13 tháng 8, 2019

Dương Danh Huy - Biển Đông: 'Quá rụt rè trong việc kiện TQ, VN đang mất lợi thế'

Đăng bởi: Kiên Phạm on Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019 | 7.8.19



Hình minh họa
"Tránh sao khỏi tai họa về sau"
Từ tháng 5/2019 đến tháng 8/2019, với một sự leo thang lấn lướt kép, Trung Quốc vừa điều tàu cảnh sát biển Hải Cảnh 35111 uy hiếp các tàu tiếp tế giàn khoan hoạt động tại mỏ Lan Đỏ trong Lô 06-01, vừa điều tàu Hải Dương Địa Chất 8, với một đội tàu hộ tống hùng hậu đến khảo sát các lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157 trên một diện tích 31.000 km² trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.

Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) không cho phép đơn phương khảo sát tài nguyên hay nghiên cứu khoa học biển trong EEZ của nước khác.

Việc báo chí nhấn mạnh tên "Bãi Tư Chính" đã không thể hiện hết mức độ của sự xâm lấn mới này. Thật ra, mỏ Lan Đỏ nằm trong bồn Nam Côn Sơn, gần bờ hơn Bãi Tư Chính, cạnh mỏ Lan Tây, vốn là nguồn cung cấp 30% khí đốt của Việt Nam từ năm 2003. Và thật ra sáu trong tám lô bị đội tàu Hải Dương Địa Chất 8 vi phạm, các lô 130, 131, 132, 154, 155 và 156 đều nằm phía bắc Bãi Tư Chính, với lô 130 chỉ cách đất liền Việt Nam khoảng 80 hải lý và đảo Phú Quý khoảng 37 hải lý.

Năm 2017 và 2018 Trung Quốc đã gây áp lực khiến Việt Nam phải ngưng Repsol hoạt động trong các lô 07-03 và 136-03 gần đó, và năm 2012, để trả đũa việc Việt Nam ban hành luật biển, Trung Quốc đã rao thầu cho 160.000 km² trong EEZ của Việt Nam, trong đó có các lô 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156 và 157, mà họ gọi là RJ03 và RJ27. Dĩ nhiên động thái mới của Trung Quốc là những bước tiến trong một quá trình có chủ đích và sẽ không phải là những bước cuối cùng.

Ngày xưa, Trần Hưng Đạo thấy "sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ; ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau", làm ông "thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm."

Ngày nay, Việt Nam lại đứng trước tình trạng "hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau" và Bắc Kinh lại uốn tấc lưỡi bảo Việt Nam phải "ứng xử cho đúng", "tôn trọng chủ quyền Trung Quốc" và "đừng làm phức tạp tình hình".

Chúng ta không sánh được với người hùng anh xưa, nhưng may mắn được sống trong một thế giới có những biện pháp hòa bình để bảo vệ quyền lợi của đất nước. Nếu bỏ phí cả những biện pháp đó thì "chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc... há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?"

Cơ chế giải quyết tranh chấp UNCLOS

Bài viết này sẽ cố gắng, qua các câu hỏi và trả lời, cung cấp thông tin về một trong những biện pháp văn minh nhất, bình đẳng nhất, với nó chí nhân có thể thay cường bạo như Nguyễn Trãi đã viết. Đó là kiện Trung Quốc.

1. Kiện Trung Quốc về điều gì?

Việt Nam cần kiện Trung Quốc vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

2. Nếu Trung Quốc không chấp nhận ra tòa?

UNCLOS, trong Phần XV và các Phụ lục liên quan, quy định về một cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc cho các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Cơ chế này cho phép các thành viên kiện nhau về các tranh chấp liên quan đến việc diễn giải và áp dụng Công Ước, trong đó có tranh chấp về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Với cơ chế này, dù Trung Quốc không chấp nhận ra tòa cũng không ngăn cản được vụ kiện. Trung Quốc cố ý không giải quyết tranh chấp một cách công bằng, và mục đích của cơ chế này chính là để cho các thành viên UNCLOS có thể thoát khỏi những sự cố ý tồi tệ như thế.

Tuy cơ chế này cần hội tụ đủ một số điều kiện và có một số hạn chế, thí dụ như trong Điều 297 và 298, việc vụ kiện Phi-Trung 2013-2016 được thụ lý cho thấy khả năng là nếu Việt Nam kiện và Trung Quốc không chấp nhận ra tòa thì tòa cũng sẽ thụ lý.

3. Sao không kiện Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa?

Bản chất của tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa là tranh chấp chủ quyền, không phải là diễn giải và áp dụng UNCLOS.

Cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS không bao gồm những tranh chấp mà bản chất là tranh chấp chủ quyền. Tòa án Công lý Quốc tế cũng không có thẩm quyền để xử tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa cho đến khi mọi bên trong tranh chấp đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa bằng một trong những hình thức trong Điều 36 và 37 của Quy chế của Tòa, và hiện nay điều kiện đó chưa được đáp ứng.

4. Tòa nào sẽ xử?

Điều 287 của UNCLOS cho phép các bên trong tranh chấp tuyên bố chọn phương tiện phân xử, thí dụ như Tòa án Công lý Quốc tế hay Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển (ITLOS), nhưng phương cách mặc định là một Hội đồng Trọng tài (HĐTT) lâm-cấp thời (ad hoc) được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS.

Hội đồng bao gồm năm trọng tài: mỗi bên được chọn một và các bên cùng nhau chọn số còn lại. Nếu không đủ năm trọng tài vì các bên không đồng ý với nhau, hay có bên không chọn, thì Chủ tịch Tòa Trọng tài Quốc tế về Luật Biển sẽ chọn. Chính một HĐTT như thế đã phân xử vụ kiện Phi-Trung Philippines chọn một trọng tài, nhưng Trung Quốc không tham gia, và Chủ tịch ITLOS Shunji Yanai chọn bốn trọng tài còn lại.

5. Hội đồng Trọng tài không phải là Tòa án Công lý Quốc tế, phán quyết của họ có ý nghĩa gì không?

Phán quyết của HĐTT được thiết lập theo Phụ lục VII của UNCLOS hoàn toàn có tính ràng buộc giữa các quốc gia trong vụ kiện, đối với các quốc gia này thì không khác gì Tòa án Công lý Quốc tế đã xử. Thí dụ, phán quyết 2016 có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc, dù Trung Quốc không công nhận.

Tuy nhiên, phán quyết đó không có tính ràng buộc giữa các quốc gia đó và các bên thứ ba.

6. Phán quyết 2016 đã bác bỏ Đường Chữ U rồi, kiện nữa làm gì?

Phán quyết đó chỉ có tính ràng buộc giữa Philippines và Trung Quốc. Nếu Việt Nam muốn có một phán quyết có tính ràng buộc giữa mình và Trung Quốc, Việt Nam phải kiện Trung Quốc.

Lợi ích và khả năng thắng

7. Kiện có ích gì khi Trung Quốc sẽ không tuân thủ?

Chắc chắn Trung Quốc sẽ không tự nguyện tuân thủ phán quyết, cũng như họ đã không tuân thủ phán quyết 2016 về vụ kiện Phi-Trung.

Nhưng một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, sẽ vô cùng hữu ích trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới. Các nước khác, đặc biệt là Mỹ, có thể ủng hộ Việt Nam một cách danh chính ngôn thuận, không thể bị cho là thiên vị một bên trong tranh chấp và sự ủng hộ của họ sẽ có nhiều trọng lượng hơn.

Trung Quốc sẽ không thể ngụy biện rằng họ đang giải quyết và quản lý tranh chấp với các nước nhỏ một cách tốt đẹp, các nước ngoài khu vực không nên xen vào. Các nước khác có thể lên tiếng bảo vệ các công ty dầu khí của họ khi các công ty này làm việc với Việt Nam, Trung Quốc không thể yêu cầu họ rút ra khỏi "vùng tranh chấp".

Nếu trong tương lai Việt Nam phải đưa tranh chấp ra LHQ, vì chắc chắn là Trung Quốc sẽ leo thang lấn lướt, nếu có trong tay một phán quyết xác nhận Việt Nam đúng, Trung Quốc sai, Việt Nam sẽ được nhiều phiếu ủng hộ hơn.

Ngoài ra, phán quyết của HĐTT UNCLOS sẽ xứng đáng với chính nghĩa của Việt Nam hơn là cử người phát ngôn BNG, thậm chí cử ngoại trưởng, ra lặn ngụp trong cù nhầy với các tương nhiệm Trung Quốc, trong khi Bắc Kinh càng ngày càng lấn tới.

Trung Quốc khảo sát và uy hiếp bên trong EEZ 200 hải lý của Việt Nam
8. Lập luận của Việt Nam sẽ là gì?

Lập luận của Việt Nam có thể là:
  • Các lô 05, 06, 07, 130, 131, 132, 133, 154, 155, 156, 157 và một phần của bãi Tư Chính nằm trong EEZ tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.
  • Phần còn lại của bãi Tư Chính nằm trong thềm lục địa tính từ lãnh thổ không bị tranh chấp của Việt Nam.
  • Các khu vực này nằm dưới mặt nước, do đó không nước nào có thể tuyên bố chủ quyền đối với chúng. Bất cứ nước nào, tối đa cũng chỉ có các loại quyền chủ quyền và quyền tài phán (khác với chủ quyền) dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển và UNCLOS.
  • Các khu vực này không thể nằm trong EEZ hay thềm lục địa của bất cứ đảo nào đang bị tranh chấp (tức là các đảo thuộc quần đảo Trường Sa). (Lý do là theo Điều 121(3) UNCLOS không đảo nào được hưởng quy chế vùng EEZ hay thềm lục địa, như HĐTT 2016 đã khẳng định).
  • Trung Quốc không thể có quyền lịch sử đối với vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Việt Nam. (Lưu ý HĐTT 2016 đã khẳng định rằngTrung Quốc vừa không hề có quyền lịch sử đối với vùng biển và đáy biển bên ngoài lãnh hải 12 hải lý, vừa không thể bắt cá hai tay, một mặt thì đòi tự do tiền-UNCLOS trong việc họ khai thác bên trong EEZ của các nước khác, một mặt thì không chấp nhận tự do tự do tiền-UNCLOS của các nước khác khai thác bên trong EEZ của họ. Việc phê chuẩn UNCLOS có nghĩa phải bỏ cả hai sự tự do này).
Vì vậy các khu vực này hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. (Lưu ý đây là những quyền có hạn chế được UNCLOS quy định, khác với chủ quyền mà không nước nào có thể có).

9. Khả năng Việt Nam thắng là bao nhiêu?

Để thắng, Việt Nam phải vượt qua ba thử thách: Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền hay không (vấn đề jurisdiction), vụ kiện có thể được chấp nhận hay không (vấn đề admissibility), và các lập luận của Việt Nam có đúng hay không (vấn đề merit). Ba thử thách này dựa trên cùng các nguyên tắc trong vụ kiện Trung-Phi.

Tuy HĐTT mới không bị phán quyết 2016 bắt buộc phải xử Việt Nam thắng, khả năng là Việt Nam cũng sẽ thắng.

Thử thách thứ nhất tương đương với trong vụ kiện Trung-Phi, và khả năng là HĐTT mới cũng sẽ kết luận rằng họ có thẩm quyền.

Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể cho rằng cả hai nước đều đòi chủ quyền trên quần đảo Trường Sa như một đơn vị bao gồm các thực thể và các vùng nước, do đó tranh chấp là tranh chấp chủ quyền và nằm ngoài thẩm quyền của HĐTT. Nhưng yêu sách của bất cứ nước nào cũng phải dựa trên nguyên tắc đất thống trị biển, và thêm vào đó các vùng biển trong vụ kiện nằm quá xa quần đảo để bất cứ nước nào có thể đòi chủ quyền với chúng như một đơn vị với quần đảo, cho nên lập luận đó sẽ bị bác bỏ.

Trong thử thách thứ nhì, Việt Nam có một điểm mà Philippines không có, đó là bản "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa" ngày 11/10/2011, trong đó có câu "Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị".

Các luật gia ủng hộ Trung Quốc có thể khai thác câu này, diễn giải rằng nó đã loại cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS. Tuy nhiên, lập luận của HĐTT của vụ kiện Phi-Trung trong phán quyết về thẩm quyền, đoạn 222-225, tuy là về DOC, cho thấy khả năng là diễn giải đó cũng sẽ bị HĐTT mới bác bỏ.

Thử thách thứ ba có hai phần: bác bỏ yêu sách "quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa", và chứng minh "không có EEZ có thể thuộc Trường Sa phủ trùm lên các khu vực trong vụ kiện."

HĐTT 2016 đã bác bỏ yêu sách "quyền lịch sử đối với EEZ và thềm lục địa" một cách vững chắc, và khả năng là HĐTT mới sẽ công nhận lập luận đó.

Điểm "không đảo nào trong quần đảo Trường Sa có EEZ" là điểm có thể bị tranh cãi nhiều nhất, và khó có thể chắc chắn 100% rằng HĐTT mới cũng sẽ công nhận điểm đó.

May mắn cho Việt Nam, giả sử như HĐTT mới không công nhận điểm đó đi nữa, ba đảo lớn nhất, Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc đều nằm xa các khu vực trong vụ kiện.

Giả sử các đảo này được cho là có EEZ đi nữa, EEZ tối đa của chúng chỉ trùm phủ lên một diện tích nhỏ của các khu vực trong vụ kiện. Nếu các luật gia ủng hộ Trung Quốc đưa ra lập luận kiểu quần đảo Trường Sa và vùng nước lân cận là một đơn vị chủ quyền thì cũng vô ích, vì nếu đã là "vùng nước lân cận" thì không thể lan ra đến các khu vực trong vụ kiện. Do đó, khả năng Việt Nam thắng kiện còn lớn hơn khả năng Philippines thắng khi họ đưa Trung Quốc ra tòa.

Rụt rè và lỡ cơ hội

10. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS thì sao?

Đây là một câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Nếu Trung Quốc rút ra khỏi UNCLOS trước khi Việt Nam nộp đơn kiện, HĐTT sẽ không còn thẩm quyền để xử, Việt Nam sẽ không còn cơ chế để đưa Trung Quốc ra Tòa.

Năm 2006 Trung Quốc đã vận dụng Điều 298 cho phép họ tuyên bố rút ra khỏi một phần của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của UNCLOS, phần liên quan đến phân định ranh giới biển. Với tuyên bố đó, Trung Quốc đã đi trước một bước và làm cho Việt Nam mất đi cửa ngõ rộng nhất để kiện những bước kế tới của họ: đuổi BP năm 2007, đuổi Exxon Mobil năm 2008, phản đối đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa năm 2009, và hàng loạt những hành động lấn lướt khác.

Nếu Việt Nam để cho Trung Quốc đi bước trước lần nữa, Việt Nam sẽ mất đi cửa ngõ duy nhất còn lại để kiện họ. Có thể Trung Quốc sẽ đi bước này trước khi họ bắt đầu một giai đoạn mới để tước đoạt từ Việt Nam.

TQ có ý đồ gì trong cuộc đối đầu ở Bãi Tư Chính?

11. Vậy tại sao Việt Nam không kiện?

Đây cũng là câu hỏi quan trọng cho Việt Nam. Có thể là Việt Nam quá rụt rè, không làm điều tối ưu, không tận dụng các phương tiện hòa bình để tự vệ, không có một chiến lược tổng thể và lâu dài, có thể sẽ lỡ cơ hội.

Có điều đáng lưu ý là khi Philippines còn bị lấn lướt ít hơn Việt Nam thì họ đã khởi kiện Trung Quốc rồi (năm 2013), và khi đó họ không thể biết nhiều về thắng-thua như ta biết hiện nay.

Điều thứ nhì là khi họ kiện thì Bắc Kinh đã nổi giận nhưng không trả đũa.

Điều thứ ba là mặc dù Tổng thống Duterte có chính sách thân-sợ-thua Trung Quốc, gác phán quyết sang một bên, họ có sự lựa chọn gác hay không - Việt Nam không có sự lựa chọn đó.

Điều thứ tư đáng lưu ý là khi tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Philippines thì người dân Philippines phản ứng mạnh mẽ, và Trung Quốc chỉ lấp liếm đó là tai nạn, tàu của họ định cứu các ngư dân Philippines bị nạn, nhưng do bị tám tàu cá Philippines bao vây nên phải bỏ đi - khác hẳn khi tàu Trung Quốc đâm chìm rất nhiều tàu cá Việt Nam và không mảy may đếm xỉa đến các phản ứng ngoại giao của chính phủ Việt Nam.

Dương Danh Huy 
Gửi tới BBC News Tiếng Việt từ Anh Quốc

Tỷ phú Trung Quốc lưu vong: Ngày tàn của ĐCSTQ đã cận kề

09:14, 10/08/2019

Quách Văn Quý, một tỷ phú Trung Quốc sống lưu vong ở Mỹ, hôm 21/7 đã tuyên bố trên mạng xã hội rằng Mỹ sẽ đưa ra quyết định về Trung Quốc, báo trước một kỷ nguyên mới của sự giải thể Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng như chủ nghĩa cộng sản.

Ảnh :Tỷ phú lưu vong Quách Văn Quý: Ngày tàn của ĐCSTQ đã cận kề.
Ông cũng kêu gọi thế giới hãy chú ý đến các cuộc biểu tình ở Hong Kong và nhìn lại cuộc gặp gỡ gần đây của Tổng thống Trump với những người sống sót sau các cuộc đàn áp tôn giáo từ 17 quốc gia, cũng như lời phát biểu của Phó Tổng thống Mike Pence về tự do tôn giáo tại Hội nghị cấp Bộ trưởng về Thúc Đẩy Tự do Tôn giáo hàng năm.
Vào ngày 17/7, Tổng thống Donald Trump đã gặp gỡ 27 nạn nhân sống sót qua các cuộc đàn áp tôn giáo, bao gồm bà Trương Ngọc Hoa, một học viên Pháp Luân Công đến từ Trung Quốc. Tổng thống Trump đã có một cuộc trò chuyện ngắn với bà Trương và lắng nghe bà kể về việc chồng bị bắt giam và bị đàn áp ở Trung Quốc cùng những tội ác liên quan đến việc mổ cướp nội tạng do ĐCSTQ khởi xướng. Bà Trương đã cầu xin Tổng thống Trump giúp đỡ ngăn chặn cuộc bức hại Pháp Luân Công đang diễn ra ở Trung Quốc.
📷Ông Trump bắt tay với bà Trương Ngọc Hoa tại buổi gặp gỡ. (Ảnh: The White House)
Ngay sau đó một ngày, tại Hội nghị cấp Bộ trưởng về Thúc Đẩy Tự do Tôn giáo hàng năm lần thứ 2, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence đã lên án những cuộc đàn áp tín ngưỡng của ĐCSTQ và nhận định rằng cuộc đàn áp sẽ không thể ngăn cản người dân thực hành đức tin của họ.
Ông Pence cũng khẳng định với thế giới rằng bất kể mối quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc phát triển như thế nào, người dân Mỹ sẽ vẫn luôn đồng hành cùng tất cả người dân có tín ngưỡng trên khắp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Một ngày sau khi tỷ phú Quách phát biểu trên mạng xã hội, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã đưa ra thông báo Mỹ sẽ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với một công ty dầu khí thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc là Zhuhai Zhenrong và Giám đốc điều hành Li Youmin vì đã mua dầu thô từ Iran. Công ty cũng bị cấm tham gia các giao dịch ngoại hối, điều hành ngân hàng hay bất động sản trong phạm vi quyền hạn của Mỹ.
Ngoài ra, ông Quý cũng chỉ trích mạnh mẽ các chiến thuật mà ĐCSTQ sử dụng để đàn áp các cuộc biểu tình chống luật dẫn độ ở Hong Kong. Cảnh sát từ Quảng Đông và cảnh sát đặc nhiệm từ Trung Quốc đại lục đã trà trộn vào Hong Kong trong vỏ bọc khách du lịch. Họ ngụy trang bằng những bộ quần áo đen trơn, tấn công dữ dội người biểu tình, xé biểu ngữ có các khẩu hiệu chống Cộng và những tấm biển thể hiện yêu cầu của người dân Hong Kong.
Được biết, tại Diễn đàn Davos mùa hè diễn ra ở thành phố Đại Liên thuộc tỉnh Liêu Ninh Trung Quốc hồi đầu tháng 7, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã tuyên bố Trung Quốc sẽ cởi mở, minh bạch hơn đối với đầu tư nước ngoài.
Đến ngày 20/7, Trung Quốc đã đưa ra 11 biện pháp từ phát hành trái phiếu, quản lý tài sản, bảo hiểm, chứng khoán, các quỹ tiền tệ đến hợp đồng hàng hóa giao sau. Tuy nhiên theo tỷ phú Quách Văn Quý, 11 biện pháp ĐCSTQ đưa ra nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư nước ngoài này kỳ thực chính là cái bẫy đối với Mỹ và các nước phương Tây khác, nhưng các quốc gia này vốn không dễ bị lừa.
TINH HOA

VNTB - Khủng hoảng Tập Cận Bình và bài học nào cho cá nhân quyền lực VN?

Nguyễn Hiền


(VNTB) - Tập Cận Bình vẫn là hình mẫu lý tưởng cho những cá nhân quyền lực Việt Nam hướng theo, và những quyết sách thời Tập Cận Bình được coi là “đá dò đường” cho chính thể Việt Nam hiện tại.



Thế nhưng, Trung Quốc đang đối diện với khủng hoảng, trước con cáo già mang tên Donald Trump, những tổn hại từ cuộc chiến tranh thương mại Trung – Mỹ có vẻ đang khiến quyền lực của Tập Cận Bình suy yếu, và Trung Quốc không hề giàu mạnh như cách nhiều Việt Nam mường tượng.

Trong một bài viết ngày 8.8 của Nikkei, đã chỉ ra rằng, việc Bắc Kinh hạ giá đồng nhân dân tệ xuống dưới mức 7 USD sau 11 năm đã tiếp tục nhận sự chỉ trích từ Washington.

Tổng thống Donald Trump và Bộ Tài Chính Mỹ ngay lập tức gọi đó là “thao túng tiền tệ”. Và mục thao túng tiền tệ là nội dung quan trọng trong cuộc chiến tranh thương mại, nền của cuộc chiến tranh tiền tệ sắp tới (nếu nó diễn ra).

Chỉ số Shanghai Composite Index đã giảm xuống dưới 2.900, mức được cho là tuyến phòng thủ của chính quyền Trung Quốc.

Điều thú vị, Nikkei đã lấy nhận định từ trong Trung Quốc, khi cho rằng, sự hỗn loạn của Trung Quốc đến từ Trump, nhưng thực chất, hiện tượng hỗn loạn hiện nay lại liên quan đến chính sách kinh tế của chính Bắc Kinh.

“Những gì đang xảy ra bây giờ dựa trên sự giằng xé trong chính trị Trung Quốc đã tiếp diễn trong một năm rưỡi qua.”

Mấu chốt của sự tan vỡ các cuộc gặp hay đàm phán thương mại Trung – Mỹ, kể cả việc hai quốc gia hầu như chưa có ý định gặp nhau tại Mỹ vào tháng 9 tới, liên quan trực tiếp đến phiên họp toàn thể thứ tư của Ủy ban Trung ương XIX của ĐCSTQ, một cuộc họp chính đặt ra chính sách năm năm cơ bản về quản lý kinh tế, đã bị trì hoãn gần một năm. Và trong hoàn cảnh như vậy, “khó để Trung Quốc đưa cuộc đàm phán với Mỹ đi đến kết luận”. Điều này đồng nghĩa, Trung Quốc đã thiếu vắng chính sách cơ bản về quản lý kinh tế trong gần một năm qua. Kể cả khi đến thăm di tích lịch sử Vu Đô (1934-1936) tại tỉnh Giang Tây, “tháng ba dài mới” cho cuộc chiến với Mỹ mà Tập Cận Bình đưa ra chỉ là một hành động khuất phục để che giấu thực tế rằng Trung Quốc không có chiến lược kinh tế dài hạn đối với Mỹ.

Lý do chính cho sự chậm trễ của một kế hoạch kinh tế dài hạn đối với Mỹ của Trung Quốc lại xuất phát từ một thực tế, Tập Cận Bình đã ưu tiên củng cố sức mạnh chính trị của ông ta qua các phiên họp thông qua sửa đổi Hiến pháp, dẫn đến bỏ giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch, hơn là chú trọng cho một sự phát triển kinh tế. Hay đúng hơn, xây dựng lực lượng chính trị bè phái chính là nòng cốt của Tập Cận Bình trong thời gian qua. Thậm chí, tính chất “tham ưu quyền lực” của Tập Cận Bình còn thể hiện qua việc, một phiên họp toàn thể thứ tư của ĐCSTQ đã bị trì hoãn một phần để giữ cho Thủ tướng Lý Khắc Cường, một đối thủ của Tập Cận Bình, không đóng vai trò lớn hơn trong việc quản lý nền kinh tế của Trung Quốc.

Chính từ yếu tố “trọng chính – khinh kinh” đã tạo ra sự chậm trễ trong chính sách của Bắc Kinh, cản trở khả năng đàm phán với Mỹ, và nếu Tập Cận Bình tiếp tục chiều hướng như trên, thì “Tập Chủ tịch” trọn đời sẽ tiếp tục gây thiệt hại thực sự cho nền kinh tế Trung Quốc.

Bài học nào cho Việt Nam?

Cách Tập Cận Bình vun vén cho quyền lực cá nhân cũng được không ít cá nhân quyền lực Việt Nam học hỏi theo, trong đó nếu loại trừ ông Chủ tịch nước – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra sẽ là một thiếu sót.

Cách ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố, “Về mặt chính trị, suy thoái còn nguy hiểm hơn cả kinh tế” cho thấy sự nhấn mạnh của ông về vấn đề chính trị, ưu tiên chính trị hơn là một sự lưu tâm đáng kể cho kinh tế, mặc dù lúc phát ngôn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khó khăn.

Thời ông Nguyễn Phú Trọng, đang thử nghiệm trò chơi quyền lực mới, trò chơi mà đến nay, cả thể chế vẫn dựa vào một ông lão ở độ 70.

Sự giàu mạnh sẽ được hoạch định bằng cách nào, khi mà nền chính trị chưa có gì chắc chắn về kiểm soát quyền lực vẫn đang tồn tại. Nơi mà những  kẻ áp bức vĩ đại hoạt động như một hệ thống chính trị độc đoán, tham nhũng và tàn bạo. Những người cộng sản cao cấp của Việt Nam có thể tự hào vì những gì mà chiến dịch đốt lò mang lại, nhưng sâu thẳm họ biết nhà nước công an trị của họ rất dễ vỡ về mặt chính trị, đó là lý do tại sao Hà Nội tìm mọi cách học hỏi Trung Quốc trong phương cách trừng trị công dân, khi họ thách thức quyền lực trong nước của ĐCSVN.

Chính trị Việt Nam trở thành một chính trị chỉ huy, mặc dù thừa nhận sự lưu tâm đáng kể của ĐCSVN đối với kinh tế, so với Tập Cận Bình, nhưng chừng đó là chưa đủ để đảm bảo Việt Nam tránh được một cuộc khủng hoảng, suy thoái về kinh tế - chính trị, khi Bắc Kinh suy thoái về chính trị - kinh tế.

Việt Nam không có hệ thống pháp lý độc lập, nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên nguồn tài nguyên và các ưu đãi thuế quan trong ký kết các hiệp định, và trên cả, một Chính phủ độc tôn gồng gánh con thuyền kinh tế - xã hội. Hoàn toàn thiếu vắng bóng dáng của xã hội dân sự, pháp quyền, và một sự chủ động kiểm soát quyền lực.

Thế nhưng, giống như Trung Quốc, cái thời kỳ “ổn định chính trị, phát triển kinh tế” sẽ chẳng thể bền lâu. Thực tế, chế độ độc tài của Trung Quốc đã ca ngợi sức mạnh kinh tế của nó như là dấu hiệu cho thấy sự vượt trội của chủ nghĩa độc đoán với các đặc điểm của Trung Quốc. Và rằng mô hình cai trị độc tài của ĐCSTQ hoạt động thành công đã chứng minh các thực tiễn của nó. Tuy nhiên, cái thời tăng trưởng cao, công xưởng thế giới đã qua đi, trong khi những khó khăn vô cùng lớn về kinh tế, năm 2018 và 2019, và các cuộc biểu tình đã và đang tiếp tục thách thức tính chính danh của Nhà nước Bắc Kinh. Và giờ đây, sự đình trệ kinh tế có thể phơi bày Trung Quốc như là một Nhà nước của sự kiêu ngạo, độc đoán. Tạo cộng hưởng do sụp đổ cả cơ chế chính trị.

Hình ảnh của Trung Quốc đang phản chiếu về Việt Nam.

Việt Nam, vẫn đang hấp thu nguồn đầu tư từ các hiệp định, nhưng Việt Nam phản ánh một nền kinh tế Trung Quốc trước năm 2018. Và cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang được Mỹ lưu tâm liên quan đến “vấn đề kinh tế - thương mại”, nội lực kinh tế của Việt Nam cũng không bền vững và có phần giống như Trung Quốc trong sử dụng tăng trưởng GDP để làm nền và biểu trưng cho sự phát triển. Trong khi chính trị ngày càng được siết chặt hơn.

Trung Quốc và sự lúng túng lẫn kiệt quệ trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ, liệu có cho những nhà lý luận hàng đầu của ĐCSVN, lại là những người miền Bắc bài học đắt giá nào rút ra không? Chỉ biết rằng, nếu ông Tập Cận Bình đang phải đối mặt với một nền kinh tế chậm lại, sự chỉ trích nhân quyền của phương Tây, và sự đe dọa quyền lực cá nhân, thì ông Trọng hay những người kế thừa quan điểm, phương thức xử lý các vấn đề của quốc gia qua đảng cũng sẽ đối mặt với điều đó tương tự.

Thời gian luôn là liều thuốc đắng, và bài học luôn cần được rút ra sớm hơn.

Đảng CSVN đã làm được gì cho dân?



Diễm Thi, RFA

2019-08-12


Một người đạp xích lô đi qua biểu tượng búa - liềm ở Hà Nội.
 AFP


Đảng Cộng sản Việt Nam phản ứng ngày càng yếu ớt trước những hành động xâm lấn ngày càng hung hăng của Trung Quốc, mà điển hình là vụ Bãi Tư Chính vừa qua. Người dân trong nước nghĩ gì về vai trò của Đảng, họ hồ nghi về việc Đảng của dân và vì dân?
Tính “chính danh” của Đảng Cộng Sản
Đảng cộng sản (ĐCS) Việt Nam là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam được đảm bảo bằng Điều 4 Hiến pháp năm 1980, khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992 sửa đổi trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất” sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ. Việc bỏ đi từ “duy nhất” không làm nhẹ đi sự lãnh đạo độc quyền của ĐCS ở một nước mà khái niệm đa đảng không được chấp nhận. Phó Giáo sư - Tiến sĩ Mạc Văn Trang, một đảng viên đã từ bỏ đảng từng chia sẻ với RFA:
Sự phát triển của xã hội loài người thì như chúng ta đều biết, nước nào đa nguyên, có đảng đối lập, tam quyền phân lập, thì họ sẽ phát triển nhanh và bền vững, dân trí, nhân quyền, nhân cách con người ngày càng được nâng cao. Ngược lại các nước độc tài toàn trị về hình thức ngắn hạn thì thấy có vẻ ổn định, nhưng về lâu dài thì không bền vng được. Thứ hai là không có tự do thì làm gì có sáng tạo. Không được tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo, tự do biểu đạt thì xã hội không thể phát triển được.”
Chủ tịch Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, người tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản Việt Nam năm 2013 - ông Phạm Chí Dũng - ghi nhận về “tính chính danh” của ĐCS:
Ghi nhận duy nhất về tính chính danh của chính thể độc tài ở Việt Nam trong cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính lần 3 chỉ là động thái của Bộ Ngoại giao Việt Nam: trong một lần quá hiếm muộn của lịch sử quan hệ gấu ó Việt - Trung, cơ quan cấp bộ này đã hai lần liên tiếp gửi công hàm phản đối Trung Quốc về vụ tàu Hải Dương 8 xâm nhập Bãi Tư Chính và vụ Trung Quốc tổ chức tập trận ở Hoàng Sa.
Nhưng những đặc trưng còn lại của đảng CSVN đều thiếu hẳn tính ‘công chính’.
Theo ông Dũng, với những phản ứng yếu ớt như thế thì tính nhân danh bảo vệ quyền lợi cho người dân của chính thể độc đảng ở Việt Nam đã được “tôn vinh trọn vẹn” đến mức nếu không phải là hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của hải quân Mỹ tiến thẳng vào Biển Đông vào ngày 6/8 thì còn lâu, chứ không phải chỉ một ngày sau đó - 7/8, Trung Quốc mới chịu rút tàu Hải Dương 8 ra khỏi Bãi Tư Chính.
Còn với Luật sư Lê Công Định, khi phân tích về vai trò của ĐCS, ông nói tính chính danh của một chế độ chính trị phải được toàn dân bầu cử một cách tự do và dân chủ. Chế độ cộng sản dù ở đâu trên thế giới cũng không thể có tính chính danh vì toàn dân không ai bầu ra. Ông nói tiếp:
“Do đó nó phải có hai biện pháp có thể cứu vãn tính “chính danh”. Thứ nhất nó phải mị dân; tuyên truyền; dối trá để nó lừa người dân mặc nhiên công nhận tính “chính danh” của nó.
Chuyện thứ hai là nó phải huy động sức mạnh để làm sao bảo vệ chủ quyền quốc gia và nó chứng minh rằng cái thể chế này tuy không được toàn dân bầu một cách tự do thật nhưng nó vẫn có khả năng duy trì chủ quyền quốc gia.”
ĐCS đã thể hiện đúng vai trò của mình
Kể từ ngày có đảng, 89 năm qua đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành độc lập, và đưa một chủ nghĩa tiến bộ là chủ nghĩa cộng sản, đến với dân tộc Việt Nam.
Thực tế đảng đã làm được gì cho dân? Nhà báo Phạm Chí Dũng đưa nhận xét của mình:
“Chính thể độc tài Việt Nam vẫn còn vài đặc thù rất ‘chính danh’ khác: sẵn sàng đàn áp bất cứ tiếng nói bất đồng và người dân nào dám lên tiếng và xuống đường biểu thị tinh thần phản kháng ‘đảng anh’ Trung Quốc, như bao lần đàn áp dã man các cuộc biểu tình của người dân chống Trung Cộng kể từ năm 2011 đến tận giờ đây.”
Tiến sĩ bác sĩ Đinh Đức Long, nguyên trung tá quân đội nhân dân Việt Nam, người tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản Việt Nam vào năm 2014 nói với RFA:
“Vụ Bãi Tư Chính vừa rồi thì trên thực tế họ có hành động nhưng điều đáng nói là giấu diếm nhân dân. Cái đó không thể được.
Anh (Đảng-pv) phải cho nhân dân biết ngay vì đất nước này đâu phải của mấy triệu đảng viên mà đất này của dân tộc Việt Nam, của người dân Việt Nam trong và ngoài nước. Đảng phải thông tin cho toàn dân và cho thế giới biết một cách công khai. Cái thứ hai là đảng phải thu xếp kiện Trung Quốc càng sớm càng tốt để khẳng định chủ quyền Việt Nam.”
Trong một hội nghị đại đoàn kết dân tộc, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng tuyên bố mỗi Đảng viên phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân để hoàn thành tốt nghiệm vụ. Lãnh đạo TP HCM Nguyễn Thành Phong cũng từng nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”…
Có thể thấy, lãnh đạo đất nước này luôn thể hiện tinh thần “vì dân” trong các khẩu hiệu trên các diễn đàn, hội nghị. Nhưng trên thực tế, Luật sư Lê Công Định cho RFA biết:
“Họ cũng bày ra những trò hội thảo để nghe giới nhân sĩ trí thức góp ý, nhưng họ chỉ nghe lời nào mà nó thuận tai, còn lời nào nghịch tai thì họ sẽ lên án, họ dùng truyền thông họ trù dập người đó. Họ bêu rếu là thế lực thù địch…
Đảng cộng sản Việt Nam họ chỉ quan tâm đến lợi ích của họ và người trong đảng cũng chỉ quan tâm đến phe phái, nhóm và cá nhân của họ có lợi ích gì trong một hành động chính trị nào đó. Họ hoàn toàn không cần lắng nghe những ý kiến đóng góp cũng như là phản biện một cách ngay thẳng, trung thực.”
Ông kết luận trong vụ Bãi Tư Chính vừa rồi nói riêng và trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung thì chế độ này hoàn toàn đánh mất tính “Đảng của dân và vì dân”. Nó không thể hiện cái khả năng nào có thể tự bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự khiêu khích và xâm lấn ngày càng nhiều của Trung Quốc.
Cũng liên quan đến căng thẳng tại Bãi Tư Chính, trong thời gian Trung Quốc điều hàng chục tàu hải cảnh cùng dân binh vào vùng nước chủ quyền Việt Nam, ngư dân ở nhiều nơi đã nhận được những lá cờ tổ quốc khuyến khích họ bám biển. Ông Phạm Chí Dũng nói về việc này:
Trong bầu không khí rũ rượi của câu vè ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ vẫn dồn nén châm chích đến buốt tim, giới quan chức mặt lầy mỡ tổ chức phát hàng chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho những ngư dân xơ xác và thiểu não vì mất biển, mất kế mưu sinh và mất cả lòng tin vào lực lượng ‘quân với dân như cá với nước’, mưu biến những ngư dân này trở thành lá chắn sống lao ra biển đối đầu với tàu vũ trang của địch.
Trong một lần trò chuyện với RFA về mối liên quan giữa phát triển đất nước và sự tồn tại của đảng cộng sản, Giáo sư Nguyễn Đình Cống đưa ra lời khuyên, nếu muốn phát triển phải thay đổi từ một đảng cách mạng thành một đảng chính trị thì mới tồn tại được, chứ như hiện nay không những đảng sẽ đem tai họa cho đất nước mà sự tồn tại của đảng cũng khó bền vững.

17 tháng 7, 2019

MẤY NGUY CƠ LỚN VIỆT NAM PHẢI ĐỐI PHÓ

Nguyễn Quang Dy 


Theo Stratfor (3/7/2019) Việt Nam nằm trong tầm ngắm (cross hairs) mà Mỹ theo dõi (watch list). Chính quyền Trump ngày càng bực mình (displeasure) với Việt Nam vì: (1) Thâm hụt thương mại xếp thứ 5 thế giới (US$ 38 tỷ/2017), tăng mạnh đầu 2019; (2) Vi phạm bản quyền (điều “Special 301”); (3) Thao túng tiền tệ (currency manipulation).
Tuy ông Trump tính khí thất thường, nhưng đã nói là làm quyết liệt. Quan hệ Mỹ-Việt đang phát triển tốt đẹp (nhất là về hợp tác chiến lược) nên Mỹ có thể nhân nhượng Việt Nam như “đối tác thân cận”. Nhưng Trump vẫn sẵn sàng trừng phạt Việt Nam (hay các đồng minh khác) nếu tiếp tay cho Trung Quốc, trung chuyển hàng hóa nhằm trốn thuế của Mỹ.
Việt Nam đã mua nhiều máy bay Boeing (trị giá US$ 20 tỷ) làm “Trump vui”. Việt Nam đang tăng cường giám sát và xử lý các doanh nghiệp gian lận thương mại để tái xuất và trốn thuế (như công ty điện tử Asanzo), nhưng vẫn chưa đủ. Mỹ muốn Việt Nam nhập thêm nhiều hàng hóa của Mỹ (như năng lượng và vũ khí) để giảm thiểu thâm hụt thương mại.
Thứ hai, nguy cơ mất chủ quyền biển đảo và tài nguyên tại Biển Đông (như dầu khí và hải sản) đang đe dọa không gian sinh tồn của Việt Nam. Nếu để mất hai nguồn thu lớn đó cho ngân sách, thì rất nguy hiểm cho an ninh năng lượng và “chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển” (nghị quyết 36-NQ/TW). Vì vậy, đây là nguy cơ mà Việt Nam phải hóa giải.
Trong bối cảnh Trung Quốc áp đặt “đường chín đoạn”, bất chấp phán quyết PCA, tiếp tục quân sự hóa các đảo họ chiếm giữ và bồi đắp tại Hoàng Sa và Trường Sa, để biến Biển Đông thành cái ao của họ, thì hợp tác chiến lược với Mỹ tại Biển Đông theo tầm nhìn Indo-Pacific là thiết thực để bảo vệ chủ quyền và triển khai dự án “Cá Voi Xanh”. Dự án này không chỉ có ý nghĩa lớn về kinh tế (trước mắt) mà còn có có ý nghĩa chiến lược (lâu dài).
Chuyến thăm lịch sử của tàu sân bay USS Carl Vinson đến Đà Nẵng (5/3/2018) là một tín hiệu rõ ràng, nhưng chưa đủ răn đe Trung Quốc. Chuyến thăm thứ hai của một tàu sân bay Mỹ đến Cam Ranh là cần thiết (dù chỉ tượng trưng). Gần đây, Mỹ đang tăng cường các biện pháp đối phó với “hạm đội dân quân” của Trung Quốc đang tung hoành trên Biển Đông như “vùng xám” (grey area) mà họ có ưu thế hơn Mỹ, để bắt nạt các nước khu vực.
Thứ ba, đồng bằng Nam Bộ đang bị đe dọa bởi thiên tai và nhân họa. Với dân số trên 20 triệu người, đó là tiêu điểm của “Tiểu vùng Mekong”. Trên thượng nguồn, Trung Quốc đã khai thác tối đa dòng Lan Cang (với 10 đập thủy điện lớn) nên dòng chảy biến đổi, làm cạn kiệt nguồn nước và phù sa. Dưới hạ nguồn, Campuchia cũng làm đập thủy điện lớn (Sesan 2), đe dọa môi trường hạ lưu tại Đồng bằng Nam Bộ, dẫn đến hạn hán và ngập mặn.
Trước nguy cơ thiên tai và nhân họa, và trước sức ép của thị trường đòi hỏi phải chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng thương mại hóa, 4 tỉnh/thành tại đồng bằng Nam Bộ Là An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, và Đồng Tháp (ABCD) đã liên kết triển khai sáng kiến “Mekong Connect” nhằm “biến nguy thành cơ”. Sáng kiến này cần được Trung ương bảo trợ và quốc tế hỗ trợ. Lâu nay ngành nông nghiệp chỉ chú trọng đến nâng cao sản lượng lúa, mà chưa quan tâm tháo gỡ những ách tắc và bất cập trong cơ cấu nông nghiệp (như “hạn điền”).
Ý tưởng về “Tiểu vùng Mekong” rất quan trọng đối với chiến lược Châu Á của Mỹ, nhưng chỉ được quan tâm hơn gần đây, trong tầm nhìn về khu vực Indo-Pacific Tự do và Rộng mở (FOIP). Dòng sông Mekong đang bị đe dọa bởi quá nhiều đập thủy điện, và Tiểu vùng Mekong có thể bị thao túng bởi Trung Quốc đang trỗi dậy. Tương lai Tiểu vùng Mekong phụ thuộc vào tầm nhìn mới về các đồng minh và đối tác Indo-Pacific (trong đó có ASEAN).
Thứ tư, cần xem xét lại các dự án lớn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và rủi ro về an ninh. Điển hình là dự án thép Formosa và cảng Vũng Áng (cho thuê 70 năm) đã gây ra thảm họa môi trường biển miền Trung, làm bất ổn xã hội và khủng hoảng lòng tin. Nếu dự án bauxite (Nhân Cơ và Tân Rai) đe dọa môi trường vì bùn đỏ có nguy cơ tràn xuống đồng bằng, thì các nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân (tại Bình Thuận) đang gây ô nhiễm không khí.
Nhưng nhờ có phản ứng của dư luận đối với Formosa, nên miền Trung thoát được dự án thép Cà Ná (dự kiến US$ 10 tỷ) mà ông chủ Hoa Sen định thuê nhà thầu Trung Quốc làm như Formosa. Câu nói “nổi tiếng” của Lê Phước Vũ “Ngu gì mà không làm thép” phản ánh tư duy “đánh quả” của các nhóm lợi ích muốn “đầu tư bằng mọi gía”, bất chấp rủi ro.
Các nhóm lợi ích thân hữu tuy rất khôn về lợi ích nhóm nhưng rất dại về lợi ích quốc gia. Vì lòng tham và tầm nhìn, họ đã tự bịt mắt trước thực tế và bịt tai trước cảnh báo về nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do sử dụng công nghệ lạc hậu. Nay những kẻ chịu trách nhiệm chính (như Võ Kim Cự) dù có hạ cánh an toàn thì Formosa vẫn như “quả bom nổ chậm”.
Thứ năm, các chủ trương mới được thúc đẩy như dự luật “Ba đặc khu” và dự án “Đường cao tốc Bắc-Nam” cũng ẩn chứa những nguy cơ lớn về an ninh. Trong khi Quốc Hội hoãn vô thời hạn việc thông qua dự luật “Ba đặc khu”. thì “Đường cao tốc Bắc-Nam” vẫn được Bộ Giao thông thúc đẩy, nhưng bị dư luận phản ứng mạnh vì “yếu tố Trung Quốc”.
Nếu “Ba đặc khu” có tính chất vùng miền thì “Đường cao tốc Bắc Nam” (cả đường bộ và đường sắt) có ý nghĩa chiến lược như huyết mạch kết nối cả nước. Vấn đề không phải là nên làm đường cao tốc Bắc-Nam hay không, mà là ai làm và làm thế nào. Nếu để Trung Quốc làm theo khuôn khổ “Vành đai Con đường” thì vướng vào “bẫy nợ”. Nếu để Mỹ làm theo khuôn khổ USIDFC thì mất lòng Trung Quốc. Vì vậy, Việt Nam nên tự làm lấy dự án này, khâu nào không làm được thì mới phải thuê thầu phụ nước ngoài (nhưng Việt Nam phải làm chủ).
Năm nay (2019) kỷ niệm 10 năm Sáng kiến Hạ lưu sông MeKong (Lower Mekong Initiative) do chính quyền Obama đề xuất để tăng cường hợp tác Tiểu vùng Mekong và nâng cao năng lực cho các nước Đông Nam Á. Tuy chính quyền Trump không chú trọng đến sáng kiến đó, nhưng gần đây, Mỹ và các đồng minh thân cận (như Nhật và Úc) đã tăng cường hỗ trợ cho các dự án hạ tầng mới tại khu vực này, trong khuôn khổ USIDFC (International Development Finance Corporation) với ngân sách ban đầu là US$ 60 tỷ (Build Act, 10/2018).
Đồng thuận quốc gia
Các nhà quản trị/điều hành và giới nghiên cứu trên thế giới (nói chung) và ở Việt Nam (nói riêng), đang chứng kiến nhiều biến động khó lường, làm người ta dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Muốn hiểu và đánh giá đúng các hiện tượng mới đang diễn ra, người Việt Nam Nam cần đổi mới tư duy (mindset change) và điều chỉnh hệ quy chiếu (paradigm shift).
Trong khi tìm cách đối phó với các thách thức cấp bách (trước mắt), Việt Nam cần chú trọng giải quyết tận gốc nguyên nhân (lâu dài). Phải đối phó được với các thách thức cấp bách thì mới có thể đột phá để tháo gỡ được các ách tắc. Nhưng nếu không giải quyết tận gốc các nguyên nhân cơ bản thì kết quả ban đầu chỉ là tạm thời và không bền vững. Những bê bối về đất đai ở Thủ Thiêm hay Đồng Tâm là những vấn đề cơ bản phải tháo gỡ sớm.
Thể chế cũ đã gây ra ách tắc và bất cập như “lỗi hệ thống”, làm vô hiệu hóa và triệt tiêu các nguồn lực của đất nước. Việt Nam có 97 triệu dân là một cái “mỏ lộ thiên” không bao giờ cạn kiệt. Nhưng muốn khai thác được cái “mỏ người” to lớn đó, Việt Nam phải biết quản trị nguồn nhân lực, bao gồm quản trị “giai cấp sáng tạo” là động lực để phát triển đất nước. Nhưng hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam vào loại thấp nhất khu vực.
Trong mấy năm qua, đứng trước các nguy cơ và thách thức nói trên, Việt Nam đã tăng cường chống tham nhũng và kiểm soát quyền lực của các nhóm lợi ích thân hữu. Nhiều quan chức cấp cao thuộc các bộ ngành đã đã bị kỷ luật (cho vào lò) vì phạm luật. Kết quả chống tham nhũng trong mấy năm qua đã từng bước lấy lại lòng tin của người dân. Đó là tiền đề quan trọng để Việt Nam đổi mới thể chế, nhằm từng bước tháo gỡ ách tắc và bất cập.
Theo quy luật phát triển của thời kỳ quá độ, muốn đổi mới thể chế cần thay đổi tư duy và hệ quy chiếu. Đây là yêu cầu khách quan đối với người Việt Nam. Muốn đồng thuận quốc gia (national consensus) phải quy tụ được lòng người (inclusive politics). Nói cách khác, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân và phe nhóm (hay “Việt Nam trên hết”).
Người ta hay nói nhiều đến “nâng cao dân trí”, nhưng lúc này dân trí cao phải dựa trên tinh thần dân tộc (nationalism) vì đồng thuận quốc gia. Để quy tụ được sức mạnh của dân tộc gần 100 triệu người (trong nước và ngoài nước) Người Việt không nên cố chấp và cực đoan, để có thể chấp nhận sự khác biệt của nhau. Nếu không phát huy được sức mạnh tiềm tàng của dân tộc (là nguồn tài nguyên vô tận), Việt Nam sẽ mãi mãi tụt hậu và hèn kém, như lời sấm của cụ Tản Đà: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn, nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”.
NQD. 10/7/2019