thường diễn ra đồng thời với những va chạm về lợi ích, địa vị và quyền lực. Tuy nhiên, cũng chính những nghiên cứu này lại chỉ ra rằng, quá trình tha hoá là quá trình khách quan tất yếu của bất kỳ tổ chức nào và chính vì thế, nội dung khoa học quan trọng nhất của các tổ chức chính trị chính là chống lại sự tha hoá quyền lực. Đương nhiên, khi nhận ra những biểu hiện của sự tha hoá, người ta sẽ đề ra và áp dụng những biện pháp để chống lại hay ít nhất cũng nhằm giảm tốc độ của quá trình tha hoá; nhưng, mọi biện pháp đều bất lực trước hiện tượng tha hoá của các tổ chức cầm quyền nếu không có môi trường cạnh tranh. Môi trường cạnh tranh lý tưởng nhất cũng tức là môi trường duy nhất đảm bảo tính hợp lý của các tổ chức chính trị là môi trường dân chủ – ở đó, mọi tổ chức chính trị đều phải đương đầu với rủi ro là bị gạt ra khỏi các sinh hoạt chính trị của xã hội nếu không thành công trong việc ngăn chặn quá trình tha hoá của mình. Kết luận như vậy hoàn toàn đồng nghĩa rằng, ngay cả khi áp dụng các biện pháp mang tính tổ chức mà không có sự cạnh tranh chính trị thì cũng chỉ có thể kéo dài sự tồn tại hoặc làm chậm lại quá trình tha hoá của các tổ chức chính trị chứ không thể khắc phục được nó. 

Quay trở lại sự biến chất của lý tưởng, có thể nói, khi lý tưởng bị biến chất thì người ta sẽ thiên về phân chia quyền lực và quyền lợi. Sự phân chia quyền lực dẫn đến sự hình thành các phe phái trong một đảng. Bàn về sự phân chia thành các phe phái trong cùng một đảng, chúng ta cần phải phân biệt giữa sự phân chia chính thống và sự phân chia không chính thống; ở đây, cũng có thể hiểu là sự phân chia công khai và sự phân chia trong bóng tối. Sự phân chia thành các phe phái trong cùng một đảng một cách công khai, xét về mặt bản chất, chính là sự đa dạng hoá của các khuynh hướng chính trị; nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh về chính trị để chống lại sự độc quyền chân lý và do đó, nó là một yếu tố tích cực. Ngược lại, sự phân chia trong bóng tối là sản phẩm của quá trình tha hoá quyền lực; đến đây, tham nhũng bắt đầu xuất hiện như là tác nhân của sự biến dạng từ tâm lý đồng chí thành tâm lý đồng loã. Như vậy, tâm lý đồng loã không phải là tâm lý của một đảng chính trị mà là tâm lý của một phái trong đảng chính trị đã bị tha hoá. 

Trong quá trình phát triển của mình, một đảng chính trị sẽ được điều chỉnh bởi hai loại tâm lý. Thứ nhất là tâm lý đồng chí tức phần còn lại của những lý tưởng chính trị chưa bị thoái hoá. Phải khẳng định rằng, ở bất kỳ tổ chức chính trị nào, phần còn lại này luôn luôn tồn tại; nếu không, đảng chính trị sẽ biến mất hoàn toàn. Nói cách khác, chừng nào một đảng chính trị còn tồn tại thì những hạt nhân hợp lý về mặt lý tưởng chính trị cũng vẫn còn tồn tại. Trong lòng bất kỳ tổ chức chính trị nào, các mặt tiêu cực và các mặt tích cực không ngừng cạnh tranh với nhau dẫn đến sự hình thành các phái chính trị như đã phân tích trong phần trước. Các phái chính trị không chính thống sẽ bị điều chỉnh bởi tâm lý đồng loã tức là tâm lý của những kẻ cùng ăn chia một vùng quyền lực, quyền lợi hoặc thậm chí một vùng chân lý – đó chính là bản chất của tham nhũng. Các phái chính trị chính thống không bị điều chỉnh bởi tâm lý đồng loã nhưng bị điều chỉnh bởi một loại tâm lý đồng chí thứ hai – đó là tâm lý đồng chí trên những khía cạnh hẹp hay tâm lý đồng chí trên những vấn đề cụ thể. Trên đây là những mô tả về những tác động của tham nhũng lên một trong những module tâm lý căn bản nhất của con người hay sự trượt từ tâm lý đồng chí tới tâm lý đồng loã. 

Tâm lý bị truy đuổi về mặt tinh thần hay hồi ức về những giá trị người của những kẻ đã bị "thú hoá"

Xã hội thường quan niệm một cách đơn giản về tham nhũng như là ăn cắp. Trong bài viết này, chúng tôi xin nhắc lại rằng tham nhũng hoàn toàn không giống với ăn cắp, thậm chí cũng không thể coi ăn cắp là trạng thái bậc thấp của tham nhũng. Tại sao lại như vậy? 

Trước hết, trong khi ăn cắp chỉ là một hành vi phi đạo đức của con người khi bị thúc bách bởi những nhu cầu bậc thấp thì tham nhũng là hành vi sử dụng quyền lực để chiếm đoạt. Nói như vậy để thấy tham nhũng là một hành vi gắn liền với sự tha hoá của quyền lực; nói cách khác, tham nhũng là hành vi riêng có của những kẻ được nhân dân trao cho cương vị đại diện. Thứ hai, trong khi những kẻ ăn cắp vẫn còn cảm giác lén lút khi đi ăn cắp thì những kẻ tham nhũng đã trở nên vô cảm trước những hành vi chiếm đoạt của mình. Do đó, những kẻ ăn cắp vẫn còn thừa nhận sự tồn tại của pháp luật trong khi những kẻ tham nhũng chà đạp lên nó. Thứ ba, những kẻ ăn cắp không có khả năng truyền bá những ảnh hưởng chính trị còn những kẻ tham nhũng vẫn có thể tham gia hoạt động chính trị. Nếu nói một cách thẳng thắn hơn thì điều đó có nghĩa là những kẻ tham nhũng cần và phải đi qua con đường chính trị và sử dụng sức mạnh chính trị. 

Tham nhũng, vì thế, là một khoảng đen tối trong hoạt động chính trị, nó không chỉ làm mất mát quyền lợi vật chất của xã hội mà còn làm biến chất một trong những hoạt động cao quý nhất của nhân loại – đó là hoạt động chính trị. Những kẻ ăn cắp không có điều kiện để xây dựng các chính sách nhưng những kẻ tham nhũng thì bẻ gẫy chính sách, chà đạp lên nhà nước thông qua việc làm biến dạng các chính sách. Trong khi những kẻ ăn cắp phải "lao động" một cách vất vả thì những kẻ tham nhũng lại "lao động" một cách nhàn nhã; nhưng, thứ "lao động" đó của chúng đang làm băng hoại các giá trị đạo đức, gây tổn hại đến uy tín của hệ thống chính trị và nhà nước. Tội ác của những kẻ tham nhũng không đơn giản chỉ là những khối lượng vật chất bị chúng chiếm đoạt, mà chính là sự bẻ gẫy các thể chế, từ thể chế tinh thần đến thể chế chính trị, thể chế nhà nước và thậm chí làm biến dạng cả văn hoá.

Vì những tội ác như vậy, những kẻ tham nhũng luôn phải đối diện với cảm giác bị truy đuổi, ít nhất về mặt tinh thần. Những ai đã từng đọc "Những người khốn khổ" của Victor Hugo mới có thể hiểu nổi cảm giác bị truy đuổi đó đáng sợ đến mức nào. Jean ValJean chỉ ăn cắp duy nhất một chiếc bánh mỳ nhưng luôn cảm thấy mình bị truy đuổi, ngay cả khi ông ta đã trở thành thị trưởng Madolen, đã trốn vào tu viện và cố gắng sống như một con người lương thiện. Cảm giác truy đuổi ở những kẻ tham nhũng, có lẽ, còn đáng sợ gấp nhiều lần. 

Tuy nhiên, cảm giác truy đuổi đó, thực ra, là một dấu hiệu tích cực; nó cho thấy những kẻ tham nhũng vẫn còn có cảm giác tội lỗi, vẫn còn nuối tiếc những giá trị người hay nói đúng hơn, vẫn còn nhớ về và trân trọng khoảng thời gian đã từng là người. Chúng tôi cho rằng hoàn toàn không quá lời khi nói như vậy bởi dẫu chỉ tham nhũng một lần thôi, con người đã tự nguyện cống nạp mình, cống nạp những giá trị người cao quý trong mình, cống nạp những phẩm hạnh của mình cho quỷ sứ; hay nói theo một cách khác, con người đã tự nguyện và chủ động "thú hoá" những giá trị của mình. Và hàng đêm, khi đối diện với sự truy đuổi tinh thần đó, những kẻ tham nhũng lại bị dày vò bởi ý nghĩ "Liệu ta có thể quay trở lại làm người không? Và nếu như ta không thể quay trở lại làm người thì những đứa con của ta có thể quay trở lại làm người hay không trong khi nhân cách, trí tuệ và hoài bão của chúng đang được nuôi dưỡng bằng những đồng tiền nhơ bẩn?". Bản thân sự dày vò đó đã là hình phạt khủng khiếp nhất đối với những kẻ tham nhũng và do đó, nhiệm vụ của chúng ta không phải là chống tham nhũng bằng các biện pháp hình sự thông thường mà phải chống tham nhũng bằng cách xây dựng một cơ chế có khả năng khuếch đại sức mạnh của cảm giác bị truy đuổi đó. 

Như trong phần trước đã phân tích, những kẻ ăn cắp hoàn toàn khác với những kẻ tham nhũng; trong khi những kẻ ăn cắp còn biết quy phục trước sức mạnh của đạo đức thì những kẻ tham nhũng đã trở nên vô cảm trước những giá trị đạo đức. Thứ duy nhất khiến những kẻ tham nhũng khiếp hãi là những con thú mạnh hơn. Nhưng, liệu con người có thể sống và cảm thấy hạnh phúc hay không khi để tồn tại và tránh khỏi móng vuốt của những con thú nhỏ, họ phải nương tựa vào những con thú mạnh hơn. Con người không thể và không được phép làm như vậy bởi nếu không, họ sẽ biến mình trở thành miếng mồi của những con thú mạnh hơn. Tuy nhiên, con người cũng không thể tiêu diệt những con thú bởi ngay khi con người tiêu diệt những con thú thì con người cũng không còn là con người nữa. Vậy, phải chăng con người đã hoàn toàn bất lực trước hiện tượng tham nhũng và những kẻ tham nhũng? 

Xin được trả lời ngay rằng, vẫn còn có một liều thuốc khác để kìm chế hiện tượng tham nhũng – đó là xây dựng nền dân chủ. Chính nền dân chủ chứ không phải chế độ độc tài mới là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự phát triển của hiện tượng tham nhũng. Sự độc tài tự thân nó đã gắn liền với sự tha hoá quyền lực; đến lượt mình, nó sẽ không chỉ bắt đầu một hiện tượng tham nhũng mà còn khiến tham nhũng phát triển ở những quy mô lớn hơn với những mức độ trầm trọng hơn. Một số người đưa ra biện pháp công khai hoá nhưng chúng tôi hoàn toàn không tán đồng. Công khai hoá là gì? Công khai hoá là phủ lên tất cả những kẻ tham nhũng thứ ánh sáng ban ngày, thứ ánh sáng của sự trong sạch và những giá trị người cao quý và khiến tất cả chúng cùng lúc nhận ra rằng mình không phải là đối tượng duy nhất đã bị thú hoá, rằng quanh mình có không ít những kẻ đã bị thú hoá và nếu tập trung hết thảy những kẻ đã bị thú hoá lại, chúng sẽ có sức mạnh ghê gớm – sức mạnh của sự huỷ diệt. Do đó, nội dung khoa học của chương trình chống tham nhũng là phải chỉ ra thời điểm và mức độ công khai hoá thích hợp; nếu không, chính sự công khai hoá đó sẽ dồn những kẻ bị thú hoá vào đường cùng, chúng sẽ trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết bởi sự hành hạ và tra tấn của nỗi sợ và để tồn tại, chúng sẽ quay lại truy đuổi con người. Chính sách ân xá kinh tế cũng không phải là một biện pháp hiệu quả trong việc kiềm chế tham nhũng; nó chỉ là giải pháp để cứu nguồn vốn của xã hội và hợp thức hoá những giá trị đã bị "thú hoá"; nghĩa là, vì lợi ích của con người, chúng ta đã phải hợp thức hoá những giá trị đã "thú hoá" và tạo điều kiện cho những giá trị từng bị "thú hoá" đó quay trở lại đời sống. Chính sách ân xá kinh tế, do đó, chỉ giải quyết được phần nào những thất thiệt về mặt vật chất mà tham nhũng gây ra chứ không thể khắc phục được nó. Vì thế, chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc xây dựng nền dân chủ như một trong những cơ chế kiềm chế tham nhũng và làm trong sạch lại những giá trị đã bị "thú hoá".

Tuy nhiên, quá trình dân chủ hoá không thể diễn ra nhanh chóng. Lịch sử nhân loại đã chứng minh mọi nhà nước độc tài đều sụp đổ. Vì sự phát triển của xã hội loài người mà các thể chế dần dần được thay bằng thể chế dân chủ; quá trình dân chủ hoá đời sống loài người là một quá trình kiên nhẫn của lịch sử và những nghiên cứu xoay quanh quá trình kiên nhẫn ấy đã đưa đến kết luận: nền dân chủ là cơ chế duy nhất có thể khắc phục tất cả các hiện tượng tiêu cực, trong đó có hiện tượng tham nhũng.

N.T.B.

24 tháng 6, 2020

Kịch bản nào trong vụ Hồ Duy Hải sẽ cứu nền tư pháp Việt Nam? 


Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình tuyên thệ nhậm chức năm 2016 

Quốc Hội lên tiếng

Tại phiên họp toàn thể của Uỷ ban Tư pháp quốc hội ngày 16 tháng 6 với sự tham gia của gần 40 thành viên, đa số thành viên Uỷ ban Tư pháp kiến nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải, theo đúng thẩm quyền tại Điều 404 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Điều 404 nêu rõ, khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không biết được khi ra quyết định đó, nếu Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải mở phiên họp để xem xét lại quyết định đó.

Như vậy, để Hội đồng Thẩm phán mở phiên họp xem xét lại quyết định hôm 8 tháng 5 (không chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm), thì cần đến bốn cơ quan yêu cầu, kiến nghị.

Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Việt Nam nhận định:

“Vụ án đó giờ đã lên đến tột đỉnh rồi. Tranh chấp quyết liệt giữa Viện Kiểm sát Tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao. Bây giờ đương trình tới Quốc hội nên cũng đang chờ xem Quốc hội có ý kiến thế nào. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của nước CHXHCNVN có một vụ án lớn chuyện, đình đám như thế. Khả năng sẽ như thế nào thì cũng khó đoán!

Theo luật sư Trần Quốc Thuận, tại phiên giám đốc thẩm kết thúc hôm 8 tháng 5, tất cả 17 vị đều giơ tay đồng thuận từng vấn đề một, tất cả ba lần. Tất cả những người đó đều phải chịu trách nhiệm cá nhân cho quyết định của mình.

Nhà báo, nhà quan sát thời cuộc Nguyễn An Dân cho biết ông nghiên cứu sâu về cả luật pháp lẫn chính trị, và ông thấy rằng Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ phải đề nghị xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải. Sau đó tiến tới cải cách hệ thống tòa án tối cao bằng cách dần dần thuyên chuyển, xử lý kỷ luật từng người để giải tán Hội đồng Thẩm phán cũ, lập Hội đồng Thẩm phán mới tiến bộ hơn một chút. Đây là vấn đề tồn vong của chế độ. Ông phân tích:

“Hiện giờ đảng đang có nhu cầu chấn chỉnh tư pháp để giữ lại niềm tin của người dân. Không thì sụp đổ chế độ thật. Đảng không sợ những người ở giai tầng thấp cổ bé họng như anh Hồ Duy Hải biết đảng sai. Đảng chỉ sợ những người ở tầng lớp trung lưu, thị dân và giới có hiểu biết. Đây là giới là nền tảng, là chỗ dựa của bất kỳ chế độ nào chứ không chỉ chế độ cộng sản.

Nó sẽ có kịch bản diễn ra gần giống như cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp thời xưa. Khi giới trung lưu, thị dân và giới quý tộc họ không tin vào pháp luật của một nhà nước nữa thì đó là dấu hiệu sụp đổ của một nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam phải tránh điều đó.”

Vụ án Hồ Duy Hải bắt đầu xảy ra từ năm 2008, tức đã 12 năm. Nhưng từ sau phiên giám đốc thẩm, vụ án nóng chưa từng có. Nhiều bản kiến nghị ra đời, giới trí thức lên tiếng không chỉ cho sinh mạng một con người, mà còn cho cả nền tư pháp Việt Nam hiện nay. Họ nhận thức được rằng, nếu những phiên tòa bất chấp pháp luật, bất chấp luật tố tụng hình sự tiếp tục diễn ra mà được cấp cao nhất là Hội đồng Thẩm phán bao che thì mọi người dân Việt Nam đều là những “tử tù dự bị”, chứ không chỉ Hồ Duy Hải hôm nay.

Tối 14 tháng 5, một bản kiến nghị đòi công lý cho Hồ Duy Hải được công khai trên mạng xã hội đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập Ủy ban giám sát vụ án để đánh giá lại tính khách quan và chính xác của phiên giám đốc thẩm. Nếu phát hiện sai sót nghiêm trọng, Quốc hội tiến hành bãi nhiệm Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và các thành viên Hội đồng thẩm phán, bầu chánh án và phê chuẩn các thẩm phán mới.

Luật sư Đặng Đình Mạnh nhận định về hành động của Ủy ban Tư pháp Quốc hội chiều 16 tháng 6 về vụ án Hồ Duy Hải:

“Việc này thì có lẽ ban đầu Hội đồng Thẩm phán cũng không ngờ cái phản ứng của công luận nó lớn và sâu rộng đến mức độ như vậy. Nhưng sau nhưng phản ứng như vậy và sau động tác của Ủy ban Tư pháp Quốc hội thì tôi nghĩ họ phải xem lại vấn đề. Nếu họ không xem lại thì chắc bên đảng cũng phải xem lại. Mà khi đảng xem lại thì vấn đề sẽ phải thay đổi.
Nó cần phải có sự thay đổi quan điểm, cần có sự tác động đúng, một sự quyết tâm về chính trị. Mà sự quyết tâm này lại không nằm ở ngành tòa án. Nó nằm bên phía Ba Đình, là cơ quan đầu não của tổ chức đảng.”

Kết quả sẽ ra sao?

Để Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao mở phiên họp để xem xét lại quyết định hôm 8 tháng 5 theo Điều 404 BLHS thì cần đến bốn cơ quan yêu cầu, kiến nghị. Đó là Ủy ban thường vụ Quốc hội; Ủy ban tư pháp của Quốc hội; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Kết quả chưa biết ra sao nhưng theo ghi nhận của RFA thì dư luận không tin sẽ có một kết quả công bằng cho Hồ Duy Hải nếu Hội đồng Thẩm phán vẫn giữ nguyên nhân sự như hiện nay.

Luật sư Trần Quốc Thuận nêu quan điểm của ông:

“Nếu bây giờ có ngồi xét xử lại thì không thể chỉ thay ông chủ tọa mà phải thay hết 17 người đó. Trong luật tổ chức cũng như trong Hiến pháp chưa có dự liệu đó. May ra thì để cho ‘dịu’, mọi người tự hiểu với nhau thì ông Chủ tịch nước sẽ tuyên bố giảm án tử hình xuống chung thân. Chung thân mà được giảm án xuống 20 năm, thi hành án được 20 năm thì được ra.”

Nhà báo Nguyễn An Dân thì khẳng định, nếu vẫn duy trì 17 vị này thì việc xem xét lại quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải không còn quan trọng nữa. Những người đang quan sát đảng về việc này họ mong muốn một điều cao hơn, đó là sự cải tổ toàn diện ngành tòa án Việt Nam. Xa hơn nữa là cải tổ các hoạt động của tư pháp Việt Nam. Họ đấu tranh cho Hồ Duy Hải vì nhìn thấy rằng, hôm nay bắn được Hải thì ngày mai sẽ bắn được họ. Ông dự đoán:

“Sau này Giám đốc thẩm sẽ hủy quyết định lần trước và đưa vụ này về tòa án Long An xét xử lại từ đầu. Lúc đó tòa án Long An sẽ nhận được “mật chỉ” và sẽ xử lại công tâm và khách quan. Nó không liên quan đến vấn đề của tòa án tối cao. Trong lúc đó người ta tiếp tục cải tổ hệ thống tòa tối cao.”

Luật sư Đặng Đình Mạnh đưa ra một kịch bản mà ông gọi là một “kịch bản hoàn hảo” cho vụ này:

“Theo kịch bản này, có thể cơ quan tư pháp, tức ngành tòa án vẫn sẽ kiên quyết giữ bằng được quan điểm của mình. Khi đó Hồ Duy Hải chỉ còn một cửa duy nhất là xin Chủ tịch nước ân xá. Khi ân xá như vậy là mặc nhiên chấp nhận mình có tội. Sau đó ông Nguyễn Phú Trọng với tư cách là chủ tịch nước sẽ ban hành lệnh ân xá.

Với lệnh ân xá như vậy thì rõ ràng cơ quan tư pháp vẫn giữ được thể diện của mình là không chấp nhận sai và công chúng thì phần nào thỏa mãn là Hồ Duy Hải thoát án tử hình.”

Một số cột mốc đáng chú ý của vụ án xin được nhắc lại: Năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bác đơn xin ân xá của Hồ Duy Hải. Năm 2014, trước phản đối của dư luận trong nước và quốc tế cũng như Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ra lệnh tạm dừng thi hành án tử hình đối với Hồ Duy Hải.

Công lý cần được thi hành là mong muốn của mọi người quan tâm đến vụ án Hồ Duy Hải!
 
(RFA)

Nông dân vẫn là giới bị bóc lột tàn tệ nhất tại Việt Nam 


Sau bao nhiêu năm với bao nhiêu kế hoạch “tam nông,” giới nông dân vẫn là lớp người bị bóc lột tàn tệ nhất tại Việt Nam.

Nông dân gặt lúa tại một khu vực nông nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Hôm Chủ Nhật, 7 Tháng Năm, ông Nguyễn Như Cường, cục trưởng Cục Trồng Trọt của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn CSVN được tờ Dân Việt dẫn lời: “Một hộ gia đình muốn trồng lúa dư giả, khấm khá thì phải có quy mô 5ha trở lên, còn một hộ nông dân có 10ha trồng lúa thì có thể làm giàu.”

Sau những thập niên tước đoạt quyền tư hữu, đẩy cả nước vào vòng đói kém phải ăn bo bo, cơm độn, nhà cầm quyền CSVN buộc lòng phải trả dần quyền mưu sinh kinh tế cho dân chúng. Đất nước từ cuối thập niên 1980 từ từ gượng lại với sự hậu thuẫn của các định chế tài trợ quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới (WB), Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB) cùng một số chính phủ cấp viện.

Hơn hai chục năm trước, chế độ Hà Nội đã đưa ra kế hoạch “tam nông” (nông nghiệp, nông dân, nông thôn) nhằm biến ba phần tư dân số cả nước thoát đói nghèo với sự hậu thuẫn quốc tế.

Nhưng cái điệp khúc “được mùa rớt giá” cứ lập đi lập lại, ngay cả năm “được mùa được giá” thì người nông dân cuối mùa thu hoạch, trả nợ xong tiền vay làm mùa, cũng chỉ còn tí gạo chuẩn bị mùa vay mới, vòng xoáy mới, nghèo vẫn hoàn nghèo.

Những năm gần đây, nhà cầm quyền CSVN bàn tính tới chuyện cho các tư bản đỏ “tích tụ ruộng đất” để có thể phát triển nông nghiệp theo hướng quy mô, áp dụng các phương pháp canh tác cơ khí, kỹ thuật để tăng năng suất và hiệu quả đầu tư. Nếu chương trình này được thúc đẩy, giới nông dân sẽ trở thành những kẻ làm thuê trên cánh đồng hoặc phải tha phương cầu thực.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn CSVN thống kê hồi năm 2017, cả nước có 10 triệu hộ nông dân, với 70 triệu mảnh đất nông nghiệp. Diện tích trung bình hộ nông nghiệp chỉ đạt khoảng 0.46 ha, trung bình được chia thành 2.83 mảnh. Tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam, dân đông đất hẹp nên diện tích ruộng của một gia đình nông dân lại còn nhỏ bé hơn nữa.

Cũng vì vậy, nhiều tỉnh hàng năm đều phải xin nhà cầm quyền trung ương cấp gạo “cứu đói giáp hạt.” Trong khi chờ thu hoạch vụ mùa thì nhà chẳng còn hột gạo nào để ăn, gặp cơn bão lụt ập đến lại còn thê thảm hơn nữa.

Theo tờ Dân Việt ngày mùng 2 Tháng Sáu, “Hiện, các tỉnh ĐBSCL bắt đầu thu hoạch lúa hè thu, giá lúa đầu vụ tương đối cao. Tại Đồng Tháp, giá bán lúa tươi vụ hè thu 2020 tại ruộng cao hơn vụ đông xuân 2019-2020 từ 1,000 đến 1,200 đồng/kg. Đối với lúa IR50404 với giá 5,517 đồng/kg và lúa chất lượng cao giá 6,000 đồng/kg.”
Lúa phơi khô ngay trên cánh đồng được dồn vào bao. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Theo nông dân trồng lúa, mức giá này đang cao hơn 1,000 đồng/kg so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi trừ hết chi phí lúa hè thu lãi hơn 30 triệu đồng/hécta. Nhưng đại đa số nông dân chỉ có một vài công đất thì làm gì có số tiền vừa kể.

Ngày mùng 5 Tháng Năm, tờ Lao Động dẫn chứng cho thấy hàng triệu người ngày ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” sản xuất nuôi chế độ, khổ cực như thế mà được đền bù ra sao, qua lời kể của người nông dân “được mùa, được giá.”

“Lấy quyển sổ ghi chép ra tính toán lại, ông Võ Thành Đông (54 tuổi, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ) cho biết: Vụ lúa đông xuân vừa rồi, gia đình ông trồng 1ha lúa hạt dài, thu hoạch cho năng suất khoảng 6 tấn, giá bán được 4,800 đồng/kg. Sau khi trừ mọi chi phí, trung bình mỗi công, ông Đông lãi khoảng 3 triệu đồng (30 triệu/hécta).”

“Năm nay trồng lúa ai cũng trúng, lãi ít hay nhiều tùy vào năng suất, giá bán từng thời điểm khác nhau. Nếu vụ hè thu tới mà trúng tiếp, tui ước tính sẽ thu lãi tiếp 30 triệu đồng nữa. Một năm làm 2 vụ, coi như lãi 60 triệu đồng,” ông Đông phấn khởi cho biết.

Tờ Lao Động làm con tính: “Thu nhập 60 triệu đồng/12 tháng. Tính ra mỗi tháng ông Đông có 5 triệu đồng. Tuy nhiên, đây chưa phải là con số cuối cùng. Để có được thành quả trên đồng ruộng, không chỉ ông Đông mà còn có mồ hôi và công sức của vợ ông và đứa con trai út. Nếu tính cả 3 người thì mỗi tháng thu nhập của họ chỉ hơn 1.5 triệu đồng, thấp hơn cả lương của một công nhân thử việc.

(Người Việt)

TS. Phạm Quý Thọ - Đại hội 13: Vấn đề Biển Đông: ‘điểm mới’ trong Báo cáo chính trị có tạo nên tư duy chiến lược? 


Truyền thông nhà nước gần đây cho biết một trong ‘điểm mới’ của Dự thảo Báo cáo chính trị – văn kiện quan trọng trình Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam dự kiến tổ chức vào đầu năm 2021 là ‘vấn đề biển đông’.

Thiếu chiến lược toàn diện về biển khiến đất nước đã không thể ‘mạnh về biển’. Trong lịch sử là tư duy ‘ứng phó’ về chống xâm lược từ biển và trong thời bình là ‘tư duy kinh tế’ bị níu kéo bởi ý thức hệ XHCN là nguyên nhân quan trọng. Nay trong bối cảnh Trung Quốc trỗi dậy, tham vọng địa chính trị, hung hăng tại Biển Đông và một ‘trật tự thế giới mới’ đang hình thành, Việt Nam cần thay đổi tư duy để xây dựng chiến lược biển xứng tầm.

Liệu tư duy chiến lược về Biển Đông có là quyết sách tại Đại hội 13?

‘Tư duy ứng phó’

Việt nam là quốc gia có chiều dài bờ biển hơn 3000 km, có thể gọi quốc gia biển, thế nhưng thay vì ‘một tư duy chiến lược chủ động’, thì thực tế lịch sử phản ánh ‘tư duy ứng phó’ với những đặc trưng trong thời chiến là ‘phòng thủ’ và trong thời bình là ‘kinh tế’.

Bối cảnh thể chế có sự tương đồng với Trung Quốc trong suốt lịch sử hơn nghìn năm là phong kiến tập quyền và hiện nay là chế độ cộng sản toàn trị, ngoại trừ hơn 20 năm đất nước bị chia cắt (1954-1975). Đây là đặc điểm có ảnh hưởng lớn đến tư duy về biển.
Mới đây, cuối năm 2019 bãi cọc gỗ, được tìm thấy ở huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, có liên quan đến trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Khảo cổ ‘các di tích bãi cọc’ phản ánh các trận địa bãi cọc, từng được bày bố tại các nhánh của sông Bạch Đằng để phục vụ mục đích quân chống xâm lược từ biển. Trong đó có trận chiến chống quân Nam Hán năm 938 trên sông Đá Bạch (Bạch Đằng) do Ngô Quyền lãnh đạo, chiến tranh Tống–Việt năm 981 dưới thời nhà Tiền Lê và trận Bạch Đằng chống quân nhà Nguyên Mông năm 1288 dưới thời nhà Trần.

Trong thời chiến tranh chống đế quốc các biến cố như ‘‘Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958’, ‘Hải chiến Hoàng Sa’ và ‘Đá Gạc Ma’ thuộc quần đảo Trường Sa đã phản ánh âm mưu và dã tâm của chính quyền Trung Quốc lợi dụng niềm tin ‘ngây thơ’ về ý thức hệ và tình hình phức tạp để chiếm đoạt Biển Đông. Các biến cố này là sự trả giá đắt, làm tổn thương truyền thống bảo vệ chủ quyền của dân tộc Việt Nam.

Trong thời bình, những năm gần đây Việt Nam đã đề cập về chủ trương xây dựng một quốc gia ‘mạnh về biển’ nhưng thường gắn với phát triển kinh tế biển, mang nặng kiểu ‘tư duy kinh tế’. Năm 1997 Đảng CS ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, mười năm sau, năm 2007, mới có Nghị quyết số 09-NQ/TW “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Tuy nhiên những dự đoán sai về tình hình ‘thế kỷ 21’ với cách tiếp cận thiếu toàn diện về biển đã không thể có một chiến lược kinh tế biển phù hợp. Sai lầm của chính sách tăng trưởng ‘nóng vội’ cộng với quản lý kinh tế yếu kém đã để lại hậu quả thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và bất ổn vĩ mô. Các tập đoàn hàng hải như Vinashin, Vinalines… bị phá sản, việc xây dựng tràn lan các bến cảng to nhỏ dọc bờ biển gây nên sự lãng phí lớn vốn đầu tư công…

Để ‘sửa chữa’ sai lầm trên một ‘nỗ lực chính sách’ về biển được thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội 12 (2016-2021). ‘Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045’ được ban hành theo Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Trên cơ sở đó, tháng 3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm để cụ thể hoá ‘chiến lược kinh tế biển’ nêu trên. Tính khả thi của chiến lược này đang gặp thách thức trước bối cảnh thế giới thay đổi và Trung Quốc tham vọng địa chính trị tại Biển Đông.

‘Tư duy chiến lược biển’

Một trong những nguyên nhân không thể trở thành quốc gia ‘mạnh về biển’, phát triển kinh tế biển như nêu trong các nghị quyết của Đảng là tư duy chiến lược biển đã không theo kịp thời đại, và ngoài ra, có phần bị níu kéo bởi ý thức hệ.

Trước hết, Mỹ và các nước Phương Tây đã nhận ra sự sai lầm và hậu quả của ‘chính sách can dự’ của Trung Quốc, theo đó trong bối cảnh toàn cầu hoá – Mỹ, ‘bỏ qua’ sự khác biệt ý thức hệ, đã mở rộng quan hệ kinh tế với sự tham gia của Trung Quốc với quan niệm rằng tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy dân chủ. Từ thời Tổng thống Barack Obama Mỹ đang thực thi chính sách ‘xoay trục’ sang Châu Á và Tổng thống Donald Trump phát động thương chiến Mỹ – Trung. Cuộc chiến này ngày càng leo thang căng thẳng sang mọi lĩnh vực và hiện hữu nguy cơ biến thành cuộc chiến tranh lạnh 2.0.

Ngoài ra, đại dịch COVID-19 đang đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái sâu nhất so với các cuộc khủng khoảng kinh tế trong một thế kỷ qua. Chuỗi cung ứng toàn cầu đứt, gãy khiến các nước nhận ra sự phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc không chỉ hàng hoá thông thường mà cả thiết yếu như y tế và thuốc chữa bệnh. Quan hệ thương mại có thể thay đổi, các nước đang thay đổi chính sách hướng đến tự chủ. Cuộc gặp thượng đỉnh EU và Trung Quốc trong tháng 6/2020 không có tuyên bố chung, khi lãnh đạo EU công bố sách trắng về bảo vệ thị trường và nhấn mạnh rằng Mỹ vẫn là đối tác số 1 và Trung Quốc chỉ là bạn hàng cần thiết. Các nhà nghiên cứu đang phân tích sự thoái trào của toàn cầu hoá và dự báo ‘một trật tự thế giới mới’.

Hơn thế, chính quyền Trung Quốc, lợi dụng đại dịch COVID-19 bắt nguồn từ Vũ Hán lan rộng toàn cầu, số ca lây nhiễm và số tử vong tăng nhanh và các quốc gia đang bị động đối phó vì chưa có vaccine, đã thể hiện chính sách ngoại giao ‘lang sói’, như kiểu đe doạ và trừng phạt kinh tế với nước Úc, khi thủ tướng nước này đề xuất ‘một cuộc điều tra độc lập về sự khởi phát đại dịch’. Bản chất hung hăng của chế độ độc tài hiện hữu trong quan hệ chính trị và thương mại quốc tế.

Việt Nam có thể đứng trước nguy cơ bị ‘phong toả bán phần’ với thế giới văn minh từ Biển Đông bởi tham vọng địa chính trị của Trung Quốc. Quốc gia này đã trỗi dậy mạnh mẽ trong hơn một phần ba thế kỷ để trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực tối cao để thực hiện ‘giấc mộng Trung Hoa’.

Từ năm 2013 đến nay chính quyền Bắc Kinh đã có nhiều động thái hung hăng trên Biển Đông, sử dụng đường ‘tự vẽ’ là ‘đường chín đoạn’, vi phạm Công ước về Luật Biển 1982, quân sự hoá và hành chính hoá các đảo chìm nổi, xâm phạm chủ quyền biển đảo và đe doạ dùng vũ lực đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Ngoài ra, theo các nhà quan sát, vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) được đề xuất bao trùm cả 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, là ‘âm mưu có chủ đích’ của chính quyền Bắc Kinh chỉ đang chờ thời điểm thích hợp để công bố.

Tuy có thái độ ‘cứng rắn’ hơn trước những hành động của chính quyền Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh hải, uy hiếp các giàn khoan dầu khí, đâm chìm tàu thuyền đánh cá của ngư dân… Việt Nam đang đứng trước sự lựa chọn khó khăn giữa ý thức hệ, sự lệ thuộc kinh tế và đe doạ chủ quyền, giữa liên kết với Mỹ, các nước Phương Tây vì ‘đảm bảo tự do hàng hải’, phát triển thương mại, thu hút đầu tư và các giá trị dân chủ, nhân quyền.

Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh hiện nay Việt Nam cần có tư duy chiến lược biển với một tầm nhìn toàn diện và các chính sách đột phá. Một số điểm chủ yếu, theo tôi, tư duy chiến lược biển cần hướng đến:

Một là, chiến lược phát triển đất nước đến 2045 dự kiến được quyết định trong đại hội 13 cần coi chiến lược biển phải là bộ phận thiết yếu dựa trên sự thay đổi tư duy về biển trong tình hình mới. Củng cố và cụ thể hoá quan điểm phát triển kinh tế với quyết tâm bảo vệ chủ quyền căn cứ trên luật biển quốc tế;

Hai là, Việt Nam, mặc dù tương đồng về ý thức hệ, nhưng không lệ thuộc vào nó để trở thành ‘đồng minh’ của Trung Quốc, mà khẳng định sự độc lập và quyết tâm gìn giữ chủ quyền. Ngoài ra, cần nhận thức rõ hơn ý thức hệ giáo điều bảo thủ thường gây nên hiệu ứng ngược đối với các nhà đầu tư, cản trở quá trình cải cách hệ thống chính trị theo hướng phù hợp với thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế;

Ba là, xây dựng các phương án chính sách để dần hạn chế sự phụ thuộc kinh tế, đồng thời đón nhận làn sóng dịch chuyển đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc. Các chính sách như vậy cần dựa vào cộng đồng doanh nghiệp và sự tham gia rộng rãi của người dân để có sự đồng thuận và huy động nguồn lực xã hội;

Bốn là, nhận thức rõ hơn sự thay đổi địa chính trị trên thế giới, cân nhắc ảnh hưởng từ chính sách ‘xoay trục’ của Mỹ sang châu Á để có đối sách phù hợp về an ninh, ngoại giao để hạn chế ‘sự phong toả’ từ ‘chiến lược biển’ của Trung Quốc;

Năm là, thúc đẩy cải cách thể chế theo hướng dân chủ nhằm tăng hiệu quả của ‘chính sách Việt Nam can dự’, coi trọng việc thực hiện thực chất các cam kết cải cách trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) và đầu tư (IPA) với các nước phát triển. Tuy nhiên, trong các hiệp định ký kết với Liên minh Châu Âu thì các điều khoản về quyền lao động, lập hội đoàn và bảo vệ môi trường trong EVFTA và IPA được đề cao…

Tư duy chiến lược biển có tầm quan trọng để Việt Nam tái định vị trên bản đồ thế giới trong thế kỷ 21. Liệu ‘vấn đề Biển Đông’ trong Báo cáo chính trị, được coi là ‘điểm mới’ có đề cập đến một tư duy xứng tầm làm cơ sở để xây dựng một chiến lược biển?

Phạm Quý Thọ gửi từ Hà Nội

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

(RFA)