24 tháng 1, 2020

Vì sao dân cười khi thấy quan chức xuống đường quét rác?

Thursday, January 23, 2020 3:36 
Diễm Thi 
Theo RFA 
Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân tham gia quét rác hôm 18/1/2020.
Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân tham gia quét rác hôm 18/1/2020 - SGGP 

Cứ vào những tháng cuối năm hay những ngày đầu năm mới, hình ảnh một vị lãnh đạo nào đó cùng nhiều thuộc cấp ra quân dọn dẹp vệ sinh môi trường như quét rác, khơi thông cống rãnh… với hàng loạt ống kính chĩa vào trở nên phổ biến.



Sáng 18 tháng 1 năm 2020, nhiều quận huyện ở TP.HCM đã tổ chức lễ ra quân thực hiện tháng “Thành phố sạch - Thành phố văn hoá mừng xuân Canh Tý 2020, mừng Đảng 90 năm”. Báo chí trong nước đưa tin kèm hình ảnh Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân mang bao tay trắng tham gia quét rác cùng người dân. Lập tức mạng xã hội đăng lại tấm hình ông Nguyễn Thiện Nhân cầm cây khơi thông dòng chảy cho kênh Rạch Lăng ở quận Bình Thạnh năm 2018 với hàng loạt ống kính phóng viên, cũng trong một buổi vận động người dân không xả rác.

Trước đó vài năm, tại buổi lễ phát động các hoạt động tình nguyện bảo vệ môi trường, người ta cũng thấy hình ảnh nguyên Bí thư Thành ủy TP.HCM Đinh La Thăng cùng thanh niên tình nguyện vớt rác, kéo lục bình khai thông dòng chảy rạch Dừa. Ông này đang phải thụ án tù vì những sai phạm trong công tác.

Nhiều người dân mỉa mai với những câu nói như: “Tôi không hiểu sao ông Bí thư Thành ủy làm đúng nghề của mình mà bị mọi người công kích?”. Có người họa lại đôi câu bài thơ Ông Đồ của tác giả Vũ Đình Liên: “Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông xuống đường - Cầm chổi chà, cào cỏ - Giữa phố đầy phóng viên”.

Anh Quang, một người dân TP.HCM cho rằng dân cười là phải và chuyện này không mới, chỉ có phản ứng của người dân trên mạng xã hội là mới. Anh giải thích:

“Bình thường họ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, hà hiếp người dân, đến ngày lễ, ngày tết bày ra những trò như vậy nhìn nó lố bịch. Người dân cười là đúng rồi. Đó là hình thức biểu diễn để mị dân của người cộng sản từ hồi nào đến giờ rồi nhưng bây giờ dân mới có phương tiện để nói lên, để phản ứng. Chuyện đó không mới!

Những chuyện thiết thực hàng ngày thì họ không làm, bao nhiêu chuyện nóng về môi trường, về an toàn thực phẩm sờ sờ trước mắt họ không quan tâm.”

Cũng là một người dân ở TP.HCM nhưng cô Tuyết không bao giờ lên mạng xã hội, mà các thông tin cô biết chỉ qua báo đài trong nước. Cô nêu quan điểm của mình về việc quan chức cao cấp ra phụ dân nhặt rác, quét đường:

“Theo quan điểm của em thì những quan chức lớn như vậy mà làm công việc của những người quét rác nó thể hiện sự bình đẳng. Nhìn hình ảnh các quan chức trên báo như vậy thì người dân sẽ không vứt rác bừa bãi ra bên ngoài. Thấy người “lớn” làm như vậy thì đương nhiên người “nhỏ” phải noi theo, không xả rác bừa bãi.”

Nhà nghiên cứu xã hội học, Tiến sĩ Phạm Quỳnh Hương nhận xét rằng đa số người dân chê bai những hành động của các lãnh đạo cao cấp như vậy. Bà không có một nghiên cứu chính thức về việc này nhưng theo bà thì người dân không sai, bởi làm lãnh đạo thì phải làm những việc to tát, hoạch định những chính sách sao cho ích nước lợi nhà thể hiện vị thế của mình, chứ đi lượm rác, thông kênh rạch chẳng giải quyết được việc gì cả. Bà đưa nhận định của mình:

“Cá nhân tôi thì tôi thấy các quan chức có cách này cách kia để lấy lòng dân, và hành động nhặt rác thì cũng nhằm cổ vũ cho vệ sinh môi trường, nhưng tôi nghĩ là cách làm truyền thông không phù hợp. Người dân nhìn những hình ảnh đó họ không thấy thuyết phục.”

Việt Nam là một nước có số lượng báo chí chính thống khá nhiều. Theo thống kê được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra hôm 6 tháng 11 năm 2019, cả nước có 844 cơ quan báo, tạp chí in, 24 báo, tạp chí điện tử độc lập, 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, 05 đơn vị hoạt động truyền hình, với tổng số kênh phát thanh, truyền hình trong nước được cấp phép là 279 kênh, 70 kênh truyền hình nước ngoài được cấp phép biên tập, biên dịch.

Có 36 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền, trong số đó, số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh, truyền hình trên mạng Internet chiếm 20/36 doanh nghiệp.

Đang làm việc trong lĩnh vực báo chí có 41.600 người và Bộ đã cấp 23.402 thẻ nhà báo.

Thế nhưng với những người dân có chút hiểu biết về thời cuộc thì từ lâu họ đã không còn tin, không còn xem những tin tức, hình ảnh mà báo trong nước loan nữa. Người ta nói với nhau rằng, ngày xưa đọc báo để có kiến thức, ngày nay phải có kiến thức hãy đọc báo. Nhạc sĩ Tuấn Khanh đã sáng tác một bài hát có tên “Hãy gấp trang báo và tắt tivi”.

Như vậy mạng xã hội cho đến bây giờ là nơi người dân có thể nói lên những suy nghĩ, những phản biện một cách trung thực nhất, nhưng lại bị chính quyền coi là công cụ chống đảng, chống nhà nước.

Tuy vậy, theo đánh giá của những nhà quan sát thời cuộc thì nhờ mạng xã hội mà nhận thức của người dân được nâng lên rất nhiều và họ không tin vào những điều được gọi là ‘mị dân’ nữa.

Blogger Nguyễn Ngọc Già nhận định:

“Theo tôi thì chuyện cuối năm mấy ông bà cộng sản cấp cao đi quét rác, dọn dẹp… bị người dân cười cợt thì không có gì ngạc nhiên hết bởi vì người ta không tin vào những chuyện mị dân như vậy. Nó phản ánh não trạng của giới cộng sản cấp cao vẫn rất ấu trĩ. Họ không lừa được người dân bằng những hành động đen cả về hình thức lẫn tâm trí của họ nữa.

Cái thứ hai là tự họ làm cho hình ảnh của họ trở nên xấu xí. Người dân Việt Nam ngày nay nhận thức rất nhiều chứ không phải như ngày xưa nữa. Người dân không cần những hình ảnh quét rác theo nghĩa đen nữa mà họ cần quét rác theo nghĩa bóng, tức là hãy quét sạch hết những tệ nạn như ma túy, tham nhũng…”

Theo báo cáo, thống kê của Bộ Công an, tính đến 15 tháng 5 năm 2018, cả nước có 225.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tăng 2.100 người so với năm 2017. Còn tệ tham nhũng, hối lộ thì tràn lan khắp các cơ quan công quyền, có vụ ‘ăn’ đến hàng triệu đô la Mỹ mà người dân chỉ được biết qua chiến dịch ‘đốt lò’ của ông Nguyễn Phú Trọng mấy năm qua.

Đảng ta’ đúng là ‘hiếm’ nhưng không ‘quý’

Thursday, January 23, 2020 3:51
Trân Văn 
Theo blog VOA 


Nhiều người chưng hửng khi qua tờ Quân đội nhân dân, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khẳng định: Hiếm có dân tộc nào trên thế giới khi nói đến đảng cầm quyền, nhân dân lại dành cho một sự trân trọng, tự hào, yêu thương như dân tộc Việt Nam đối với đảng CSVN (1).

Nếu bình tĩnh đọc kỹ cuộc trò chuyện giữa tờ Quân đội nhân dân với ông Trọng rồi đối chiếu với thực tế, kể cả thực tế đã được chính ông cũng như các đồng chí của ông từng thú nhận, hệ thống truyền thông chính thức từng đề cập, có thể nhận ra, nhiều nhận định của Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch Nhà nước là nói lấy… được! Tuy nhiên ông Trọng không sai khi cho rằng “đảng ta” là… của hiếm!

Vì tờ Quân đội nhân dân chọn “Đảng khai xuân khải hoàn” làm tựa cho bài phỏng vấn ông Trọng, thành ra nên chọn vài sự kiện trước thềm năm mới, vừa để xem xét yếu tố… “hiếm”, vừa để xác định xem, trong năm mới sắp tới, nếu “đảng ta” tiếp tục điều hành – quản trị quốc gia, đối tượng nào có thể hát khúc khải hoàn?..

***

Theo báo chí Việt Nam, các nhà ga thuộc tuyến metro Cát Linh – Hà Đông đang được nhiều người tận dụng để bày bán cây cảnh, đồ gốm khi năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến (2). Đó là… “công năng” duy nhất của công trình trị giá khoảng 890 triệu Mỹ kim. Khoản tiền khổng lồ đó vay của Trung Quốc và nhiều năm nay, mỗi ngày, Việt Nam phải trả cho Trung Quốc khoảng một tỉ đồng tiền lãi (3)!

Lẽ ra công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh – Hà Đông phải hoàn tất từ 2013 song đến giờ (2020), không những công trình này không đem lại bất kỳ lợi ích nào về kinh tế - xã hội mà còn phát sinh đủ loại nợ cả gốc lẫn lãi. Để… giữ chân nhà thầu Trung Quốc, tổng vốn đầu tư đã tăng từ 550 triệu Mỹ kim lên 890 triệu Mỹ kim.

Nói cách khác, thay vì xem xét trách nhiệm của cả nhà thầu Trung Quốc (vi phạm tiến độ thi công, thời hạn hoàn thành công trình), lẫn các viên chức hữu trách ở Việt Nam thì “đảng ta” vui vẻ xin Trung Quốc cho vay thêm $340 triệu phát sinh ngoài kế hoạch. Từ đó đến nay đã ba năm, tuyến metro Cát Linh – Hà Đông vẫn chưa thể vận hành!

Hệ thống nhà ga, tuyến đường sắt do nhà thầu Trung Quốc thi công bằng tiền vay của Trung Quốc, 13 đoàn tàu đã mua từ Trung Quốc cũng bằng tiền vay của Trung Quốc cứ thế sinh lãi. Khoảng 30% trong số hàng ngàn công nhân từng được tuyển dụng, từng được giới thiệu là gửi sang Trung Quốc đào tạo để vận hành tuyến metro đầu tiên tại Việt Nam đã bỏ việc (3)…

Chắc chắn suất đầu tư vào tuyến metro Cát Linh – Hà Đông sẽ sớm vượt xa mức một tỉ Mỹ kim và cứ thế tăng dần vì lãi chồng lãi. Không ai trả lời được câu hỏi: Bao giờ tuyến metro Cát Linh – Hà Đông đóng góp cho sự phát triển của kinh tế - xã hội ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung?

Chưa ai dám đặt bút xác nhận tuyến metro Cát Linh – Hà Đông hội đủ tiêu chuẩn an toàn để có thể vận hành. Cơ quan chịu trách nhiệm kiểm định tiết lộ: Có nhiều thứ không đồng bộ! Hồ sơ dự án không đầy đủ và… không thể bổ sung đầy đủ! Có nghĩa là không có cơ sở để xác nhận an toàn và tất nhiên, không thể sử dụng (4)!

***

Nhiều hạng mục trong công trình xây dựng tuyến metro Cát Linh – Hà Đông trở thành điểm bán cây cảnh, đồ gốm nhân dịp xuân về chỉ là một trong vô số ví dụ về hiện trạng kinh tế - xã hội Việt Nam. Phản ứng của nhiều người thuộc nhiều giới trước những diễn biến liên quan đến cuộc tấn công vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hồi thượng tuần tháng này là một ví dụ khác, nóng hổi về chính trị…

Trong bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội như thế, liệu có lãnh đạo nào của các đảng cầm quyền trong lịch sử nhân loại dám bảo rằng, đủ loại scandal bùng lên suốt từ đầu năm đến cuối năm vừa qua là những “bước tiến ấn tượng trong nhịp điệu đổi mới”, góp thêm vào khối “thành quả cách mạng” mà “đảng ta” đã đạt được để “viết đến hàng trăm nghìn bộ đại sử ký”?

Ông Trọng quả là nhân vật hiếm có, “đảng ta” cũng thuộc loại… hiếm. Còn có quý hay không, có được nhân dân “trân trọng, tự hào, yêu thương” hay không thì… cứ nhìn vào thực tế. Cần phải nhấn mạnh: Chính ông Trọng cũng không tin “đảng ta” được nhân dân “trân trọng, tự hào, yêu thương”. Đó là lý do tại sao Chương về các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong Luật Hình sự, hay nội dung Luật An ninh mạng,… lại như thế!

Hiếm không đồng nghĩa với quý và hiếm mà không quý thì chắc chắn… tiệt!

Chú thích

(1) https://www.qdnd.vn/bao-qdnd-hang-ngay-xuan-canh-ty-2020/dang-khai-xuan-khai-hoan-608288

(2) https://nld.com.vn/thoi-su/can-canh-nha-ga-duong-sat-cat-linh-ha-dong-thanh-cho-cay-canh-20200117065239142.htm

(3) https://www.youtube.com/watch?v=hn1zOGGfZ3Q&ab_channel=VTCNOW

‘Hậu Đồng Tâm’ đến thời ‘quân hồi vô phèng’


Trân Văn
22-1-2020
Cổng vào Đồng Tâm. Ảnh: Reuters
Đối chiếu những diễn biến gần đây tại Việt Nam và những diễn biến liên quan đến quan hệ giữa Việt Nam với cộng đồng quốc tế, có thể nhận ra ngay lập tức tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” mà lãnh đủ sẽ là cả dân lẫn đảng.
Có nhiều bằng chứng cho thấy, Việt Nam đang ở giai đoạn “quân hồi vô phèng” (phèng là một thứ công cụ mà cổ nhân thường dùng để khiển quân, thành ra thiếu phèng, quân tình sẽ trở thành hỗn loạn). Chính đảng đang ủ mầm loạn.
***
Lúc này, mong muốn lớn nhất của hệ thống chính trị và hệ thống công quyền Việt Nam là sớm “dọn dẹp” cho xong dư luận vốn càng lúc càng bất lợi sau vụ công an tấn công vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội!
Không phải tự nhiên mà Bộ Công an Việt Nam vừa liên tục thay đổi lời khai về nguyên nhân và diễn biến của cuộc tấn công, vừa tìm đủ cách để răn đe (tổ chức cho dư luận viên đánh trả, báo cáo nhằm vô hiệu hóa hoạt động của nhiều trang facebook – tài khoản trên You Tube, bắt một số facebooker,…) và tất nhiên, khai thác tối đa hoạt động của hệ thống truyền thông chính thức nhằm “giải độc dư luận”!
Cũng không phải tự nhiên mà đúng một tuần sau khi Bộ Công an tổ chức tấn công thôn Hoành, khi họp với Tiểu ban Kinh tế – Xã hội để chuẩn bị cho các văn kiện của Đại hội đảng CSVN lần thứ 13 (2021), hệ thống truyền thông chính thức đồng loạt giới thiệu rộng rãi với công chúng, ông Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: Vụ việc gần đây khiến lãnh đạo phải suy nghĩ nhiều về quan hệ với nhân dân (1).
Chỉ cần lướt qua mạng xã hội và các trang web của hệ thống truyền thông quốc tế là có thể thấy ngay, cuộc tấn công vào thôn Hoành nguy hại như thế nào cho hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam về chính trị, cả trong đối nội lẫn đối ngoại. Không chỉ có thế, cuộc tấn công này còn vô hiệu hóa cả những nỗ lực nhằm cứu vãn kinh tế – xã hội Việt Nam của chính quyền Việt Nam.
Tường thuật mới nhất của VOA về Hiệp định Tự do thương mại giữa Việt Nam và châu Âu (EVFTA) chính là một ví dụ (2). Bởi EVFTA sẽ giúp cho xuất cảng hàng hóa, dịch vụ từ Việt Nam vào châu Âu tăng thêm 42,7%, giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 4,6%, góp phần cải thiện tình hình kinh tế – xã hội, giúp duy trì “ổn định chính trị”, không riêng Bộ Ngoại giao mà đích thân ông Phúc viết một lá thư, cam kết “bảo vệ nhân quyền”.
Cuộc tấn công vào thôn Hoành đã khẳng định, những hứa hẹn: Phóng thích tù chính trị, tiếp tục sửa luật hình sự, cổ xúy cho tất cả các quyền tự do căn bản và nhân quyền tại Việt Nam,… là dối trá. Thậm chí có thể biến công sức của các viên chức ngoại giao Việt Nam, tiền bạc mà Việt Nam chi cho các hoạt động nhằm vận động các Nghị viên của Nghị viện châu Âu thông qua EVFTA trở thành một con số 0 tròn trĩnh!
***
Trong bối cảnh như vừa kể, động tác mới nhất của Bộ Công an Việt Nam: Phong tỏa tài khoản của bà Nguyễn Thúy Hạnh và những tài khoản mà công chúng gửi tiền để giúp đỡ gia đình cụ Kình,… chính là ví dụ hết sức rõ ràng cho “quân hồi vô phèng”.
Xét về khía cạnh chính trị, động tác này đổ thêm dầu vào lửa, khiến sự phẫn nộ, bất bình của công chúng trở thành dữ dội hơn. Khi Bộ Công an tiếp tục chứng minh, sự tàn bạo, càn rỡ của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không có giới hạn, vô hình trung ông Phúc bị biến thành kẻ dối trá. Ai tin ông Phúc thành thật khi phát biểu: Vụ việc gần đây khiến lãnh đạo phải suy nghĩ nhiều về quan hệ với nhân dân?
Xét về khía cạnh kinh tế – xã hội, phong tỏa những tài khoản nhận tiền giúp đỡ các nạn nhân vụ tấn công thôn Hoành là một quyết định tạo ra những tác động tai hại khó lường đối với cả hệ thống ngân hàng lẫn hoạt động tài chính – tín dụng ở Việt Nam, vốn đang gây nhiều ngờ vực cho các cơ quan, tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế. Tương tự là EVFTA. Trong bối cảnh như hiện nay, tại sao lại hành xử như thế?
Có lẽ không ngoa nếu cho rằng, Bộ Công an đã tát vào mặt Bộ Ngoại giao. Làm sao có thể tuyên bố những cáo buộc Việt Nam xâm hại nhân quyền là… bịa đặt mà không… thẹn, không làm thiên hạ bật cười, nhún vai, lắc đầu?
***
Các diễn biến liên quan đến vụ tấn công thôn Hoành cho thấy, Bộ Công an vừa muốn xoa dịu dư luận (cho nên mới khai đi, khai lại), vừa tìm đủ mọi cách, kể cả sử dụng những phương thức vô lý, bất hợp pháp để giúp ông Tô Lâm và các sĩ quan cao cấp rũ bỏ trách nhiệm về chủ trương và các sai lầm liên quan đến chiến lược, chiến thuật (trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, tổ chức học tập tấm gương hy sinh anh dũng của ba sĩ quan công an tử nạn,…).
Nếu việc nhờ chuyển tiền giúp đỡ các nạn nhân vụ tấn công thôn Hoành không phải là bằng chứng hết sức sinh động về nhân tâm, dân ý, bất lợi cho Bộ Công an – nơi tổ chức và thực hiện cuộc tấn công – chắc chắn không có quyết định phong tỏa tài khoản!
Hạ tuần tháng trước, tại Hội nghị Đánh giá kết quả công tác tổ chức xây dựng đảng, ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư của BCH TƯ đảng CSVN, cảnh báo: Cơ đồ xây dựng 75 năm nếu có sụp đổ là do ta. Không ai mang máy bay, đại bác đền để lật đổ ta, ta không làm tốt thì ta tự lật đổ ta, chẳng phải do kẻ thù đâu (3). Nếu nhân tâm, dân ý không như đã thấy, ông Vượng không cảnh báo như vậy.
Cho dù không ít viên chức hữu trách trong hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam từng tỏ ra thật sự lo âu trước nhân tâm, dân ý. Xét cho đến cùng, “đốt lò” hay “chấn chỉnh công tác cán bộ” cũng chỉ nhắm thu phục nhân tâm. Rất đáng ngạc nhiên khi phản ứng của công chúng đối với vụ tấn công vào thôn Hoành dù như đã thấy, vẫn không thấy bầt kỳ viên chức hữu trách nào ngăn cản hay nghĩ đến chuyện xử lý Bộ Công an.
Chỉ có một cách duy nhất để lý giải: Sở dĩ Bộ Công an vẫn có thể tự tung, tự tác, bất chấp hậu quả nhãn tiền cả về chính trị lẫn kinh tế, xã hội vì hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam đang trong tình trạng “quân hồi vô phèng”. Vận mệnh, sự nghiệp của đảng không quan trọng bằng tương lai của mỗi cá nhân. Năm nay là thời điểm bản lề vì năm tới là Đại hội đảng lần thứ 13.
Ông Vượng từng thú nhận, ông cảm thấy chua xót khi châu Âu hoan hỉ kỷ niệm Liên Xô tan rã, chính quyền cộng sản ở các quốc gia Đông Âu sụp đổ và sợ điều đó sẽ xảy ra tại Việt Nam nhưng đảng ta làm sao ngăn cản được khi hết cá nhân này tới cá nhân khác có thể giẫm đạp cả pháp chế xã hội chủ nghĩa lẫn nền tảng đạo lý của cả một dân tộc để duy trì vai trò, vị trí của mình?
Chú thích

21 tháng 1, 2020

90 năm, đất và đảng

Võ Văn Quản
21-1-2020
Tại Việt Nam, bất kỳ đảng phái chính trị nào cũng cần phải quan tâm đến vấn đề đất đai và đề ra những biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này.
Thực tế cho thấy, từ giai đoạn đô hộ của thực dân Pháp, cho đến sự tồn tại của hai quốc gia Nam – Bắc, rồi sau đó là quá trình “cải cách” và “tập thể hóa” đất đai từ thời điểm thống nhất 1975, đất đai luôn là tâm điểm của các đối thoại chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư cách là đảng phái hình thành từ năm 1930, thống trị chính trị miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và toàn quốc từ năm 1975, chắc chắn có một lịch sử luận cương và quan điểm dài hơi liên quan đến vấn đề này. Liệu chúng có thay đổi gì suốt 90 năm qua?
Nhiều học giả cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam khá kiên định về sở hữu đất đai trong suốt thời gian tồn tại của mình. May thay, nhờ vào lượng thông tin và văn kiện đảng dồi dào được cung cấp rộng rãi đến công chúng suốt nhiều thập kỷ qua, việc tổng hợp và xây dựng một khảo lược về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và đất đai không phải là khó.
1930 – 1940: Dân túy trong quyền tư hữu đất đai
Trong giai đoạn này, khác với các đảng phái chính trị và phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ khác, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam) có nhiệm vụ chiến lược tương đối rõ ràng cho cách mạng Việt nam bao gồm: “Đánh đổ đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và xóa bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân”, được ghi nhận trong Cương lĩnh Chính trị của đảng năm 1930.
Quan điểm chia lại của cải, mà quan trọng nhất là ruộng đất, cho dân chúng bần nông trở thành ngọn cờ đầu cho những phong trào đấu tranh đầu tiên của đảng. Khẩu hiệu “Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và các giáo hội, giao ruộng ấy cho trung và bần nông”, cho đến nay, vẫn được xem là đúng đắn, phù hợp.
Hiển nhiên, vấn đề ruộng đất không phải là vấn đề duy nhất mà Đảng Cộng sản Đông Dương quan tâm. Chúng ta có thể thấy đảng luôn cố gắng tiếp cận đến nhiều đối tượng, gồm đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, cứu đói, tạo việc làm cho người thất nghiệp; chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân; chống tăng thuế, chống đối xử xấu với sinh viên; chống bắt lính Việt Nam ra nước ngoài, v.v. (Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2). Tuy nhiên, có thể thấy Cách mạng “Thổ địa” luôn là mặt trận mà Đảng Cộng sản được hưởng ứng mạnh mẽ hơn cả.
Trong thư Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Nông dân, một tổ chức phân hiệu của Quốc tế Cộng sản vào năm 1930, ông tương đối tự hào và ủng hộ mạnh mẽ cho sự dấn thân của nông dân vào các Nông hội Đỏ, dù có đối mặt mới các rủi ro về sức khỏe và tính mạng. Cụ thể, ông ca ngợi nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho liên tục đấu tranh dù đối mặt với với sự “đàn áp dã man” của thực dân Pháp và bọn tay sai. Nguyễn Ái Quốc cũng khuyến khích hoạt động biểu tình – mít tinh của nông dân ở nhiều khu vực, đồng thời lên án hành vi xả súng, dùng phi cơ ném bom vào người dân biểu tình ôn hòa đòi hỏi quyền lợi hợp pháp như đòi chia lại ruộng đất, đòi giảm tô thuế, đòi lý trưởng, hào trưởng ở địa phương giao đất canh tác, v.v. (Hồ Chí Minh Toàn tập, Quyển 3).
Nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Nông dân Việt Nam thời Pháp thuộc. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Năm 1933, Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản Chương trình Hành động của Nông Hội. Chương trình hành động này trước tiên chỉ ra nông dân chiếm đến 90% nhưng chỉ thực sự sở hữu 20% diện tích ruộng đất, từ đó chứng minh họ đang bị đế quốc, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến bóc lột đến tận xương tủy, với sưu cao thuế nặng và nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Trong thực trạng này, Đảng Cộng sản Đông Dương cho rằng giai cấp nông dân không còn con đường nào khác là phải “kéo nhau ra trường cách mạng đánh đổ đế quốc, đoạt lại tự do quyền, trừ diệt địa chủ, chia đất cho dân cày, lập chánh phủ Xô viết công nông”.
Với thực tế lịch sử là tư hữu đất đai được chính quyền các kỳ cũng như nhà bảo hộ Pháp quốc công nhận, các hoạt động tuyên truyền của Đảng Cộng sản Đông Dương có vẻ như muốn vẽ nên một viễn cảnh về quyền tư hữu đất đai sẽ tiếp tục được bảo vệ trong chế độ chính trị mà họ mong muốn xây dựng, chỉ là nó công bình hơn, trong đó người nông dân, mà đặc biệt là bần cố nông, trung nông, những người sẽ đều được sở hữu đất đai mà không cần lệ thuộc vào giới địa chủ và phú nông.
Tuy nhiên, ít người phát hiện ra rằng Luận cương Chính trị 1930 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định nội dung: “Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chánh phủ công nông”. Vì không phổ biến và làm rõ mục tiêu và nguyên lý sở hữu tổ chức, quản lý đất đai trong phạm vi khái niệm “thuộc về chánh phủ công nông”,  thông điệp “cướp của người giàu chia cho người nghèo” về vấn đề đất đai có thể xem là một lời hứa mang nặng bản chất dân túy, song ở mặt nào đó chấp nhận và khuyến khích tư hữu ruộng đất của nông dân.
1940 – 1946: Chấp nhận tư hữu và ôn hòa về đất đai
Từ năm 1935 đến năm 1940, Đảng Cộng sản Đông Dương chịu nhiều thiệt hại lớn với các lãnh đạo chính trị bị xử tử, còn tổ chức đảng cơ sở gần như bị phá hủy hoàn toàn. Việc chỉ dựa vào nền tảng nông dân, tham vọng vừa làm cách mạng giai cấp đồng thời với cách mạng dân tộc khiến cho Đảng Cộng sản Đông Dương không đủ nền tảng nhân dân mà họ kỳ vọng.
Năm 1941, ông Nguyễn Ái Quốc về nước, và độc lập dân tộc trở thành biểu ngữ ưu tiên cho phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản. Thay vì chỉ tập trung thu hút lực lượng nông dân, những loại hình tổ chức mặt trận như Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội (Việt Minh) được hình thành để “đại diện” cho toàn thể lực lượng chính trị xã hội tại Việt Nam, tạo nên một hình ảnh đại đồng, nói không với những cải cách kinh tế – chính trị – xã hội cực tả mà các đảng cộng sản trên thế giới thường được biết đến. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản được giới tư bản, địa chủ ủng hộ mạnh mẽ; và cũng vì lý do này, vấn đề đất đai ít khi được nhắc đến cụ thể, chi tiết trong các văn kiện đảng từ 1940 đến đầu thập niên 1950.
Minh chứng rõ ràng nhất của sự nhượng bộ này là bản Hiến pháp 1946 của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà tại Điều 12 thừa nhận: quyền tư hữu tài sản dưới mọi hình thức được bảo đảm. Điều này đồng nghĩa với việc quyền tư hữu đất đai cũng sẽ được duy trì.
Trong khi đó, các sắc lệnh do Chính phủ Liên hiệp Quốc dân (với sự tham gia của nhiều đảng phái) đề xuất thông qua cũng nhằm mục tiêu giảm thiểu xung đột và bảo vệ quyền lợi nhất định của nông dân, chứ không nhằm đưa ra chính sách cải tổ đất đai nào cụ thể. Ví dụ, Sắc lệnh 78 /1945 chỉ nhằm trao quyền cho Hội đồng Giảm tô và cân nhắc giảm 25% địa tô so với mức trước ngày 19 tháng Tám năm 1945.
Đáng tiếc, cuối năm 1946, chiến tranh Đông Dương lần thứ hai với Pháp nổ ra, và định hướng về tư hữu đất đai của Chính phủ Liên hiệp không có cơ hội thành hình và tìm được chỗ đứng trong lịch sử.
Chính phủ liên hiệp của Hồ Chí Minh năm 1946. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
1947 – 1953: Vừa thừa nhận tư hữu, vừa cực đoan hóa vai trò kiểm soát đất đai của nhà nước
Do chiến tranh với Pháp, cải cách đất đai ít có chỗ trong các không gian đối thoại chính trị của Việt Nam tại thời điểm đó. Thêm vào đó, cũng còn khá nhiều nhân sĩ trí thức không đảng phái trong nội bộ chính phủ kháng chiến, ví dụ như ông Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế; ông Hoàng Minh Giám giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; ông Tạ Quang Bửu giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; và ông Đặng Văn Hướng giữ chức Bộ trưởng không bộ. Điều này cũng khiến cho các chính sách đất đai quá cực đoan cũng cần phải giữ kẻ.
Tuy nhiên, cũng từ năm 1947, với những thắng lợi nhất định của chiến dịch Tây Bắc, diện tích đất do chính phủ kháng chiến kiểm soát mở rộng và các vấn đề đất đai bắt đầu cần phải được xử lý. Tháng Hai năm 1949, chính phủ ra sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp cũng như địa chủ bỏ đất trong những vùng vừa tiếp quản cho nông dân nghèo, chấm dứt tình trạng một số đồn điền trại ấp lâu ngày không được canh tác. Tháng Bảy năm 1949, một sắc lệnh khác được ban hành để ấn định mức địa tô mà các chủ ruộng được thu cũng như xóa bỏ tô phụ và chế độ quá điền.
Đến năm 1950, khi nguồn lực của chính phủ kháng chiến đạt được những thành tựu nhất định cả về nhân lực lẫn lương thực, tài sản; Sắc lệnh 88/SL ra đời với nhiều điểm quan trọng:
Một là, ấn định thời gian lĩnh canh (tối thiểu ba năm) nhằm bảo vệ quyền lợi của tá điền.
Hai là, việc giao lĩnh canh nay không chỉ là thỏa thuận dân sự thông thường giữa các bên nữa, mà bắt buộc phải đăng ký vào sổ Chương bạ bởi Ủy ban Kháng chiến hành chính xã.
Ba, tá điền được quyền ưu tiên mua hoặc ưu tiên lĩnh canh nếu ruộng được bán lại cho bên thứ ba.
Thứ tư, giới hạn quyền cho lĩnh canh liên tục. Theo quy định này, chủ ruộng, sau ba năm, nếu muốn đòi lại ruộng thì phải tự canh tác trong thời hạn ba năm tiếp theo nữa mới có thể cho người khác lĩnh canh tiếp (còn cho tá điền cũ tiếp tục canh tác thì không cấm). Quy định này một mặt ổn định quyền lĩnh canh của tá điền, đồng thời cũng giới hạn quyền tự định đoạt đối với đất đai của chủ ruộng.
Sắc lệnh 88, do đó, là một minh chứng lịch sử rõ ràng để chứng minh rằng cho đến giữa thập niên 1950, quyền tư hữu đất đai và hình thái sản xuất nông nghiệp  địa chủ – tá điền vẫn tiếp tục là cơ sở kinh tế cho chính quyền kháng chiến, khác với nhiều quan điểm và tài liệu ghi nhận rằng chính sách đất đai của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn thống nhất. Tuy nhiên, cũng sẽ phải thừa nhận rằng với Sắc lệnh 88, tham vọng kiểm soát đất đai và huy động đất đai theo ý muốn quản lý hành chính của nhà nước đã dần lộ diện.
1954 – 1975: Tiếp tục thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất, nhưng nhà nước tiếm quyền quyết định về đất đai
Khi nói đến giai đoạn 1954 – 1945, nhiều người sẽ nhắc tới Cải cách Ruộng đất như một minh chứng cho sự trắng trợn của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong việc kiểm soát đất đai.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ về mặt bản chất, có thể thấy diễn biến hoàn toàn ngược lại: Cải cách Ruộng đất tiếp tục khẳng định quyền tư hữu đất đai của người dân, chỉ là phân chia lại về mức chênh lệch chiếm hữu đất, và quá trình phân chia lại đó có phần đẫm máu. Cụ thể, trong Hội nghị lần thứ Năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa II (tháng 11/1953, lúc này được gọi là Đảng Lao động Việt Nam), cương lĩnh về cải cách ruộng đất vẫn chưa nhắc đến việc công hữu hóa đất đai.
Còn khi xem xét Luật Cải cách Ruộng đất được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 4/10/1953, mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất được khẳng định rất rõ ràng: Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ; từ đó, “thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân”. Như vậy, có thể nói chế độ tư hữu ruộng đất vẫn còn được thừa nhận, chỉ là chuyển từ chế độ chiếm hữu “thực dân, phong kiến” sang chế độ chiếm hữu của nông dân mà thôi.
Một "phiên tòa" xét xử địa chủ thời Cải cách Ruộng đất. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Một “phiên tòa” xét xử địa chủ thời Cải cách Ruộng đất. Ảnh: Chưa rõ nguồn.
Ngày vui ngắn chẳng tày gang, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đảng Cộng sản Việt Nam tìm thấy cơ hội thực hiện chính sách công hữu hóa đất đai đầy tham vọng của mình, song dưới danh nghĩa “tập thể hóa”. Hiến pháp 1959, vì vậy, bắt đầu áp đặt các khái niệm về bốn hình thức sở hữu (Điều 11) bao gồm hình thức sở hữu của nhà nước (toàn dân), hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc; và đặc biệt phải kể đến “kinh tế quốc doanh” (Điều 12).
Hiến pháp này vẫn tiếp tục “bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân” (Điều 14). Có chăng điều họ muốn làm là thí nghiệm việc đẩy nông dân vào các mô hình hợp tác xã nói chung, chứ không cho phép hoạt động kinh tế độc lập tự thân, từ đó chuẩn bị cho mong muốn xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Chiến thuật vừa đánh vừa xoa này kéo dài cho đến tận năm 1975, song ngôn ngữ bắt đầu dịch chuyển đáng nghi ngại.
Nghị quyết số 125 của Chính phủ ban hành ngày 28/06/1971 đã khẳng định “Ruộng đất, ao hồ, đồng cỏ của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, các cơ sở quốc doanh, các cơ quan đơn vị khác và của cá nhân được nhà nước chứng nhận quyền quản lý và sử dụng đất đều được pháp luật bảo vệ, không ai được xâm phạm”. Từ “quyền sở hữu” trong Hiến pháp 1959 nay đã dần chuyển đổi thành “quyền quản lý và sử dụng đất”. 
Đảng Lao động Việt Nam cũng bắt đầu đưa ra các chính sách can thiệp sâu rộng hơn về chuyển nhượng và sử dụng đất đai, như nghiêm cấm việc mua bán ruộng đất, mọi hành vi phá hoại đất đai làm mất diện tích ruộng đất, làm giảm bớt độ màu mỡ của đất như bỏ hoang hóa ruộng đất. Thêm vào đó, nhân dân có nhu cầu đổi ruộng, chuyển nhượng ruộng giữa các hợp tác xã nông nghiệp với nhau trong phạm vi huyện phải được ủy ban hành chính huyện cho phép.
Sự phục tùng nhất định của nông dân miền Bắc đã tạo cơ sở cho quyết định tiến tới công hữu hóa đất đai sau này.
1975 – 1986: Công hữu đất đai toàn diện
Ngày 30/4/1975, Đảng Lao động Việt Nam thống nhất toàn bộ quyền lực chính trị và quân sự trên dải đất hình chữ S về tay mình, thời cơ chín muồi để hiện thức hóa tham vọng công hữu hóa đất đai mà đảng ấp ủ bấy lâu nay đã tới.
Hiến pháp 1980 ra đời, chính thức tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19). Đây là lần đầu tiên trong suốt 35 năm tồn tại của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ trực tiếp tuyên bố chế độ sở hữu đất đai này.
Từ đó, với Chỉ thị số 57/CT-TƯ ngày 15/11/1978 của Ban Chấp hành trung ương Đảng, đảng và nhà nước mới đã tiến hành tiếp quản và quản lý các mô hình hợp tác xã tự nguyện trước đó. Và với Chỉ thị 100/CT-TƯ ngày 15/1/1981, cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, được đổi mới theo hướng mệnh lệnh hành chính tập trung.
Năm 1987, Luật Đất đai chính thức cụ thể hóa chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
Ảnh: Cường Trần/Người Đô Thị.
1986 đến nay: Hơn 30 năm dở dở ương ương của người dân “sử dụng”, Nhà nước “thống nhất quản lý”
Thất bại nặng nề trong việc hiện thực hóa các tham vọng kinh tế của mình qua công hữu đất đai và sản xuất tập thể, năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI đã đề ra đường lối Đổi mới.
Ngày 5/4/1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời, được cho là từng bước tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; “cởi trói” và giải phóng năng lực sản xuất cho người nông dân (mà thật ra là chính họ trói người nông dân trước đó).
Năm 1993, Luật Đất đai mới thay thế cho Luật Đất đai năm 1987 đã mở ra một nội hàm rộng cho khái niệm “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quyền sử dụng đất thuộc về người sử dụng đất”. Năm 2003, Luật Đất đai 1993 được thay thế bằng Luật Đất đai 2003.
Ngày nay, dù tiếp tục chỉ được xem là “người sử dụng” đất, người dân đã được trao trả các quyền định đoạt tài sản thông thường như quyền cho thuê, thế chấp, góp vốn, để thừa kế và sản xuất kinh doanh.
Cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục duy trì quan điểm cho rằng nhà nước đại diện toàn dân thống nhất quản lý đất đai. Điều này, thật ra mà nói, không ngăn cản các nhà tư bản thân hữu và tư bản đỏ tích tụ đất đai vào tay họ, mà thậm chí còn đẩy quá trình đó diễn ra nhanh hơn.

20 tháng 1, 2020



Đồng Tâm và Ô Khảm, thuộc hai quốc gia của một chế độ
fb Jackhammer Nguyễn 12-1-2020 - Đồng Tâm là một làng quê nông nghiệp ngoại thành Hà Nội, Việt Nam. Ô Khảm là một làng đánh cá ngoại thành Quảng Châu, Trung Quốc.
Ngày 9/1/2020, công an Việt Nam ập vào làng Đồng Tâm, đàn áp bắt đi ba mươi người, giết chết một người, chấm dứt sự tồn tại của Tổ đồng thuận chống tham nhũng Đồng Tâm.
Ngày 13/9/2016, công an Trung Quốc tràn vào làng Ô Khảm, bắt bớ đánh đập, chấm dứt sự tồn tại trong gần năm năm một chính quyền được dân bầu lên.
Cả hai vụ nổi dậy và bị đàn áp tại Đồng Tâm và Ô Khảm giống nhau ở bản chất, đều bắt đầu bằng những vụ cưỡng đoạt đất đai, dựa trên nguyên tắc cộng sản, “đất đai là sở hữu toàn dân”.
Ảnh trên: Người dân Đồng Tâm (VN) mang cờ, biểu ngữ phản đối quan tham cướp đất năm 2017. Ảnh dưới: Dân Ô Khảm (TQ) với cờ xí rợp trời, phản đối quan tham và ủng hộ ông Lâm Tổ Loan.

Ô Khảm

Vào năm 2011, hàng ngàn người dân làng Ô Khảm biểu tình tố cáo các cán bộ xã, huyện, đã lấy đất của họ bán cho các doanh nghiệp để kiếm lời. Các cán bộ sau đó bị cách chức, và Bắc Kinh đồng ý cho dân chúng Ô Khảm bầu cử trực tiếp những chức vụ trong xã. Ông Lâm Tổ Loan, một đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành người đứng đầu Ô Khảm vào năm 2012.

Từ 2012 đến 2016, ông Lâm tiếp tục đại diện cho dân làng đòi đất đai. Tháng 9/2016 ông bị bắt với tội nhận hối lộ và bị xử tù ba năm. Dân Ô Khảm nói ông không có tội gì. Một cuộc biểu tình bùng nổ và bị đàn áp mạnh, có người phải bỏ trốn ra nước ngoài.

Đồng Tâm 

Năm 2014, dân làng Đồng Tâm bắt đầu phản đối việc trưng thu đất đai, giao cho công ty Viettel kinh doanh. Đỉnh điểm của sự xung đột là vụ dân làng bắt hàng chục công an làm con tin vào tháng 4/2017. Hà Nội phải thương lượng việc trao trả con tin, hứa không truy tố dân làng. Sau đó các cán bộ xã, huyện bị cách chức vì “những sai phạm trong quản lý đất đai”.

Một Tổ đồng thuận chống tham nhũng được thành lập do ông Lê Đình Kình, một đảng viên cộng sản “lão thành” đứng đầu, tiếp tục đòi đất. Trong cuộc đàn áp ngày 9/1/2020, ông Lê Đình Kình bị giết chết.

Hai quốc gia một chế độ

So sánh Ô Khảm và Đồng Tâm, chúng ta thấy có một diễn biến, dù tên gọi có khác nhau nhưng bản chất rất giống nhau. Đó là quyền lực của chính quyền trung ương bị mất ở cấp làng xã. Chính quyền Quảng Đông mất quyền kiểm soát đối với chính quyền do dân bầu lên ở Ô Khảm. Chính quyền Hà Nội không thể kiểm soát được Tổ đồng thuận của ông Lê Đình Kình, mà rất nhiều người dân nghe theo Tổ đồng thuận này. Trên thực tế Tổ đồng thuận chống tham nhũng đã trở thành một chính quyền De Facto.

Việc này không thể chấp nhận được đối với thể chế cộng sản.

Kết quả đàn áp, có thể có những nguyên nhân, âm mưu cấp địa phương khác nhau, nhưng là điều không thể tránh khỏi cả ở Trung Quốc lẫn Việt Nam.

Một điều rất giống nhau nữa là sự phản kháng của dân làng Ô Khảm và dân làng Đồng Tâm đều nhân danh Đảng Cộng sản. Chúng ta thấy cờ đỏ treo đầy tại Đồng Tâm trong những cuộc biểu tình, đằng sau những chiến lũy phòng thủ. Tại Ô Khảm những cuộc biểu tình cũng rợp cờ đỏ với lời tung hô Đảng Cộng sản Trung Quốc muôn năm. Cả hai ông Lâm Tổ Loan và Lê Đình Kình đều là những… đảng viên trung kiên.

Hơn bất cứ cuộc cách mạng nào, cuộc cách mạng cộng sản ăn thịt nhiều nhất những đứa con của nó.

Cả trong hai sự việc, chúng ta đều thấy sự không khoan nhượng của thể chế với những người dân, những đảng viên của chính đảng cộng sản, cả gan bất bình với thể chế, cả gan thoát khỏi sự kiểm soát của nó, và trên hết, lại tạo ra những tổ chức mà đảng cộng sản không kiểm soát được.

Việt Nam nhỏ hơn Trung Quốc nhiều lần, Đồng Tầm nhỏ hơn Ô Khảm nhiều lần, nhưng sự tàn ác và khốc liệt không hề nhỏ hơn. Ô Khảm chỉ có tù nhân, còn Đồng Tâm có cả xác chết. Sự tàn bạo còn thể hiện ở chỗ là mặc cho sự bất bình của dân chúng, sự tàn khốc của biến cố, những người cộng sản Việt Nam ngay lập tức vinh danh những viên công an mất mạng trong cuộc đàn áp, một cái tát dằn mặt bất cứ người Việt Nam nào cả gan chống Đảng Cộng sản.

Khi ông Nguyễn Đức Chung vào Đồng Tâm hứa hẹn, nhiều người dân đã tin tưởng. Khi Bắc Kinh cho phép Ô Khảm bầu cử tự do, nhiều người Trung Quốc tin rằng sẽ có thay đổi. Nhưng ngay khi vụ Ô Khảm bùng nổ năm 2011, một giáo sư Mỹ tại Wisconsin có nói, sẽ không có thay đổi gì cả, khi đất đai vẫn là sở hữu toàn dân.

Nhưng nếu đất đai không là sở hữu toàn dân nữa, thì liệu thể chế cộng sản và bản thân đảng cộng sản có còn không?

Jackhammer Nguyễn, từ San Francisco

19 tháng 1, 2020

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 2: Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an LHQ

(TNO) Giới chức ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã xúc tiến các nỗ lực đưa vấn đề Hoàng Sa ra các tổ chức quốc tế, song bất thành.

Hoàng Sa ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin - Ảnh: Digital Journalist
Trong điện tín gửi về Bộ Ngoại giao ngày 20.1.1974, Đại sứ Mỹ Graham Martin cho biết Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã gặp ông để thảo luận về “tình hình rất nghiêm trọng” tại quần đảo Hoàng Sa. Theo đó, chính quyền Sài Gòn đã kết luận rằng việc sử dụng biện pháp quân sự, kể cả không quân, để tái chiếm Hoàng Sa là không khả thi trước sự vượt trội về sức mạnh của quân Trung Quốc. Do vậy, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho ông Bắc thực hiện một số bước đi ngoại giao để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
“Ông Bắc nói với tôi rằng trong tình huống nghiêm trọng này, Tổng thống Thiệu cảm thấy ông cần phải kêu gọi sự giúp đỡ của Mỹ, người bạn và đồng minh thân thiết nhất của VNCH. Ông hy vọng Mỹ sẽ ủng hộ các sáng kiến ngoại giao khác nhau mà VNCH dự định tiến hành”, ông Martin viết.
Nỗ lực ngoại giao
Cụ thể, theo ông Martin, các bước đi mà Sài Gòn dự định thực hiện gồm: thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ) và Tổng thư ký LHQ về cuộc tấn công của Trung Quốc ở Hoàng Sa; kiến nghị đến Hội đồng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO); cân nhắc đưa tranh chấp ra Tòa án Công lý Quốc tế. Ngoài ra, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc cũng được lệnh thông báo sự việc cho các bên ký kết Định ước của Hội nghị quốc tế về Việt Nam (định ước đảm bảo việc thực thi Hiệp định Paris), với lý do Trung Quốc, một thành viên ký kết định ước, đã vi phạm Hiệp định Paris, vốn quy định mọi quốc gia phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ngoại trưởng Bắc cũng triệu tập ngoại giao đoàn để thông báo về tình hình và đề nghị chính phủ các nước ủng hộ VNCH.
Ngày 20.1.1974, VNCH đã chính thức gửi thư đến Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ, yêu cầu triệu tập cuộc họp khẩn của Hội đồng Bảo an để xem xét hành động xâm lược của Trung Quốc “nhằm thực hiện các hành động khẩn cấp để sửa chữa tình hình và chấm dứt việc xâm lược”. Tuy nhiên, các nhà ngoại giao Mỹ tại Hội đồng Bảo an tỏ ra bi quan về việc đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an bởi Trung Quốc vốn là một thành viên thường trực của cơ quan này trong khi VNCH chỉ là quan sát viên của LHQ và tư cách đại diện còn là vấn đề gây tranh cãi.
Đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali nhận định trong một bức điện gửi cho Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó: “Dự định đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an sẽ gây ra rắc rối rõ ràng và nghiêm trọng cho chúng ta. Phía Việt Nam có vẻ như không có cơ hội đạt được một quyết định thuận lợi từ Hội đồng Bảo an và có ít triển vọng đạt được bất kỳ lợi thế nào”.
“Tình thế của chúng ta sẽ cực kỳ bất tiện ngay cả khi Việt Nam có quyền hợp pháp hiển nhiên với quần đảo tranh chấp. Trong tình cảnh hiện tại, chúng ta sẽ tìm cách trì hoãn tiến trình của Hội đồng Bảo an. Điều này sẽ giúp phái bộ VNCH có thời gian thăm dò trực tiếp các thành viên Hội đồng Bảo an và báo cáo kết quả về cho Sài Gòn”, đại sứ Mỹ tại LHQ John A. Scali viết.
Kết quả bất lợi

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 1: Bàn cờ nước lớn

(TNO) Hồ sơ ngoại giao được giải mật của Mỹ cung cấp một góc nhìn mới về Hải chiến Hoàng Sa cách đây tròn 40 năm.

Hồ sơ ngoại giao Mỹ về Hải chiến Hoàng Sa - Kỳ 1: Bàn cờ nước lớn

Thủ tướng Trung Quôc Chu Ân Lai (trái) đãi tiệc Tổng thông Mỹ Richard Nixon (giữa) trong chuyên thăm lịch sử năm 1972 - Ảnh: Corbis
Câu hỏi liệu có sự thông đồng giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1.1974 vẫn là vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát sau 40 năm. Tuy nhiên, mối quan hệ mới được vun đắp giữa hai nước vào lúc đó cũng như thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa chắc chắn góp phần khuyến khích Trung Quốc mạnh dạn thôn tính trọn vẹn quần đảo của Việt Nam.
Các hồ sơ ngoại giao của Mỹ được giải mật trong thời gian qua gợi ý Washington đã chủ động bỏ rơi và gây sức ép buộc Việt Nam Cộng hòa (VNCH) không được “manh động” trong vấn đề Hoàng Sa nhằm bảo vệ "thời kỳ trăng mật" trong quan hệ với Trung Quốc.
Như một sự trớ trêu, Liên Xô lại là một trong những quốc gia tỏ ra thông cảm với VNCH trong vụ Hoàng Sa, qua việc chỉ trích Trung Quốc, dù chỉ để phục vụ mục đích tuyên truyền chống Bắc Kinh vào lúc đó. Ngược lại, bằng một thái độ lạnh nhạt, Washington và các đồng minh đã cố gắng thuyết phục Sài Gòn không đưa vấn đề Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Thái độ của Mỹ trong vấn đề Hoàng Sa đã được một đại diện ngoại giao Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc mô tả bằng một câu nói mỉa mai rằng Washington đang bối rối trong việc lựa chọn ủng hộ “đồng minh cũ và người bạn mới”.
Bối cảnh quốc tế
Hải chiến Hoàng Sa cần phải đặt trong bối cảnh những rạn nứt quan hệ Liên Xô - Trung Quốc. Quan hệ Xô - Trung trong thập niên 1960 bị phủ bóng bởi những bất đồng sâu sắc về tình trạng của khu vực Ngoại Mông cũng như nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới sau vụ “đoạn giao” năm 1960.
Cuộc đụng độ ở biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, với cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2.1972. Sau chuyến thăm của Nixon, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh tiến hành chương trình hiện đại hóa quân đội lớn, kêu gọi phát triển hải quân viễn dương, cũng như tiếp tục mở rộng việc phòng thủ bờ biển. Điều này mang lại cho hải quân Trung Quốc phương tiện cần thiết để tiến xuống biển Đông. Trong khi đó, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam Việt Nam theo hiệp định Paris ký kết tháng 1.1973.
Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, Bắc Kinh đã quyết định đánh chiếm Hoàng Sa ngay trước khi Việt Nam thống nhất. Việc Bắc Kinh lên kế hoạch kỹ càng cho việc tiến chiếm Hoàng Sa cũng được ghi nhận trong một bức điện tín được Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin gửi về cho Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 20.1.1974, một ngày sau khi hải chiến nổ ra: “Rõ ràng, Trung Quốc không đơn giản tăng viện lực lượng ở Hoàng Sa mà đang tiến hành một kế hoạch chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm chiếm quần đảo”. Chính vì việc này, ông Martin đã đề nghị Washington hãy cân nhắc gây sức ép lên Bắc Kinh và đẩy mạnh các bước đi trong lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ khi đó có vẻ như bận rộn bảo vệ mối quan hệ với Trung Quốc hơn là với một đồng minh hết thời.
Thái độ của Mỹ
Tháng 11.1973, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger công du Trung Quốc và có các cuộc mật đàm với Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai. Trước đó, vào tháng 2.1973, hai nước đã tuyên bố thiết lập văn phòng liên lạc. Khi tình hình biển Đông căng thẳng vào tháng 12.1973, Đại sứ quán Mỹ tại Singapore đã gửi điện tín cho Bộ Ngoại giao Mỹ hỏi về lập trường của chính phủ trong các tranh chấp tại khu vực. Bộ Ngoại giao Mỹ đã gửi điện tín cho các đại sứ quán và văn phòng liên lạc ở VNCH, Singapore, Philippines, Đài Loan và Trung Quốc rằng lập trường của Washington là không đứng về bên nào trong các tuyên bố chủ quyền tại đây. Quan điểm này được tái xác nhận trong các cuộc họp ngày 25.1.1974 và 31.1.1974 của nhóm hành động đặc biệt do Kissinger đứng đầu. Theo đó, phía Mỹ sẽ tránh xa những tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước đó, ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa. Ngay sau đó, ngày 12.1, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao VNCH đã cực lực bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ của Trung Quốc. Ngày 16.1, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của VNCH ra tuyên bố tố cáo Trung Quốc cử người và tàu bè đến vùng biển xung quanh các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Duy Mộng, vi phạm trắng trợn chủ quyền của VNCH. Sau khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19.1, Đại sứ Mỹ Martin ngày 20.1 đã gửi điện tín báo cáo về Bộ Ngoại giao cho biết họ đã tức tốc đề nghị các quan chức VNCH hãy kiềm chế, tránh hành động leo thang và khẳng định quân đội Mỹ sẽ không hề can thiệp trong bất kỳ tình huống nào. Bộ Ngoại giao Mỹ trước đó thông báo cho các đại sứ quán của Mỹ rằng họ đã yêu cầu Bộ Quốc phòng chỉ thị cho hải quân tránh xa khu vực.
Trong cuộc gặp với quyền trưởng Văn phòng Liên lạc Trung Quốc ở Washington Hàn Tự ngày 23.1.1974, Kissinger đã đề nghị Bắc Kinh xem xét trường hợp của nhân viên người Mỹ Gerald Emil Kosh bị bắt giữ trong trận chiến và khẳng định Mỹ không ủng hộ tuyên bố chủ quyền của VNCH với Hoàng Sa.
“Chính quyền Nam Việt Nam đang gửi một số kiến nghị đến các tổ chức quốc tế như SEATO cũng như Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi muốn các ông biết rằng chúng tôi không liên kết với những kiến nghị đó”, Kissinger phát biểu, theo một biên bản được giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ. (Còn tiếp)
Sơn Duân