4 tháng 10, 2019

Câu chuyện tình buồn bí mật của Lê Vũ Anh con gái ông Lê Duẩn lấy chồng người Nga 

 “Tôi mơ thấy một luồng sáng: người ta đã đầu độc Vũ Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bệnh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế. Theo quan điểm của tôi đã xuất hiện thêm một phương án khả tín: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Vũ Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn … Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Vũ Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam”.

Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viktor Maslov, con rể cố TBT Lê Duẩn. Dịch từ nguyên bản tiếng Nga

“Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn, bị đầu độc?”

Cõ lẽ tất cả đã khác đi, nếu như tôi biết được từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được khám phá thì đã quá muộn. Tôi đã yêu mê muội, và không thể dứt khỏi nàng được nữa.

Chúng tôi gặp nhau ở Khoa Lý MGU, nơi Anh học tập. Trước lúc gặp Anh tôi đã là giáo sư, tiến sĩ khoa học toán – lý và là tác giả của lý thuyết được biết đến ở nước ngoài dưới tên gọi “Maslov-type index theory” (lý thuyết chỉ số kiểu – Maslov). Lý thuyết này được ứng dụng rộng rãi trong toán học trừu tượng, và cả trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang học. Chỗ làm chính của tôi là Viện chế tạo máy điện Moskva – MIEM, nhưng Khoa Lý vẫn là nơi ruột thịt: tôi đã có thời học tập và giảng dạy ở đó.

Bao nhiêu năm đã trôi qua … Cả một đời người. Nhiều sự kiện và ấn tượng bật ra từ ký ức, và nàng công chúa lộng lẫy thoáng hiện ra ở cuối hành lang hôm ấy cho đến lúc này vẫn như đang hiển hiện trước mắt. Một cô gái không quen biết có dáng đi kiều diễm đặc biệt làm tôi sửng sốt và say mê bước theo. Nàng dừng lại một chút ở cửa phòng thí nghiệm và quay lại. Nhìn tôi với ánh mắt đen trong một giây, nàng mỉm cười rồi lẩn vào bên trong. “Một cô gái ngoại quốc” – tôi hiểu ra, và đoán chắc là một cô gái Ấn Độ.

Tôi không dấu diếm là luôn thích phụ nữ đông phương. Một nhà vật lý là bạn tôi đã nói đùa: “Maslov của chúng ta là một tay “thám hiểm phương đông” lớn!” Khá nhiều sinh viên từ các nước châu Á học tập tại MGU, trong số đó có cả các công dân đến từ Việt Nam đang trong lửa đạn. Mọi người đều cảm thông và có cảm tình với các sinh viên này. Tại Khoa Lý cũng có những người Việt, và tôi lập tức kêt bạn với họ, đặc biệt với hai cô gái – Phúc và Tình. Phúc là con gái nhà chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp, lúc đó đang là Bộ trưởng Quốc phòng. Tình là con gái Thị trưởng Hà Nội. Cả hai đều giấu cha họ là ai, cũng như các sinh viên khác mà gia đình thuộc hàng ngũ lãnh đạo, do lo ngại các ý đồ chính trị và sự khiêu khích từ phía chính quyền xô viết.


Vấn đề là giữa hai nước có mối quan hệ khá đặc thù, cho dù cả hai phía đều đưa ra cam kết về một tình hữu nghị lâu dài. Liên Xô quan tâm đến việc mở rộng ảnh hưởng ở Châu Á, đặc biệt trong điều kiện các mâu thuẫn gia tăng với Trung Quốc, và do vậy đã tỏ ra hào hiệp giúp đỡ “người anh em” Việt Nam. Còn Việt Nam thì hài lòng kết thân với Ông anh cả, nhưng không chịu hi sinh các lợi ích riêng và trở thành kẻ lệ thuộc. Các nhà lãnh đạo lợi dụng các cơ hội để con cái họ được hưởng nền giáo dục có chất lượng khá cao của Liên Xô, nhưng lại sợ rằng chúng bị tống tiền hoặc bắt cóc để gây áp lực lên bố mẹ, và đòi hỏi chúng phải ngụy trang. Có lẽ đó là nguyên nhân mà các lãnh tụ Việt Nam, theo tôi, đã quá cẩn trọng. KGB không cần phải bám theo con cái họ, nhưng biết rõ ai là ai.


Tôi thích Phúc, giúp cô học toán, mời đến nhà không chỉ một lần – cả một mình lẫn cùng bạn bè – nhưng giữa chúng tôi không hề có dù chỉ là dấu hiệu về một mối tình. Cô gái Việt Nam đáng yêu tránh xa tôi trước mặt mọi người như tránh lửa.

Một lần chúng tôi cùng trở về từ chỗ người đánh máy công trình khoa học của Phúc, tôi là người giới thiệu họ với nhau. Trên con phố nhộn nhịp của Moskva mà cô gái hành xử như một cô du kích trong lòng địch: trông rất hốt hoảng và luôn ngó nghiêng xung quanh. Phúc đặc biệt căng thẳng với giao thông công cộng. Thoáng thấy ô-tô bus hay trolleybus là cô ấy loay hoay định trốn.

– Cô làm sao thế? – Tôi hỏi – Cô sợ cái gì?
– Sợ trong đấy có người Việt Nam!
– Có gì mà sợ vậy?
– Nêu họ thấy em đi với người Nga, họ sẽ không hoan nghênh em đâu.

Tôi bắt đầu lục vấn. Hóa ra người Việt Nam bị cấm giao thiệp với người Âu, “bọn mũi lõ” như họ nói. Từ hàng thế kỷ mối quan hệ đó bị lên án và những người có quan hệ bị xem là phản bội. Cô gái nào đi với “bọn mũi lõ” trên phố sẽ bị nguyền rủa, và đôi khi còn bị ném đá. Những người cộng sản, sau khi nắm quyền ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật lạ lùng là vẫn giữ cái nếp phong kiến đó. Vi phạm các cấm kỵ trong giao tiếp với người nước ngoài sẽ kéo theo sự lên án của xã hội, bị kiểm điểm trong các cuộc họp đảng và đoàn thể, thậm chí còn bị bỏ tù. Ra nước ngoài công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức trong nước. Theo họ, thậm chí vũ ba-lê cổ điển cũng ngang với chuyện khiêu dâm. Về sau Anh kể chuyện rằng các nhà ngoại giao khi xem ba-lê ở Nhà hát Lớn còn ngồi nhắm mắt để khỏi phải nhìn các vũ điệu “không đứng đắn” của các vũ nữ ăn mặc hở hang.

Các bạn Việt Nam đã giới thiệu tôi với cô gái xinh đẹp đó, nàng hóa ra là đồng hương với họ. Lê Vũ Anh thích toán và muốn học sâu về môn này. Tất nhiên tôi đồng ý giúp nàng. Anh làm tôi sửng sốt ngay lập tức, nàng thực sự là một quý cô trẻ tuổi, không giống với các phụ nữ Việt Nam điển hình khác: khá cao, trắng trẻo, với đôi mắt hoàn toàn không xếch. Và cư xử như một quý cô cành vàng lá ngọc – rất giản dị, nhưng với một sự tôn quý khác thường. Trong nước Anh được xem là một trong các mỹ nữ hàng đầu. Và ở đây nàng luôn được các chàng trai trẻ để ý tới.

42%2B%25281%2529
Bà Bảy Vân, mẹ của Lê Vũ Anh, mang trong người một phần tư dòng máu Trung Hoa
Về sau tôi được biết rằng trong huyết quản của Anh ngoài dòng máu Việt còn có cả dòng máu Trung Hoa. Mẹ của nàng, Bảy Vân, một phần tư là người Trung Hoa. Ở Việt Nam người ta không biết điều này, gia đình che dấu “mối liên hệ với Trung Quốc”. Sự thật là khi còn thơ ấu Anh đã có một thời gian sống ở đó. Bạn gái của nàng là con gái Đặng Tiểu Bình – bạn của cha và là nhân vật thứ hai thiên hạ sau Mao. Với Người cầm lái vĩ đại cô bé cũng quen biết. Anh đã cho xem tấm ảnh nàng ngồi quỳ gối bên Mao Trạch Đông.

Thời trẻ Bảy Vân là người xinh đẹp. Lê Duẩn vì bà mà chia tay với người vợ đầu do bố mẹ cưới cho. Ông thuộc về một gia đình có truyền thống gia trưởng mạnh mẽ. Người vợ thứ hai xuất thân từ một gia đình trí thức, nhưng như tôi đã nhắc tới, bà không thể tự hào về một nguồn gốc “trong sạch”. Anh là đứa con đầu tiên. Ngoài nàng ra Lê Duẩn còn có các con gái từ cuộc hôn nhân đầu, và hai người con trai với bà Bảy Vân. Hai trong số các con của ông –Thành, con trai và Muội, con gái – trong thời gian đó cũng sống tại Moskva. Muội lớn tuổi hơn Anh nhiều và có nhiệm vụ trông coi em gái. Chị ấy tốt nghiệp đại học ở Liên Xô và là nhà sinh học. Chị sống cùng chồng và con gái một số năm ở Moskva. Nhưng tôi biết về tất cả những điều này khá muộn về sau …

Vì Anh tôi nhận dạy một chuyên đề không bắt buộc về toán ở Khoa Lý. Ban đầu rất đông người dự, dần dần họ bắt đầu chán và bỏ học, cuối cùng chỉ còn hai chúng tôi. Anh cố gắng, nàng rất có năng lực và cần cù. Hai chúng tôi bị hút vào nhau không cưỡng lại được. Bắt đầu gặp gỡ – tại nhà tôi và tại ngôi nhà ngoại ô (đatra) ở Krasnaya Pakhra. Cùng học, cùng nghe nhạc, nói chuyện với nhau về đủ thứ. Anh giữ phong thái tự do hơn các bạn gái của mình nhiều và không sợ điều gì cả.

Mẹ tôi ngay lập tức thích nàng. Nói chung, bà thích tất cả những thú đam mê của tôi. Bà mẹ đã từ lâu mong mỏi cưới vợ cho người con trai duy nhất.

Tôi có cuộc sống riêng tư khá phóng túng và thậm chí có cả những đứa con ngoài giá thú. Một trong số đó – Sergey Majarov – đã gặp tai nạn, và tôi phải chịu đựng điều đó một cách nặng nề. Serioja di cư sang phương Tây vào đầu những năm 80 cùng cha mẹ. Sống ở Paris, thu nhận học vấn, mở hãng và làm về tin học. Lúc đầu công việc diễn ra không thật tích cực, nhưng khi Liên Xô bắt đầu cải tổ, Sergey hiểu các vấn đề kinh tế của đất nước và tỏ ra là một nhà quản trị tốt. Sau một vài phi vụ lớn thì trở thành triệu phú, sở hữu một bất động sản rất hoành tráng và thậm chí có cả salon về mode riêng. Sống thoải mái, giàu sang, không ở cùng với vợ – con gái nhà văn Anatoli Gladinin, người đã sinh cho Sergey hai đứa con. Nó đối xử dịu dàng với đám con của tôi. Trước khi chết ít lâu Serioja trở thành nhà sản xuất của bộ phim “Limita” của Denis Evstingneev. Sergey bị giết hôm 22 tháng 11 năm 1994 tại căn hộ của mình ở trung tâm Paris: bị bắn bằng súng tự động qua cánh cửa ra vào bọc thép. Cảnh sát Pháp xem đây là vụ có dính đến maphia Nga. Như tôi biết được thì vụ phạm tội này vẫn còn chưa được phanh phui …

Trước khi gặp Anh tôi không có ý hướng tới các mối quan hệ nghiêm túc, dường như còn muốn đợi điều gì. Và tôi đã đợi được – tôi không có được với bất kỳ người phụ nữ nào những tình cảm như có với nàng. Về tuổi, nàng chỉ như con gái tôi – ít hơn tôi đúng hai mươi tuổi – nhưng chúng tôi không cảm thấy khoảng cách tuổi tác ấy. Nàng ít kể về mình: đến từ Nam Việt Nam (Anh đã đăng ký ở sứ quán của quốc gia này để ngụy trang, khi ấy đất nước chưa thống nhất), sống ở nông thôn trong vùng du kích. Vào Đảng cộng sản năm 17 tuổi. Về sau tôi nói đùa: “Tôi có vợ là nữ đảng viên cộng sản từ năm 17 tuổi”. Trên thực tế điều đó thật đáng ngạc nhiên. Ở Việt Nam, được kết nạp vào đảng ở tuổi ấy rất hiếm, chỉ có những người có công trạng đặc biệt.

Không loại trừ trường hợp Anh đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công nào đó. Nàng im lặng về việc này. Cũng như im lặng về một số thành viên của gia đình mình. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đã sống cùng nhau và nàng đã cởi mở hơn rất nhiều, nàng mới buột miệng: “Ông nội em làm quan”. Tiếng Nga của Anh khá ngộ nghĩnh. Nàng cười: ”Em nói tiếng Nga càng kém, ở Liên Xô người ta càng đối tốt với em!”. Khó khăn nhất với nàng không hiểu tại sao lại là cách gọi tên họ của người Nga. Tôi còn nhớ khi cô ý tá hỏi Anh họ, tên và tên bố của các con gái chúng tôi, nàng đã trả lời một cách rất nghiêm túc là “Tôi còn chưa học được điều này!”. Nhưng tôi lại chạy trước mất rồi …

Khi một mình ở bên tôi, Anh tỏ ra khiêm tốn và rất kiềm chế, nhưng tôi cảm thấy như nàng đang vật lộn với tình cảm của mình. Một lần trong cuộc gặp ở nhà nghỉ ngoại ô, nàng đã suýt để lạc mất lý trí. Tôi không biết cái ôm và nụ hôn sẽ kết thúc ra sao, nếu bỗng nhiên không có tiếng chuông cửa. Người hàng xóm ghé sang, và chúng tôi nói chuyện chừng năm phút ngoài sảnh, không hơn. Khi tôi quay lại, trong phòng không còn ai. Anh đã nhảy qua cửa sổ – sực tỉnh khỏi cơn mê đắm và bỏ chạy.

Tôi hiểu đối với Anh tình yêu với một người Âu là một thử thách như thế nào. Nhưng không nhận thức được kích cỡ của các vấn đề đang đặt ra với nàng, trong đó không chỉ có các truyền thống hàng trăm năm và các chuẩn mực về đạo đức, mà còn có các âm mưu trong nội bộ đảng, và các quan hệ quốc tế rắc rối. Tôi hồi đó không có ngay cả chút nghi ngờ về việc Anh là con gái của Tổng bí thư BCH trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Không thể biết được điều đó theo tên và họ của nàng. Như về sau biết được, ở Khoa Lý ngoài một vài đồng hương chỉ có một người biết gốc gác gia đình lãnh tụ Việt Nam của Anh – đó là Phó khoa phụ trách công tác với người nước ngoài.

Tình yêu của chúng tôi có thể làm hại cha của Anh và trở thành một con bài mặc cả của các đối thủ. Đứng ngay sau lưng ông là đối thủ cạnh tranh trong nhiều năm – Trường Chinh, tổng bí thư đảng cộng sản trước Lê Duẩn. Lê Duẩn hướng về mô hình phát triển đất nước kiểu xô-viết. Trường Chinh – mô hình Trung Quốc. Anh cho rằng Việt Nam sẽ chết nếu đối thủ của cha nắm được chính quyền. Đối với Liên Xô, đó cũng là điều hết sức không mong muốn. Sau cái chết của Lê Duẩn, Trường Chinh trở thành Tổng bí thư BCH trung ương ĐCS Việt Nam, và đã chẳng xẩy ra điều gì đáng sợ.

Cô gái tội nghiệp không biết làm thế nào. Nàng thậm chí còn bắt đầu hẹn hò với một người Việt học tại khoa Toán – Cơ (tôi sẽ gọi anh ấy là Vân) để quên tôi đi, mà không hiểu rằng những khó khăn cản trở chỉ càng làm cho tình cảm bây giờ mãnh liệt thêm.

Một lần dầu sao chúng tôi cũng được ở gần nhau. Tôi lập tức đề nghị Anh lấy tôi làm chồng.

– Chuyện này không thể được, – nàng trả lời, rất buồn bã – Giữa hai nước có một thỏa thuận không nói ra cấm việc hôn nhân giữa các công dân Việt Nam và Liên Xô.
– Anh sẽ suy nghĩ cách để vượt qua điều này.
– Không, không thể được!
– Tại sao ?!
– Em không yêu ông!

Nhưng qua mắt nàng, thì không phải thế. Tôi quyết định không vội vã đẩy nhanh sự việc, để cho Anh có thì giờ suy nghĩ và lắng nghe tình cảm của mình. Và nàng biến mất. Trước đây vẫn thường xảy ra chuyện như vậy, những khi Anh tự cho phép mình một điều gì đó “riêng”, và rồi ăn năn về việc này. Sau đó mọi việc lại quay lại như trước. Nhưng bây giờ tôi không thể tìm thấy nàng. Sắp đến kỳ nghỉ hè. Sinh viên tản đi mọi nơi. Tôi khó nhọc đợi đến khi bắt đầu năm học mới, nhưng Anh cũng không xuất hiện ở MGU sau ngày mồng một tháng Chín.

Tôi không chịu đựng được nữa và gọi cho Phó khoa phụ trách sinh viên nước ngoài:

– Bà có thể cho tôi biết cô sinh viên Lê Vũ Anh đã học chuyên đề của tôi đi đâu không? Cô ấy đã đạt được thành tích khá như thế.
– Cô ấy đã đi lấy chồng, lấy một người đồng hương, cũng là sinh viên của chúng ta, và đã về nước. Chàng trai tên là Vân. Họ sẽ quay lại vào cuối tháng cùng với cha của Anh. Ông ta có cuộc gặp với Brejnev – bà ta khẽ nói.

Tôi suýt khuỵu xuống khi nghe điều này. Gặp Brejnev vào cuối tháng chín sẽ phải là Lê Duẩn. Các miếng ghép hình được xếp xong một cách bất ngờ, và tôi chợt hiểu ra rất nhiều điều lạ lùng trong các câu chuyện và trong cách cư xử của người yêu. Anh của tôi là con gái của lãnh tụ cộng sản Việt Nam! Nhưng làm sao mà nàng có thể phản bội tình yêu của chúng tôi ?!

Về sau Anh đã giải thích mọi chuyện. Khi chúng tôi đã trở nên gần gũi và tôi đề nghị trao cho nàng “cả cánh tay và trái tim”, nàng đã chịu một cú stress nặng nề và than vãn với bạn mình là Vân. Nàng nói rằng chỉ ràng buộc với tôi về tình bạn: vâng, chuyện đã là như vậy, ngoài ý muốn của nàng và Anh lấy làm tiếc về điều đó. Vân yêu nàng và xin cưới ngay. Nàng bị ràng buộc vào anh ta và đồng ý, bảo rằng sẽ cố yêu anh ấy hơn. (Anh nói đúng như vậy: “Em sẽ cố yêu anh hơn”.)

39
Lê Vũ Anh (phải) cùng cha Lê Duẩn  (trái) trong một chuyến viếng thăm Moscow. Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov

Cuộc hôn nhân này là một cú đánh vào Lê Duẩn. Vị lãnh tụ có lẽ đã dự tính cho con gái yêu một nơi phù hợp hơn, trong số các “hoàng tử” của các nước láng giềng cũng có những người để ý đến nàng. Vân là một cậu chàng trí thức trẻ, một tài năng toán học, nhưng không môn đăng hộ đối với Anh. Lê Duẩn tha thứ cho cuộc hôn nhân không xứng này của con gái, nhưng dứt khoát không đồng ý mong muốn ở lại Việt Nam của nàng. Anh cần phải tốt nghiệp MGU. Chỉ còn một năm nữa nàng sẽ kết thúc việc học tại Khoa Lý. Vân cũng muốn làm nghiên cứu sinh ở Moskva. Anh buộc phải phục tùng, với hi vọng việc nàng lấy chồng sẽ làm thay đổi mọi sự và ngăn trở việc tiếp tục cuộc tình của chúng tôi.

Khi nàng quay lại Moskva tôi thuyết phục nàng đến đatra – cùng với Phúc. Anh không thể từ chối, nhưng cư xử một cách kiềm chế. Tôi cố gắng để khung cảnh được thoải mái. Nói đùa, kể chuyện tiếu lâm, và sau đó đề nghị các cô cùng đi bơi thuyền, cho dù bấy giờ đã là cuối thu, thời tiết không được tốt. Khi chúng tôi đến gần bờ, Phúc quay thuyền một cách vụng về và ngã xuống nước. Tôi lôi cô ấy lên và chạy vội đến ngôi nhà gần nhất mượn quần áo ấm. Chủ nhà đưa cho mấy bộ đồ sưởi để chúng tôi ủ ấm cho Phúc. Tôi bế cô ấy về đatra, xoa cồn, cho uống rượu ngọt. Phúc ấm lên và chìm vào giấc ngủ. Còn tôi và Anh, chúng tôi không còn sức để xem nhau chỉ là bạn thêm nữa. Nàng thú nhận rằng muốn sống cùng tôi, nhưng không tin là điều này có thể được.

– Mấy năm trước chính quyền đã không cho phép con gái một vị bộ trưởng cưới con trai thủ tướng một nước châu Âu. Đôi trẻ đã tự tử. Những chuyện như vậy từng xảy ra nhiều. Anh không tưởng tượng được là có bao nhiêu người đã thiệt thân vì cái truyền thống này đâu!
– Mọi việc của chúng ta sẽ tốt! Chúng ta sẽ cưới nhau! – tôi an ủi Anh.

Tất nhiên chúng tôi không phô trương quan hệ của mình để người ta không xử lý Anh, hoặc tệ hại hơn – bắt nàng về nước. Thông thường các mối tình Xô-Việt được Sứ quán biết một cách nhanh chóng. Các đôi uyên ương bị các đồng bào “gõ cửa” cảnh báo. Chúng tôi giữ kín chuyện được gần một năm. Bằng chứng là không thấy có ai theo dõi “các trẻ” Việt Nam, ít nhất là không thường xuyên có chuyện đó. Về sau Anh có thai và không hiểu sao giấu tôi. Nàng đã sơ xuất, chắc vậy, dẫn đến việc sẩy thai. Tôi đi cùng nàng đến bệnh viện và vô cùng hoảng sợ rằng mọi chuyện sẽ vỡ lở và người ta sẽ bắt Anh đi. Tôi còn lo sợ hơn cho sức khỏe của nàng. Mặc họ đưa nàng đi, miễn là mọi chuyện đối với nàng được tốt đẹp. Lần ấy mọi chuyện trót lọt.

***

Sau khi ra viện người ta chuyển Anh về Pushkino, đến an dưỡng đường đặt trong một nhà thờ. Ở đấy nàng có một địa vị đặc biệt, tất nhiên rồi, người ta xếp nàng ăn tại phòng ăn dành cho những nhân vật danh giá. Các cô phục vụ nâng cao khay của nàng khi đi qua phòng lớn, còn những cư dân đang nghỉ dưỡng cố liếc mắt để xem người ta chăm sóc công chúa Việt Nam thế nào. Anh đau khổ với các quy cách xô-viết này, nhưng buộc phải sống hòa thuận với chúng.

Ở Pushkino Anh cảm thấy buồn chán, nàng bắt đầu đề nghị tôi đến thăm. Tôi từ chối mãi, bảo rằng sợ họ bắt được, nhưng rồi cũng đầu hàng và khuất phục. Tôi đến thăm nàng, mang theo con chó fox, và thu xếp để ở bên cạnh an dưỡng đường. Trong một lần hẹn hò trong rừng chúng tôi đã chạm mặt một nhân viên an ninh. Anh ta ngồi trong bụi cây, và bị con chó của tôi phát hiện.

– Anh theo dõi tất cả hay chỉ chúng tôi?
– Theo dõi tất cả, – anh ta an ủi. – Chỗ này là Gestapo đấy.

Thế là mọi chuyện bại lộ, hoàn toàn ngẫu nhiên. Các cơ quan tìm hiểu xem tôi là ai, và báo cáo với Lê Duẩn rằng con gái ông đang yêu một nhà vật lý xô-viết. Một cuộc họp gia đình được triệu tập để phán xét hành tung của Anh. Nhưng những người ruột thịt e ngại nàng, vì nàng tỏ ra rất dũng cảm và độc lập. Thậm chí phê bình cả cha. Theo tôi thì Anh là người cộng sản lớn, lớn hơn chính Lê Duẩn.

Ban đầu họ quyết định hạn chế việc xử lý trong phạm vi hẹp – các bạn bè của gia đình đang ở Moskva. Họ mời Anh đến Nhà hát Lớn xem vở ba-lê “Anna Karenina”. Điều đó không phải ngẫu nhiên. Họ muốn nhắc nhở Anh nghĩa vụ đối với gia đình, lấy nữ nhân vật của Tolstoi làm “đại sứ thiện nguyện”: “Thấy cuộc đời người đàn bà phụ bạc chồng mình kết thúc thế nào chứ?”. Anh cố nén cười.

van3010-v1
Ông Lê Duẩn và Lê Vũ Anh trước biệt thự tại Việt Nam
Lê Duẩn không thể sử dụng bạo lực và chuyển cô con gái yêu đi nơi khác. Cuối cùng nàng vẫn giữ cuộc hôn nhân và cần phải sống cùng chồng ở Moskva. Mọi chuyện yên ắng dần sau một thời gian, nhưng không được phép mềm yếu, cần phải đăng ký cuộc hôn nhân của chúng tôi càng nhanh càng tốt.

Vân không muốn ly hôn. Có thể câu chuyện không chỉ phụ thuộc vào tình cảm của anh ấy, mà còn vì quyền lợi của người cha, mà sự nghiệp của ông ta sau đám cưới của con trai lên như diều gặp gió. Tôi đề nghi Anh thể hiện sự thông minh và tỏ ra ngoại giao, cố gắng thương lượng với chồng, nhưng nàng không muốn làm chuyện khôn khéo. Kết quả là quan hệ của nàng với Vân trở nên căng thẳng. Nhưng khi Anh lại mang thai, thì mọi chuyện đã đến hạn. Nàng buộc phải hành động để khỏi bị rơi vào tình cảnh nhập nhằng: nếu khi sinh đứa con của chúng tôi nàng vẫn còn là vợ Vân, phía Việt Nam có thể áp đặt quyền của họ đối với cháu.

Nàng hứa với Vân là ở Việt Nam sẽ không ai biết về việc họ ly hôn: “Em sẽ giữ bí mật chuyện này, và chúng ta vẫn sẽ là bạn. Chính anh đã nói rằng anh yêu em. Không lẽ anh muốn em sẽ phải căm thù anh?”. Chàng trai đầu hàng. Anh ấy vẫn yêu Anh như trước. Họ làm thủ tục ly hôn tại Văn phòng ZAGS1 cho người nước ngoài ở Moskva, nhưng như một vụ ly hôn của những người Việt Nam bình thường và không thông báo gì cho Lê Duẩn. Cũng không ai nghĩ đến việc thông báo cho Sứ quán Việt Nam. Vân chịu đựng vụ chia ly rất nặng nề, thậm chí phải vào viện tâm thần.

Chúng tôi giấu việc Anh mang thai để không ai ngăn cản nàng sinh nở và đăng ký cho đứa bé tại Liên Xô. Trường đại học thu xếp cử nàng đi công tác vài tháng đến một trường đại học ở Kiev và giúp đỡ gọi cho chị Muội “từ Kiev” (Anh giữ liên lạc với gia đình thông qua chị), và gửi thư từ cho gia đình với các dấu bưu điện ở Kiev, để đánh lạc hướng mọi người. Suốt thời gian mang thai Anh sống với tôi ở đatra, và lánh mặt khi có ai đó ghé thăm.

Trong thời kỳ trì trệ2 các cuộc hôn nhân của công dân Moskva và vùng Moskva với các công dân nước ngoài chỉ được tiến hành ở hai Văn phòng ZAGS – một ở Moskva, một ở Zagorsk – có lẽ để thuân tiện cho cho việc kiểm soát của KGB. Chúng tôi không có việc gì phải làm với hai cơ quan này. Theo luật pháp hồi ấy khi ở một điểm dân cư nào đó không có Văn phòng ZAGS thì có thể làm đăng ký hôn nhân tại Xô viết đại biểu địa phương. Tôi quyết định lợi dụng việc này và đăng ký kết hôn ở Troitsk. Ở thị trấn Viện hàn lâm này tôi có nhiều bạn bè trong tất cả các viện. Tất nhiên nếu họ biết được ai là cô dâu thì chưa chắc đã dám giúp cho đám cưới của chúng tôi. Đành phải láu cá, đánh lừa, thậm chí làm giả cả giấy phép đồng ý cho kết hôn của Sứ quán Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tôi phải có giấy chứng nhận cư trú tin cậy ở Troitsk. Cho dù theo luật về hôn nhân thì điều này không bắt buộc.

Vào những ngày này tôi xây dựng tại đatra một cái gara, rất hoành tráng, như phần nối dài của ngôi nhà. Một trong các bức tường của nó có hình bán nguyệt.

Các cửa sổ phải làm khá hẹp và kéo dài, trông như các lỗ châu mai, tôi còn nẹp thêm các thanh thép. Cửa vào căn phòng này bọc thép. Thành thử trông cứ như một pháo đài. Và nó về sau đã hoàn thành cái chức năng này của mình.

Theo luật Liên Xô, muốn xây gara thì phải là công dân địa phương. Tôi đến gặp trưởng công an Troitsk.

– Tôi muốn đăng ký (hộ khẩu) ở đatra để xây cái gara, có được không?
– Hoàn toàn được, anh đến chỗ mình ở trong Moskva xin chuyển đăng ký về đây, rồi nạp cho phòng hộ chiếu của chúng tôi.

Tôi làm giấy chuyển đăng ký, nhưng phụ trách phòng hộ chiếu yêu cầu phải có giấy phép của chủ tịch Ủy ban hành chính của Troitsk, một người mà tôi có quan hệ rất tốt. Bà này đang sửa soạn đi nghỉ, do vậy bỏ qua nhiều chi tiết trong đơn của tôi. Tôi bèn lập tức đề nghị được phép đăng ký kết hôn ngay sau khi đăng ký (hộ khẩu). “Chúng tôi không thể đợi được. Cô dâu có bầu rồi, tôi có giấy xác nhận khám thai đây”. Bà Chủ tịch bèn ghi: “Cho phép đăng ký hôn nhân ngay sau khi Ủy ban có quyết định đăng ký hộ khẩu”. Và lên đường đi nghỉ.

Với các giấy tờ đó tôi đến gặp vị đại biểu phụ trách đăng ký kết hôn, là “người của mình”, thú thật rằng sẽ cưới một cô gái ngoại quốc, nhưng buộc phải giấu chuyện này, nếu không sẽ bị đuổi khỏi Viện NC mật đang làm. Anh này hứa sẽ thu xếp, giữ bí mật và nói bà thư ký ủy ban, một phụ nữ tốt bụng đẫy đà, xử lý cho. Tôi mừng rỡ, nhưng đã xảy ra một chuyện không lường trước. Trước hôm đăng ký vài ngày, họ chuyển bà thư ký đi, đưa về thay là một cô bé làm ở Quận đoàn komsomolsk Podolsk, một nhân vật cực kỳ tích cực. Tôi hoảng sợ rằng cô ta sẽ làm hỏng cuộc hôn nhân của mình.

Tôi cầu cứu bạn bè: cần vô hiệu hóa một cô gái, làm quen, quyến rũ, và đưa cô ta đi một ngày, để cô ấy phải bàn giao việc lại cho người phó. Tại sao phải làm vậy, tất nhiên tôi không nói. Một nhà khoa học trẻ – đẹp trai và dại gái, nhận lời giúp. Hôm sau chàng gọi điện đến: “Thứ bảy cô ấy sẽ vắng mặt. Đã xin nghỉ. Chỉ có điều phải kiếm cho chúng tôi vé xem buổi hòa nhạc nào thật hấp dẫn”. Chúng tôi kiếm cho họ vé buổi biểu diễn jazz Đức.

van3010-v2
Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô Viktor Maslov và cô sinh viên Lê Vũ Anh trong ngày cưới. Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov

Người phó không gây thất vọng, làm đám cưới cho chúng tôi đúng như đã hứa, “không một tiếng ồn, không một hạt bụi”. Nhưng tôi, cho đến giây phút cuối cùng, vẫn sợ nhỡ có điều gì không hay xảy ra. Bulat Okudjava3 đề nghị: “Nếu có gì cản trở, gọi cho mình. Mình sẽ huy động các phóng viên ngoại quốc đến, và gây ầm ĩ đến mức họ không tưởng tượng ra được đâu”. Tôi biết Okudjava từ những năm thơ ấu, các bà mẹ của chúng tôi như hai chị em. Tôi đã sống hồi nhỏ tại gia đình Bulat, cả nửa năm tại căn hộ của anh trên Arbat. Vì sao thì không nhớ rõ.

Đó là năm 1937, một thời kỳ u ám. Nhiều người phải thay đổi chỗ ở, ẩn náu để tránh bị bắt bớ. Người ta vừa bắt đi cha của Bulat – ông Saliko. Mẹ tôi li dị với cha và lấy Boris Phedorovich Porsnev, một nhà sử học và triết học xuất chúng. Cha dượng đóng một vai trò rất lớn trong đời tôi. Tôi rất yêu quý ông. Có một thời gian tôi được mẹ của Bulat – Askhen Stepanova và bà tôi, Maria Bartanova, nuôi dưỡng. Askhen sau này luôn giúp đỡ chúng tôi, bà cũng dự đám cưới của tôi với Anh.

Tiệc mừng được tổ chức ở đatra. Chỉ mời những bạn bè thân nhất và người nhà. Mẹ tôi tặng cô dâu chiếc vòng đính kim cương của mình. Một chiếc vòng rất tinh xảo, “trí thức”, nhưng Anh ngại mang nó. Nàng là một cô gái khiêm tốn. Còn một món quà nữa của mẹ – một chuỗi hạt trai lớn có hình thù không đều đặn – mà Anh thường đeo dấu dưới áo.

Hôn thú được hoàn thành nhanh chóng đến ngạc nhiên, nhưng giấy đăng ký thì là cả một câu chuyện dài. Đầu tiên bà phụ trách hộ chiếu ngần ngại. Bà này thông báo rằng không có quyền cấp đăng ký, đó là quyết định của chủ tịch ủy ban, và chuyển hồ sơ về Moskva, đến Ban Nội vụ vùng. Ở đó họ dồn tôi chạy vòng quanh. Tôi phải đợi rất lâu tại cửa của các văn phòng đủ loại, nhưng tất cả đều vô ích. Cô em họ của Okudjava đã giúp tôi. Người phụ nữ kỳ diệu này, mà tôi chưa hề gặp, học cùng với phó chủ tịch Ban Nội vụ vùng Moskva. Ông ta cuối cùng ký giấy phép cho tôi đăng ký ở ngoại ô Moskva.

Trong thời xô-viết mọi việc được làm theo các mối quen biết. Tôi và Anh được đưa vào một nhà hộ sinh mới mở ở Moskva theo sự giới thiệu của những người quen của tôi, chẳng cần giấy tờ gì hết. Bác sĩ đỡ đẻ, là một nhà phẫu thuật nổi tiếng, không biết nàng là ai. Tôi nói rằng chúng tôi là tình nhân và muốn đánh lừa người chồng ghen tuông, Anh đã phản bội anh ta trong lúc anh này đi công tác dài ngày. Bảy tháng trước anh chồng nghỉ phép về Moskva, sau đó lại ra đi. Vì vậy chúng tôi cần một giấy chứng sinh rằng em bé được sinh ra mới bảy tháng tuổi.

Trên thực tế tờ giấy này là một bảo chứng để tránh những khiếu nại có thể từ phía Việt Nam. Anh làm thủ tục ly hôn sau khi có thai được hai tháng, và nếu muốn có thể công bố Vân là cha đứa bé. Hồi đó còn chưa biết đến các xét nghiệm ADN. Bác sĩ sản làm các thứ giấy tờ một cách vô tư. Ông ta bị Anh quyến rũ. Và tôi rất biết ơn ông ấy, có lẽ vậy.

Anh sinh con gái ngày 31 tháng Mười năm 1977, chúng tôi đặt tên cho bé là Elena để ghi nhớ Liên – bạn gái thân thiết của Anh, là con gái vị bộ trưởng tư pháp, người đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, nói riêng trong việc quyết định đám cưới “chui”. Chúng tôi làm giấy khai sinh ngay cho cháu ở Troitsk, và chỉ sau đó mới xem là hoàn thành “chương trình minimum”4.

van3010-v3
Lê Anh Vũ và con gái lớn Lena.  Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov 

Trước cuộc sinh nở ít lâu Lê Duẩn đến Moskva. Ông không thể gặp Anh ngay. Điều này làm ông giận dữ. Con gái ở đâu? Thường thì các nhân viên Vụ Quốc tế BCH Trung ương (TƯ) ĐCSLX đưa Anh đến vào ngày cha cô đến nơi. Nhưng lần này họ không thể tìm thấy cô – không ở Kiev, nơi cô đến công tác chính thức, không ở Moskva. Người quản lý giải thích là cô ấy ở với Maslov đâu đó. Một tuần sau, khi Anh và con gái ra khỏi nhà hộ sinh, nàng ngay lập tức tự đi gặp Lê Duẩn để kể hết mọi chuyện. Tôi đã cố ngăn cản, nhưng nàng không nghe.

Anh gặp cha tại nhà khách của chính phủ trên Đồi Lenin. Lê Duẩn bắt đầu thuyết phục con gái trở về nhà để làm thủ tục ly dị với Vân, điều mà nàng đã yêu cầu trước kia. Nhưng nàng nói đã chia tay anh từ lâu và đã đi lấy chồng. Lê Duẩn đỏ mặt lên vì giận dữ và bắt đầu la hét, rằng cái dòng máu Trung Hoa tệ hại mà mẹ nàng truyền cho có lỗi trong mọi chuyện. Anh vô cùng phẫn nộ về chuyện này, nàng không chịu đựng được sự phân biệt chủng tộc. Nhưng nàng không ngăn cha lại, chỉ quay ra và bỏ đi.

Khi đã ở ngoài phố nàng đi đến bến xe công cộng, phía sau một chiếc “Vonga” đen chạy theo, cách một khoảng không xa. Anh bước gấp. Lái xe ngay lập tức nhấn ga. Nàng bỏ chạy – và “Vonga” tăng tốc. Không biết câu chuyện sẽ ra sao nếu Anh không kịp nhảy lên chiếc trolleybus vừa đi tới. Nàng về đến nhà nước mắt đầm đìa. Nàng kể đã hoảng sợ ra sao khi thấy chiếc xe bắt đầu đuổi theo mình:

– Em nghĩ họ sẽ bắt mình bây giờ!
– Em đã nói là cha em không làm việc này mà.
– Nhưng hôm nay em hiểu ra rằng ông đặt quyền lợi chung cao hơn quyền lợi riêng. Nghĩa là số phận em đã định.

Tôi an ủi nàng, còn nàng bật khóc và khẳng định: “Em sẽ chết! Sẽ chết!”

Hôm sau Anh gọi điện cho chị Muội. Chị ấy kể rằng cha rất đau khổ vì chuyện này, nên đã nổi đóa. Ông suốt đêm không ngủ được và muốn làm lành. Anh trả lời: “Tốt nhất hãy chúc mừng chúng em. Chúng em vừa sinh con gái”. Chị không tin, cho rằng Anh bịa ra chuyện này để cha thừa nhận cuộc hôn nhân của nàng. Hai chị em thỏa thuận sẽ gặp nhau tại nhà tôi và cùng đến gặp cha. Khi nhìn thấy Lena, Muội bật khóc và bảo Anh ở nhà. Tự chị ấy sẽ đi và kể mọi chuyện. Người cha đã bị chấn động khi biết tin về đứa cháu.


Người cha không tha thứ cho con gái. Người ta kể cho tôi rằng ở nhà Lê Duẩn đã cấm nói đến Anh, ngay cả đến tên cũng không được nhắc đến. Nhưng các món quà thời trẻ con của nàng vẫn nằm trên bàn viết của ông. Khi một món đồ nào bị mất, Lê Duẩn liền gây sự. Nghĩa là ông vẫn chưa hết yêu con gái …

Anh thay đổi rất nhiều sau khi sinh Lena. Trước đấy nàng là một người dũng cảm, độc lập, còn bây giờ lúc nào cũng run rẩy vì sợ hãi. Lúc nào cũng chờ đợi có người tấn công, bắt cóc, sợ những chiếc xe màu đen và những người đồng bào của mình. Nàng nói tốt nhất không gặp họ, họ sẽ lôi đến cuộc họp và kiểm điểm. Những người ruột thịt dè bỉu nàng, gọi nàng là đồ phản bội. Họ thường xuyên gọi điện và gửi đến những bức thư đầy giận dữ. Anh bị đè bẹp, cho rằng nàng sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi đáng sợ mình gây ra.

Trước đây Anh không thích ngồi lắm trong căn phòng có các lỗ châu mai, còn bây giờ nàng suốt ngày ngồi lì trong đó với Lena, mỗi khi tôi có việc phải trở về Moskva. Nàng cầm theo mình khẩu súng săn của tôi. Anh nói căn phòng này là nơi an toàn nhất ở đatra. Nó không bị bắn từ hướng ngoài phố, nhưng nổ súng từ bên trong rất thuận tiện. Xem ra nàng đang nhớ lại tuổi trẻ du kích của mình.

Một lần nàng làm tôi sợ gần chết. Nàng đi trốn, cùng với Lena. Tôi trở về đatra, ở đó không thấy một ai. Tôi chút nữa thì lên cơn đau tim, nghĩ họ đã bắt hai mẹ con đi rồi. Nàng đi ra và phá lên cười.

Không biết từ đâu có cuộc nói chuyện với một anh lính trong đội xây dựng. Anh ta muốn bán cho tôi một khẩu súng lục dùng bắn các chốt vào bê-tông. Tôi hỏi, với khoảng cách nào. Anh lính tỏ ra quan tâm: “Ông muốn bắn từ xa à? Tôi có thể bán súng tự động, cả đạn nữa”. Tất nhiên tôi từ chối. Khi tôi vừa cười vừa kể lại cho Anh nghe, nàng bất ngờ nhận xét:

– Thì sao, lý ra phải mua.
– Em điên à? Có thể vào tù đấy.
– Nhưng em sẽ yên tâm hơn. Anh không hiểu chứ, cha có thể làm tất cả. Hôn nhân của chúng ta đã phá hủy uy tín của ông ấy trong đảng và các đối thủ của Lê Duẩn có lợi. Nếu ông ấy phải rời chức vụ, đất nước sẽ chết.
– Ông ấy yêu em và sẽ không phá hạnh phúc của em.
– Yêu, và em cũng rất yêu cha. Nhưng lợi ích quốc gia quan trọng hơn. Em luôn biết mình đi đâu. Khi chưa có Lena, em không sợ, còn bây giờ em thấy sợ lắm. Một mình anh không xoay sở nổi với con.

Chẳng bao lâu cô bé bị ốm, cần phải đi viện. Trước khi vào viện với con, Anh chuyển cho tôi bản tuyên bố chính thức: “Nếu người ta đem tôi đi, một mình hay cùng con gái, và đưa về Sứ quán Việt Nam, xin biết rằng đó là một hành động bạo lực, chống lại ý chí của tôi, cho dù những người thân hay sứ quán có nói gì. Tôi muốn sống với chồng tôi là Victor Maslov ở Liên Xô và muốn rằng ông sẽ là người nuôi dạy con gái chúng tôi và truyền dạy cho cháu văn hóa Nga”. Tôi đã cất tờ giấy vào nơi an toàn.

Phần lớn thời gian chúng tôi sống với nhau ở đatra và gần như không rời nhau. Tôi dạy ít hơn, cố gắng làm việc tại nhà. Hàng đêm, đôi lúc nhìn vợ ngủ tôi nghĩ: “Trời ơi, làm sao tôi được hạnh phúc thế này? Tôi đâu có xứng”. Tôi dường như cảm thấy thời gian dành cho chúng tôi thật ít …

Lúc đầu tôi sợ rằng Anh sẽ buồn nhớ gia đình và quê hương. Một lần bạn tôi, viện sỹ hàn lâm Mishenko hỏi nàng về điều đó. “Tôi buồn chỉ khi nhà có khách” – Anh trả lời với sự thẳng thắn vốn có của nàng. Nàng không thích hội hè ầm ĩ, các cuộc rượu phè phỡn. Tôi nhận thấy Anh khó chịu với sự vui sướng của những đám say rượu, cho dù nàng không thể hiện sự không hài lòng của mình, và dần dần bỏ rượu. Còn nàng nhìn chung không uống rượu.

Sống với Anh tôi đã thay đổi, trẻ ra có lẽ đến mười lăm tuổi. Chưa bao giờ tôi làm việc hiệu quả đến như vậy. Chúng tôi hầu như không đi đâu (nhân viên Vụ Quốc tế của BCH TƯ ĐCS LX không khuyên chúng tôi xuất hiện ở những chỗ công cộng), nhưng chúng tôi không cảm thấy mình bị xa cách. Các bạn và chị gái vẫn đến thăm Anh. Nàng cũng vào Moskva, đến trường đại học, kết thúc NCS một cách khôn khéo. Anh có năng lực làm việc hơn tôi nhiều, và có lẽ sẽ làm khoa học nếu mọi việc đã không diễn ra khác đi. Nàng đã kịp bảo vệ luận án và trở thành PTS khoa học toán – lý.

Tôi còn nhớ có một lần đi nghe Vưsotsky6 biểu diễn tại trường MIEM. Chúng tôi ngồi khá xa ở hàng sau, nhưng sau khi biểu diễn nghệ sỹ lập tức đến gặp Anh. Anh ấy đã chú ý đến nàng khi đang hát, và luôn ngoái nhìn nàng. Anh ngạc nhiên, nghĩ rằng nghệ sỹ nhầm nàng với ai đó. Còn Vưsotsky thì sôi nổi khen ngợi, đề nghị tiếp tục gặp gỡ với nàng, nói chung cư xử cứ như không có tôi ngồi cạnh. Tôi cố gắng kéo anh ngồi xuống. Khi anh hỏi Anh có hiểu hết anh hát gì không, tôi đã trả lời thay:
– Này, có chồng cô ấy đây kia mà. Tôi có thể giải thích. Nói chung chúng ta gần như là hàng xóm với nhau ở đatra mà. Anh ghé chơi nhé, chúng tôi rất vui được đón.

– Tôi ở ngoài đó không thường xuyên – Vưsotsky chợt buồn – đấy là Maria thích đatra, tôi thì không thích lắm. Với lại không có thì giờ.

Cuộc gặp gỡ của chúng tôi với Vưsotsky xảy ra trước khi anh ấy mất không lâu. Anh ấy trông mệt mỏi và không được khỏe. Nhưng cố tỏ ra trẻ trung trước người đẹp Việt Nam. Nàng không hiểu lý do sự chú ý của anh. Khi rời buổi biểu diễn, nàng hỏi:

– Anh ấy muốn gì thế?
– Anh ấy thích em – tôi trả lời. – Nhìn thấy người đẹp và xù lông xù cánh!

Tôi tự hào vì Vưsotski để ý đến Anh. Tôi thấy thật dễ chịu khi thấy những ánh nhìn thán phục hướng về phía nàng. Nàng không thích lôi kéo sự chú ý, nhưng có thể làm việc đó một cách rất hiệu quả. Nàng biết ăn mặc, tiếp khách. Đôi lúc tôi cảm thấy tiếc rằng đã không thể cho nàng những điều nàng xứng đáng được hưởng. Trước khi đến Liên Xô Anh đã sống một cuộc sống hoàn toàn khác, nàng thường đi cùng cha ra nước ngoài, ở đó họ được đón tiếp ở cấp cao nhất.

Và ngay ở Việt Nam, chỗ Lê Duẩn cũng có nơi ở rộng lớn với bao nhiêu người phục vụ. Nhưng Anh không than phiền và, theo tôi, không đau khổ vì thiếu đi những tiện nghi quen thuộc, nàng tự thu dọn, tự nấu ăn. Tôi vẫn dùng một cái máy giặt ZVM do nhà máy mang tên Vladimir Ilich sản xuất. Nó ồn khủng khiếp và thường xuyên chảy nước, có đến cả chục lần chúng tôi làm ướt nhà hàng xóm tại căn hộ Moskva. Khi có đứa con gái thứ hai Anh phải xoay xở vất vả hơn, chúng tôi đã thuê một người giúp việc nhà và bảo mẫu.

Ba mươi tuổi, mẹ của hai đứa trẻ, Anh trông như gái mười tám. Một lần tôi chịu đựng một cơn ghen vô cớ. Chúng tôi đứng xếp hàng trong cửa hiệu. Trước mặt chúng tôi là một chàng trai trẻ khá cao. Một trang nam tử. Liếc nhìn anh ta, tôi cảm thấy nhói trong tim: Anh bây giờ sẽ nhìn anh ta, so sánh với tôi, và rút ra kết luận … Nhưng nàng không mảy may để ý đến chàng đẹp trai. Lúc ra ngoài phố, tôi hỏi:

– Em có thấy anh chàng đẹp trai đứng trước chúng mình không? Đúng là một Alain Delon.
– Thế ư? – Anh ngạc nhiên. – Em không để ý.

Muội nói với nàng:

– Sao em lại lấy Maslov? Ông ấy già rồi! Xem kìa, xung quanh bao nhiêu là đàn ông trẻ trung thú vị!
– Với em chẳng có ai khác tồn tại cả. – Anh trả lời.

Tatiana, con gái thứ hai của chúng tôi, sinh vào năm 1979. Sau lần này quan hệ của Anh với cha mẹ tốt lên. Có vẻ họ đã hiểu rằng mọi việc đối với con gái họ rất nghiêm túc, và ngừng các cuộc tấn công. Thậm chí họ còn xin Anh tha thứ, tất cả, trừ người cha. Mẹ nàng, bà Bảy Vân, đến Moskva và vẫn đến thăm chúng tôi – cả ở đatra, cả ở căn hộ Moskva trên phố Dmitri Ulianov.

van3010-v4
Lê Kiến Thành em trai của Lê Vũ Anh cùng vợ với Lena, và Tanya con gái của Vu Anh - Viktor Maslov

Nhờ mối tình của chúng tôi đã xảy ra những thay đổi quan trọng không chỉ trong cuộc sống của gia đình Lê Duẩn, mà còn trong cả nước. Ở Việt Nam đã thông qua luật cho phép kết hôn với người nước ngoài. Một bạn gái, người đã yêu một chàng trai Đông Đức, ngay lập tức gọi điện cho Anh: “Mày thật đúng là anh hùng! Hàng nghìn người sẽ cầu nguyện cho mày! Lạy trời cho mày được hạnh phúc!”

***

Sau khi hòa giải với gia đình Anh quyết định giới thiệu với cha cháu gái lớn. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông. Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Anh và cháu ở lại cùng ông cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến luyến với ông ngoại. Ông chủ ý dấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu.

Lê Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi theo dự lễ khai mạc Olympic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc long trọng nhất, kêu to: “Mẹ ơi, con muốn đi đái!”

Lần khác, trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên hỏi: “Ông ơi, thế ông không làm gãy răng mình chứ?”

Không biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu mà tôi đã nói khi nào đó? Anh có ý nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, lờ đi, nhưng cố gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối. Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống được giải tỏa.

Anh cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải trải giường nhà con thủng hết rồi”, Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TƯ ĐCSLX dẫn Anh đến gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới.

Anh không muốn lợi dụng sự ưu đãi, nhưng dù sao vẫn mua đồ ở gian hàng cấm này của GUM, và tôi thường nhận được các đơn hàng mà nàng đặt. Nàng không nhận của cha dù một xu nhỏ, ngay cả khi học ở MGU. Chính quyền chúng ta đề nghị cấp cho nàng một căn hộ rộng rãi ngay trung tâm Moskva, nhưng nàng từ chối. Chỉ nhận một căn hộ ba phòng bình thường trong một tòa nhà lắp ghép ở Beliaevo. Để phòng khi nhỡ có việc chúng tôi đột ngột phải chia tay, thì vẫn có chỗ ở và làm việc.

Nhưng chúng tôi sống hòa thuận cùng nhau. Trong suốt thời gian chung sống chỉ cãi nhau vài lần, đấy là Anh cho rằng thế. Lần đầu tiên là khi Anh giận dữ vì tôi chở trên xe hai cô gái, cho dù trong xóm chúng tôi ở việc cho đi nhờ vẫn hay xảy ra. Nhưng Anh lại tức giận.

Lần thứ hai thì xảy ra một chuyện nói chung là ngớ ngẩn. Buổi chiều tôi nghe “đài địch”. Anh ngồi cùng tôi, nhưng nàng không hiểu tiếng Anh, do vậy nhanh chóng đứng dậy và đi vào phòng trẻ con. Tôi nghĩ lũ trẻ đã đi ngủ, và khép cửa thật chặt để khỏi đánh thức chúng. Sau đó tôi cũng thiếp đi. Anh ra khỏi phòng trẻ, kéo cửa, nhưng không mở được. Nàng cho rằng tôi không muốn gặp nàng, lấy làm khó chịu và sáng hôm sau bỏ đi đến nhà chị Muội. Đến chiều Anh trở về, và chúng tôi làm lành. Nàng không thể sống trong tình trạng xung đột với tôi.

Mẹ nàng, bà Bảy Vân, cố gắng làm cho con gái chống lại tôi, có lần nói ra sự không hài lòng với việc chúng tôi sống tằn tiện. Anh giải thích cho mẹ: “Bao nhiêu tiền anh ấy gần như dành cho đatra. Luôn cứ phải mua hay sửa cái gì đó. Con không thể từ chối anh ấy trong chuyện này. Những người đàn ông khác họ uống rượu hết tiền, còn anh ấy thì xây dựng”.

Anh dành lấy việc chăm sóc cho mẹ tôi, khi bà bị đột quỵ, và nàng rất biết cách chăm sóc. Có lẽ nàng đã từng làm y tá trong thời gian chiến tranh. Mùa thu năm 1980 Anh lại mang thai, tôi vốn mong có một gia đình lớn. Vào tháng năm năm 1981 mẹ tôi khá hơn, người ta cho bà ra viện. Chúng tôi chuyển ra đatra. Tôi thuê một cô y tá, cô ấy ngủ bên cạnh người ốm và giúp bà đi lại và nói năng. Trẻ con thì có bảo mẫu, được đưa từ Việt Nam sang theo yêu cầu của Anh, để lũ trẻ có thể nói chuyện với chị bằng tiếng mẹ đẻ. Lê Duẩn chuyển cho nàng một món quà – một con đồi mồi. Anh rất hoảng hốt khi nhìn thấy món quà cha tặng:

– Đồi mồi này người ta tặng cả đôi. Đây là biểu tượng của tình yêu và cuộc sống gia đình hạnh phúc. Một con đồi mồi – đây là điềm xấu. Làm sao mà cha lại không nghĩ đến điều ấy.
– Ông ấy không cần nghĩ đến những thứ ngu ngốc ấy. Cha em là người cộng sản.
– Vâng nhưng ông tôn trọng truyền thống và biết rằng đây là dấu hiệu của cái chết. Đã xảy ra chuyện gì rồi …

Kết quả siêu âm cho biết lần này chúng tôi sẽ có con trai. Anh cảm thấy người không khỏe, tôi đặt trước chỗ cho nàng ở nhà hộ sinh “Kremlin” của Cục 4 trên phố Vesnina. Anh đã sinh Tania ở đó và nói chung thấy hài lòng chỗ này. Hồi ấy Anh có phòng bệnh riêng, có TV và điện thoại, nàng có thể bình tĩnh viết báo khoa học. Bác sĩ hồi ấy đã sửng sốt: “Một phụ nữ tuyệt làm sao! Nằm nhà hộ sinh còn làm khoa học!”

Nhưng nàng không muốn nằm tại bệnh viện này, sợ hãi điều gì đó. Một lần nàng nói sẽ chết khi sinh nở:

– Ở Việt Nam sắp có bầu cử. Để bầu cha em, họ sẽ làm tất cả.
– “Họ” là ai?
– Là những người luôn can thiệp vào tình yêu của chúng ta.

Tôi không tin vào linh cảm, cho rằng đó là những lo lắng của các phụ nữ mang thai.

Đêm mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số 25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa.

Người trực nhận giấy tờ của Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Anh đến phố Vesnina. Ở đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ Moskva không tới. Thật lạ lùng.

Vào 7 giờ sáng Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Anh bị chảy máu rất nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói – Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây là vô nghĩa”.

Tôi chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân vật bình thường.

Tôi quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Anh. Bác sĩ phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra khỏi phòng mổ, tôi lao đến:

– Cô ấy sẽ không chết?
– Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …

Vài tiếng sau đó Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Anh nằm trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ. Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh – đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra hành lang …

Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ thì bay sang ngay. Tro cốt của Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.

 Hậu duệ nhà Lê Duẩn hay “Mối tình ngang trái Việt-Nga”

van2984-7a
"...Có rất nhiều trở ngại – quyền lợi chính trị của hai quốc gia, cục an ninh, cơn thịnh nộ của người cha độc đoán. Họ đã vượt qua tất cả. Song số phận dường như quá nghiệt ngã..."
Sau cái chết của Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần. Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xẩy ra. Một lần tôi tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực. Trong mơ tôi thấy lóe lên một luồng sáng: người ta đã đầu độc Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparin cho các bênh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế. Đã xuất hiện thêm một phương án khả tín theo quan điểm của tôi: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn …

Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” – tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Anh. Bà ấy nhận nó, để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và cưới vợ.

Tôi che dấu cái chết của Anh không nói cho những người thân biết. Mẹ tôi rất đau ốm, còn các cháu gái thì quá bé. Mẹ tôi có lẽ cảm thấy điều gì đó, bà bị đột quỵ lần hai, và lần này thì điều trị không khá lên được. Tôi nói với Lena là Anh ở trong bệnh viện, và sau đó – rằng mẹ đã đi có việc, nhưng con bé cũng hiểu hết. Một lần nó kéo tôi ra bên và thì thầm hỏi tôi: “Bố ơi, người ta chôn mẹ rồi phải không?”. Lena luôn than thở về nỗi buồn vắng mẹ, nó khóc: “Bố, hãy đi Việt Nam, mua mẹ cho con!”

Bảy Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm, nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng bà cháu sẽ gặp lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.

Mẹ tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình, nhưng tôi không đồng ý.

Tôi biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.

Với đứa con trai, tôi đặt tên nó là Anton, tình hình phức tạp hơn nhiều. Ở nhà hộ sinh họ không trao cháu cho tôi. Họ thông báo rằng do tình trạng sức khỏe của cháu bé, cháu cần ở lại bệnh viện để các bác sĩ chăm sóc. Tôi chỉ làm được giấy chứng sinh cho cháu, và lập tức tiến hành các biện pháp. Tại bệnh viện của BCH TƯ, nơi cháu được chuyển đến từ nhà hộ sinh, cháu đã nhập viện với tên là Anton Maslov: các bạn của tôi đã giám sát tại lối vào bệnh viện để cháu được đăng ký đúng như đã định. Đây là một thắng lợi, không lớn nhưng dầu sao cũng là thắng lợi. Bây giờ đưa con trai tôi ra khỏi biên giới sẽ khó khăn hơn nhiều.

Họ cho phép tôi vào bệnh viện, đi dạo cùng con trai, nhưng bên cạnh luôn có người của BCH TƯ. Một thời gian tôi đã muốn lấy cắp Anton và dấu cháu trong gia đình chị bạn người Triều Tiên, giả như đó là con của chị. Còn tôi sẽ đưa về nhà một cháu bé có bề ngoài đông phương khác trong trường hợp Lê Duẩn quyết định đưa cháu trai ra mà không có sự đồng ý của tôi. Nghĩ ra đủ phương án, nhưng không thực hiện được. Và lạy Chúa – tôi sợ trò phiêu lưu này sẽ làm tôi nguy đến tính mạng.

Cán bộ từ BCH TƯ, người đảm nhận liên lạc giữa tôi và gia đình Anh, đề xuất một giải pháp thỏa hiệp – tôi giữ các cháu gái cho mình, còn trao đứa cháu trai cho ông nó: “Cứ để nó sống ở Việt Nam vài năm, khi cháu lớn lên, họ sẽ trả cháu về. Ông lúc nào cũng có thể đến thăm người thân của vợ và gặp Anton”. Cuộc bầu cử mà Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực. Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt – cũng chẳng cần”.

Chống đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo – soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng) nên mới có sự vội vã như vậy.

Chẳng bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua – khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, Muội có đến thăm tôi. Chị chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp chết”.

Nghĩ lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nếu tôi không xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị thành niên đến nhà tôi. Một bà trong sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này mọi việc không đơn giản, khuyên bà ta đừng vội vã.

***

Sau hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này với tất cả người thân của Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu VIệt Nam. Lê Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang luôn cả các cháu gái về.

Con trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử: nó được ở cả một tầng nhà.

Tôi hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang, sau khi quyết định đi nghỉ tại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu, cố gắng đạt được thỏa thuận với người bà quyền lực. Bắt cóc Anton thật vô nghĩa: cháu là công dân Việt Nam và họ sẽ ngay lập tức đưa cháu đi khỏi nhà tôi.

Nhưng tôi không có ý định đầu hàng. Bây giờ đã là thời khác, lãnh đạo đất nước Liên Xô không còn là Brejnev, mà là Gorbachev. Hơn nữa sau những năm tháng ấy tôi đã kịp trở thành Viện sỹ hàn lâm và được trao Giải thưởng Lenin. Tôi viết đơn yêu cầu trả lại con trai và đi khắp các cửa, còn thiếu đâu nữa: Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, BCH TƯ ĐCS LX. Khắp nơi người ta thông cảm với tôi, nhưng giúp đỡ thì đều từ chối. Họ nói rằng việc đó ngoài khả năng của mình. Một lần tôi chia sẻ với một chị bạn tốt – thư ký của Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học. Chị ấy khuyên tôi nên cầu cứu Anatolia Gromưco – con trai Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô Andrei Andreievich Gromưco, một người thân cận với Gorbachev, và chị ấy sẽ giúp thu xếp cuộc gặp này.

van3010-v5
Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô  Viktor Maslov, Lena Malov, Tanya Maslov và Anton Maslov

Gromưco-con là giám đốc Viện Phi châu thuộc Viện HL KH LX. Tôi kể cho anh nghe về câu chuyện của tôi và Anh, đưa cho anh xem các bức ảnh chụp cùng vợ con. Anatolia Andreevich tỏ ra cảm động. Anh nói: “Anh hãy viết đơn gửi cho chính Gorbachev. Tôi hứa rằng ông ấy sẽ nhận được và sẽ đọc. Nhớ kèm theo cả những bức ảnh, đặc biệt bức chụp cùng bọn trẻ này. Nó mạnh hơn bất kỳ bức thư nào”. Tôi làm theo những gì anh chỉ dẫn, và cùng với các bức ảnh tôi còn để cả bản tuyên bố của Anh viết năm 1978. Vài hôm sau không chờ đươc, tôi gọi điện cho Gromưco. Anh nói: “Họ đã biết quan điểm của anh”. Tất cả chỉ có thế. Tôi không biết sẽ phải nghĩ gì và hành động ra sao.

Để bà ngoại yên tâm, tôi thu xếp gửi Anton vào nhà trẻ của Cục bốn, khá xa đatra của tôi. Tôi thỏa thuận với bà giám đốc rằng bà không được giao đứa bé cho ai, trừ tôi. Những người bảo vệ hứa sẽ gọi điện nếu thấy xuất hiện những “kẻ đột nhập” vào khu vực nhà trẻ. Tôi dúi cho họ 4 chai vodka Smirnov, hồi đó chỉ bán theo giấy của nhà thờ, và họ nóng lòng chờ sự xuất hiện của “kẻ đột nhập Việt Nam”. Chẳng bao lâu sau kẻ đột nhập xuất hiện thật. Bảy Vân nhận được sự từ chối thẳng thừng và buộc phải rút lui. Nhưng giám đốc nhà trẻ nài nỉ tôi phải đưa Anton đi: “Tôi sẽ không chịu đựng được cuộc tấn công sau đâu. Anh không tưởng tượng được là chúng tôi đã căng thẳng đến thế nào”.

van3010-v6
Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô  Viktor Maslov, Lena Malov, Tanya Maslov và Anton Maslov

Tôi nói chuyên với bạn bè, và họ tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà ở Belorussia – ở tít tận xó rừng sâu Belovejskaia Pusia. Trong vòng bán kính 5 km quanh đó không một bóng người. Chúng tôi ở đó chừng vài tháng – Lena, Tania, Anton, bà bảo mẫu của chúng, và tôi. Pusia quả thật là một chốn thiên đường. Bọn trẻ đến giờ còn nhớ khu rừng nguyên thủy, những bãi cỏ đầy nấm và quả rừng, có thể sờ tay vào lũ thú rừng và chim chóc. Lũ hươu kéo đến tận nhà, làm bà bảo mẫu sợ chết khiếp. Đàn bò rừng nhởn nhơ đi lại đằng xa. Anton trở thành một đứa trẻ khác hẳn ở Belorussia, chơi với các chị và bắt đầu nói một ít tiếng Nga.

Tôi không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt. Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả, kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.

***

Vào cuối những năm 80 – 90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả lương bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi với Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Anh mất, giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Anh làm mẹ của Lena, Tania và Anton.

van3010-v7
Đám cưới Lena và Mark Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov

Các con tôi hiện sống ở nước ngoài, dù khi còn trẻ không dự định việc này và chúng đều vào học tại MGU mà không phải một trường đại học tây phương nào đó. Nhưng về sau những dòng người có vẻ ngoài châu Á tràn vào Moskva. Và bắt đầu nảy sinh các vấn đề. Thí dụ đã xảy ra một chuyện không dễ chịu với Tania ở đatra. Một nhân viên cảnh sát, đến vì một chuyện hoàn toàn khác, tình cờ nhìn thấy cháu và cho rằng đấy là một người di cư bất hợp pháp từ Trung Á, và suýt nữa tôi bị cáo buộc vào tội “che dấu”.

van3010-v7a
Con gái của Lena và Mark, cháu gái của tôi Anna Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov
Những tình huống như vậy khá nhiều, và không hề dễ chịu. Chúng tôi họp gia đình và quyết định rằng sẽ tốt hơn nếu đưa lũ trẻ sang châu Âu, ở đó đã quen với việc có nhiều sắc tộc. Kết quả là Tania và Anton sang sống ở Anh, còn chị cả Lena – ở Hà Lan. Cháu lấy chồng là người Hà Lan xuất thân từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ lâu đời. Chồng cháu là một người làm phân tích nghiệp vụ và có thời gian là khách hàng của một hãng máy tính của Anh, nơi Lena làm việc. Mối tình bắt đầu ở nước Anh.

Sau khi cưới đôi trẻ chuyển sang sống ở Hà Lan, trong một thị trấn nhỏ cách Amsterdam chừng một giờ đi xe. Lena là kiến trúc sư phần mềm, đã đạt được đỉnh cao trong nghề. Cháu là một chuyên gia độc nhất, được đánh gía cao ở hãng, được tạo cho các điều kiện làm việc thuận lợi nhất. Lena có một con nhỏ – cháu sinh con gái Anna năm ngoái. Còn Tania năm nay sinh được cậu con trai Oskar. Tania tốt nghiệp MGU ở Moskva chuyên ngành “ngôn ngữ”, khi sang Anh thì chuyển nghề và, giống như Lena, làm về lập trình. Sống với chồng là người Anh ở thị trấn ngoại ô Bristol. Tania từ bé đã yêu súc vật và đem theo cùng mình đến Anh hai con chó và một con mèo. Anton tốt nghiệp MVK tại Khoa Toán học tính toán và Điều khiển học. Cháu cũng làm việc liên quan đến máy tính và ở không xa chị gái. Cậu chàng chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi.

van3010-v8
Đám cưới của Tanya và Robert (trái) Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov

Tất nhiên tôi sẽ vui mừng nếu có các con ở bên, chứ không phải cách xa hàng ngàn cây số. Nhưng cuộc sống là như vậy. Tôi vẫn trò chuyên với các con hàng tuần, qua Skype. Mùa hè nào chúng cũng trở về Nga và về ở Selinger, nơi chúng tôi có một căn nhà ngoại ô. Tôi và Ira sống phần lớn thời gian ở đatra. Ở đấy nghỉ ngơi và làm việc đều tốt. Tôi tiếp tục làm khoa học, điều đem lại cho tôi niềm vui lớn, tôi còn có nhiều công trình dở dang. Tôi vẫn là nhân viên toàn thời gian của MIEM.

Học viện đã được củng cố đáng kể, trở thành một phần của Trường đại học – nghiên cứu, “Trường kinh tế cao cấp”. Điều này hoàn toàn trùng hợp với các kế hoạch khoa học của tôi và cổ vũ trong tôi niềm say mê sáng tạo. Ngoài ra tôi còn là cộng tác viên khoa học của Viện các vấn đề cơ học – RAN và chủ nhiệm bộ môn thống kê lượng tử và lý thuyết trường tại Khoa Lý của trường MGU ruột thịt. Năm 2013 tôi nhận giải thưởng nhà nước lần thứ 3 do những đóng góp vào việc xây dựng cơ sở toán học cho ngành nhiệt động học hiện đại.

Khi làm việc, tôi cảm thấy ánh nhìn của Anh lên mình. Trong phòng làm việc đã nhiều năm vẫn treo bức ảnh chân dung lớn của nàng. Tôi cảm thấy Anh hài lòng về cuộc sống của các con chúng tôi. Tuy rằng cái nhìn của nàng có nghiêm nghị, nhưng theo tôi, nhân hậu. Tôi thường mơ thấy nàng, trẻ trung và hạnh phúc.

van3010-v9
Anton Maslov chưa cưới vợ, và tôi sợ sẽ còn lâu. Có vẻ cháu giống tính tôi. Ảnh: từ kho lưu trữ cá nhân của V. Maslov

Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng Anh không chết, nàng chỉ đang đi đâu đó. Có thời gian tôi đã nghĩ đến việc làm gì đó để vinh danh vợ: đến “với nàng” tại Việt Nam. Vào cuối những năm 90 tôi được mời dạy ở Hong Kong. Khoảng cách từ đó đến TP Hồ Chí Minh, nơi bà Bảy Vân sống, không quá xa. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi đã từ chối. Đối với bọn trẻ, việc di chuyển đến Hong Kong có thể tạo nên stress lớn, cần phải thích nghi với khí hậu, nước uống, đồ ăn hoàn toàn khác biệt. Tôi sợ chúng sẽ bị ốm.

Về sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã hai lần về Việt Nam để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin. Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách vinh dự. Bảy Vân, bà vợ góa của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi.

van3010-v10
Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô Viktor Maslov. Ảnh: Antonov / TASS

Anh giao phó các con của chúng tôi cho tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn là những người Nga, cho dù sống ở đâu.

Tác giả: Viktor Maslov
Dịch giả: Cao Kim Ánh, 2015
Dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Sửa chữa: tháng 8-2016
Đông tác Giao lưu

29 tháng 9, 2019

TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG PHẠM BÌNH MINH TẠI LHQ

Theo Phạm Huân

Chủ nhật ngày 29 tháng 9 năm 2019 4:19 PM

Bài phát biểu của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc


Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ngày 28/09 đã có bài phát biểu với chủ đề “Tăng cường sức sống của chủ nghĩa đa phương vì hoà bình và phát triển bền vững” tại phiên thảo luận chung cấp cao khóa 74 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Toàn văn bài phát biểu Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tại Liên Hợp Quốc - 1
Nhấn để phóng to ảnh
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại Hội nghị











Thưa Ngài Chủ tịch,
Tôi xin chúc mừng Ngài Tijjani Muhammad-Bande nhân dịp Ngài được bầu làm Chủ tịch Khóa 74 Đại hội đồng LHQ. Tôi tin tưởng rằng với bản lĩnh và bề dày kinh nghiệm, Ngài sẽ dẫn dắt Khóa họp của chúng ta thành công tốt đẹp.
Tôi cũng xin bày tỏ sự đánh giá cao về những nỗ lực đóng góp quan trọng của Bà Maria Fernanda Espinosa Garces, Chủ tịch Khóa 73 ĐHĐ LHQ cho công việc của Đại Hội đồng cũng như và về những nỗ lực và cống hiến của Tổng Thư ký Antonio Guterres trong thời gian qua.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Cách đây tám thập kỷ, Chiến tranh Thế giới lần thứ II, cuộc chiến đẫm máu, khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại, đã bùng nổ, cướp đi sinh mạng của hàng chục triệu người, tàn phá các nền kinh tế, chứng kiến những tội ác kinh hoàng, cùng sự ra đời của những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh mới với sức hủy diệt to lớn.
Trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc đó, các quốc gia nhận thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của một hệ thống an ninh tập thể dựa trên hợp tác đa phương và luật pháp quốc tế, lấy đó làm nền tảng cho trật tự thế giới mới hậu chiến tranh. Và thực tế đã chứng minh đây là lựa chọn đúng đắn.
Trong suốt ¾ thế kỷ qua, các cơ chế hợp tác đa phương, với trung tâm là LHQ, đã thực sự khẳng định vai trò tất yếu và không thể thiếu của mình. Các thể chế đa phương đã tạo ra cơ chế thảo luận, hoạch định chính sách chung cho các quốc gia trên các vấn đề quản trị toàn cầu – từ những chủ đề chung như hòa bình, an ninh, kinh tế, thương mại, phát triển, nhân quyền, tới những lĩnh vực cụ thể như hợp tác hàng hải, hàng không, bưu chính, viễn thông... Các diễn đàn đa phương, đặc biệt là LHQ, còn là nơi hình thành ý tưởng, xây dựng tiêu chuẩn và chiến lược nhằm điều phối nỗ lực của các quốc gia ứng phó với các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, xử lý các thách thức toàn cầu, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Nhân loại sắp bước vào thập kỷ thứ ba của thế kỷ 21. Chúng ta vui mừng trước những thành quả của các nỗ lực hòa bình ở các khu vực, từ Mali, Liberia đến Nam Sudan, Bờ Biển Nga. Việt Nam hoan nghênh tất cả các nỗ lực đối thoại, giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình ở các khu vực, trong đó có đối thoại giữa CHDCND Triều Tiên và Mỹ.
Những nỗ lực toàn cầu cũng đã mang lại những thành quả to lớn về phát triển. Hàng trăm triệu người đã thoát khỏi cảnh đói nghèo, giáo dục tiểu học đã được phổ cập ở nhiều quốc gia, tỉ lệ tử vong bà mẹ, trẻ em giảm đáng kể. Chúng ta đã cùng nhau xây dựng được các chiến lược quan trọng, tạo khuôn khổ cho các nỗ lực phát triển toàn cầu, như Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, Chương trình hành động Addis Ababa về Tài chính cho phát triển, Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu…
Nhưng chủ nghĩa đa phương đang đứng trước những thách thức gay gắt hơn bao giờ hết. Các tiến trình đa phương ngày càng vấp phải nhiều khó khăn do xu hướng theo đuổi những lợi ích vị kỷ, lựa chọn sự áp đặt thay cho hợp tác, cạnh tranh, đối đầu thay vì đối thoại và phối hợp hành động, chính trị cường quyền thay vì theo đuổi những giá trị chung, tôn trọng luật pháp quốc tế. Cam kết chính trị và nguồn lực giảm sút đã ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của các nỗ lực đa phương toàn cầu.
Trong khi đó, thế giới ngày nay phải đối mặt với nhiều thách thức ở mức độ và tính chất khác hoàn toàn so với cách đây chỉ một vài thập kỷ. Những tác động trực tiếp và lâu dài của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnhảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các quốc gia. Xung đột kéo dài ở nhiều khu vực nhất là ở Trung Đông, Châu Phi, cùng nhiều điểm nóng tiềm ẩn có thể bùng phát ở các nơi khác trên thế giới. Chiến trường không còn giới hạn trong những vùng chiến sự mà đã lan ra các thành phố, làng mạc, những khu vực tập trung đông dân cư. Nguy cơ phổ biến và sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt có nhiều diễn biến phức tạp, cơ chế quốc tế kiểm soát vũ khí, chống phổ biến bị rạn nứt rõ rệt. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đang tạo ra những phương thức và công cụ chiến tranh mới. Chi tiêu quốc phòng trên toàn cầu đang ở mức cao nhất, và như nhận định của Ngài Tổng Thư ký thì “chúng ta đang đứng bên bờ vực của một cuộc chiến tranh lạnh mới”.
Trong bối cảnh đó, chúng tôi hoan nghênh chủ đề được Ngài Chủ tịch đề ra cho Khóa họp năm nay là “Thúc đẩy các nỗ lực đa phương để xoá nghèo, thúc đẩy giáo dục chất lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bao trùm”.
Thưa Ngài Chủ tịch,
Hợp tác đa phương có vị trí đặc biệt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam gắn liền với sự tham gia của chúng tôi vào các thể chế đa phương khu vực và quốc tế. Sự hỗ trợ, ủng hộ của các cơ quan LHQ, các tổ chức quốc tế đã giúp Việt Nam tái thiết và phát triển đất nước sau hàng thập kỷ chiến tranh, xây dựng khuôn khổ pháp luật, chính sách, đẩy mạnh hội nhập, đem lại những thành quả to lớn về phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển toàn cầu. LHQ và các thể chế đa phương cũng là những diễn đàn chính trị, khuôn khổ pháp lý quan trọng để Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam tham gia chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp xây dựng, trách nhiệm trong các tiến trình đa phương. Cùng với các quốc gia ASEAN, Việt Nam đang nỗ lực tăng cường vai trò trung tâm của Hiệp hội trong duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và tăng cường phát triển, thịnh vượng trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á – Thái Bình Dương.
Trong khuôn khổ LHQ, các chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình, những nhà ngoại giao, các chuyên gia Việt Nam tham gia đóng góp xây dựng các nghị trình và chính sách của LHQ về phát triển bền vững, về biển và đại dương, về phát triển xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững và Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, và đặc biệt là đã có những bước đi cụ thể tiến tới chấm dứt việc sử dụng đồ nhựa dùng một lần vào năm 2025.
Vừa qua, Việt Nam vinh dự lần thứ hai được bầu làm ủy viên không thường trực HĐBA LHQ. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành của Chính phủ và nhân dân Việt Nam tới quý vị vì sự tín nhiệm và tin tưởng một lần nữa dành cho Việt Nam với trọng trách này. Là thành viên HĐBA, chúng tôi sẽ nỗ lực hết mình, hợp tác với các thành viên LHQ vì hòa bình và phát triển bền vững.
Trước những thách thức to lớn hiện nay, chúng ta cần cùng nhau tăng cường sức sống của chủ nghĩa đa phương và thúc đẩy hoạt động của Liên hợp quốc. Trên tinh thần đó tôi xin chia sẻ một số suy nghĩ về những giải pháp lớn nhằm đạt mục tiêu đó..
Trước hết, cần tái khẳng định vai trò và tầm quan trọng của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ trong việc xây dựng một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, thúc đẩy quan hệ giữa các quốc gia và tăng cường hợp tác đa phương. Luật pháp quốc tế là nền tảng của quan hệ bình đẳng, công bằng giữa các quốc gia; bởi vậy, các nỗ lực đa phương cần dựa trên và hướng tới đảm bảo sự tôn trọng đối với nền tảng này.
Việt Nam cho rằng tôn trọng luật pháp quốc tế là cách thức hữu hiệu nhằm ngăn ngừa xung đột cũng như tìm kiếm những giải pháp lâu bền cho tranh chấp, xung đột. Việt Nam ủng hộ mọi nỗ lực thực hiện các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp theo Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, từ thương lượng, hoà giải tới việc sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế.
Chúng tôi kêu gọi việc dỡ bỏ ngay lập tức các lệnh cấm vận đơn phương, trái với luật pháp quốc tế, đang được áp đặt đối với Cuba.
Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan ở Biển Đông tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982) – “Hiến chương của Biển và Đại dương”. Kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Biển Đông có ý nghĩa chiến lược đối với hòa bình, an ninh và phát triển ở châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Nhận thức rõ điều đó, các quốc gia liên quan đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết quả tích cực về giải quyết bất đồng, tranh chấp. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã nhiều lần nêu rõ sự lo ngại về những diễn biến phức tạp ở Biển Đông, trong đó có việc vi phạm các quyền chủ quyền, quyền tài phán tại các vùng biển của Việt Nam được xác định theo UNCLOS 1982. Các bên liên quan cần kiềm chế và tránh có những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình và gia tăng căng thẳng, và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
Thứ hai, cần tăng cường kết nối giữa chủ nghĩa đa phương ở cấp độ toàn cầu và khu vực. Các hành động quốc tế chỉ có thể hiệu quả khi phù hợp với đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, chính trị, văn hóa, địa lý của từng khu vực, quốc gia cụ thể. Bởi vậy, các tổ chức khu vực có thể phát huy vai trò định hướng quan trọng, đồng thời bổ trợ hiệu quả cho các nỗ lực chung của LHQ. Việt Nam hoan nghênh hợp tác, phối hợp giữa LHQ, nhất là HĐBA, với Liên minh châu Phi, Liên minh châu Âu và Liên đoàn Ả-rập trong nỗ lực ứng phó với các thách thức an ninh ở châu Phi, Trung Đông.
Ở khu vực Đông Nam Á, ASEAN là một thể chế khu vực được xây dựng trên cơ sở “cam kết và trách nhiệm tập thể nhằm tăng cường hòa bình, an ninh và thịnh vượng trong khu vực”. Sau hơn nửa thế kỷ phát triển, ASEAN giờ đây là hiện thân của hoài bão lớn của các chính phủ và người dân trong khu vực về một Cộng đồng gắn kết về chính trị, liên kết về kinh tế và cùng chia sẻ các trách nhiệm xã hội. ASEAN cũng đã khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực dựa trên luật lệ, tạo dựng các diễn đàn để các quốc gia trong và ngoài khu vực cùng trao đổi, thúc đẩy hợp tác vì phát triển bền vững, vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Là ủy viên không thường trực HĐBA LHQ, đồng thời là Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam mong muốn cùng các quốc gia thành viên tăng cường sự phối hợp, bổ trợ lẫn nhau giữa HĐBA với các tổ chức khu vực để cùng đóng góp vào nỗ lực chung ngăn ngừa xung đột, xây dựng hòa bình bền vững.
Thứ ba, các nỗ lực đa phương cần coi con người là trung tâm. Hòa bình bền vững là điều kiện tiên quyết cho phát triển bền vững và chỉ có thể đạt được khi người dân được đảm bảo cơ bản về điều kiện sống, về an toàn, an ninh. Việt Nam lên án các hành động tấn công dân thường cũng như những cơ sở hạ tầng thiết yếu cho cuộc sống của người dân. Việt Nam ủng hộ và sẽ tiếp tục đóng góp vào nỗ lực thúc đẩy chương trình nghị sự của LHQ về phụ nữ, hoà bình và an ninh, trẻ em trong xung đột vũ trang. Việt Nam ủng hộ Tuyên bố Trường học an toàn, cùng nỗ lực bảo đảm quyền giáo dục của trẻ em trong mọi hoàn cảnh. Chúng tôi cũng sẽ ưu tiên thúc đẩy các nỗ lực tái thiết hậu xung đột, nhất là khắc phục hậu quả bom mìn, phục vụ người dân và quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở các quốc gia.
Thứ tư, các thể chế đa phương cần tiếp tục được cải tổ mạnh mẽ để đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra, phục vụ tốt hơn lợi ích và tăng cường tiếng nói và đóng góp của các quốc gia thành viên, nhất là các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Việt Nam hoan nghênh những nỗ lực cải tổ hệ thống phát triển LHQ để tăng cường phối hợp và hiệu quả hoạt động, đồng thời cần tăng cường tính làm chủ của mỗi quốc gia trong quá trình hợp tác, trong khi huy động sự tham gia đóng góp của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội và cộng đồng người dân. Việt Nam sẽ cùng các thành viên HĐBA đóng góp tích cực vào tiến trình cải cách phương pháp làm việc của HĐBA theo hướng tăng cường minh bạch, dân chủ và hiệu quả.
Và cuối cùng, thưa Ngài Chủ tịch, cam kết chính trị mạnh mẽ của mỗi chính phủ, mỗi nhà lãnh đạo có ý nghĩa then chốt đối với mọi nỗ lực tăng cường chủ nghĩa đa phương. LHQ hay các thể chế đa phương chỉ có thể mạnh và hiệu quả, giúp xử lý các thách thức toàn cầu, nếu từng quốc gia thành viên vượt qua những lợi ích riêng, hướng tới các lợi ích chung rộng lớn hơn của cộng đồng quốc tế, cam kết và thực sự đầu tư ý chí và nguồn lực cho những nỗ lực chung đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể viết nên một trang mới trong lịch sử nhân loại với những đường nét tươi sáng hơn, những đường nét của đối thoại và hợp tác, và trên hết là của hòa bình và phát triển bền vững.
Xin cảm ơn.
Theo Phạm Huân

26 tháng 9, 2019

“Thần dân” nhơ Dương Tự Lập lan man với “thần đồng” thơ Trần Đăng Khoa
FB Dương Tự Lập 24-9-2019 - Khoa ạ, tôi với Khoa đã đi hết một vòng hoa giáp, tức là tròn ngưỡng 60. Sáu mươi tuổi nhìn thấu sinh mệnh, nhìn thấu danh lợi. Lục thập tầm tử đạo – sáu mươi tìm về cõi chết được lắm ru. Hà cớ Khoa cứ dối gian, sống nhơ nhuốc, lúc khạc ra, khi liếm vào, viết thế này, xóa thế nọ, nói đằng này, làm đằng nớ trong nghiệp thơ để mơ vương khanh tướng làm chi cho đời mưa bay gió cuốn, sung sướng nỗi gì hả Khoa? Từ “thần đồng” thơ, Khoa đã trở thành “thần điêu”… tiểu hiệp. Chắc có duyên nợ kiếp nào với nhau nên tôi được đồng hành cùng Khoa ngay tự buổi đầu “Từ góc sân nhà em” tới giờ đã cận kề “Ở nghĩa trang thành phố”...

Khổ thơ chửi Tổng thống Mỹ “ngu” đã bị Khoa vứt bỏ.
Những năm 1966-1968, Tổng thống thứ 36 của Mỹ Lyndon B. Johnson quyết định dùng không lực Hoa Kỳ đánh phá miền Bắc Việt Nam. Tuổi thơ chúng tôi theo xí nghiệp may dệt Hoa Đông của mẹ rời Hà Nội sơ tán về vùng Bắc Ninh – Hà Bắc. Trong không khí chiến tranh, khi tới trường học, học sinh bọn tôi ngoài cặp sách ai ai cũng đầu đội mũ rơm, vai đeo thêm túi nhỏ bông băng cá nhân phòng khi chẳng may bị dính mảnh bom mảnh đạn. Các lớp lớn tuổi hơn còn cầm theo cáng cứu thương tự đan bằng nẹp tre rất khéo.

Có buổi học trọn vẹn nhưng cũng có buổi bị dở dang vì máy bay địch quần phá trên đầu hàng giờ đồng hồ. Thầy cô giáo dắt học trò xuống giao thông hào ẩn nấp tránh máy bay Mỹ oanh tạc khi báo động, lúc báo yên thì lại ngoi lên học tiếp.

Có hôm máy bay ta và máy bay địch quần nhau trên không, mất cả buổi khi thầy trò lục tục kéo nhau lên mặt đất thì quá muộn giờ trưa nên nhà trường đành cho học sinh về nghỉ. Kiểu học bữa đủ bữa thiếu như thế mà bọn tôi cũng tốt nghiệp được… vỡ lòng. Dù viết chưa thạo nhưng đã đọc tàm tạm những bài học i tờ ê a như thế này. Chó Bảo Gà:

Gà định vào vườn rau
Chó bèn sủa gâu gâu
Công lao người trồng trọt
Vất vả đã bao lâu
Gà không được vào đó
Để phá hoại hoa mầu.


Phía dưới cùng của trang có mấy vần in đậm trong khung hình chữ nhật au / âu / ầu gì đó.

Tuổi nhỏ biết đọc rồi mà vớ được những cuốn truyện tranh của Nhà xuất bản Kim Đồng như truyện Thánh Gióng, Thạch sanh, Mai An Tiêm và sự tích quả dưa hấu, Cây tre trăm đốt, Cây Khế, Chuyện Nỏ Thần… thì thích lắm. Sách to, chữ to, tranh vẽ minh họa cho bài sinh động lại càng cuốn hút bọn choai choai chúng tôi. Mà ở thời loạn lạc, ấy sách cho trẻ nhỏ cực khan hiếm.

Cứ đều đặn cuối tháng cha đạp xe lên thăm chúng tôi. Chẳng có quà gì ngoài mấy cái bánh mỳ hình chữ nhật, to, dài như viên gạch, hồi đó gọi bánh gối. Mấy cái bánh quẩy, mấy cái bánh bao, vài cái bánh rán bọc đường, nghe tên gọi khác nhau nhưng kỳ thực cũng chỉ là một loại bột mỳ mà biến hóa ra thế.

Chúng tôi mong cha lên vì biết trong túi hàng mang theo thế nào cũng có vài ba cuốn chuyện tranh. Lần này mở túi tôi thấy ngay tập sách khổ to của Nhà xuất bản Kim Đồng: Từ Góc Sân Nhà Em, thơ Trần Đăng Khoa. Sau ấn bản lần đầu, những lần tái bản sau đổi thành “Góc Sân Và Khoảng Trời”:

Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy.


Cái tên Trần Đăng Khoa đã nhập vào đầu tuổi thơ tôi ngay từ buổi đấy. Một thiếu nhi được in sách riêng, ở đất Bắc chúng tôi thuở đó duy nhất chỉ có Khoa mà thôi. Tôi đâu hay cuốn thơ Khoa sau này luôn luôn là tâm điểm để mỗi khi tôi phạm lỗi, mẹ lại ca thán: Cũng tuổi như con mình mà con người ta (ý nói Trần Đăng Khoa) như thế, con mình thì như thế.

Còn tôi, mỗi lần nghịch ngợm bị mẹ cho ăn roi đòn thì lấy làm căm tức Khoa lắm, vì sao Khoa không thành thần sắt, thần thép, thần ma, thần quỉ, thần gì đi, mà lại thành “thần đồng” thơ để mẹ hay lôi “thần dân” nhơ nhuốc như tôi ra cho ăn đòn và lấy gương của Khoa ra rầy la tôi.

Có lúc buồn rầu sự hư đốn của tôi, bà bảo các cụ nhà ta xưa nói cấm bỏ câu nào đâu con ạ:

Đẻ con khôn mát l*n rười rượi
Đẻ con dại thảm hại cái l*n.


Thú thực sau này thâm tâm tôi cũng hay lấy Khoa ra để nghĩ về bản thân mình.

Johnson ngừng ném bom, bọn tôi trở về Hà Nội. Cha lại đem về cuốn thơ mới cũng của Nhà xuất bản Kim Đồng: Nối Dây Cho Diều. Đây là bài thơ của Chu Hồng Quý “Quý chíp” bạn của tôi sau này. Quý học tốt, lọt vào trường Cao đẳng Mỹ thuật công nghiệp 1978. Tôi học tồi, lọt vào quân đội, cầm súng đi đánh thằng giặc Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cướp nước Việt thân yêu. Cha của Quý là chú nhà thơ trào phúng Tú Sót (Chu Thành), đồng hương và bạn với cha tôi.

Dán diều dán hết buổi chiều
Vì trời đứng gió nên diều quay quay
Hay diều chê nhắn tầm dây
Để em lại nối thêm dây cho diều.

Bài thơ được đặt tên ngoài bìa cho tập thơ thiếu nhi mà trong đó hội tụ các “anh tài” nổi tiếng những năm 1970 như Trần Đăng Khoa, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Nguyễn Hồng Kiên, Khánh Chi… Tôi tiếc nhất cho “thần đồng” thơ Hoàng Hiếu Nhân của đất Quảng Bình với tập thơ: Đi Nữa Chú Ơi.

Năm 1972, cuộc thi thơ do báo Thiếu niên Tiền phong tổ chức, có hai người cùng đoạt giải A là Trần Đăng Khoa và Hoàng Hiếu Nhân với chùm thơ “Quả địa cầu”, “Con cò”, “Học tập”, và “Mặt trời”:

Chú cho em quả địa cầu
Em nhìn bốn biển năm châu rành rành
Trục này em vặn quay nhanh
Em đi mấy đợt vòng quanh địa cầu.

Chu Hồng Quý giải B, Nguyễn Hồng Kiên giải C. Tôi chỉ là độc giả nhí cùng thời theo sát tờ báo này lúc đó ra mỗi tuần một số (báo ra cuối tuần) từ những năm 1968-1970. Bỗng độc giả không thấy thơ Nhân nữa, sau này anh bỏ nàng thơ đi hợp tác lao động, tiếc biết bao tài năng thơ, Nhân mất ở quê người Belarus (Liên-xô) cũ tháng 2 năm 2014.

Trong cuốn: Chân Dung và Đối Thoại của Trần Đăng Khoa, Khoa viết không đúng về Nhân, không phải sang Nga, Nhân làm ăn chung đụng với bọn “đầu gấu” mà Nhân đi làm thuê cho bọn đầu gấu rồi bị chính bọn chúng cướp hết tiền bạc đánh anh tưởng chết, mới đúng. Chua xót thế, cái bọn vô học ngày còn ở nhà chẳng là thá gì đối với Nhân.

Cẩm Thơ bỏ thơ sang Pháp thành bà đầm trên quê hương chú gà trống Gaulois. Chu Hồng Quý “chuyền giới” thành họa sĩ. Nguyễn Hồng Kiên thành tiến sĩ sử học. Đúng là cơm áo không đùa với khách thơ. Duy chỉ còn Trần Đăng Khoa vẫn miệt mài cầy chữ để thành thi sĩ rồi đèo bòng nên về già lão Khoa này hay sĩ lại hay thanh minh.

Nhân nói chuyện lan man với Khoa ở đây, tôi còn một người bạn gái văn sĩ thân quí nữa rất thành đạt gốc quê làng hoa Ngọc Hà, Thùy Linh (Trần Nguyệt Tuệ). Mẹ Tuệ cùng viết cho tờ Lao Động với cha tôi, thường ký dưới bài: Lê Thu. Ở báo Lao Động bác Lê Thu (Nguyệt Tú) coi cha tôi như em trai của mình và cha tôi cũng coi bác Thu như người chị gái.

Năm 1985 Thùy Linh đoạt giải nhất Văn nghệ truyện ngắn: “Mặt trời bé con của tôi” cùng Hồ Anh Thái người làng Quỳnh, quê tôi, giải nhì với truyện ngắn: “Chàng trai ở bến đợi xe”.

Tôi chưa gặp Hồ Anh Thái bao giờ nhưng mỗi lần nghe đến cái tên này hoặc đọc truyện ngắn của Thái lại gợi trong tôi niềm tang thương đớn đau của mẹ hơn 75 năm trước. Tôi được biết cha Hồ Anh Thái là chú Hồ Sĩ Lạng, có ba người con trai khá thành đạt, mặc dù họ phụng sự cho chế độ cộng sản. Anh Hồ Anh Tài, nguyên Tổng biên tập báo Đại biểu Nhân dân, mà tôi đã gặp. Đến anh Hồ Anh Dũng, nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam và đồng trang với tôi là Hồ Anh Thái, nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày đó chú Hồ Sĩ Lạng cùng trong đội công an huyện Quỳnh Lưu với cậu Hoàng Duy Tiến, em ruột mẹ tôi. Trong một buổi giữa trưa lau chùi vũ khí, chú Lạng đưa súng lên chĩa vào cậu tôi đùa: Tiến, xem tao bắn mày này, ai ngờ trong súng có đạn thật, cậu tôi nằm gục xuống mãi mãi tuổi vừa chớm 17 thương tâm. Mẹ tôi đang ngồi dệt lụa trong làng nghe hung tin bà khóc chết ngất lên chết ngất xuống mấy ngày trời.

Nhà mẹ tôi duy có hai chị em, ông ngoại Hoàng Văn Hợp chỉ huy phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh, bị Pháp tử hình đầu năm 1931, lúc mẹ gần lên ba, cậu Tiến một tuổi. Bà ngoại cũng mất sớm. Âu nó là cái số đen đủi vận vào cậu vì nghĩ rằng đây do sự ngộ sát chứ không chủ ý hay thâm thù. Đớn đau tột cùng, nhưng mẹ tôi cũng không đem chuyện đó ra kiện tụng thêm khổ đau cho người còn sống là chú Hồ Sĩ Lạng.

Quê tôi thuộc xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Có con sông Lam nổi tiếng, nổi tiếng hơn sông Kinh Thầy của Khoa. Mẹ tôi cũng giống mẹ Khoa, bà thuộc Kiều và thuộc nhiều ca dao tục ngữ. Mẹ Khoa ru Khoa bằng những câu Kiều, những vần ca dao như Khoa tự sự về tuổi thơ của mình, thì mẹ tôi cũng ru con giống vậy. Bà đưa võng ngâm những vần thơ, dân ca, câu hò xứ Nghệ:

“…Ơ, (chừ) ai biết nước sông Lam răng là trong, là đục
Thì biết sống cuộc đời răng là nhục, là (ơ) vinh…”


Đất Bắc tự bao giờ có câu nói: “Nam Hành Thiện, Nghệ Quỳnh Đôi” nghĩa là Bắc nước Việt ở tỉnh Nam Định nổi tiếng có làng Hành Thiện còn ở tỉnh Nghệ An nổi tiếng có xã Quỳnh Đôi. Quỳnh Đôi có Hồ Thơm (1753-1792) đánh tan gần 30 vạn quân giặc Nhà Thanh – Trung Quốc rồi lên ngôi Hoàng đế Quang Trung, dõng dạc:

“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó bánh xe không quay lại
Đánh cho nó manh giáp không trở về
Đánh cho sử biết nước Nam anh hùng có chủ”.


Đất Quỳnh Đôi có nữ sĩ thơ Nôm danh tiếng Hồ Xuân Hương (1772-1822):

Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay.

Quê tôi không có thần đồng thơ như quê Khoa nhưng chắc chắn quê Khoa không có nhiều thần dân thơ như quê tôi. Mong có dịp mời Khoa ghé thăm làng tôi thì tới nơi mô cũng gặp thần dân thơ, nói chuyện thơ, cười khoái nhĩ, nghĩ khoái lòng.

Mà thơ tích cực chứ không hề tiêu cực đâu nhé. Thơ không chọc đảng cũng chẳng ngoáy nhà nước, thơ chẳng đả Chính phủ cũng không kích Quốc hội, thơ chống tiêu cực, cực chẳng tiêu đi, cực tích lại, lại càng cơ cực.

Nếu Khoa đến thăm nhà ông bùi Huân sẽ được nghe ông đọc thơ khen các cụ phụ lão tham gia trồng cây:

Các cụ trồng cây ở vệ đường
Cụ nào cụ nấy ngực giơ xương.


Tới nhà bà chắt Rấn lại nghe đọc thơ kêu gọi phong trào vào hợp tác xã chớ bỏ ra làm ngoài:

Hợp tác với chả hợp te
Không có mảnh vải mà che cái l*n.


Khi gặp ông cò Đạm, hay ông hoe Giàng, rồi bà lòn Ninh cũng thấy đọc thơ:

Nông trang nông trại
Đứa mô ngu dại
Thì đi nông trang
Xa xóm xa làng
Xa quê hương mãi…

Đó không phải là thơ chửi xoáy đâu nha, mà đó là thơ chọc xoáy ông cựu Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Hữu Đợi, lùa dân lên rú thành lập làng xã mới, với câu nói nổi tiếng: “Chỉ bằng mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản chúng ta sẽ tiến lên Chủ nghĩa xã hội“. Ghê chưa!

Hồi đó mà ông ta phát biểu cứ như thời của Cuộc cách mạng công nghiệp bốn chấm không (4.0) hiện đại. Đang học lớp ba trường làng bỏ dở, Đợi trở thành du thủ du thực, rồi thành dân anh chị có số má, có máu mặt đi bè dài buôn lợn nái, bán trâu già, thế nào mà được lọt vào Bí thư Huyện ủy, suýt nữa trúng Ủy viên Trung ương đảng.

Quỳnh Đôi quê “bì choa” tiếng tăm ngát hương là thế nhưng lại nỏ có thần đồng mần thơ, biết khi mô có đây thế mới rầu, đau chi mà đau rứa hề.

Cứ theo bộ dạng tự họa của Trần Đăng Khoa thổ lộ trong “Chân Dung và Đối Thoại” năm 1998, thì Khoa sinh năm 1958. Vào tuổi tứ thập nhi bất hoặc Khoa ngừng thơ, sang bình luận văn chương. Là con thứ trong gia đình bần nông ở xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, bên vùng sông Kinh Thầy. Phải thừa nhận từ khi “Hạt gạo làng ta” của Khoa ra đời thì người đời mới để ý nhiều hơn tới con sông Kinh Thầy này.

Quê Khoa, vùng chiêm trũng Châu thổ sông Hồng chẳng lấy chi làm tiếng tăm ấy mà sinh được bậc hào kiệt như Khoa quả là bất thường. Tôi đồ rằng, biết đâu mẹ Khoa cũng giống mẹ ông thánh Gióng, có một ngày đi làm đồng bỗng nhìn thấy vết chân ngồ ngộ của ai đó dưới ruộng rồi bà ướm chân mình vào để thử, về nhà thấy lạ trong người, mà sau đó một năm, chứ không phải chín tháng mười ngày, bà sinh cho dân tộc Việt được một thần đồng thơ Trần Đăng Khoa hôm nay chăng?

Bài thơ “Mưa”:

Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa. (1967)


Và “Hạt gạo làng ta” (kính tặng chú Xuân Diệu)

Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy… (1969).

Ở hai bài thơ này, Khoa nhìn cảnh vật góc cạnh và sắc sảo, đồng tuổi với Khoa không ai nhìn ra nổi như thế. Qua hai bài thơ càng nể Khoa hơn vì rõ ràng là bố mẹ Khoa thuần nông. “Bố em đi cày. Mẹ em đi cấy”. Thế mà sinh ra Khoa thì lại dị biệt, trái khoáy, thần đồng chứ không thần ruộng.

Cũng từ đấy Khoa được các cây đa, cây đề, cây lim, cây táo văn chương như chú Tố Hữu, chú Xuân Diệu và nhiều cô chú khác để ý, yêu chiều, chăm bẵm, nâng đỡ. Tôi từng nghe chuyện năm 1969 nữ nhà báo Pháp Madeleine Riffaud sang thăm Việt Nam, khi được giới thiệu về Khoa và hình như cũng ông Xuân Diệu dịch cho nữ nhà báo bài thơ “Gửi bạn Chi lê” (1968).

Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu…


Nghe xong nữ nhà báo thán phuc thốt lên: Khúc hát nhỏ mạnh hơn bom đạn.

“Bờ tre vẫn chú dế men vuốt râu”. Khiếp thật, mới mười tuổi mà Khoa đã có câu thơ bằng tuổi lão làng thơ. Khoa mãi là thần đồng, theo tôi, nếu không có chuyện một tối đèo mẹ lên phố Hàng Buồm: Chú nhà văn Hoàng Tiến tới nhà cho mẹ tôi đôi vé đi nghe đêm thơ ở Nhà văn hóa thông tin Hàng Buồm. Người nói chuyện thơ tối hôm ấy là bác nhà thơ Trần Lê Văn. Điện Hà Nội ngày đó sử dụng 110v, lù mà lù mù chẳng rõ mặt người, lại hay bị cắt, hai mẹ con vừa vào chỗ ngồi đã nghe bác Trần Lê Văn cao giọng đọc:

Tầu về rồi tầu lại đi
Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga.


Người làm câu thơ ấy là cô bé lúc đó mới lên bẩy tuổi, đêm nay đã bẩy mươi, cũng có mặt ở đây, rồi bác chỉ tay xuống phía mẹ con tôi ngồi, tôi và mẹ giật mình ngơ ngác. Người phụ nữ ngồi cạnh bên mẹ đứng dậy quay xuống chắp tay cúi đầu chào độc giả, một tràng vỗ tay kéo dài của độc giả thịnh tình đáp lại, thì ra bà là nữ sĩ tiền chiến Ngân Giang, với mấy nghìn bài thơ đã viết. Bà giản dị ngồi chung hàng ghế với người nghe.

Chuyện kể một lần theo người bác ra ga, thấy tầu hỏa kéo còi vào ra bến, bé gái Ngân Giang thốt nên lời thơ nổi tiếng ấy. Câu thơ mà người ở tuổi bẩy mươi chưa chắc viết nổi.

Khoa không còn là thần đồng như tôi nghĩ từ buổi đó. Tôi có nhắc đến Trần Đăng Khoa, mẹ cười bảo, cậu Khoa cũng giỏi. Trên đường đèo mẹ về, bà cứ tấm tắc luôn miệng khen: Chị Ngân Giang giỏi quá con nhỉ.

Tôi hỏi: Lúc ngồi, con thấy mẹ nhỏ to gì với bác ấy đấy, tôi hỏi?

Mẹ trả lời: Mẹ chỉ hỏi mấy câu xã giao tuổi tác? Nhà cửa? Được mấy người con? Chị ấy mời, nếu rỗi rãi cứ đến chơi nhà, chị ấy sẵn lòng đọc thơ cho nghe.

Tôi hỏi: Bác Ngân Giang nói sao hả mẹ?

Mẹ nói: Đêm thơ nay chị ấy tròn tuổi bẩy mươi, nhà số 3 bãi Nghĩa Dũng gần bờ sông, có chục đứa con, vất vả cơ cực lắm.

Tôi nói: Trời, đông con như thế vất vả là phải.

Mẹ tôi nghi hoặc: Chắc chị ấy nói đùa. 

Sau chú Hoàng Tiến nói, đúng mười người con, mẹ tôi mới tin bác nhà thơ Ngân Giang không đùa.

Gần năm mươi năm trước chúng ta từng nghe trẻ mỏ Trần Đăng Khoa còn dám sửa câu thơ này của chú đại ca cung đình Tố Hữu: “Đường ta rộng thênh thang ta bước”, trong bài thơ “Ta Đi Tới”. Ai ai cũng trầm trồ thán phục, hết lời ngợi khen thần đồng thơ nhưng rồi người ta phát hiện chữ “bước” của Khoa không ổn vì mở đầu, thơ chú Hữu của Khoa thế này:

Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang tám thước.

Thế mà sửa như Khoa thì:
Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang ta bước.

Bước chi mà bước lắm thế, bước trên bước dưới, bước thấp bước cao, bước dài bước ngắn, bước tứ bước tung. Chú Hữu đã lỡ gieo vần “bước” ở câu trên nên bị bí khi xuống câu dưới thì không thể “bước” tiếp.

Hoặc nếu theo ngu ý của tôi mà Khoa sửa thì nên sửa thế này: “Đường ta rộng thênh thang phía trước” có khi còn được chấp nhận hơn vì chữ “phía trước” bao hàm nhiều nghĩa, nhiều cả ý nghĩa:

Trên đường cái, ung dung ta bước
Đường ta rộng thênh thang phía trước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên…

Khoa vội thanh minh đó là người đời bịa đặt, chứ thực tình Khoa không dám sửa thơ của chú Hữu. Trứng làm sao mà khôn hơn vịt được. Đến giờ ta tìm đọc tiểu sử của Trần Đăng Khoa ở Bách khoa toàn thư mở Wikipedia vẫn còn ghi rõ: Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ “Đường ta rộng thênh thang tám thước” thành “Đường ta rộng thênh thang ta bước” trong bài thơ “Ta Đi Tới” của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.

Khoa không kiện cáo kẻ nào dám hạ thấp uy tín, uy danh Khoa hay đề nghị xóa đi phần trích dẫn trên là không đúng trong tiểu sử của mình mà Khoa vẫn ỡm ờ cho để nguyên như vậy thì đích thị đúng là Khoa sửa thơ chú Hữu rồi, thanh minh gì nữa hả Khoa.

Cũng phúc tổ cho “thần đồng” Khoa, hồi đó dám mó dái “thần chết” Hữu. Khoa có biết khi xưa chú Tố Lành của Khoa là tay đồ tể khét tiếng đã từng xử trảm, gây bao thương đau cho giới văn nghệ sĩ tài hoa của nước nhà không?

Riêng về tôi, khi đọc “Ta Đi Tới” của Tố Hữu ở bốn câu cuối đoạn kết thì cứ thấy nhớ tới một con người bình dị, chân quê, bác Kim Ngọc nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phú, cũng đi hoạt động cách mạng như Hữu nhưng lại thích chia chứ không thích chung. Chia “khoán hộ” chia “khoán mười” tới từng gia đình, xã viên, người nông dân trồng nên cây lúa, làm ra hạt gạo rất phấn chấn phấn khởi.

Chính bác Ngọc thích chia nên đã bị đảng của Khoa, của chú Hữu, xúm lại phang bác Kim Ngọc tơi bời vì như vậy là đầu óc tối kiến, Tư bản chủ nghĩa, phản động, đi ngược đường lối sáng suốt đúng đắn của đảng. Bác bị kỷ luật, bị phê và tự phê, tự lên án viết tường trình kiểm điểm bản thân mình.

Ở tuổi 62 năm 1979, khi bác Ngọc mất, bọn đảng mới đem công thức “tối kiến” của bác Ngọc ra áp dụng hai chục năm sau đấy thì thấy có lý. Chúng cũng câm bặt không một lời xin lỗi vong linh hay gia đình bác Kim Ngọc.

Rồi chúng còn đưa “tối kiến” của bác vào Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, vì công luận lên tiếng, nghĩ lại thế nào đó mà sau này chúng cũng có truy tặng huy chương, huân chương gì đó. Giống đời, cha chung đã không ai khóc mà ở đây “Cha Già” chung thì lại càng không có kẻ khóc. Vậy từ chung của Tố Hữu dùng trong bài thơ này nghe sai lè:
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam (1955).


Gần bốn mươi nhăm năm hai miền đất nước chung làm một, kể từ 1975, nhưng thực sự lòng người ly tán, Bắc – Nam khó hòa. “Bên thắng cuộc” cứ gào mồm kêu gọi Hòa giải và Hòa hợp dân tộc. Chính họ, cộng sản Bắc Việt đã khoét sâu vết rạn để lòng người dân Nam Việt không tin nổi lưỡi mồm họ nói nữa. Tố Hữu chú yêu của Khoa đã về chầu Diêm Vương. Nếu dựng ông ngồi dậy được, tôi mạnh dạn xin phép ông sửa cho chính xác hơn bài thơ để người dân Nam tưng bừng hân hoan sống lại thời kỳ hoàng kim Hòn ngọc viễn Đông của họ:

Lòng ta chia giới tuyến (vĩ tuyến 17)
Lòng ta chia lại Cụ Hồ (cụ Hồ – cụ Diệm)
Lòng ta chia lại Thủ đô (thủ đô Hà Nội – thủ đô Sài Gòn)
Lòng ta chia lại cơ đồ Việt Nam (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Bắc – Quốc gia Việt Nam Cộng hòa, miền Nam).

Với tôi phải sửa như thế và như thế mới chính xác. Như thế người dân Nam sẽ hết ấm ức hậm hực, hết nghe lải nhải Hòa giải và Hòa hợp dân tộc, ngứa tai lắm.

Giữa tháng 6 năm 1994, giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 15 tổ chức ở nước Mỹ. Cũng dịp đó, Khoa và mấy ông bạn đồng nghiệp được mời qua Mỹ không phải xem bóng đá mà để giao lưu thơ văn với các cựu chiến binh Hoa Kỳ. Người ta chờ Khoa đọc bài thơ Kể Cho Bé Nghe:

Chăm ngoan học giỏi
Là bạn thiếu nhi
Ngu xuẩn nhất nhì
Là tổng thống Mỹ (1969).


Nếu có đọc cũng chẳng sao, thậm chí người ta, nhất là người Mỹ còn khen ngợi Khoa của Việt Nam mới hơn 10 tuổi đầu mà đã giỏi tiên đoán vượt nhà tiên tri Nostradamus của Pháp để chửi thẳng mặt Tổng thống Mỹ ngu nhất thế giới. Vì nước Mỹ nổi tiếng tự do, nhân quyền, lại rất coi trọng bảo vệ trẻ em như Khoa.

Nhưng chẳng thấy Khoa đọc bài này, khi tìm lại bài thơ thì mọi người té ngửa đoạn thơ trên: “Ngu xuẩn nhất nhì / Là tổng thống Mỹ” đã bị Khoa cắt cho vào sọt rác, thủ tiêu trước khi lên thang máy bay sang Mỹ rồi.

Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra bốn ngựa khó đuổi, huống chi Khoa đã nói, đã viết, đã in thành sách. Đúng là gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. “Thần đồng” Khoa gần “thần chết” Hữu nên học được chiêu giấu như mèo giấu cứt này của chú Hữu. Năm 1954 trong tập thơ Việt Bắc của Nhà xuất bản Văn nghệ in lần đầu người ta còn thấy bài thơ: Đời Đời Nhớ Ông, Hữu khóc Stalin:

Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin. (1953)

Dối trá đến thế là cùng, nếu Hữu sống lại có dám chỉ ra cho tôi và mọi người xem đứa con nào của người Việt Nam khi tập nói mà tiếng đầu lòng con gọi Stalin. Xin được dùng từ của người dân Nam gọi những kẻ như ông Hữu là bớt xàm l*n đi. Ngay cả những đứa con người Nga khi tập nói cũng gọi Papa, Mama – Cha ơi, Mẹ ơi, chứ không tập gọi Stalin như ông Hữu phịa ra. Những lần tái bản sau, đố ai tìm được bài thơ “Đời đời nhớ ông” nữa.

Khi được hỏi tại sao Khoa cắt, vứt bỏ đoạn thơ “Ngu xuẩn nhất nhì / Là tổng thống Mỹ” trong bài Kể Cho Bé Nghe, thì Khoa thanh minh thế này: Người làm thơ luôn vận động, mỗi bài thơ sẽ được sửa chữa nhiều lần, chừng nào nhà thơ còn viết thì bài thơ chưa thể nói là có dạng hoàn chỉnh tận cùng.

Thanh minh như Khoa nghe khó lọt tai lắm vì (sửa) khác với (bỏ). Sửa là để tốt hơn, còn bỏ là vứt nó mất đi. Ngay cả làm việc đó (sửa) người ta cũng rất hạn chế bởi tính chất lịch sử sáng tác ra đời và sự kiện của nó ở thời điểm hiện tại.

***

Mấy tháng nay bọn đảng cướp Trung Quốc đem tàu vào sâu trong lãnh hải Việt Nam. Chúng âm mưu chiếm đóng và sẽ lấy trắng bãi Tư Chính trong nay mai như đã từng lấy trắng đảo Gạc Ma cũng như nhiều đảo khác.

Báo chí chính thống của nhà nước cùng đảng cộng sản của Khoa câm mồm không dám ho he. Riêng Khoa đã lên tiếng nhiều bài viết phản đối chửi rủa thậm tệ thằng đảng cộng sản Trung Quốc bẩn thỉu nhơ nhớp. Khoa không chửi nhân dân Trung Quốc là đúng vì họ cũng khốn khổ khốn nạn, chỉ sướng hơn dân Việt có một mi ly phân mà thôi.

Việc làm và hành động yêu nước của Khoa được nhân dân cả nước hoan nghênh ghi nhận. Bỗng có bọn rận rệp, khỉ ho cò gáy nào đó đóng giả lực lượng 47, đóng giả bọn dư luận, dư lợn viên tanh hôi, thối mồm thối miệng tụ lại vu cho Khoa là phản động, trở cờ trở quạt, trở giáo trở mác, trở đầu trở đít, kích động chiến tranh oánh nhau với Tàu khựa.

Nghe thấy vậy, giá như Khoa đừng thanh minh, thì tư cách Khoa càng được đề cao ngất ngưởng. Tiếng tăm “thần đồng” bất mục. Ai dè Khoa sợ sun chim tụt c*c, vội vội vàng vàng nhẩy đông đổng thanh minh, thanh tre, thanh gỗ, thanh củi gì gì, làm mất hết tin yêu của người hâm mộ “thần đồng”.

Anh nhà thơ, tác giả của “Quê hương là chùm khế ngọt” tận miền Nam nước Việt bức xúc gửi ra mấy lời chửi Khoa: “Nhắn anh Trần Đăng Khoa “thần đồng” của Xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Tôi quý trọng anh khi to tiếng phản ứng lên án bọn Trung Quốc với Việt Nam. Nhưng tôi rút lại sự quý trọng khi anh phân bua, kêu cứu anh bị bọn xấu chụp mũ ‘tự diễn biến’ anh vẫn là lính cụ Hồ, vẫn là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, không ‘phản động’ không chống đảng… Khoa! Tao với mày bằng tuổi nói thẳng cho vuông. Làm thằng cách mạng phản động như tao đ3o phải thanh minh thanh nga kêu cứu với thằng nào. Tao khỏe. Ký tên: Đỗ Trung Quân”.

Muốn để anh nhà thơ họ Đỗ và mọi người bớt nóng với Khoa về việc Khoa cứ lăn tăn thanh minh thanh nga, rằng mình bị bọn xấu chụp mũ chửi bới chống Trung Quốc. Tôi đi tìm lại bài thơ bốn mươi năm trước: Uống Rượu Với Người Bạn Nga của Khoa viết vào tháng 7/1979 tại thủ đô Moscow, nước Nga mà mình đã từng đọc.

Không có ý gì đâu, chẳng qua tôi muốn chứng minh cho mọi người rằng, không phải đến bây giờ mà từ bốn mươi năm trước, Khoa đã chửi thẳng vào mặt bọn giặc Bành trướng Trung Quốc rồi. Khi ấy tại quê nhà dân ta vừa tống cổ thằng giặc cướp nước Đặng Tiểu Bình qua biên giới:

Nào nâng cốc! Mừng quê tôi
Quân Tàu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi.
Biên giới mùa này, hoa ban nở
Loài hoa như trái tim người! (1979)

Nguyên câu này ở khổ thứ 5 trong bài thơ 11 khổ. Quái thật, tìm đi tìm lại không thấy. May sao vào một trang vẫn còn sót lại khổ thơ thứ 5 này, có lẽ Khoa đã tìm để xóa nhưng chưa hết. Từ bao giờ chẳng rõ Khoa đã âm thầm vứt biến khổ thơ trên để thay vào đó bằng một khổ thơ mới lạ hoàn toàn khác biệt, không ăn nhập gì với mạch thơ cũ:

Và em gái hái nho ấy
Mắt em như cốc rượu đầy
Chỉ nhìn vào mầu mắt ấy
Là tôi đã ngả nghiêng say.

(Lấy trong 25 bài thơ Trần Đăng Khoa tự chọn. Gồm: “Thơ tình người lính biển”- “Ở nghĩa trang thành phố”- “Lính thời bình”- “Trái đất quay”- “Uống rượu với người bạn Nga”- “Đêm Nga”…)

Hỡi ôi! Khoa dối trá, Khoa quỷ quyệt, Khoa tráo trở, Khoa lá mặt lá trái, lúc Khoa nói thế kia, khi Khoa nói thế nọ. Nếu ai có hỏi Khoa về việc tại sao vứt bỏ khổ thơ cũ rất chính xác với tính chất lịch sử của nó ở giai đoạn đó “Quân Tầu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi” năm 1979 thì không biết Khoa sẽ thanh minh sao đây?
Lão Khoa về già không lấy thanh danh làm trọng, mà chỉ ưa lấy thanh minh làm nền để người đời lấy làm khinh. Đọc: “Cái nước mình nó thế” của nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến, tôi nghiệm rằng, Khoa có căn bệnh thanh minh này đã hàng chục năm trước, lâu rồi trở thành mạn tính. Nay bệnh nặng hơn vì có thể Khoa sợ lung lay cái ghế Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam? Với cương vị ấy Khoa phải đời đời kiếp kiếp khắc cốt ghi xương công ơn của đảng, nhà nước, chính phủ, Quốc hội và trên hết là anh Tổng – Chủ Nguyễn Phú Trọng người đã ban chức tước đó cho Khoa mở mày mở mặt như đang mở.

Có thể Khoa nghĩ cỡ như chị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội; anh Xuân Phúc Thủ tướng, anh Tổng – Chủ Phú Trọng thấy Tầu khựa ăn trọn bãi Tư Chính nay đem cả phi đội tàu chiến áp sát bờ biển Phan Rang, Phan Thiết, hải cảng Cam Ranh, lấy nốt nước Việt nay mai mà còn không ai dám ho he há mồm, huống chi mình là cái thá gì, nên Khoa xóa biến mấy câu thơ chửi vào mặt thằng Tàu khi xưa của Khoa, chỉ vì sợ chúng vào rồi chúng sẽ tìm thằng nhãi ranh nào dám chửi: “Quân Tầu bị đánh vỡ mặt. Cút rồi”, quật mả đào mồ nhà Khoa?

Ở cương vị Phó Chủ tịch ngôn luận cho đảng, mà Khoa cứ sống lạng quạng cò quay kiểu này dễ bị ăn đòn, dễ bị chính anh tiều phu Nguyễn Phú Trọng cho Khoa đi Hóa thân đài hoàn vũ Văn Điển lắm, vì anh Trọng là người độc nhất vô nhị rất trọng tình trọng nghĩa với nước bạn vĩ đại Trung Hoa cùng thằng em Tập Cận Bình hiền khô.

À, anh Trọng sẽ đốt Khoa ngay tại “lò tôn” của anh ấy đã hoạt động trở lại, nghe đâu sau sự cố sài đẹn trên đường vào tìm củi lim, củi gộc gì đó tận trong Cà Mau, Minh Hải, không thành. Những tưởng anh Trọng đã đi chầu ông bà ông vải rồi nhưng may cho “hồng phúc dân tộc”, anh mình bỗng tái hồi sự sống, mồm hết méo, miệng nói tròn, nay tiếp tục bới củi nổi lửa đốt lò, Khoa cứ gọi là rờ hồn đấy. Khôn hồn Khoa sống cho nó tử tế thật thà, viết cho thật kiểu như Khoa viết về anh nhà quê “Thời xa vắng” Lê Lựu qua Mỹ chơi, rồi ngó sau nhìn trước vắt cả cái chân còn nguyên giày nguyên tất lên mũi… ngửi. (Chân dung và đối thoại, trang 79).

Vào trang riêng của Lão Khoa thấy Khoa công bố với Quốc dân đồng bào, rằng Khoa đã một lần được Hội Nhà văn nước bạn vàng mời sang Trung Quốc và nếu như được mời nữa thì Khoa cóc thèm đến với bọn đê tiện đó lần hai. Không biết đâu Khoa lại đi để rồi về Khoa khoe: Tớ sang Tàu lần này chỉ đạt ước nguyện được hầu chuyện anh Tập Cận Bình bình dân chất phác. Anh Tập thích thú nghe tớ kể chuyện Tô Đông Pha ngâm nga Bạch Cư Dị. Rồi anh ấy cười khoái chí, tớ lại đọc tiếp thơ cụ Lý Bạch, nói vanh vách tới Hạ Tri Chương, anh Tập cười hiền lành rất dễ thương, tại sao dân ta cứ phải cương lên chống anh ấy. Ôi chao, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo? Đ3o mẹ Khoa!

Có một người lính, không phải lính “Cụ Hồ” như Khoa mà ông là lính Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản bắt ông đi qua các trại giam khét tiếng với mười năm tù cải tạo “tư tưởng”. Chắc là để bắt ông học lại: “Sống, phấn đấu, lao động và học tập tư tưởng tác phong theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Tưởng chết, khi ra tù thân ông đã bị tàn, người ông đã thành phế, được xếp vào diện đi Mỹ định cư, nhưng ông từ chối, nguyện chết trên quê hương nơi sinh thành. Không một lời thanh minh nhưng ai cũng hiểu lòng ông. Người ta biết đến ông là nhạc sĩ nhiều hơn chức tước đại tá quân hàm ông mang. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với ca khúc “Chiều Mưa Biên Giới” nổi tiếng: “Lòng trần còn mơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều anh ơi“.

Khoa ạ, tôi với Khoa đã đi hết một vòng hoa giáp, tức là tròn ngưỡng 60. Sáu mươi tuổi nhìn thấu sinh mệnh, nhìn thấu danh lợi. Lục thập tầm tử đạo – sáu mươi tìm về cõi chết được lắm ru. Hà cớ Khoa cứ dối gian, sống nhơ nhuốc, lúc khạc ra, khi liếm vào, viết thế này, xóa thế nọ, nói đằng này, làm đằng nớ trong nghiệp thơ để mơ vương khanh tướng làm chi cho đời mưa bay gió cuốn, sung sướng nỗi gì hả Khoa? Từ “thần đồng” thơ, Khoa đã trở thành “thần điêu”… tiểu hiệp.

Chắc có duyên nợ kiếp nào với nhau nên tôi được đồng hành cùng Khoa ngay tự buổi đầu “Từ góc sân nhà em” tới giờ đã cận kề “Ở nghĩa trang thành phố” Khoa viết:

Nhưng khi ta đã nằm dưới mồ
Cỏ vẫn xanh biêng biếc ở bên trời…
Trước thiên nhiên con người như khách trọ
Như ảo ảnh chập chờn, thoáng đến, thoáng lìa xa.
Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác
Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga…


Biết là vậy mà lòng thì những muốn Khoa quay về tuổi thơ “thần đồng” ngưỡng mộ. Cái tuổi trắng trong chưa từng vẩn đục tha hóa tâm hồn trước khi Khoa theo đảng để Khoa nhớ lại: Ngày ấy, tôi mới 9 tuổi, chiếc áo trắng này cả nhà dành dụm mãi chỉ để mặc một lần lên hình trên báo Thiếu niên Tiền phong.

Nghe thương bao nhiêu, nhất là Khoa mơ:

Vẫn mong ngày chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi. (1968)

Nghe yêu thật nhiều. Không ngờ từ một cậu bé ngoan ngoãn, hiền lành của vùng đồng chiêm nước trũng quê làng bình yên bên sông Kinh Thầy, bươn chải ra thị thành rồi nhập vào bầy hoang thú. Khoa biến mình thành con thú trong một đàn thú hoang man rợ, ăn thịt đồng loại.

Nếu như, không phải nếu như bỏ cả thành Paris vào một cái chai đâu. Mà nếu như ngày ấy Khoa đừng thành thần đồng thơ, chắc mẹ tôi chẳng có gương nào lôi ra cho tôi noi theo và nếu có đánh tôi ba roi vì Khoa, thì nay bà bớt đi chỉ cho vào mông tôi một vụt thôi.

Nếu như ngày ấy, lúc mẹ Khoa ướm chân mình vào vết chân ngồ ngộ của ai đó khi đi làm ruộng (tôi vẫn ngờ thế) đừng đẻ ra Khoa “thần đồng” thơ, mà thành “thần nông” lúa, thì phúc tổ ngàn đời cho nước nhà bao nhiêu. Biết đâu mỗi chiều về trẻ ngồi lưng trâu hay theo sau đít bò, các bé em đùa nô bên sườn đê hay về đến cổng quê đình làng xóm chợ ríu rít cất tiếng du ca:

Hạt gạo làng ta
Có Trần Đăng Khoa
“Thần nông” Kinh Thầy
Biết bao suy tư
Cho vựa lúa đầy
Biết làm nhiều thóc
Nước nhà no lây…
Em vui em hát
Hạt gạo làng ta
Em vui em hát
Thần Trần Đăng Khoa.

Còn vui nào vui hơn vui thế, hơn cả niềm vui “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” của chú Tố Hữu Khoa là cái chắc. Mà đã là “Thần” thì mãi mãi muôn đời muôn kiếp với dân.

Trần Đăng Khoa cùng em gái Trần Thúy Giang và phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong Ngô Viết Dinh. Bên sông Kinh Thầy tháng 3/1968.

“Mũ rơm tôi đội túi đầy thuốc men”, thời Khoa và tôi đi học.

Tổng thống Mỹ “ngu” Lyndon B. Johnson, thăm binh lính Mỹ và 
Việt Nam Cộng hòa bị thương tại Nam Việt Nam tháng 10/1966 

Theo Blog toithichdoc

19 tháng 9, 2019

TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Nếu cứ nghe 'Hòa đại nhân' thì sớm muộn gì cũng sai

16/09/2019, 14:43 (GMT+7)
Những kẽ hở, bất cập, những vấn đề tồn tại trong công tác cán bộ hiện nay là gì? TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội phân tích thẳng thắn trên NNVN.


TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
“Kiến thức là một phần, sự anh minh mới là yếu tố quan trọng hơn để làm lãnh đạo”, TS Nguyễn Sĩ Dũng mở đầu cuộc trò chuyện.  

Công tác cán bộ cần một khung khái niệm mới

Thưa ông, tự bao giờ trong xã hội, những câu nói “nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tuệ” hay “tổ Đảng nhà ta, Chi bộ nhà ta”, “cả họ làm quan”… thường được gắn với công tác cán bộ, âm ỉ thành căn bệnh, là một nhà khoa học chính trị, ông nghĩ gì về công tác cán bộ ở ta hiện nay?
Tôi nghĩ đây là một công tác hết sức khó khăn, phức tạp. Hiện nay, công tác này đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhiều chính sách mới, nhiều quy trình, thủ tục mới về công tác cán bộ đã được đề ra. Tuy nhiên, những chuyển biến thật sự trong công tác này thì vẫn chưa nhiều. Các câu nói cửa miệng  như “Nhất hậu duệ…”, “Tổ Đảng nhà ta…”, “cả họ làm quan” quả thực đang phản ánh những vấn đề rất lớn của công tác cán bộ. Đó là vấn đề cất nhắc, đề bạt người thân, người nhà; vấn đề chạy chức, chạy quyền; vấn đề “mua quan, bán chức”…
Ngoài ra, “công tác cán bộ” là một cách nói rất “tiền khởi nghĩa”, rất xưa cũ. Có lẽ, ở thời đó, sự phân chia còn khá đơn giản: hoặc là địch hoặc là ta; hoặc là cán bộ, hoặc là nhân dân. Tuy nhiên, sự đơn giản như vậy đã trở nên bất cập trong một xã hội phát triển và hiện đại. Một khung khái niệm mới là rất cần thiết cho hoạt động mà chúng ta gọi là “công tác cán bộ” hiện nay. Đó chính là khung khái niệm về quản trị nhân lực công.
TS Nguyễn Sĩ Dũng: “Công tác cán bộ” là một cách nói rất “tiền khởi nghĩa”, rất xưa cũ.
Nguồn nhân lực của một quốc gia thì có nhân lực tư và nhân lực công. Nhân lực tư do xã hội và các doanh nghiệp quản trị. Nhân lực công thì do Nhà nước quản trị. Trong trường hợp của nước ta thì nói nhân lực công do Đảng và Nhà nước quản trị cũng hoàn toàn chính xác.
Trong giai đoạn hiện nay, nhân lực tư đang được quản trị khá hiệu quả, thậm chí, trong không ít lĩnh vực còn vượt trội hơn so với việc quản trị nhân lực công. Cứ nhìn cách các tập đoàn tư nhân như Vingroup, Sungroup,  Trường Hải… thu hút và sử dụng người tài như thế nào chúng ta sẽ thấy rất rõ điều này.
Trong khi đó, quản trị nhân lực công có vẻ đã không đổi mới kịp, cơ bản thì vẫn theo cách làm từ sau Cách mạng tháng Tám đến bây giờ. 
Vấn đề ở chỗ, chúng ta không phân chia các nguồn nhân lực công được một cách rạch ròi mà chỉ nói chung là cán bộ.
Nói như vậy có nghĩa là công tác cán bộ hay quản trị nhân lực công của chúng ta đã quá cũ?
Quả đúng là như vậy! Nhân lực công chia thành nhiều loại khác nhau và phải được quản trị khác nhau, không thể nào áp đặt một khuôn mẫu chung được. Quản lý nhân lực công nghĩa là quản trị một trong những nguồn lực hết sức to lớn của đất nước. Nếu quản trị tốt, thì đất nước sẽ nhanh chóng thịnh vượng, nếu quản trị dở, thì không chỉ nguồn lực này bị lãng phí mà những nguồn lực khác cũng dễ bị tiêu tán theo. Chẳng hạn đất nước giàu tài nguyên nhưng nhân lực quản trị không tốt, thì chắc chắn tài nguyên khó được khai thác hiệu quả, kéo theo chạy chọt, tham ô, tham nhũng… 
“Thực trạng chúng ta có nhiều người đi học để lấy bằng cấp, để hợp thức hóa mà không biết cái gì, đấy là “mua bằng”… Việc học tập của anh ta không phải để trau dồi chuyên môn mà vì tiêu chuẩn bắt buộc để thăng tiến. Nó méo mó như vậy thì làm sao có hệ thống cán bộ tốt được.Chính sự méo mó ấy làm mất đi sự cạnh tranh, so sánh, áp lực cán bộ như ở các nước”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Nhìn tổng thể, nhân lực công có thể được chia thành các loại: 1. Chính khách; 2. Công chức (hay còn gọi là quan chức hành chính); 3. Viên chức; 4. Thẩm phán. Các loại này đảm nhiệm những công việc khác nhau và phải được quản trị cũng khác nhau.
Về chính khách, ở tầm quốc gia, chính khách là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, các ủy viên Bộ Chính trị, các ủy viên Ban Bí thư, các ủy viên Ban chấp hành Trung ương, các Bộ trưởng, các đại biểu Quốc hội… Đây là những người có quyền ban hành các quyết định (các chính sách). Đây cũng là nguồn nhân lực đầu tiên hết sức quan trọng của đất nước.
Các chính khách là những người có năng lực nhận biết vấn đề, xác định ưu tiên và thúc đẩy chính sách. Nghĩa là các chính khách phải phản ứng kịp thời trước các vấn đề của đất nước. Nếu đất nước đối mặt với hàng trăm vấn đề, thì các chính khách phải xác định được vấn đề nào là quan trọng nhất. Ngoài ra, chính khách phải nắm bắt được lòng dân.  Đâu là ý nguyện của người dân, đâu là cái người dân cần, sẽ được người dân ủng hộ...
Một năng lực khác của các chính khách là cân đối lợi ích. Phải biết được việc ban hành chính sách sẽ có lợi cho nhóm này và không có lợi cho nhóm kia ra sao để có thể cân bằng được lợi ích giữa các nhóm. Bởi vì ngân sách và các nguồn lực khác của đất nước đều rất hạn chế. Cuối cùng, năng lực quan trọng nhất của một chính khách ở tầm quốc gia là xác định được lợi ích của đất nước nằm ở đâu. Bởi vì lợi ích của nhóm này hay nhóm kia chưa chắc đã là lợi ích của quốc gia.
Nguồn nhân lực công thứ hai là các công chức. Đây là những người thực thi chính sách và pháp luật. Những người này không có quyền ban hành chính sách và pháp luật, nhưng thiếu họ, chính sách pháp luật không thể đi vào cuộc sống. Chúng ta thấy, khi Tổng thống Mỹ Trump ban hành sắc lệnh cấm người Hồi giáo ở 6 nước nhập cảnh vào Mỹ, ngay lập tức những người này đã bị các quan chức hành chính chặn lại tại tất cả các cửa khẩu. Thế nhưng, khi tòa án bãi bỏ sắc lệnh trên, thì lập tức các quan chức hành chính cho phép những người Hồi giáo nói trên nhập cảnh ngay. 
Tức là các công chức không đánh giá chính sách nào là tốt, chính sách nào là không tốt. Chính sách đã được ban hành thì họ thực thi ngay và một cách hiệu quả nhất. Nhưng chính sự hiệu năng này của đội ngũ công chức là sự bảo đảm cho chính sách, pháp luật  sẽ thật sự đi vào cuộc sống. Còn nếu chính sách, pháp luật đã được ban hành, mà các ông công chức muốn thực thi còn trình lên Bộ trưởng, trình lên Thủ tướng xin ý kiến chỉ đạo thì mọi việc đều sẽ rất chậm trễ. Đó là chưa nói tới rủi ro là pháp luật, chính sách cũng không còn đáng tin cậy nữa.
Vụ việc Singapore trục xuất Vũ “nhôm” là một điển hình. Quyết định trục xuất Vũ “nhôm” do Cục trưởng Cục Di trú ban hành. Ông này không phải xin ý kiến chỉ đạo của ai cả, vì ông ta chứ không phải ai khác có thẩm quyền  thực thi pháp luật ở đây.  Đối với một người vi phạm pháp luật vì mang hai hộ chiếu, thì bị trục xuất là theo quy định của pháp luật.
Nhân lực công thứ ba cũng rất quan trọng là viên chức. Viên chức là những người giúp Nhà nước cung cấp dịch vụ công cho dân. Tại sao Nhà nước phải cung cấp dịch vụ công? Tại vì có những dịch vụ tư nhân không cung cấp, như đèn chiếu sáng công cộng chẳng hạn. Quan trọng hơn, Nhà nước phải cung cấp dịch vụ công còn để bảo đảm công bằng xã hội.
Theo ông Dũng, nên để người thắng cử được quyền lựa chọn. 
Lực lượng viên chức nhiều hay ít cùng tùy thuộc vào việc các dịch vụ công do tư nhân cung cấp nhiều hơn hay Nhà nước cung cấp nhiều hơn. Trong không ít trường hợp, Nhà nước phải cạnh tranh với tư nhân, thậm chí trong nhiều trường hợp tư nhân còn cung cấp các dịch vụ này tốt hơn.
Lực lượng thứ 4 cần phải có là các thẩm phán. Các thẩm phán phải được lựa chọn là những người liêm chính tối đa, dám xả thân vì công lý tối đa. Phải chọn được những người giỏi áp dụng pháp luật để đạt được công lý. Trên thế giới người ta thường chọn những luật sư danh tiếng về trình độ chuyên môn và đạo đức, tư cách để làm thẩm phán.
Từ sự phân chia về quản trị nhân lực như thế, có thể thấy rằng, thực tế trong công tác cán bộ của chúng ta vẫn chưa thực sự rõ ràng. Quản trị theo kiểu cũ và hàng loạt vấn đề về bổ nhiệm, về chạy chức chạy quyền, về năng lực lãnh đạo… đang là những nhức nhối trong xã hội suốt một thời gian dài, thưa ông?
Chúng ta vẫn đang chưa có sự mạch lạc rõ ràng giữa việc bầu chọn các chính khách; tuyển chọn, bổ nhiệm các công chức; tuyển chọn các viên chức…
Chế độ trách nhiệm chính trị đáng ra chỉ áp dụng cho các chính khách lại đang được áp dụng cho cả hệ thống. Chính khách, công chức, viên chức hay thẩm phán muốn được đề bạt thì đều phải lấy phiếu tín nhiệm. Trong lúc đó, tín nhiệm chỉ là cách thức để vận hành chế độ trách nhiệm chính trị.
Trong lúc đó, trách nhiệm hành chính là trách nhiệm trước thủ trưởng. Đã được giao nhiệm vụ thì phải hoàn thành. Không hoàn thành nhiệm vụ được giao thì tín nhiệm cao cũng chẳng có ý nghĩa gì!
Ví dụ, bổ nhiệm anh phụ trách giao thông thì tình hình giao thông phải được cải thiện. Năm sau nếu tai nạn giao thông cao hơn năm trước thì anh sẽ mất chức. Áp lực phải hoàn thành nhiệm vụ rất rõ ràng buộc lòng anh phải chọn được người tài giúp việc cho anh chứ không phải chọn người ủng hộ anh. Nói cách khác, nếu anh không chọn được người giỏi hỗ trợ anh thì anh sẽ mất chức.
TS Nguyễn Sĩ Dũng (phải) và nhà báo Hoàng Anh

Lựa chọn cán bộ rất khốc liệt nhưng không tạo ra sự cạnh tranh vì phẩm chất cần thiết

Thưa ông, liệu rằng với công tác cán bộ “chưa mạch lạc” như vậy có phải là hạn chế sự cạnh tranh, hạn chế trong việc tìm chọn người tài hay không?
Quy trình lựa chọn cán bộ có sự cạnh tranh rất khốc liệt. Nhưng quy trình ấy lại không tạo ra sự cạnh tranh vì những phẩm chất cần thiết.
Trong cuộc sống, nếu chúng ta cạnh tranh theo cách xấu xa, thì Sa tăng sẽ thắng cuộc. Cạnh tranh theo cách tốt đẹp, thì Thiên thần sẽ thắng cuộc. Mấu chốt là cạnh tranh vì cái gì thì ở mình không rõ. Bởi vì ở mình, đằng sau sự cạnh tranh theo cách “xấu xa” có thể là tiêu cực là quà cáp, là biếu xén để lấy phiếu. Còn cạnh tranh “tốt đẹp” thì lại chưa thật sự rõ ràng.
Điều này có nghĩa là nếu muốn chọn được người tài lãnh đạo, công tác cán bộ được tốt hơn thì phải thay đối phương thức quản trị, thưa ông?
Quả thực là phải như vậy.
“Cần phải có cơ chế để những người giỏi chuyên môn hơn sẽ được chọn. Phải thiết kế được một hệ thống luật chơi mà người thắng cuộc là người tài, người phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước tốt hơn. Nó giống như cơ chế cạnh tranh thị trường vậy. Hàng tốt hơn và rẻ hơn sẽ được lựa chọn, để người tiêu dùng có sản phẩm tốt đẹp. Còn nếu lựa chọn kiểu tiêu cực như cạnh tranh để làm hàng giả, hàng kém chất lượng thì sẽ thêm nhiều tình trạng đi đêm với quan chức mà thôi”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Nếu muốn chọn được người tài thì đối với các chính khách, phải tiến hành tranh cử trong Đảng để lựa chọn người tài. 
Đối với các công chức, phải thi tuyển như ở các nước Đông Bắc Á để chọn được người tài.
Đối với các viên chức, phải cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân để tuyển chọn người tài.
Đối với các thẩm phán, phải tìm hiểu và áp dụng kinh nghiệm tuyển chọn của các nước như đã nói ở phần trên.
Chính khách thì phải tranh cử. Mình không đa đảng nên phải tổ chức tranh cử trong đảng. Hình thành quy chế tranh cử. Anh muốn làm Bí thư thì anh phải làm sao để các đảng viên nghe được trình bày của anh, giải pháp của anh, chứng minh được anh giỏi hơn để họ ủng hộ.
Nên để người thắng cử được quyền lựa chọn. Người thắng cử làm Thủ tướng Nhật sẽ lựa chọn những người làm Bộ trưởng. Người thắng cử làm Thủ tướng Anh sẽ loại bỏ những Bộ trưởng bất đồng chính kiến với ông. Với ê kíp như vậy mới làm việc được. Còn nếu ông Thủ tướng đi đường này, ông Bộ trưởng đi đường kia thì làm sao mà làm việc được.

Nếu cứ nghe “Hòa đại nhân” thì sớm muộn gì cũng sai

Trong công tác cán bộ, thực tế chỉ ra rằng “con ông cháu cha” được xem như những “hạt giống đỏ” của đất nước, thừa hưởng nền tảng tri thức của gia đình, đều được đào tạo bài bản, được học ở nước ngoài, được kỳ vọng sẽ tôi luyện để họ có bản lĩnh vững vàng trong thực tiễn công tác. Thực tế cũng chứng minh có những vụ bổ nhiệm cán bộ khiến dư luận hết sức hoài nghi, thậm chí là bất bình như việc cô Tô Linh Hương (con gái nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Tô Huy Rứa), 24 tuổi đã là Chủ tịch một công ty thành viên của Vinaconex, Vũ Quang Hải (con trai nguyên Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng, 25 tuổi đã là TGĐ PVFI, sau đó là Sabeco)… Ông kiến giải như thế nào về những vụ bổ nhiệm như thế?
Thực tiễn chính trị khác với thực tiễn hành chính và chúng ta không thể nói chung chung.
Ví dụ Tổng thống Pháp được bầu khi chưa đến tuổi 40, nhưng nếu nói thực tiễn chính trị thì ông ta có chứ, vì ông ta sinh hoạt trong đảng lâu rồi.
Đối với các “hạt giống đỏ” cũng vậy, thực tiễn của đời sống chính trị là hoạt động trong đảng. Nếu anh hoạt động trong đảng, thì anh có thể có thực tiễn đó.  Còn nếu anh từ bên ngoài vào thì rõ ràng anh không có thực tiễn chính trị, anh được đỡ đầu thôi, đến khi hết đỡ đầu có thể anh rớt. 
Còn đối với những trường hợp như đã nêu ở trên thì thực tiễn chính trị không có ý nghĩa gì lắm vì đó là các chức vụ chuyên môn. Phải học hành, phải có trình độ chuyên môn thì mới đảm nhiệm được.
TS Nguyễn Sĩ Dũng: Thực tiễn chính trị khác với thực tiễn hành chính và chúng ta không thể nói chung chung.
Vậy thì vấn đề của “hạt giống đỏ” liệu có phải là kiểm soát linh hoạt quyền lực không, thưa ông?
Tôi không thấy có mối quan hệ nào đủ rõ ràng về việc “kiểm soát quyền lực linh hoạt ở đây”.
Thực chất quyền lực kiểm soát bằng cả hệ thống chứ không chỉ một khâu đơn lẻ nào. Bây giờ rõ ràng là một loạt thiết chế kiểm soát quyền lực đã có. Ví dụ giám sát của cấp trên, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương; giám sát tập thể có Thường vụ; giám sát phê bình, tự phê bình, đó là những giám sát của ta. Hiệu quả hay không thì quả thực còn có những ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, đây là những hình thức kiểm soát cần thiết trong bối cảnh của nước ta.
Vậy theo ông, những khó khăn “hạt giống đỏ” thường gặp phải là gì?
Trước hết, khó khăn mấy thì cũng thuận lợi hơn những người trẻ tuổi khác. Anh được cơ cấu, anh được luân chuyển, anh được cân nhắc đề bạt rất nhanh. 
“Đối với thực tiễn chính trị đòi hỏi người trẻ phải hiểu biết quy tắc, cách thức, bởi nếu anh được đỡ đầu, thiếu thực tế thì rất dễ bị mạo nhận. Khi anh lên nhờ cái ô đỡ đầu lớn, ô còn, người ta có thể châm chước chỗ này, chỗ kia… Khi không có ô nữa, “bố thiết kế xong rồi bố nghỉ”, anh vẫn còn ngộ nhận thì chắc chắn anh bị bật ra ngoài. Hoặc có thể anh vẫn ở nguyên đó nhưng không có quyền hành gì”, TS Nguyễn Sĩ Dũng.
Cái đầu tiên chúng ta phải nói là rất thuận lợi. Thế nhưng cái gì nó cũng có 2 mặt. Thách thức đầu tiên là anh lên dễ quá. Dễ dàng quá thì tự tin, nếu không muốn nói tự phụ. Tự phụ thì mất khả năng lắng nghe và sớm muộn cũng sẽ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền.
Thách thức thứ hai, kiến thức là một phần nhưng sự anh minh mới là yếu tố quan trọng hơn để làm lãnh đạo. Mà sự anh minh thì phải có  trải nghiệm mới có được. Chỉ học không sẽ không có được sự anh minh. Học chỉ có kiến thức, kiến thức kết hợp với trải nghiệm mới có sự anh minh. Nhiều khi quyền lực nằm trong tay rồi, không ai dám nói khác, anh lên quá cao không ai nói khác anh được. Bây giờ thách thức là khó nghe được lời nói thật. Nếu anh biết dựa vào đội ngũ cựu lão thành, những người đàn anh, những người chẳng phụ thuộc gì nữa, thì may ra anh còn nghe được những lời nói thật. Bằng không, anh chỉ nghe được các “Hòa đại nhân” và không sớm thì muộn sẽ quyết định sai.
Các cụ xưa dạy rằng “đạo đức và uy tín của người cha là tài sản lớn nhất của người con”, chúng ta đang ở trong một giai đoạn mà nền giáo dục, thứ được xem là cốt lõi của việc tìm hiền tài cho đất nước, những người cha, người mẹ sẵn sàng bỏ tiền tỷ để chạy điểm cho con (hầu hết là những cán bộ cốt cán ở nhiều địa phương). Trong một môi trường như thế thì việc dư luận hoài nghi về phẩm chất, năng lực của con ông cháu cha âu cũng là điều dễ hiểu. Theo ông, những “hạt giống đỏ” cần một môi trường như thế nào, cần phải rèn luyện như thế nào để phát triển, để chứng minh phẩm chất, năng lực của bản thân, để thực sự trở thành hồng phúc của dân tộc?
Con theo nghề cha là điều dễ hiểu. Vì kiến thức, kỹ năng thường được lưu truyền cho thế hệ tiếp nối. “Hạt giống đỏ” có lẽ cũng nằm trong xu hướng đó. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải bảo đảm công bằng xã hội. Nếu tranh cử hoặc thi tuyển công tâm mà các “hạt giống đỏ” giành phần thắng, thì không có chuyện gì phải bàn ở đây cả. Còn nếu vì cơ cấu, nâng đỡ mà các bạn trẻ khác bị cướp mất cơ hội thì hoàn toàn không nên.
Xin cảm ơn ông!
HOÀNG ANH(Ảnh: Trần Anh)