Đồng Tâm và Ô Khảm, thuộc hai quốc gia của một chế độ
fb Jackhammer Nguyễn 12-1-2020 - Đồng Tâm là một làng quê nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, Việt Nam. Ô Khảm là một làng đánh cá ngoại thành Quảng Châu, Trung Quốc. Ngày 9/1/2020, công an Việt Nam ập vào làng Đồng Tâm, đàn áp bắt đi ba mươi người, giết chết một người, chấm dứt sự tồn tại của Tổ đồng thuận chống tham nhũng Đồng Tâm. Ngày 13/9/2016, công an Trung Quốc tràn vào làng Ô Khảm, bắt bớ đánh đập, chấm dứt sự tồn tại trong gần năm năm một chính quyền được dân bầu lên. Cả hai vụ nổi dậy và bị đàn áp tại Đồng Tâm và Ô Khảm giống nhau ở bản chất, đều bắt đầu bằng những vụ cưỡng đoạt đất đai, dựa trên nguyên tắc cộng sản, “đất đai là sở hữu toàn dân”.
Ảnh trên: Người dân Đồng Tâm (VN) mang cờ, biểu ngữ phản đối quan tham cướp đất năm 2017. Ảnh dưới: Dân Ô Khảm (TQ) với cờ xí rợp trời, phản đối quan tham và ủng hộ ông Lâm Tổ Loan.
Ô Khảm
Vào năm 2011, hàng ngàn người dân làng Ô Khảm biểu tình tố cáo các cán bộ xã, huyện, đã lấy đất của họ bán cho các doanh nghiệp để kiếm lời. Các cán bộ sau đó bị cách chức, và Bắc Kinh đồng ý cho dân chúng Ô Khảm bầu cử trực tiếp những chức vụ trong xã. Ông Lâm Tổ Loan, một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành người đứng đầu Ô Khảm vào năm 2012.
Từ 2012 đến 2016, ông Lâm tiếp tục đại diện cho dân làng đòi đất đai. Tháng 9/2016 ông bị bắt với tội nhận hối lộ và bị xử tù ba năm. Dân Ô Khảm nói ông không có tội gì. Một cuộc biểu tình bùng nổ và bị đàn áp mạnh, có người phải bỏ trốn ra nước ngoài.
Đồng Tâm
Năm 2014, dân làng Đồng Tâm bắt đầu phản đối việc trưng thu đất đai, giao cho công ty Viettel kinh doanh. Đỉnh điểm của sự xung đột là vụ dân làng bắt hàng chục công an làm con tin vào tháng 4/2017. Hà Nội phải thương lượng việc trao trả con tin, hứa không truy tố dân làng. Sau đó các cán bộ xã, huyện bị cách chức vì “những sai phạm trong quản lý đất đai”.
Một Tổ đồng thuận chống tham nhũng được thành lập do ông Lê Đình Kình, một đảng viên cộng sản “lão thành” đứng đầu, tiếp tục đòi đất. Trong cuộc đàn áp ngày 9/1/2020, ông Lê Đình Kình bị giết chết.
Hai quốc gia một chế độ
So sánh Ô Khảm và Đồng Tâm, chúng ta thấy có một diễn biến, dù tên gọi có khác nhau nhưng bản chất rất giống nhau. Đó là quyền lực của chính quyền trung ương bị mất ở cấp làng xã. Chính quyền Quảng Đông mất quyền kiểm soát đối với chính quyền do dân bầu lên ở Ô Khảm. Chính quyền Hà Nội không thể kiểm soát được Tổ đồng thuận của ông Lê Đình Kình, mà rất nhiều người dân nghe theo Tổ đồng thuận này. Trên thực tế Tổ đồng thuận chống tham nhũng đã trở thành một chính quyền De Facto.
Việc này không thể chấp nhận được đối với thể chế cộng sản.
Kết quả đàn áp, có thể có những nguyên nhân, âm mưu cấp địa phương khác nhau, nhưng là điều không thể tránh khỏi cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.
Một điều rất giống nhau nữa là sự phản kháng của dân làng Ô Khảm và dân làng Đồng Tâm đều nhân danh Đảng Cộng sản. Chúng ta thấy cờ đỏ treo đầy tại Đồng Tâm trong những cuộc biểu tình, đằng sau những chiến lũy phòng thủ. Tại Ô Khảm những cuộc biểu tình cũng rợp cờ đỏ với lời tung hô Đảng Cộng sản Trung Quốc muôn năm. Cả hai ông Lâm Tổ Loan và Lê Đình Kình đều là những… đảng viên trung kiên.
Hơn bất cứ cuộc cách mạng nào, cuộc cách mạng cộng sản ăn thịt nhiều nhất những đứa con của nó.
Cả trong hai sự việc, chúng ta đều thấy sự không khoan nhượng của thể chế với những người dân, những đảng viên của chính đảng cộng sản, cả gan bất bình với thể chế, cả gan thoát khỏi sự kiểm soát của nó, và trên hết, lại tạo ra những tổ chức mà đảng cộng sản không kiểm soát được.
Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc nhiều lần, Đồng Tầm nhỏ hơn Ô Khảm nhiều lần, nhưng sự tàn ác và khốc liệt không hề nhỏ hơn. Ô Khảm chỉ có tù nhân, còn Đồng Tâm có cả xác chết. Sự tàn bạo còn thể hiện ở chỗ là mặc cho sự bất bình của dân chúng, sự tàn khốc của biến cố, những người cộng sản Việt Nam ngay lập tức vinh danh những viên công an mất mạng trong cuộc đàn áp, một cái tát dằn mặt bất cứ người Việt Nam nào cả gan chống Đảng Cộng sản.
Khi ông Nguyễn Đức Chung vào Đồng Tâm hứa hẹn, nhiều người dân đã tin tưởng. Khi Bắc Kinh cho phép Ô Khảm bầu cử tự do, nhiều người Trung Quốc tin rằng sẽ có thay đổi. Nhưng ngay khi vụ Ô Khảm bùng nổ năm 2011, một giáo sư Mỹ tại Wisconsin có nói, sẽ không có thay đổi gì cả, khi đất đai vẫn là sở hữu toàn dân.
Nhưng nếu đất đai không là sở hữu toàn dân nữa, thì liệu thể chế cộng sản và bản thân đảng cộng sản có còn không?
Jackhammer Nguyễn, từ San Francisco
19 tháng 1, 2020
Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 2: Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an LHQ
(TNO) Giới chức ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã xúc tiến các nỗ lực đưa vấn đề Hoàng Sa ra các tổ chức quốc tế, song bất thành.
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin - Ảnh: Digital Journalist
Trong điện tín gửi về Bộ Ngoại giao ngày 20.1.1974, Đại sứ Mỹ Graham Martin cho biết Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã gặp ông để thảo luận về “tình hình rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, chính quyền Sài Gòn đã kết luận rằng việc sử dụng biện pháp quân sự, kể cả không quân, để tái chiếm Hoàng Sa là không khả thi trước sự vượt trội về sức mạnh của quân Trung Quốc. Do vậy, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho ông Bắc thực hiện một số bước đi ngoại giao để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
“Ông Bắc nói với tôi rằng trong tình huống nghiêm trọng này, Tổng thống Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ, người bạn và đồng minh thân thiết nhất của VNCH. Ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ các sáng kiến ngoại giao khác nhau mà VNCH dự định tiến hành”, ông Martin viết.
Nỗ lực ngoại giao
Cụ thể, theo ông Martin, các bước đi mà Sài Gòn dự định thực hiện gồm: thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ) và Tổng thư ký LHQ về cuộc tấn công của Trung Quốc ở Hoàng Sa; kiến nghị đến Hội đồng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO); cân nhắc đưa tranh chấp ra Tòa án Công lý Quốc tế. Ngoài ra, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc cũng được lệnh thông báo sự việc cho các bên ký kết Định ước của Hội nghị quốc tế về Việt Nam (định ước đảm bảo việc thực thi Hiệp định Paris), với lý do Trung Quốc, một thành viên ký kết định ước, đã vi phạm Hiệp định Paris, vốn quy định mọi quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngoại trưởng Bắc cũng triệu tập ngoại giao đoàn để thông báo về tình hình và đề nghị chính phủ các nước ủng hộ VNCH.
Ngày 20.1.1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ, yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa tình hình và chấm dứt việc xâm lược”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an bởi Trung Quốc vốn là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ và tư cách đại diện còn là vấn đề gây tranh cãi.
Đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali nhận định trong một bức điện gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó: “Dự định đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất kỳ lợi thế nào”.
“Tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”, đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali viết.
Kết quả bất lợi
Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 1: Bàn cờ nước lớn
(TNO) Hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn 40 năm.
Thủ tướng Trung Quôc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thông Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyên thăm lịch sử năm 1972 - Ảnh: Corbis
Câu hỏi liệu có sự thông đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1.1974 vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát sau 40 năm. Tuy nhiên, mối quan hệ mới được vun đắp giữa hai nước vào lúc đó cũng như thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa chắc chắn góp phần khuyến khích Trung Quốc mạnh dạn thôn tính trọn vẹn quần đảo của Việt Nam.
Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua gợi ý Washington đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa (VNCH) không được “manh động” trong vấn đề Hoàng Sa nhằm bảo vệ "thời kỳ trăng mật" trong quan hệ với Trung Quốc.
Như một sự trớ trêu, Liên Xô lại là một trong những quốc gia tỏ ra thông cảm với VNCH trong vụ Hoàng Sa, qua việc chỉ trích Trung Quốc, dù chỉ để phục vụ mục đích tuyên truyền chống Bắc Kinh vào lúc đó. Ngược lại, bằng một thái độ lạnh nhạt, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục Sài Gòn không đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa đã được một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc mô tả bằng một câu nói mỉa mai rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới”.
Bối cảnh quốc tế
Hải chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô - Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất đồng sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.
Cuộc đụng độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, với cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh tiến hành chương trình hiện đại hóa quân đội lớn, kêu gọi phát triển hải quân viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển. Điều này mang lại cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống biển Đông. Trong khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris ký kết tháng 1.1973.
Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định đánh chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế hoạch kỹ càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức điện tín được Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.
Thái độ của Mỹ
Tháng 11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH, Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH đã cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và tàu bè đến vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng, vi phạm trắng trợn chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19.1, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.
Trong cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày 23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.
“Chính quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như SEATO cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không liên kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ. (Còn tiếp)
Đăng bởi: Kiên Phạm on Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019 | 24.12.19
Như đã nói ở kỳ trước, luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa miễn phí cho hai bị cáo Nguyễn Thúy Hằng và Nguyễn Thị Thanh Thúy trong vụ án “Hiệu trưởng mua dâm” có liên quan đến hàng loạt quan chức tại Hà Giang, trong đó có ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô.
Tô Huy Rứa (trái) ghi sổ tang trong tang lễ ông Hồ Đức Việt.
Phẫn nộ vì cho rằng Tô Huy Rứa can thiệp thô bạo đến các quyền được hiến định của các cơ quan báo chí, ngày 11/7/2010, luật sư Trần Đình Triển đã gởi thư đến đích danh Tô Huy Rứa.
Nội dung thư cho biết, Văn phòng Luật sư Vì Dân đã nhận được tin báo, vào ngày 9/7/2010, Tô Huy Rứa với tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã gọi điện thoại mời đại diện cơ quan chủ quản một số báo chí và Tổng biên tập một số báo tới, để yêu cầu không được đăng tải thông tin về vụ việc liên quan đến ông Nguyễn Trường Tô.
Luật sư (LS) Triển cho rằng, vụ việc ông Nguyễn Trường Tô không thuộc bí mật quốc gia, do đó báo chí phải được phép đưa tin và yêu cầu ông Tô Huy Rứa phải trả lời và làm rõ sự việc trên. Nếu việc cấm cản báo chí là thật, luật sư sẽ khởi kiện ông Rứa trước các tổ chức của Đảng và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhằm xem xét tư cách Đảng viên, cũng như có hay không việc vi phạm pháp luật của ông Tô Huy Rứa.
Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử đảng cộng sản, một luật sư “dám” gởi thư chất vấn đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tuyên giáo đầy quyền lực, một người có khuôn mặt lạnh lùng và “bàn tay thép” như Tô Huy Rứa.
Còn nữa, LS Triển còn đòi đưa ông ta ra điều trần trước tổ chức đảng. Điên tiết, nhưng Tô Huy Rứa đành chịu, dù trong nhiều cuộc họp sau đó, Tô Huy Rứa thường nhắc đến tên luật sư Triển như một cái gai trong mắt mình.
Tô Huy Rứa có “ớn” LS Trần Đình Triển không? Có. Thật ra, Trần Đình Triển cũng không phải dạng vừa. Ông xuất thân là một sĩ quan của Học viện An ninh, là Tiến sĩ luật, không “hoạt động dân chủ”, không đứng theo phe nhóm chính trị. LS Trần Đình Triển đưa ra tinh thần phụng sự, tôn chỉ hoạt động tư vấn rõ ràng:
– Bảo vệ đảng,
– Bảo vệ pháp luật,
– Bảo vệ nhân dân,
– Bảo vệ công lý và lẽ phải.
Vì thế, không có bất cứ lý do gì để Tô Huy Rứa “đập” được Trần Đình Triển. Chưa kể, Rứa sợ có thể có thế lực khác phía sau “cung đình” chống lưng cho Triển, khi mà đại hội XI chỉ còn hơn 5 tháng nữa sẽ khai mạc và tương lai tái cử rồi tiếp tục tiến xa với Rứa, là rất lớn. Tô Huy Rứa không dại gì đâm đầu vào đá, vì vậy như cách các cô hoa hậu, diễn viên mỗi khi tránh thị phi, scandal trong giới showbiz, Rứa chọn cách… im lặng.
Vụ án rúng động đã khép lại. Sầm Đức Xương, kẻ “dắt gái” cho các quan chức hàng đầu Hà Giang, lãnh án 9 năm tù. Nguyễn Trường Tô bị khai trừ khỏi đảng, nghỉ hưu và xây một biệt phủ rộng hàng chục ngàn mét vuông, kinh phí hàng trăm tỉ đồng, ở ngay tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang để “vui thú điền viên”. Số quan chức còn lại không hề bị truy tố hay xử lý kỷ luật. Thế mới biết, công lý có khi chỉ là… diễn viên hài!
Sau vụ bê bối này, vị Bí thư tỉnh ủy Hà Giang là Hoàng Minh Nhất cũng nghỉ hưu. Người thay Nhất là Triệu Tài Vinh, sinh 1968. Triệu Tài Vinh đã xây dựng “đế chế” cả họ làm quan và đóng dấu sự nghiệp làm quan, với vụ mua bán, gian lận điểm thi trong kỳ thi quốc gia gây phẫn nộ, rung chấn và bàng hoàng chưa từng có, kể từ khi cái tên nước Việt Nam bắt đầu ra đời.
Ông Hồ Đức Việt
Từ sau đại hội X, nhiệm kỳ 2006-2011 với sự tái đắc cử chức Tổng bí thư của Nông Đức Mạnh và tân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận nhiệm vụ, quyền lực bao trùm tất cả, chính thức thuộc về “cặp đôi” này. Vì thế, hàng chục dự án ngàn tỉ làm ăn bệ rạc, tham nhũng tràn lan, một nền kinh tế bê bết… nhưng luôn được che đậy. Thậm chí các đại án như PMU18, Vinashin, Vinalines cũng “xoay chiều”, rơi vào ngõ cụt…
Là Bí thư Trung ương và là Trưởng ban Tuyên giáo, được bổ sung vào Bộ Chính trị từ cuối năm 2009, Tô Huy Rứa hiểu rõ độ chênh của cán cân quyền lực hiện tại, cho nên Rứa đứng về phía Ba Dũng.
Đại hội XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Nông Đức Mạnh rời khỏi chính trường ở tuổi 71, người ngồi vào ghế Tổng bí thư là Nguyễn Phú Trọng, sinh 1944.
Theo các cán bộ cấp cao và giới thạo chính trường, lẽ ra chiếc ghế Tổng bí thư đã thuộc về Hồ Đức Việt (sinh 1947). Hồ Đức Việt là cháu nội “khai quốc công thần” Hồ Tùng Mậu và là con trai của liệt sĩ Hồ Mỹ Xuyên, phó bí thư Tỉnh ủy Nghệ An. Hồ Đức Việt là ứng cử viên nặng ký cho “tứ trụ”, hoặc chức vụ Tổng Bí thư, hoặc là Chủ tịch Quốc hội.
Hồ Đức Việt vốn học giỏi có tiếng, trước khi tham chính, Việt là Tiến sĩ Toán-Lý, giảng dạy và làm Phó chủ nhiệm khoa Toán-Cơ trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.
Trước thềm đại hội XI, các phe bắt đầu vận động tranh thủ phiếu bầu và không quên tấn công quyết liệt, giải quyết “ân oán giang hồ”, hòng triệt tiêu các đối thủ.
Phe Thanh Hóa của Phạm Quang Nghị – Tô Huy Rứa muốn “níu” Hồ Đức Việt lại, cho nên mới có vụ việc chấn động dư luận, lẫn chính trường: Vụ “Tâm linh đàn Xã tắc”.
Xâu chuỗi những thông tin mơ hồ, suy diễn, hàng loạt đơn thư tố cáo vợ chồng Hồ Đức Việt theo đúng kịch bản, bay tới tấp đến các cơ quan đầu não. Rằng Hồ Đức Việt mê tín dị đoan, yểm bùa, lập đàn khấn trời đất, gọi “âm binh” trù úm các đối thủ chính trị. Nào là Hồ Đức Việt tham vọng quyền lực, vận động hành lang, nhắm ghế Tổng bí thư; nào là đạo đức và lối sống bản thân có vấn đề, thể hiện trong các chuyến công du…
Hội nghị 14 khóa X diễn ra từ ngày 13 đến 22/12/2010, Hồ Đức Việt lúc này là Trưởng Ban tổ chức Trung ương, phụ trách Tiểu ban nhân sự đại hội XI. Trước đó, khi trình danh sách dự kiến giới thiệu nhân sự bầu Ban chấp hành Trung ương khóa XI cho Trưởng Tiểu ban Nhân sự Nông Đức Mạnh xem. Khi thấy tên con trai là Nông Quốc Tuấn và một số “người của mình” bị loại ra vì lý do “thăm dò ý kiến phiếu thấp lắm”, Nông Đức Mạnh lồng lên, như muốn ăn thịt Hồ Đức Việt. Giọt nước đã tràn ly…
Vậy là lại suốt 10 ngày hội hội nghị bàn cãi, các phe chạy đua và tấn công nhau. Hồ Đức Việt chính thức bị “lên thớt”. Liên minh Nghị – Rứa đứng về phía họ Nông, ra đòn dồn dập về phía Hồ Đức Việt. Những chuyện không chấp nhặt đã lâu, giờ cũng thành gán ép “bê bối” dành cho đối phương. Câu nói “ba đánh một, không chột cũng què” chẳng sai bao giờ.
Hơn nửa tháng sau, Hội nghị 15 vào ngày 9/1/2011, cách khai mạc chính thức đại hội XI chỉ có 3 ngày. Lại bỏ phiếu để chốt, cái tên Hồ Đức Việt chính thức bị loại ra khỏi danh sách đề cử “tứ trụ”. Thay vào đó, Nguyễn Phú Trọng được đề cử chức Tổng bí thư khi bước sang tuổi 67, thay cho Nông Đức Mạnh nghỉ hưu. Trương Tấn Sang ngồi ghế Chủ tịch nước thay Nguyễn Minh Triết. Nguyễn Sinh Hùng được đề cử ghế Chủ tịch Quốc hội từ Nguyễn Phú Trọng, dù đã ở tuổi 65. Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ chức thủ tướng nhiệm kỳ 2.
Tất cả đã an bài đúng như thế. Kết quả đại hội như mọi người đã biết, Hồ Đức Việt trắng tay, thậm chí không có tên trong danh sách Ủy viên Trung ương khóa XI và chính thức giã từ sự nghiệp chính trị ở tuổi 64.
Buồn cho nhân tình thế thái, chán chường trong thăng trầm chính sự, Hồ Đức Việt suy sụp tinh thần, đổ trọng bệnh và mất hai năm sau đó, hồi tháng 5/2013.
Về phần Nghị và Rứa, cả hai thắng giòn giã. Phạm Quang Nghị từ Bí thư Hà Nội, về nắm Thường trực Ban Bí thư. Tô Huy Rứa điền tên mình vào chiếc ghế “hái ra tiền” đỏ rực, ngồi thế chỗ Hồ Đức Việt đã ngồi trước đây: Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Từ đây, với uy vũ của “kiến trúc sư trưởng” trong công tác nhân sự của đảng, ông Trưởng ban mặc sức thao túng chính trường. Xem như Tô Huy Rứa đã toại nguyện, khi chinh phục nấc thang quyền lực cao nhất của cuộc đời kẻ xuất thân từ làng… ăn mày.
(Còn nữa)
Tô Huy Rứa – Chân dung quyền lực (Kỳ 1)
Hồng Hà
21-12-2019
Tô Huy Rứa sinh ngày 4/6/1947 tại làng Đồn Điền, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hoá; nay là xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình dân chài ven biển. Làng Đồn Điền, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của Tô Huy Rứa thuở xưa vô cùng nghèo khổ, còn có tên là “làng ăn mày”.
Giai thoại cho rằng, ông tổ của làng Đồn Điền là một ông lão ăn mày. Nơi đây có ngôi đền thờ ông tổ cái bang, thờ một cây gậy và một cái bị, cũng như lưu truyền những tập tục về xin ăn. Hàng năm, ba ngày Tết cả làng có lệ bỏ đi ăn xin, bất kể già trẻ, nam nữ và những người quyền cao, chức trọng… Sau Tết mới về, khi trở về, những gì xin được phải mang ra đền làm lễ tế.
Chuyện xưa thực hư không rõ, nhưng điều này thì có thật: Những năm 1980, mưa bão triền miên, mất mùa thất bát. Để có thể sống sót, rất nhiều người dân làng Đồn Điền bỏ quê đi tứ xứ hành khất, xin ăn. Phong trào tha phương cầu thực cũng bắt đầu từ đó. Những năm 1982-1983, Quảng Thái có hàng trăm người bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Nhiều gia đình, vợ chồng con cái đều dắt díu nhau đi ăn xin. Đặc biệt, những năm sau đó, tình trạng trẻ em đang trong độ tuổi đi học bỏ học đi lang thang khắp nơi.
Thống kê những năm 1993-1994, cả xã có hơn 700 em nhỏ đi lang thang, có gia đình 3-4 trẻ đi lang thang đánh giày, bán báo, ăn xin… Một tư liệu cho biết: “Trong số hơn 400 hộ dân ở Quảng Thái, có 249 hộ có người ăn xin chuyên nghiệp. Năm 1995 có 571 lượt, năm 1998 có 167 lượt người đi ăn xin“. Các nhà nghiên cứu gọi chuyện dân Quảng Thái đi ăn xin là “hiện tượng Quảng Thái”.
Năm 2012, khi Tô Huy Rứa tái cử Bộ Chính trị khoá XI, yên vị trên chiếc ghế Trưởng Ban tổ chức Trung ương, vinh quang và cực kỳ quyền lực. Lúc này tiền của bắt đầu đổ về nhà Tô Huy Rứa không đếm xuể, mệnh phụ phu nhân Trương Tuyết Nhung về quê chồng ở Đồn Điền tạ ơn, công đức kinh phí trùng tu tôn tạo đền thờ Thành hoàng của làng trở nên hoành tráng.
Nhà quá nghèo, học hành không đến nơi đến chốn, năm 1965, Tô Huy Rứa tình nguyện vào lực lượng TNXP. Ngày 6/2/1967, Rứa được kết nạp vào ĐCS và mấy năm sau, nhờ có tài ăn nói, hoạt ngôn, khéo tuyên truyền, cấp trên gởi Rứa theo học tập ở trường Tuyên huấn Trung ương (sau nâng lên Đại học Tuyên giáo, Phân viện Báo chí và tuyên truyền, nay là Học viện Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ đây, Rứa xin ở lại trường, lần lượt làm trợ giảng, giảng viên… rồi không biết bằng cách nào, lại kiếm được tấm bằng cử nhân Toán tại ĐHTH Hà Nội. Học toán học, nhưng năm 1982 Rứa lại đi Nga để hoàn thành tiến sĩ… Triết học.
Cuối năm 1993, tại hội nghị Trung ương 6 khoá VII, Lê Khả Phiêu được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan.
Năm 1995, trước thềm đại hội VIII, các phe quyết đấu để tranh giành quyền lực. Nguyễn Hà Phan, đương kim Thường trực Ban Bí thư, là người được Nguyễn Văn Linh ủng hộ để ngồi vào ghế thủ tướng khoá sau, bất ngờ bị tố cáo, quy chụp chính trị.
Tháng 4/1996, hội nghị Trung ương 10, khoá VII đã khai trừ Nguyễn Hà Phan ra khỏi đảng, chấm dứt sự nghiệp chính trị. Lê Khả Phiêu thay Nguyễn Hà Phan ngồi ghế Thường trực Ban Bí thư, quyền lực nghiêng Trời. Nhờ vậy, tại đại hội VIII tháng 12/1996, Lê Khả Phiêu đã đưa được một loạt các đàn em đồng hương Thanh Hoá ngồi vào ghế Uỷ viên Trung ương, trong đó có Tô Huy Rứa và Phạm Quang Nghị. Nếu như Phạm Quang Nghị trúng cử Bộ Chính trị tại đại hội X năm 2006, thì Tô Huy Rứa phải đợi đến hội nghị trung ương 8 khoá X tháng 1/2009 mới được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị.
Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010, một sự việc gây chấn động dư luận cả nước, đó là vụ Nguyễn Trường Tô chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, hiệu trưởng và đồng bọn “cưỡng dâm, mua dâm học sinh trung học”.
Ngày đó Tiến sĩ – Luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa hai nữ sinh bị xét xử tội “môi giới mại dâm” đã gởi đơn kiến nghị đến các cơ quan trung ương, đơn cho rằng, vụ án có dấu hiệu oan sai và bỏ lọt tội phạm: 15 cháu gái từ 13 – 17 tuổi bị gạ gẫm, ép buộc tình dục trong vụ án này đều là nạn nhân, tính chất gần tương đồng nhau, đều bị cưỡng ép, dụ dỗ, khống chế, đe dọa… buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người khác phục vụ cho nhóm người của Sầm Đức Xương. Nếu gọi cho đúng tội danh thì phải là “cưỡng dâm” hoặc “hiếp dâm trẻ vị thành niên”.
Luật sư Trần Đình Triển gửi kèm văn bản kiến nghị khẩn cấp, đơn kêu cứu của hai bị cáo Hằng và Thúy, trong đó ghi rõ tên, số điện thoại và chức vụ của một số cán bộ cấp tỉnh, huyện, doanh nhân tại Hà Giang đã từng quan hệ tình dục với các cháu.
“Danh sách đen” khách mua dâm của Thuý và Hằng gồm 17 cán bộ Hà Giang. Trong đó có một số tên:
Nguyễn Trường Tô – Thường vụ tỉnh uỷ, Phó Bí thư – Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang – ĐT: 0913271133
Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh – ĐT: 0913271307
Nguyễn Hoàng Tiến – sĩ quan Công an tỉnh (em ruột Nguyễn Binh Vận, Giám đốc CA Hà Giang) – ĐT: 0912061622
Định – Phó Chủ tịch huyện Vị Xuyên
Thành – Giám đốc Doanh nghiệp – ĐT: 0912144888
Dũng – GĐ Bưu điện tỉnh.
Sầm Đức Xương – Hiệu trưởng trường PTTH Việt Lâm.
Đinh Xuân Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh Hà Giang
Bích – Trưởng phòng Tổ chức Công an tỉnh.
Hướng – Cán bộ Hải quan cửa khẩu Thanh Thủy.
Minh – Cán bộ Công an tỉnh Hà Giang.
Hoà – GĐ sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
…
Đơn kiến nghị & thư của Ls Trần Đình Triển. Ảnh: Tác giả gửi tới TD
Dư luận xã hội Việt Nam ngày đó “sốc toàn tập”. Bộ mặt nhà nước pháp quyền đã bị “giáng một đòn chí mạng” bằng sự tha hoá đạo đức và suy đồi về nhân cách của những cán bộ đảng viên có trọng trách, chức vụ, cũng như một số trọc phú doanh nhân ở Hà Giang trong vụ án này.
Thậm chí, khi đứng trước nguy cơ bị cách tất cả các chức vụ, trong bản báo cáo đề ngày 27/5/2010 gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô khẳng định, Nguyễn Bình Vận, Giám đốc Công an tỉnh Hà Giang cũng đã quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ…
Hai cháu Thuý – Hằng và những tên cẩu quan
Dân chúng vô cùng phẫn nộ, đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải ra tay trừng trị, cho dù những kẻ phạm tội là ai, ở bất cứ cương vị nào. Những cơ quan, cá nhân vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng nói trên cũng cần phải bị xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
Cái tên Nguyễn Trường Tô và lũ yêu tinh được réo trên trang nhất các tờ báo. Hình ảnh ông quan đầu tỉnh, sa đoạ trần truồng cũng được đăng trên các trang mạng xã hội. Thế nhưng, có một người dùng quyền lực, hòng bao che cho bọn cẩu quan hung bạo, đốn mạt và cuồng dâm này. Ông ta muốn bịt miệng báo chí và dư luận, bằng cách gọi điện thoại ra lệnh cấm các Tổng biên tập đăng các bài báo liên quan các cán bộ mua dâm, cưỡng dâm tại Hà Giang.
Nhờ thế lực ở thượng tầng bảo kê, cho nên dù có đầy đủ bản cung khai trước cơ quan điều tra, của các nạn nhân; cả báo cáo đầy đủ chi tiết, tên tuổi các cá nhân hủ hoá, mang số 23- KSĐT ngày 8/3/2010 của Viện kiểm sát Hà Giang, do đích thân Viện trưởng Ấu Duy Quang ký, gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, thế nhưng, điều lạ lùng là những tên phạm tội vẫn an toàn. Chắc chắn với quyền năng của mình, có nhân vật “giấu mặt” góp phần can thiệp cho 17 tên “tai to mặt bự” sa đoạ và trác táng này, thoát vòng tố tụng. Người đó không ai khác, chính là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư trung ương đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Tô Huy Rứa.
Sử gia Trần Trọng Kim và cuốn ‘Việt Nam sử lược’. Ảnh: internet
Trước khi viết tiếp vấn đề chữ quốc ngữ, về tình trạng Hán nô cả ngàn năm của giới Nho học và sự phục sinh tinh thần Việt nhờ chữ quốc ngữ, xin giới thiệu các bạn một phần bài viết của bạn Khôi Nguyễn, Đại học Oregon, Hoa Kỳ.
Bài viết vạch trần sự bóp méo lịch sử của nhóm sử nô thân Trung chống Tây có tên là Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa. Người học lịch sử lâu nay nhầm tưởng, trước sự kiện Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, đế chế Trung Hoa đã chấm dứt xâm lăng nước ta từ sau cuộc đại phá quân Thanh của Quang Trung. Sự thật, vào cuối thế kỷ 19, nhà Nguyễn bị đặt giữa hai gọng kìm xâm lược: thực dân Pháp ở phía Nam và Mãn Thanh ở phía Bắc. Trong khi Pháp lấy Nam Bộ thì Mãn Thanh cũng đánh chiếm Bắc Bộ.
Vì tư tưởng hệ thân Trung chống Tây, cho nên nhóm sử nô (Hán) đã vơ tên giặc Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh quân Cờ Đen, làm anh hùng của mình. Thời tôi học phổ thông, học sinh chúng tôi từng bái phục ông này vì đã giết hai quan Pháp tại trận Cầu Giấy. Đó có phải là “nhận giặc làm cha” không?
Giả sử người Pháp đã không lật thế cờ, đập tan giấc mộng đế chế Trung Hoa và đi đến Hiệp ước Thiên Tân 1885 cắm mốc phân định biên giới Việt – Trung, thì Việt Nam không là thuộc địa của Tây cũng là thuộc địa của Tàu. Và như vậy, con đường tiếp thu văn hóa châu Âu để đi đến tiến bộ, văn minh của người Việt cũng bị đóng kín. Tôi khẳng định 100 năm đô hộ của giặc Tây vẫn hơn cả ngàn năm đô hộ giặc Tàu, như Hồng Kông bị đô hộ của giặc Anh so với đại lục bị nhốt trong cửa hàng Khổng-Mao vậy.
Nói ra điều này để mọi người hiểu vì sao chuyện chữ quốc ngữ tưởng không có gì phải bàn cãi nữa, bỗng dưng được đưa ra lúc này nhân Đà Nẵng dự định đặt tên đường Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes. Trong nhạy cảm của tôi, chỉ có thể nhóm sử nô 12 giáp kia đang muốn phục Trung chống Tây. Giặc ở trong nhà chứ không phải bên kia biên giới.
Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị đương đại.
Tưởng tượng về Alexandre de Rhodes
Năm 1971, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, trong quyển “Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de Rhodes thể hiện một âm mưu có tính thực dân của mình:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”.
Ủy ban này chú thích rằng câu trích này được trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient” (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110.
Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy trong tài liệu nói trên.
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế nghiên cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó. Thành ra từ đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy về Alexandre de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu như Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.
Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói đến việc xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương Đông, đem về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldat” là “binh lính” quân sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm năm, còn Nguyễn Đắc Xuyên coi “soldat” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà chỉ “chiến binh Phúc âm”, tức giáo sĩ truyền đạo.
Số người hiểu theo cách hiểu của Cao Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Đắc Xuyên, các cuộc tranh luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldat” hầu như không đặt từ này trong toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo” để xem tinh thần thực sự của khái niệm cũng như của sách này là gì, có liên quan đến việc đánh chiếm thuộc địa hay không.
Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes sở dĩ khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về lịch sử cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Ủy Ban Khoa học Xã hội Việt Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) lấy được miền Bắc.
Tưởng tượng về thế kỷ 19
Tôi có làm “phỏng vấn” nhỏ một số bậc thức giả, bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy nhất: Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối với Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.
Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xóa khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
Câu chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai “gọng kìm lịch sử” Pháp -Mãn Thanh
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật-Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều – chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xóa cuộc chiến này khỏi Sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.
Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung.
Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.
Lịch sử của sự phân đôi phải / trái
Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp-Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.
Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Phục hồi ký ức?
Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975.
Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp-Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hóa” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hóa chữ Hán”.
Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hóa, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.
Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “Chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “Chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được định hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp -Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.