17 tháng 8, 2019

Về vấn đề Hồng Kông, ông Tập Cận Bình còn một lựa chọn khác toàn diện hơn


Trước tình hình bạo lực đang leo thang ở Hồng Kông, ông Tập Cận Bình có 3 lựa chọn: một là nhượng bộ; hai là can thiệp bằng quân sự; bà là xử lý vấn đề một cách ôn hòa, đợi sóng gió lắng dịu xuống. Cũng có học giả đưa ra một gợi ý mang tính toàn diện cho ông Tập, có thể sẽ trở thành bước ngoặt to lớn của lịch sử.
Vào ngày 11/8, cảnh sát Hồng Kông đã tấn công dữ dội vào đoàn người biểu tình, hành động này đã bị quốc tế lên án mạnh mẽ. Tại cuộc họp báo vào ngày hôm sau, Văn phòng sự vụ Hồng Kông và Macao của Trung Quốc đã thay đổi định tính với bản chất của các cuộc biểu tình là “xuất hiện đầu mối chủ nghĩa khủng bố”.
Cảnh sát vũ trang Trung Quốc tập hợp tại sân vận động Thâm Quyến ngày 15/08/2019.
Cảnh sát vũ trang Trung Quốc tập hợp tại sân vận động Thâm Quyến ngày 15/08/2019. (Ảnh: Reuters)
Tiếp đó, một lượng lớn xe quân đội cảnh sát vũ trang đã tập kết ở Thâm Quyến, truyền thông của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ra sức đánh trống reo hò, thái độ của bà Carrie Lam (Lâm Trịnh Nguyệt Nga) vẫn cứng rắn, tình hình căng thẳng ngày càng leo thang.
Liên quan đến hình thế khốc liệt ở Hồng Kông, Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Anh, Thủ tướng Canada, Thủ tướng Úc, Đài Loan, Liên Hợp Quốc và Liên minh châu Âu đều bày tỏ quan ngại và kêu gọi tất cả các bên hãy giữ bình tĩnh và kiềm chế, đồng thời đề nghị hai bên bắt đầu triển khai đối thoại, không nên sử dụng bạo lực.
Cuộc biểu tình phản đối “Luật dẫn độ” là cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà ĐCSTQ gặp phải kể từ khi chính phủ Anh bàn giao chủ quyền Hồng Kông lại cho Trung Quốc từ năm 1997. Đây cũng được coi là thách thức lớn nhất mà ông Tập Cận Bình gặp phải kể từ khi ông nhậm chức vào năm 2012.
Vài ngày trước, Đài tiếng nói Hoa Kỳ – VOA đã đăng tải một báo cáo tổng hợp phân tích của các học giả, bài viết chỉ ra rằng ông Tập Cận Bình có ba lựa chọn về vấn đề Hồng Kông: một là nhượng bộ; hai là can thiệp bằng quân sự; bà là xử lý vấn đề một cách ôn hòa, đợi sóng gió lắng dịu xuống. 
Bài bình luận cho rằng cả ba cách làm này phần nhiều là không có khả năng được thông qua. Theo nguồn tin từ truyền thông Hồng Kông, ông Lâm Lập Hòa – nhà phê bình chính trị Hồng Kông trích dẫn nguồn tin nội địa nói rằng chỉ thị mới nhất của ông Tập Cận Bình về cách xử lý vấn đề Hồng Kông này là: “Không cần sử dụng đến quân đội, mà dập tắt bạo loạn bằng biện pháp cứng rắn, quyết không nhượng bộ chút nào”.
Phản đối “Luật dẫn độ” vốn không phải là một “cuộc cách mạng màu”, mà nó liên quan đến tự do, pháp trị, chứ không chạm đến vấn đề chủ quyền và lãnh thổ. Mặc dù “biện pháp cứng rắn” có thể cầm chân người ta một thời gian, nhưng nó không thể thu phục được lòng dân, cũng không thể xóa tan mọi oán hận bất bình của người dân.
Làn sóng kháng nghị lần này bắt đầu vào tháng 6 và không ngừng lan rộng. Quy mô, thanh thế và quyết tâm kiên định của người dân Hồng Kông thật sự đã vượt ngoài dự liệu của tất cả mọi người. Điều này không thể không nói là hàm chứa thiên ý nào đó. 
Hồng Kông đã đứng lên phản đối ĐCSTQ, ảnh hưởng trực tiếp đến Trung Quốc, Đài Loan, khiến thế giới không khỏi chấn động. Đứng trước cường quyền khủng bố, lòng can đảm của người dân Hồng Kông không bị dập tắt, kháng nghị vẫn chưa dừng lại. 
Người biểu tình tọa kháng ở sảnh đến, sân bay quốc tế Hồng Kông, ngày 09/08/2019.
Người biểu tình tọa kháng ở sảnh đến, sân bay quốc tế Hồng Kông, ngày 09/08/2019. (Ảnh: Reuters)
“Hồng Kông cố lên!” đã trở thành từ khóa nóng trên mạng, và nhận được tiếng nói ủng hộ từ khắp các nơi trên toàn thế giới. Ngày 13/8, một người biểu tình giơ cao biểu ngữ tại sân bay Hồng Kông: “Đây là vấn đề lương tri”.
Phản đối “Luật dẫn độ” không chỉ liên quan đến tự do của Hồng Kông, mà quan trọng hơn là mọi người từ đó nhìn thấy được bản chất của ĐCSTQ và hậu quả tàn khốc mang tính phá hoại của nó đối với các quốc gia và khu vực: dối trá, bạo lực, đe dọa, thất tín, không tôn trọng luật pháp, gây chia rẽ xã hội, v.v… Rất nhiều sự thật đã được phơi bày trước công chúng.
Thứ nhất, việc sửa đổi “Luật dẫn độ đào phạm” chẳng qua chỉ là mồi dẫn lửa, ĐCSTQ muốn bóp chết tự do của Hồng Kông mới là mấu chốt của vấn đề, mà loại xói mòn tự do này chính là nguyên nhân sâu xa khiến người dân Hồng Kông đứng lên phản kháng, cũng là mục đích cuối cùng trong kế hoạch ĐCSTQ.
Thứ hai, chính phủ Hồng Kông bị ĐCSTQ kiểm soát, cảnh sát lạm quyền, thậm chí câu kết với xã hội đen.
Thứ ba, ĐCSTQ đổi trắng thay đen, lấy chiêu bài “bàn tay phản động” và “mầm mống của chủ nghĩa khủng bố” để chuyển dời tầm nhìn.
Thứ tư, thông qua Hồng Kông của ngày hôm nay, thế giới biết được rằng Đài Loan của ngày mai sẽ như thế nào. Thật không khó để tưởng tượng những khổ nạn mà người dân Trung Quốc phải chịu đựng trong suốt 70 năm qua. Do đó, với việc ĐCSTQ bức hại nhân quyền, bức hại tự do tôn giáo tín ngưỡng trong nước, cộng đồng quốc tế nên quan tâm và chú ý theo dõi nhiều hơn.
Thứ năm, mặc dù ĐCSTQ đã cố gắng “giấu đi bộ mặt thật” và liên tục khắc họa một tương lai tươi sáng, nhưng bản chất xấu xa của nó vẫn không thay đổi. Tại Hồng Kông, lời hứa “năm mươi năm chính sách không thay đổi” vẫn chưa qua hết một nửa, thì chính sách “một quốc gia, hai chế độ” đã sụp đổ hoàn toàn. Một cuộc đàn áp đẫm máu không có xe tăng đã diễn ra. Tương lai, ai còn sẽ tin vào những lời dẫn dụ êm tai của nó nữa?
Thế thì, liệu ông Tập Cận Bình còn có sự lựa chọn nào tốt hơn hay không? Câu trả lời chắc chắn là có, nhưng chính là: Lấy văn hóa truyền thống Trung Hoa làm nền tảng chỉ đạo, từ bỏ tham vọng quyền lực cá nhân và bước ra mọi ràng buộc thống trị của đảng, lấy đây làm tiền đề, từ đó đưa ra quyết sách “trên theo ý trời, dưới thuận lòng dân”. 
Tập Cận Bình đã thanh trừ một số lượng lớn các quan chức tham nhũng vi phạm nhân quyền. Đây cũng là một hành động rất được lòng dân.
Tập Cận Bình đã thanh trừ một số lượng lớn các quan chức tham nhũng vi phạm nhân quyền. Đây cũng là một hành động rất được lòng dân. (Ảnh: CaliToday)
Tập Cận Bình đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa truyền thống, thiết nghĩ ắt hiểu được đạo lý “nước có thể nâng thuyền và cũng có thể lật thuyền”. Các bậc minh quân thời thịnh thế của lịch sử, tất cả đều lấy chính trị nhân đức yêu thương nhân chúng mà tạo nên một thời kỳ huy hoàng. 
Hiện tại, dân ý của 2 triệu người dân Hồng Kông đang tuôn trào, cảnh sát và các băng đảng xã hội đen đàn áp người dân, dẫn đến bất ổn xã hội. Lúc này, chỉ có lắng nghe người dân, hành xử thuận theo thời thế, như vậy mới khiến sóng gió lắng dịu.
Tháng 11/2013, tại Phiên họp Toàn thể lần thứ ba ĐCSTQ, ông Tập đã thông qua các biện pháp cải cách chế độ như chính sách nới lỏng một con và bãi bỏ các trại cưỡng bức lao động. Những hành động này có lợi cho việc cải thiện nhân quyền, và đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi. 
Ngoài ra, phong trào chống tham nhũng mạnh mẽ của ông Tập Cận Bình đã thanh trừ một số lượng lớn các quan chức tham nhũng vi phạm nhân quyền. Đây cũng là một hành động rất được lòng dân.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, người lãnh đạo tối cao đã tái khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng và chủ nghĩa Mác – Lê, tăng cường giám sát internet và theo dõi người dân, các trường hợp mới về bức hại nhân quyền và đàn áp tôn giáo xảy ra thường xuyên. 
Một loạt các tín hiệu “khuynh tả” khiến người ta không khỏi lo ngại, hoàn toàn đi ngược lại với việc “cai trị dựa trên pháp luật”. Trong bối cảnh này, lập trường cứng rắn của ĐCSTQ đối với Hồng Kông thậm chí còn khiến người ta lo ngại hơn.
Hiện nay, không phải là quốc gia hay bất kỳ người nào cố tình chống lại “Trung Quốc”, mà là ĐCSTQ thống trị Trung Quốc không được lòng người. Nếu Bắc Kinh muốn loại bỏ những nghi ngờ và sự thù địch từ bên ngoài, thì cần phải tuân theo các giá trị phổ quát, bảo vệ phẩm giá và quyền lợi của con người, thực hiện những thay đổi từ gốc rễ, mà những thay đổi sẽ không thể thực hiện trong thể chế ĐCSTQ. 
Bởi ĐCSTQ bị giới hạn bởi đặc tính di truyền của nó: đấu với trời, đấu với đất, đấu với người, chống lại nhân tính, chống lại thiện lương. Do đó, ôm giữ ĐCSTQ cũng bằng như chỉ có một con đường chết. 
Những động thái như mở ra một cuộc trường chinh, giơ cao lá cờ đỏ, tập kết quân đội và trấn áp bằng bạo lực, những thứ này đều đã trở nên vô dụng, cuối cùng sẽ chỉ khiến đất nước và bản thân rơi vào thảm họa, để lại vết nhơ không thể xóa nhòa trong lịch sử.
Hành động kháng nghị ôn hòa ở Hồng Kông là một cơ hội, một bước ngoặt, đưa đến một sự lựa chọn then chốt, mở ra một chương mới của lịch sử nhân loại. Giữa chính và tà, mỗi một người, mỗi một quốc gia đều được trao cơ hội bình đẳng và phải chịu trách nhiệm cho sự lựa chọn của mình. 
Nếu như cứ mãi đối đầu với dân, bỏ ngoài tai những lời khuyên can chân thành, nghịch lại ý trời, thế thì lao xuống vực thẳm không chỉ là chính đảng tà ác, còn có đám tay chân đã tự trói chặt vận mệnh của mình với chính quyền tội ác đó, còn những người dũng cảm giữ vững chính nghĩa sẽ hướng đến một tương lai tươi sáng, ngập tràn hy vọng.
Thiện Ân (Theo Epoch Times

16 tháng 8, 2019

NGHE TIN ANH BẠO BỆNH 

Hôm qua còn cùng anh,
Nhậu ở hàng thịt chó.
Nay nghe nói phong thanh,
Anh thành người thiên cổ.
Tôi không nghe chúng nó,
Đơm đặt chuyện bao đồng.
Cái lò tôn còn đó,
Không nhẽ tắt lửa hồng.
Dân tộc và non sông,
Là những gì vĩnh cửu.
Anh là người tiên phong,
Gánh hai vai nặng trĩu.
Nếu anh bị ngất xỉu,
Nơi đất dữ Kiên Giang,
Cũng là điều dễ hiểu, 
Trong hang ổ Ba Càng.
Cầu mong anh bình an,
 Để vững vàng tay lái.
Ghi "sử xanh" Việt Nam,
Người đốt lò vĩ đại.

Theo FB Nhóm Cây Đa

15 tháng 8, 2019

Chỗ chưa đồng ý trong bài viết của nhà văn Phạm Đình Trọng

Dương Tự Lập
15-8-2019
Nén hương cho Bùi Tín và Tô Hải
Thấm thoắt đã qua giỗ đầu của hai nhân cách lớn là Bùi Tín và Tô Hải. Rất mến nhà văn Phạm Đình Trọng với nhiều bài viết của anh trình làng. Mới đây, được xem lại bài viết: Những Người Cuối Cùng Của Thế Hệ Hào Hoa Mà Lạc Bước Đã Ra Đi, đăng trên Tiếng Dân ngày 12/8/2018, tiếc thương hai Con Người là nhà báo Bùi Thành Tín và nhạc sĩ Tô Đình Hải, mất cùng ngày 11/8/2018 cùng ở tuổi 91.
Cùng sinh năm 1927, cùng là những chàng trai lớn lên ở Hà Nội, cùng chí hướng, cùng gặp buổi can qua dâu bể của đất nước. Bùi Tín mất ở quê người, nước Pháp. Tô Hải mất tại quê nhà, nước Việt.
Đọc xong bài viết, chép miệng định thôi, nhưng có một bình luận của ông Nghiem Vietanh dưới bài như sau: “Anh Phạm Đình Trọng đặt Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên ngồi cùng các vị này kể ra hơi gượng ép… riêng trường hợp Chế Lan Viên, di cảo chỉ là trò tháu cáy, hai mặt…” Nhận xét này làm tôi chú ý bởi nó đúng với điều tôi đang suy nghĩ và tôi thấy người bình này rất tinh, không phải rỗi thời gian bình tếu, bình cho vui, hời hợt, nói vớ vẩn chơi chơi.
Phạm Đình Trọng không so sánh nhưng lại đánh đồng những kẻ kia với nhà báo Bùi Tín, nhạc sĩ Tô Hải, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Thanh Tịnh, Thụy An, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Trần Duy, Trần Văn Cẩn, Sĩ Ngọc, nhà báo Trần Đĩnh… những kẻ kia là ai? Là Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, (tôi mạn phép anh thêm vào: Đỗ Nhuận, Hoài Thanh, Huy Vân, Hữu Mai, Xuân Diệu, Huy Cận, Tô Hoài…) những kẻ cũng có hạng, có cân, có lạng, có máu mặt trên văn đàn.
Nếu so tuổi tác với những kẻ bề trên kia thì tôi chỉ vào hàng con cháu. Tôi đã gặp họ trên trang báo, trên trang sách, trên đường phố, trong quán nước, câu lạc bộ, nhà xuất bản, tòa soạn báo, nhà riêng của họ, nhà bạn bè, hay ở ngay trong gia đình tôi tại Hà Nội khi họ đến chơi với cha tôi. Chẳng vì thế mà tôi vị nể, né tránh cái quyền phê phán họ.
Theo nhận định chủ quan của tôi, e rằng anh Phạm Đình Trọng chưa lục lại đầy đủ các bài viết của mấy tay bồi bút đó những năm xa xưa xảy ra vụ phong trào Nhân văn – Giai phẩm 1958 mà thống soái tàn bạo trong vụ án Văn học nổi tiếng nghiêm trọng này là tay đảng viên, trưởng ban Tuyên huấn Tố Hữu, văn nô cung đình. Xem thêm bài viết: (Nhìn lại vụ án Nhân văn – Giai phẩm cách đây 40 năm, của nhà văn Hoàng Tiến, năm 1998).
Nói đến thơ Chế Lan Viên (Phan Ngọc Hoan) người ta nhớ ngay tới Điêu Tàn – 1937:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lỳ chiếc áo độ thu tàn!
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
(Xuân)
Nói phỉ phui cái mồm, tôi thầm nghĩ nếu viết xong Điêu Tàn, rủi ra ngay lúc đó đời Chế tàn, bị tai nạn thảm khốc, đứt mạch máu não, hay chẳng may ô tô nghiến chết ngoài đường thì mãi mãi người đời sau còn ngậm ngùi, tiếc thương nhìn nhận ghi nhớ Chế như ghi nhớ các thi nhân Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Bích Khê, Quách Tấn. Trước khi gia đình Chế chuyển về khu tập thể Trung Tự gần nhà tôi, rồi vào Nam ở hẳn, tôi có dịp theo bề trên năm 1975 ghé thăm gia đình ông trong khu nhà Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, số 51 Trần Hưng Đạo. Trên bàn viết của ông đặt tấm biển làm người đến chơi khó chịu: (Khách đến chơi miễn ngồi lâu). Khác với bác thơ Ngô Xuân Diệu rất niềm nở hiếu khách, hơn hẳn Chế ở đoạn đối nhân xử thế này:
Nhà tớ nằm cạnh Cột cờ (24 Điện Biên Phủ cạnh Cột cờ)
Ai vui thì đến ai lờ thì thôi.
Nhưng hôm nay ngôi nhà này nếu ai đó muốn vào chơi cũng không được bởi chủ ngôi nhà là Xuân Diệu thì đã mất từ lâu. Còn ngôi nhà nay đang tranh chấp, cãi vã, lộn xộn, ngã ngũ ra sao thì chưa rõ. Cù Huy Hà Vũ, con trai nhà thơ Cù Huy Cận, cựu Bộ trưởng, Đại biểu Quốc hội gọi Diệu bằng bác ruột, cũng được Diệu nhận làm con nuôi đâm đơn kiện tụng í ới. Vũ đã bị đảng tống giam vào ngục và đã được can thiệp cho qua cư trú ở Mỹ. Đáng đời Cận, đáng đời Diệu. Ở dưới âm phủ Cận với Diệu có biết và có đau đớn việc này không. Diệu cũng đã đi theo đảng, từng là Đại biểu Quốc hội, Diệu vẫn còn sống ở Thơ, Thơ – 1938 trước cách mạng:
Yêu, là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
(Yêu)
Khi chưa theo đảng Diệu có những vần thơ nghe thơ như thế, sau đi theo đảng từ những thập niên 1950 thơ Diệu viết kiểu thế này:
Mỗi lần tranh đấu gay go
Chúng con đã được Bác Hồ đến thăm
Chúng con dưới vực sai lầm
Đang vươn mình, được Bác cầm tay lên,
Lời Cha rất mực dịu hiền,
Như là thấm nhẹ, mà xuyên vào lòng,
Con ngồi trước Bác mênh mông,
Tội nhiều, chưa dám thẳng trông Cha già.
(Thơ dâng Bác Hồ)
Với lối nịnh bợ “nâng bi” lãnh tụ như thế, Diệu chết ngóm tự lúc nào không biết.
Nhìn tấm biển đặt trên bàn viết của Chế tôi nghĩ: Chà, chắc ông Chế này quí thời gian ghê lắm, nghĩ rằng ông chỉ dành thời gian để viết thơ cho đời, không muốn khách ngồi lâu mất thời giờ. Lúc ấy còn trẻ tôi đã bị lầm. Nhiều năm về sau này từng nghe nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh nói, nếu để Chế Lan Viên thay vào chân Tố Hữu thì còn quá Tố Hữu. Hoàn toàn không bông đùa, lời nhận xét của nhà phê bình rất nghiêm túc. Ông Chế đi theo đảng, là đại biểu Quốc hội, được ăn lộc đảng, ông viết thơ ca tụng, tung hô:
Tổ Quốc Bao Giờ Đẹp Thế Này Chăng?
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất.

Những ngày tôi sống đây là đẹp hơn tất cả
Dù mai sau muôn vạn lần hơn!

Thịt xương ta phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ…
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng – Chế Lan Viên)
Thế có nghĩa là dấu mốc của Tổ Quốc được Chế tính từ ngày 2/9/1945 ông Hồ đứng ra đọc tuyên ngôn độc lập cho nước Việt trở về thời đồ… bánh trưng bánh tét vua Hùng Vương chưa có đảng đưa đường, Hồ chỉ lối chắc là xấu xa đồi bại, muôn vạn lần khốn nạn hơn. Ông Chế muốn nói “nếu” đảng Cộng sản mà ông thừa hưởng ăn lộc dẫu sau này có chết và ông ta chết thì thời ông sống vẫn là đẹp nhất, đảng ông ta thờ phụng vẫn là nhất nhất bởi “Dù mai sau muôn vạn lần hơn”.
Thơ xu nịnh, tởm lợm thật. Vì gần nhà nên khi ông đi làm, thỉnh thoảng tôi có nhìn thấy cái mặt ông, cái mặt cũng đẹp y chang mặt đảng, đẹp nhưng không chơi được. Khi ông Chế ngỏm, bà Vũ Thị Thường, vợ của ông, năm 1990 tung ra “Di cảo” thơ chồng, muốn thanh minh cho người đời rõ, cái bộ lòng trong trắng trung thực sám hối của chồng ta đây với hai trong loạt bài viết:
Trừ Đi:
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ tôi đã giết rồi
Bánh Vẽ
Chưa cần cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui…
Độc giả đọc những bài thơ bản thảo muộn màng như thế này, rất nhiều người đã vội vã ca ngợi sự thành khẩn của Chế, khen ngợi Chế thành thực. Cả một thời ta đã bị đảng lừa. Không, không bao giờ ta lại lần nữa bị cá nhân Chế lừa, bị văn nô Chế lừa. Ta không thể chấp nhận sự sám hối xảo trá của Chế trước khi Chế ngáp ngáp lìa đời. Trừ đi hay cộng lại, bánh vẽ hay bánh bao, bánh nướng hay bánh tôm, bánh xèo hay bánh c… chi chi đi nữa ta không tin.
Cả một thời đau thương bao cấp, ba, bốn giờ sáng ta phải nhỏm dậy đem xô, nồi, thùng, xoong chậu… thủng đi để xếp hàng thay người mua từng mớ rau bìa đậu, tranh giành chửi bới nhau ngoài cửa hàng mậu dịch quốc doanh thì Chế ta ngủ đẫy giấc rồi nhỏm dậy viết: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”. Chế không sống lại để nghe bậc em út Bùi Minh Quốc chửi nhại Chế:
Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng?
Cái lúc tưởng Chế “điêu” thì Chế không điêu. Cái lúc tưởng Chế “tàn” thì Chế không tàn (1937) theo đảng. Khi theo đảng Chế có: Ánh Sáng và Phù Sa. (1960) Chế “phù” phiếm và “sa” đọa theo đảng nên Chế chết đứt không ánh sáng. Đáng đời nhà Chế lắm.
Ông đại tá văn Nguyễn Khải thì sao? Một gã cơ hội, một tay láu cá nổi tiếng trong đám làng văn, ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 4 Lý Nam Đế. Khải viết: Xung Đột, nên được anh Tố Hữu khen ngợi. Khải nhỏ tuổi, lấy tư cách gì, lấy nhân cách gì mà dám mắng nhiếc Trần Dần, mà dám lẻo mép chửi rủa nhà thơ “Nhất Định Thắng” (1956) này ở bài viết: “Những Bài Học Của Đấu Tranh Cách Mạng”. Văn nghệ Quân đội, số 5, tháng 5/1958, trang 49-53. Trong bài viết, Khải to mồm chửi quàng chửi quáng cả vào nhà thơ Lê Đạt, tác giả bài thơ “Nhân Câu Chuyện Mấy Người Tự Tử” (1956).
Ngày con trai Khải bị chết đuối ở ngoài bãi sông Hồng, gần chân cầu Long Biên ối kẻ độc mồm độc miệng nguyền rủa: Trời quả báo, đáng đời nhà tay này. Vào Sài Gòn ở, về già không có ai đến chơi. Buồn! Suốt ngày gọi điện mời nhà báo Trần Đĩnh tác giả “Đèn Cù” (2014) tố cáo đanh thép chế độ độc tài cộng sản Việt Nam tàn ác đến nhà chơi, nói chuyện ngẫu (theo tác giả Đèn Cù kể).
Buồn! Năm 2006 Khải ngồi bóp đầu bóp trán bóp bi viết: “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”. Khải nói: “Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng“. Trong tùy bút những tháng ngày sắp lìa thây, Khải viết: “Cũng năm ấy (2000) tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi kết thúc“.
Mọi lời của Khải nói khi sắp tàn đời ta đều bất nhận. Bọn chúng có nết thật giống nhau, khi đương chức, còn hưởng bổng lộc quyền lợi thì chúng câm họng. Đến khi sắp đóng nắp quan tài rồi mới phọt ra sự giả nhân nghĩa “sám hối”. Chó lợn một phường cả. Chứ lúc đeo hàm đại tá đi đâu cũng có kẻ cung người phụng, sao chẳng thấy Khải “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”? Nhục nhã thay lũ bồi bút cho đảng này.
Ông Hoài Thanh, Đại biểu Quốc hội, nhà phê bình văn học có số má, có đứa con tinh thần: “Thi Nhân Việt Nam” – 1941, khi chưa theo đảng. Cuốn chân dung văn học này của Hoài như một viên ngọc quí, mà đúng là quí thật. Viết xong cuốn này, tỉ như ông chết lăn đùng ngã ngửa hoặc chết bất đắc kỳ tử tôi tin tên tuổi ông sẽ còn bất tử. Nói tới ông ta tôi nhớ cái mặt phèn phẹt của ông ấy vào một tối cuối năm 1977 tại hội trường cạnh rạp chiếu phim Công Nhân trên phố Tràng Tiền. Cơ quan Văn hóa Hà Nội mượn để tổ chức buổi nói chuyện kỷ niệm 5 năm: Hà Nội, Điện Biên Phủ trên không và 33 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Hoài Thanh được trân trọng mời đến. Tôi ngồi hàng phía dưới cách mấy ông nhà văn Vũ Tú Nam, Lữ Huy Nguyên và anh nhà thơ trẻ Phạm Tiến Duật cùng khu tập thể Trung Tự với tôi. Trên diễn đàn ông Hoài Thanh nói thao thao bất tuyệt về “Bác dẫn đường Đảng chỉ lối”. Thao thao bất tuyệt về tập thơ “Máu và Hoa” mới xuất bản của Tố Hữu. Ông tô Máu bôi Hoa của Tố ghê gớm đến thế.
Đây là lần thứ hai tôi gặp ông. Lần đầu, lúc đó còn nhỏ, theo cha tới chơi nhà ông Đặng Thai Mai, bố vợ tướng Võ Nguyên Giáp. Thật ra hai ông là bạn hồi trẻ với nhau, Giáp lấy con gái bạn. Ông Mai ở phố Nguyễn Huy Tự gần Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương Y- éc- xanh cạnh vườn hoa Pasteur. Theo trí nhớ tuổi thơ, hôm ấy ông Hoài nói chuyện từ tốn, không nghe nói thơ Tố Hữu. Có lẽ ngồi trước bậc võ công thượng thặng thầy Đặng nên Hoài ta biết ém võ của mình. Đêm nay trước đông đảo quần chúng, ông vung tay tô Máu bôi Hoa của bác Tố tận chín tầng cao. Đi đâu cũng vỗ ngực: “Nói đến thơ Tố Hữu thì phải để tôi bình“. Đã có khi mô ông Hoài bình bài thơ Đời Đời Nhớ Ông, khóc Stalin (1953) của bác Tố chưa nhỉ?
Ông Stalin ơi! Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười.
Chắc hẳn ông đã bình rồi mà ta bỏ lỡ không nghe chăng, ấy cũng là đáng tiếc. Ông tô Tố Hữu ông tố Trần Dần: (Hoài Thanh – Vạch Tính Chất Phản Động Của Bài Nhất Định Thắng Của Trần Dần). Báo Văn Nghệ, Hà Nội, số 110, 1/3/1956. Cũng trên tờ báo này ngay sau đó ông ta thừa nhận: “Tôi Đã Sai Lầm Như Thế Nào Trong Việc Phê Bình Bài Thơ ‘Nhất Định Thắng’ của anh Trần Dần” – Văn Nghệ 20/ 9/ 1956. Một lời sám hối quỷ quyệt khi đã thoi người ta vỡ mặt, đểu thật. Xuân Sách nhà thơ vẽ cái mặt của ông Hoài khá chính xác:
Vị nghệ thuật một nửa đời
Nửa đời còn lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan.
Đầu năm 1982, Hoài Thanh hóa ma trước mấy tháng tôi ra quân – trong ba lô của tôi vẫn còn cuốn Phê Bình và Tiểu Luận tập 1 cùa Hoài. Không bao giờ còn thấy bóng dáng Hoài Thanh trên bất cứ diễn đàn nào nữa.
Hữu Mai, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, tác giả của Cao Điểm Cuối Cùng, kẻ tham gia viết Hồi ký cho tướng Võ Nguyên Giáp, kẻ viết Ông Cố Vấn, nói về tình báo cộng sản Vũ Ngọc Nhạ. Vũ Ngọc Nhạ đi theo đảng trước lúc chết có nói gì với người nhà không, chứ tình báo cộng sản Phạm Xuân Ẩn cùng thời, đã thất vọng cộng sản, trước khi nhắm mắt không quên nhắn lại gia đình, bầu bạn: Xin đừng chôn tôi gần cộng sản. Thật đau đớn cho người tình báo cả đời đi theo chủ nghĩa hoang tưởng.
Hữu Mai cũng là kẻ bồi bút có hạng. Hữu Mai từng viết “Để Rõ Thêm Chân Tướng Phản Động Của Trần Dần”, đăng trên Văn nghệ Quân đội, số 5, tháng 5/1958 trang 57/62. Mai tức là chôn, chắc Mai chết người ta chôn Mai cùng đồng đảng cộng sản và chôn luôn tên tuổi chẳng mấy tốt đẹp của Mai.
Đỗ Nhuận, Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam hai mươi nhăm năm 1958 – 1983, nổi tiếng khi viết Du Kích Sông Thao (1949) bao nhiêu, thì cũng nổi tiếng bấy nhiêu khi bồi bút viết “Bộ Mặt Thực của Trần Dần Trong Nhóm Phá Hoại Nhân Văn – Giai Phẩm”, đăng trên Tạp chí Văn nghệ số 12 tháng 5/1958.
Huy Vân (Lê Huy Vân), Tổng biên tập báo Tổ Quốc, Đại biểu Quốc hội, cùng hội cùng thuyền với những kẻ bồi bút trên viết: “Một Tâm Hồn Đồi Trụy Trần Dần”, đăng trên báo Nhân Dân ngày 25/4/1958. Đại biểu Quốc hội, nhà văn Nguyễn Đình Thi, Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, suốt 30 năm 1958-1989 xách ca táp đi công du nước ngoài gấp nhiều lần nguyên thủ quốc gia, có thơ nhại:
Người đi lên đầu không ngoảnh lại
Sau lưng lũ bồi bút theo đầy.
Ngang ngửa với Thi đi nước ngoài nước trong có ông Tô Hoài cũng vậy:
Ô hô nhà bác Tô Hoài
Viết phiêu lưu ký giương oai dế mèn
Cầm bút theo đảng ớn hèn
O chuột với chú dế mèn cũng khinh
(Thơ dân Hà Nội)
Những kẻ tôi kể ra trên đây để chứng minh với bạn đọc, với anh Phạm Đình Trọng, rằng loại người này không đáng viết hoa, không Hào hoa dẫu bị Lạc bước, bởi họ cũng chỉ là bọn cơ hội, cách mạng nửa mùa, bọn xôi thịt, phường giá áo túi cơm cả mà thôi. Không có vị gì để xếp những loại người này vào cùng hàng với Bùi Tín và Tô Hải. Còn những Con Người Lạc bước nhưng họ vẫn Hào Hoa, ấy là bởi cái tâm và tấm lòng trong sáng tuyệt đối (cách mạng) của họ. Cứ xem đi họ nói gì nhỉ? “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn”, rồi người nhạc sĩ viết:
Mùa thu năm 1945, ngày tôi lên đường làm lính Vệ Quốc, Cha tôi đã cảnh cáo: ‘Đi theo cộng sản hả? Thất bại đừng có vác xác về, tao tống cổ ra đường đó!’ Tôi đã thất bại và không có cơ hội quay về quỳ trước mặt Cha nữa. Xin kính dâng cuốn hồi ký này lên hương hồn Cha tôi như lời tạ tội về lỗi lầm đã phạm” – (Tô Hải).
Đêm Giữa Ban Ngày: “Tôi tặng cuốn sách này cho: Những người con của nước Việt đã cống hiến đời mình cho một nước Việt Nam độc lập và dân chủ. Hương hồn cha tôi và những người cộng sản đã chết bởi tay các đồng chí của họ… Các bạn tù của tôi, cộng sản cũng như không cộng sản. Các thế hệ sau tôi, hy vọng họ sẽ không bao giờ phải sống như tôi đã sống, dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào”. (Vũ Thư Hiên).
Tôi bước đi
Không thấy phố
Không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
Trên mầu cờ đỏ…
(Trần Dần)
Có phải như ai nấp bóng Cụ
“Thời lai đồ đểu” mới ngo nguây.
(Dương Quân)
Nhưng đem bục công an
Máy móc
Đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi…
(Lê Đạt)
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu…
(Phùng Quán)
Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng lên ngôi…
(Bùi Minh Quốc)
Những mơ xóa ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi
(Trần Độ)
Hồi ký “Mặt Thật” của tác giả Bùi Tín, viết: “Tác giả quý mến tặng cuốn sách này tới các bạn trẻ Việt Nam trong và ngoài nước. Với niềm ân hận của thế hệ đi trước thành tích ít, lỗi lầm nhiều. Với lòng tin cậy ở thế hệ trẻ đang là động lực chính đưa đất nước vào kỷ nguyên dân chủ, xây dựng một xã hội dân sự – lỗ hổng tai hại của chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Vậy đó, “Thế Hệ Hào Hoa Mà Lạc Bước Đã Ra Đi”. Họ ra đi hết cả rồi.
Nếu cho tôi được nói một lời, một lời thôi, thì tôi chắp tay ngửa mặt trời cao nói thế này: Xin đừng bao giờ nữa! Đừng bao giờ nữa thế hệ Việt Nam mai sau kia ơi! Đừng bao giờ phạm phải LỖI LẦM cũng như những TỘI ÁC mà thế hệ cha ông cộng sản của chúng tôi đã phạm phải ngót một thế kỷ qua.
______
Một số hình ảnh tác giả Dương Tự Lập gửi tới Tiếng Dân:
Nhà báo Bùi Tín tới Munich nói chuyện tháng 9 năm 1995 và Nguyễn Văn Tuấn bạn tác giả
Nhạc sĩ Tô Hải
Nhà thơ Trần Dần, ký họa của họa sĩ Nguyễn Đình Đăng
Nhà thơ trào biếm Dương Quân, ký họa của họa sĩ Bùi Xuân Phái
Nhà thơ Lê Đạt (Phan Nguyên)
KHÔNG AI DÁM KÝ NGHIỆM THU ĐƯỜNG SẮT
Cát Linh-Hà Đông?
Nhà báo Nguyễn Đình Ấm - Hôm qua gặp ông đi bộ cùng có vẻ là cán bộ to ở bộ Giao thông, một ông hỏi: Bao giờ đường sắt Cát Linh-Hà Đông chạy? Ông nói với người bạn: Tàu Cát Linh-Hà Đông còn lâu mới có vì không thằng nào dám ký nghiệm thu. Không nghiệm thu thì chạy thế đéo nào được. Mà không thằng chó nào dám ký vì sai từ thiết kế đến thi công, vật liệu "đểu". Thép đường ray, ốc, nẹp... của Pháp hơn trăm năm qua vẫn không rỉ nhưng thép của Tàu chưa sử dụng đã rỉ toe toét, có vẻ như họ làm từ thép phế liệu, đặc biệt hầu như không có khâu nào tự động hóa, khi chạy phải có hơn 600 lao động điều hành, quản lý...thì lấy tiền đâu mà bù lỗ hàng bao nhiêu năm. Đặc biệt, mai đây hỏng hóc cần thay phụ tùng, vật tư mà TQ giở trò chậm trễ hoặc cắt thì chỉ có bỏ. Nói chung là bây giờ "tiến thoái lưỡng nan". Cứ duy trì đống bê tông ấy thì tức mắt, đập đi thì tốn công mà số bê tông ấy đổ ở đâu cho hết...







14 tháng 8, 2019

Tầm Chương Trích Cú, Một Bản Tính Của Kẻ Nộ Lệ. (Bài hưởng ứng theo “ĐỀ CƯƠNG GIẢI TƯ TƯỞNG HỆ NHO GIÁO” của Ts Chu Mộng Long). Bà Đầm Xòe Phạm Thành.

Tháng Tám 13, 2019
Tầm chương trích cú là căn bệnh của đám hủ nho. Hủ nho, nghĩa của nó là “nhà nho có tư tưởng quá lạc hậu và lỗi thời”. Nhưng theo tôi, hủ là cái hủ, cái bình, cái vại; nho là nho giáo. Hủ nho là cái vại, cái bình đựng nho giáo ở trong đó.


Đám này, thời Phong kiến, hễ cứ mở mồm ra là Khổng nói thế này, Mạnh nói thế kia. Coi Khổng, Mạnh như chân lý bất biến, như ánh sáng, như thước đo vạn vật trong cõi nhân sinh hay vũ trụ bao la. Tôn Khổng, Mạnh lên bậc chí tôn thánh thần, duy nhất đúng, duy nhất phải thờ phụng mà quên đi, Khổng, Mạnh cũng chỉ là người trần mắt thịt, có xấu, có tốt, cũng ham muốn tiền tài, danh vọng, cũng hám gái như bất kỳ một thằng đàn ông đích thực nào.
Tư tưởng của Khổng, Mạnh cũng vậy, có điều tiến bộ, có điều phản động, có điều văn minh, có điều mất dạy. Khổng, Mạnh là kẻ tội đồ đầu tiên kỳ thị Nam, Nữ. Coi phu nữ không ra gì: “Nữ nhân ngoại tộc”, “Nhất Nam viết có, thập nữ viết vô”, coi phụ nữ như đồ chơi, cái máy đẻ, không thể có nhân cách như người quân tử. Tệ hơn nữa, Khổng, Mạnh còn phân biệt các bộ phận trên cơ thể con người, chỉ coi trọng cái tim, cái óc, báng bổ và mịệt thị các bộ phận khác của con người, như lồn, như cặc. Coi lồn cặc là thứ dơ bẩn. Người có chữ, có nghĩa phải xa lánh các từ này. Người nào dám gọi đúng tên được xem là những kẻ dung tục, vô văn hóa. Khổng, Mạnh rất đắc chí với tư tưởng phân biệt khu xử này đến mức ngu muội mà quên đi rằng, Khổng, Mạnh cũng từ cặc lồn mà ra. Không có hai công cụ tinh dục cặc lồn đó, sẽ không có Khổng, Mạnh nói riêng và cả loài người nói chung. Báng bổ, kinh miệt nó, Khổng, Mạnh cũng chỉ là đứa trẻ con chưa trưởng thành.

Chỉ biết Không, Mạnh đúng, không thấy Không, Mạnh sai, tôn Khổng Mạnh thành thánh thần, thành chân lý, rồi, cứ mở mồm ra, Khổng, Mạnh nói thế này, Không, Mạnh nói thế kia, là thể hiện não trạng a dua, bầy đàn, nô lệ.
Nước Tàu, nước Việt Nam có cả mấy ngàn năm Phong Kiến, vì chỉ coi có Khổng, Mạnh là chân lý, là thước đo vạn vật, nên đã không có một công trình khoa học nào có giá trị đóng góp cho nhân loại. Bước tiến bộ của xã hội thì vẫn như một nhà tù đóng kín cửa. Khoa học kỹ thuật thì chỉ quanh đi, quẩn lại với Âm- Dương, cho rằng, đó mới là học thuyết khoa học vĩ đại nhất, bao trùm vũ trụ nhất, để rồi, lẹt đẹt trườn bò theo khoa học kỹ thuật của phương Tây như con gà rù, chân bị tóc cuốn.
Đắm chìm, ngoi ngọp, ngụp lắn trong cái ao tù đó, cho đến khi phương Tây đưa quân sang xâm lược và khai hóa, bọn hủ nho Tàu, Việt mới biết, hóa ra, trái đất tròn chứ không phải là vuông, nó tự quay xung quanh nó, chứ chẳng phải nó đứng yên, rồi thung thăng tự tại với thân vận com le cà vạt, tay cầm ba toang, mở mồm ra là, Sô nói thế này, He nói thế kia, Đe nói thế này, Kinh thánh nói thế kia… mà không dám nghĩ rằng, sự vật vận động là vô cùng, chân lý chỉ là tương đối, nó có thể đúng ở chỗ này nhưng sai ở chỗ khác. Vũ trụ là mênh mông, không có điểm bắt đầu và điểm kết thúc, thước đo nào, dù bao quát đến mấy, chính xác đến mây, cũng không thể áp đo cho toàn thể vũ trụ được.
Cứ tưởng có ánh sáng khai phóng của Tây Phương rọi vào tim óc, đám hủ nho Tàu, Việt sẽ trưởng thành hơn. Nhưng không, với thể chế chính trị độc tài do cộng sản cầm quyền, căn bệnh hủ nho tầm chương trích cũ lại được đất bùng lên, phát triển nở rộ hơn bao giờ hết. Đám này, với đội ngũ hủ nho tiên phong là những đảng viên cộng sản đã lên tới cả chục triệu người, riêng Việt Nam có hơn 4 triệu người. Đám này mớ mồm ra cũng chỉ là Mác nói thế này, Lê nói thế kia, Sít, Mao nói thế này, Hồ, Kim nói thế kia, và dồn toàn tâm, toàn trí, mở mồm hết cỡ hò hét: Mác, Lê, cộng sản là vô địch, muôn năm; Le, Sit, Mao, Hồ vĩ đại, muôn muôn năm. Thậm chí, họ còn khoe khoang bản lĩnh nô lệ của họ rằng, nói sai, làm sai nhưng có lợi cho đảng thì cứ nói, cứ làm. Nói đúng, làm đúng nhưng không có lợi cho đảng thì không được làm, không được nói. Vì thế, đám hủ nho cộng sản này mới tự tin giống họng lên, đảng là cuộc sống của tôi, đảng là mùa xuân, đảng như mặt trời, đảng như mẹ hiền, vân vân, mà không nhận ra rằng, Le, Sít, Mao, Hồ là những kẻ đại gian, đại ác.
Cũng vì cái não trạng bầy đàn nô lệ đó mà dân miền Bắc mới trích máu làm đơn, xung phong nhập ngũ, chấp nhận làm con thiêu thân cho đảng, ào ạt tiến vào miền Nam, xua cho kỳ được Mỹ ra khỏi đất nước, tiêu diệt cho kỳ được chế độ Việt Nam Công Hòa, mà không biết rằng, mình đã bắn vào chính mình và bắn vào tương lai của chính dân tộc mình.
Ngày nay, khi lý thuyết Mác Lenin về Chủ nghĩa xã hội đã được nhân loại vứt vào sọt rác, đám hủ nho cộng sản vẫn say mê nhai nó, nuốt nó, vẫn coi nó là ánh sáng soi đường cho dân tộc/ nhân loại tiến lên; nhiệt thành ủng hộ nó, sống chết vì nó, xem nó là mình “còn đảng, còn mình” mà không biết rằng, ủng hộ cộng sản là ủng hộ cho thân phận làm nô lệ của mình và cả dân tộc mình.
Ở Việt Nam, căn bệnh hủ nho này chủ yếu nằm ở người miền Bắc, tính từ sông Gianh trở ra. Đám này hiện đang là lực lượng chính giữ ví trí lãnh đạo khắp đất nước, đang là những nhà, những trí thức nổi danh đem cái hủ nho của mình ra ru ngủ, bịp bợm dân tộc. Đó là lý do, dân tộc Việt Nam muốn ngẩng đầu lên, muốn co chân đi theo ánh sáng của văn minh phương Tây nhưng luôn luôn bị chặn đứng lại.

Cảnh báo các tôn giáo đừng để bị lợi dụng là “vỏ bọc cho sự đàn áp”

Các Sư Nhà nước ( Quốc doanh) làm lễ cầu siêu cho ông cố chủ tịch Trần Đại Quang

“Nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng chống phá ta về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, cản trở Việt Nam trong hội nhập và hợp tác quốc tế” là phát biểu của ông Thủ tướng Việt Nam, Nguyễn Xuân Phúc, sáng ngày 9/8/2019 tại cuộc gặp mặt với chức sắc, chức việc tôn giáo diễn ra ở thành phố Đà Nẵng.

Một số người trong cuộc phản ứng ra sao đối với phát biểu mới nhất đó về tôn giáo của người đứng đầu chính phủ Hà Nội?

“Tôn giáo đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”?

Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ, hiện là Chánh văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam có mặt tại buổi gặp mặt hôm đó với tư cách là một người đưa tin. Ông thuật lại với phóng viên Đài Á Châu Tự Do:

“ Tôi nghĩ rằng đây là một cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng với các tôn giáo với thông điệp là chính phủ cũng trân trọng sự đóng góp của các tôn giáo trong nhiều lĩnh vực.

Như Giám mục Bùi Chu cũng nói rõ trong buổi gặp là có các lĩnh vực mà nhà nước không thể làm hết được như y tế cộng đồng, môi trường, trợ giúp cho người nghèo… thì Giáo hội Công giáo vẫn đóng góp từ xưa đến nay cũng không cần có biểu dương, nhưng ý của Chính phủ là muốn ghi nhận và lần đầu tiên chính phủ chủ biết được là các tôn giáo đang đóng góp những gì cho quê hương này.”

Còn Chánh trị sự Hứa Phi, Trưởng ban đại diện khối Cao Đài Nhơn Sanh ở Việt Nam cho rằng, tôn giáo quốc doanh thật ra chỉ đóng góp cho đảng Cộng sản là chính.

“Từ trước tới giờ, tất cả những tôn giáo độc lập hoặc tôn giáo chơn truyền thuần túy, không theo nhà nước lúc nào cũng bị chính quyền ngăn cản toàn bộ.

Ngày hôm nay, nói về tôn giáo đóng góp cho xã hội, theo tôi nghĩ cái này là tôn giáo của nhà cầm quyền Việt Nam dựng lên, có mục đích kinh doanh tôn giáo chứ không phải là tôn giáo lo cho tinh thần nhân loại.

Về vấn đề buổi gặp mặt, tôi nghĩ là người ta đưa lên để làm màu mè với dư luận mà thôi. Nếu mà tôn giáo quốc doanh đóng góp thì chỉ đóng góp cho đảng Cộng sản chứ không phải là đóng góp cho dân tộc Việt Nam.”

Khối Nhơn Sanh đạo Cao Đài không được chính phủ Hà Nội công nhận, ông Hứa Phi vào tháng 5 năm 2018 từng bị những người bịt mặt đánh đập, cắt râu ngay tại nhà ở Lâm Đồng để ngăn cản ông gặp phái đoàn Úc nói về tự do tôn giáo. Vào tháng 11 cùng năm, sau khi gặp phái đoàn Mỹ trở về ông phát hiện nhà mình đã bị đập phá, phóng hỏa.

Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ chia sẻ thêm về những đề nghị của Giáo hội Công giáo Việt Nam đưa ra trong buổi gặp mặt với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc:

“Mỗi tôn giáo chỉ có một vị đại diện phát biểu thôi. Đối với Giáo hội Công giáo thì Đức cha Bùi Chu trình bày những việc mà Giáo hội Công giáo đã đóng góp từ trước đến nay.

Ngoài ra, ngài có góp ý là Chính phủ nên lưu tâm đến những nhu cầu và khả năng của Giáo hội Công giáo trong vấn đề y tế và giáo dục.

Hai vấn đề này thì Giáo hội Công giáo đã nói nhiều và Nhà nước cũng công nhận đó là hai mảng đóng góp rất quan trọng của Giáo hội Công giáo, còn họ lưu tâm đến mức nào thì còn phải chờ.”

Tuy nhiên, khi được hỏi về phát biểu gây tranh cãi của ông Thủ tướng được báo chí trích lời, vị linh mục này cho biết lúc đó ông đã ra phía ngoài nên không có bình luận gì.

“Nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng chống phá”

Thủ tướng Phúc sau khi ca ngợi sự đóng góp của các tôn giáo ở Việt Nam là to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng thời lưu ý các tổ chức tôn giáo cần nêu cao tinh thần cảnh giác “không để các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo mê tín dị đoan, trục lợi, gây bức xúc trong xã hội, chia rẽ nhân dân, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo.

Nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng chống phá ta về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, cản trở Việt Nam trong hội nhập và hợp tác quốc tế.

Đâu đó vẫn còn tình trạng lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, gây phức tạp về an ninh, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.”

Bình luận về phát biểu này của thủ tướng Phúc, một chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo từ trong nước không muốn nêu tên nói:

“Phát biểu này thể hiện chính sách thống nhất về tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Từ sau năm 1975 đến nay, họ vẫn thường đồng nhất tôn giáo và chính trị.

Các hoạt động tôn giáo đòi hỏi sự liên kết các cá nhân với nhau. Những người này phải chịu sự chèn ép của chính quyền trong rất nhiều năm về nhiều vấn đề như đất đai, tự do tôn giáo và kỳ thị chủng tộc… điển hình như là cộng đồng người Thượng ở Tây Nguyên.

Vì bị chèn ép nên họ thường có xu hướng liên kết lại với nhau. Từ việc người dân liên kết lại với nhau thì Chính quyền lại cho rằng những hoạt động tôn giáo sẽ dễ bị lợi dụng bởi những thế lực thù địch.

Nên tôi nghĩ phát biểu lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền chỉ là một cái vỏ bọc cho những sự chèn ép của chính quyền đối với các tôn giáo và các chính sách đàn áp của họ trong suốt nhiều năm nay mà thôi.”

Hàng trăm người Thượng theo đạo Tin Lành ở Tây Nguyên đã phải trốn chạy sang 2 nước Thái Lan và Campuchia để xin tị nạn trong những năm vừa qua để tránh việc bị chính quyền đàn áp, yêu cầu bỏ đạo. Chính phủ Việt Nam phủ nhận điều này và cho hay chỉ có những cá nhân vi phạm pháp luật bị xử lý.

Hoà thượng Thích Không Tánh, vị trụ trì chùa Liên Trì bị phá hủy và không thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, cũng trình bày về quan điểm của giới lãnh đạo đảng cộng sản và chính phủ Hà Nội đối với tôn giáo:

“Từ trước giờ những công chức lãnh đạo của nhà nước này lúc nào cũng nói rằng tôn giáo bị lợi dụng để tuyên truyền chống phá nhà nước, nhưng thực ra chính nhà nước này mới lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền chính trị cho chế độ.

Tôn giáo bị chế độ nô lệ hóa, biến thành một phương tiện chính trị trong các vấn đề ban giao quốc tế,” Hòa thượng Thích Không Tánh nói qua điện thoại từ Sài Gòn.

Chùa Liên Trì thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có từ trước năm 1975 ở Thủ Thiêm do Hòa Thượng Không Tánh trụ trì đã bị chính quyền Quận 2 cưỡng chế, giải tỏa vào tháng 9 năm 2016. Vị trụ trì đã không đồng ý với phương án đền bù của cơ quan chức năng thành phố Hồ Chí Minh.

Việt Nam vẫn mạnh tay đàn áp tôn giáo trong năm 2019

Chuyên gia nghiên cứu tôn giáo không muốn nêu tên tiết lộ rằng, ông đã tiếp xúc, phỏng vấn rất nhiều nạn nhân tôn giáo, đặc biệt là cộng đồng người Thượng ở Tây Nguyên.

Đồng thời nghiên cứu lại các báo cáo của tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch) trong những năm gần đầy thì chuyên gia này nhận thấy rằng việc đàn áp tự do tôn giáo đối với người Thượng đã mang tính hệ thống. Ông giải thích:

“Tình trạng đàn áp cứ lặp đi lặp lại nhiều lần, trong những năm 1990, những năm 2000 và bây giờ đang lặp y như vậy. Các tín đồ Tin Lành bị bắt bớ vẫn kéo dài cho đến nay.

Những người vượt biên sau các cuộc biểu tình những năm 2000 và những người vượt biên mới đây ở Tây Nguyên, họ vẫn kể cùng một câu chuyện, như họ bị bắt bớ, bị giám sát, theo dõi và lục soát nhà cửa.

Về tình hình tự do tôn giáo hiện nay, nếu chính quyền cứ tiếp tục chính sách đàn áp tôn giáo như thế này thì chẳng khác nào là ‘thêm dầu vào lửa’ vì đang có nhiều tôn giáo chứa đầy phẫn nộ về các chính sách khắc nghiệt của chính quyền.”

Chánh trị sự Cao Đài Hứa Phi cho biết một thực tế là các chức sắc thuộc các tôn giáo độc lập, không chịu sự kiểm soát của chính quyền lúc nào cũng bị đàn áp, theo dõi sát sao:

“Bên đạo Cao Đài chơn truyền của chúng tôi mà tôi là trưởng ban đại diện vốn hàng ngày hàng giờ lúc nào cũng công an mật vụ đi theo sau. Ngay cả hiện tại nhà tôi cũng đang công an bám sát liên tục.

Không chỉ riêng đạo Cao Đài mà tất cả những những tôn giáo nằm trong Hội đồng Liên Tôn như Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Công Giáo thì ở Vườn rau Lộc Hưng cũng bị san bằng, bên Mục sư Tin Lành Nguyễn Hoàng Hoa lúc nào cũng bị canh gác.”

Mạng báo Tuổi Trẻ online hôm 10/8 đưa tin về buổi gặp mặt, cho biết Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mong muốn các tôn giáo ở Việt Nam cùng đoàn kết, hợp tác dưới sự lãnh đạo của đảng  Cộng sản và quản lý của Nhà nước. Ông Phúc khẳng định:

"Có thể nói không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo, tín đồ tôn giáo lại sống bình đẳng như ở Việt Nam chúng ta. Một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo.”

Hồi cuối tháng 4 năm nay, phần báo cáo về Việt Nam tại buổi công bố phúc trình thường niên của Ủy Hội Quốc Tế Mỹ Về Tự Do Tôn Giáo Thế Giới (USCIRF) tiếp tục đánh giá Việt Nam vẫn là một đất nước thiếu tự do tôn giáo.

Chi phái Cao Đài 1997, hội Cờ đỏ, tình trạng vô quốc gia của người Tin Lành Tây Nguyên và H’Mong, tù nhân lương tâm cùng với việc chính quyền đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa là những vấn đề lớn tại Việt Nam bị USCIRF nêu ra.

Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng trong một tuyên bố sau đó đã phản bác phúc trình của USCIRF và cho rằng “Báo cáo của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ ghi nhận những thành tựu và tiến triển trong công tác bảo đảm và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, nhưng đáng tiếc trong báo cáo vẫn còn một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam.”


RFA