13 tháng 8, 2019

VNTB - Khủng hoảng Tập Cận Bình và bài học nào cho cá nhân quyền lực VN?

Nguyễn Hiền


(VNTB) - Tập Cận Bình vẫn là hình mẫu lý tưởng cho những cá nhân quyền lực Việt Nam hướng theo, và những quyết sách thời Tập Cận Bình được coi là “đá dò đường” cho chính thể Việt Nam hiện tại.



Thế nhưng, Trung Quốc đang đối diện với khủng hoảng, trước con cáo già mang tên Donald Trump, những tổn hại từ cuộc chiến tranh thương mại Trung – Mỹ có vẻ đang khiến quyền lực của Tập Cận Bình suy yếu, và Trung Quốc không hề giàu mạnh như cách nhiều Việt Nam mường tượng.

Trong một bài viết ngày 8.8 của Nikkei, đã chỉ ra rằng, việc Bắc Kinh hạ giá đồng nhân dân tệ xuống dưới mức 7 USD sau 11 năm đã tiếp tục nhận sự chỉ trích từ Washington.

Tổng thống Donald Trump và Bộ Tài Chính Mỹ ngay lập tức gọi đó là “thao túng tiền tệ”. Và mục thao túng tiền tệ là nội dung quan trọng trong cuộc chiến tranh thương mại, nền của cuộc chiến tranh tiền tệ sắp tới (nếu nó diễn ra).

Chỉ số Shanghai Composite Index đã giảm xuống dưới 2.900, mức được cho là tuyến phòng thủ của chính quyền Trung Quốc.

Điều thú vị, Nikkei đã lấy nhận định từ trong Trung Quốc, khi cho rằng, sự hỗn loạn của Trung Quốc đến từ Trump, nhưng thực chất, hiện tượng hỗn loạn hiện nay lại liên quan đến chính sách kinh tế của chính Bắc Kinh.

“Những gì đang xảy ra bây giờ dựa trên sự giằng xé trong chính trị Trung Quốc đã tiếp diễn trong một năm rưỡi qua.”

Mấu chốt của sự tan vỡ các cuộc gặp hay đàm phán thương mại Trung – Mỹ, kể cả việc hai quốc gia hầu như chưa có ý định gặp nhau tại Mỹ vào tháng 9 tới, liên quan trực tiếp đến phiên họp toàn thể thứ tư của Ủy ban Trung ương XIX của ĐCSTQ, một cuộc họp chính đặt ra chính sách năm năm cơ bản về quản lý kinh tế, đã bị trì hoãn gần một năm. Và trong hoàn cảnh như vậy, “khó để Trung Quốc đưa cuộc đàm phán với Mỹ đi đến kết luận”. Điều này đồng nghĩa, Trung Quốc đã thiếu vắng chính sách cơ bản về quản lý kinh tế trong gần một năm qua. Kể cả khi đến thăm di tích lịch sử Vu Đô (1934-1936) tại tỉnh Giang Tây, “tháng ba dài mới” cho cuộc chiến với Mỹ mà Tập Cận Bình đưa ra chỉ là một hành động khuất phục để che giấu thực tế rằng Trung Quốc không có chiến lược kinh tế dài hạn đối với Mỹ.

Lý do chính cho sự chậm trễ của một kế hoạch kinh tế dài hạn đối với Mỹ của Trung Quốc lại xuất phát từ một thực tế, Tập Cận Bình đã ưu tiên củng cố sức mạnh chính trị của ông ta qua các phiên họp thông qua sửa đổi Hiến pháp, dẫn đến bỏ giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch, hơn là chú trọng cho một sự phát triển kinh tế. Hay đúng hơn, xây dựng lực lượng chính trị bè phái chính là nòng cốt của Tập Cận Bình trong thời gian qua. Thậm chí, tính chất “tham ưu quyền lực” của Tập Cận Bình còn thể hiện qua việc, một phiên họp toàn thể thứ tư của ĐCSTQ đã bị trì hoãn một phần để giữ cho Thủ tướng Lý Khắc Cường, một đối thủ của Tập Cận Bình, không đóng vai trò lớn hơn trong việc quản lý nền kinh tế của Trung Quốc.

Chính từ yếu tố “trọng chính – khinh kinh” đã tạo ra sự chậm trễ trong chính sách của Bắc Kinh, cản trở khả năng đàm phán với Mỹ, và nếu Tập Cận Bình tiếp tục chiều hướng như trên, thì “Tập Chủ tịch” trọn đời sẽ tiếp tục gây thiệt hại thực sự cho nền kinh tế Trung Quốc.

Bài học nào cho Việt Nam?

Cách Tập Cận Bình vun vén cho quyền lực cá nhân cũng được không ít cá nhân quyền lực Việt Nam học hỏi theo, trong đó nếu loại trừ ông Chủ tịch nước – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra sẽ là một thiếu sót.

Cách ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố, “Về mặt chính trị, suy thoái còn nguy hiểm hơn cả kinh tế” cho thấy sự nhấn mạnh của ông về vấn đề chính trị, ưu tiên chính trị hơn là một sự lưu tâm đáng kể cho kinh tế, mặc dù lúc phát ngôn, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khó khăn.

Thời ông Nguyễn Phú Trọng, đang thử nghiệm trò chơi quyền lực mới, trò chơi mà đến nay, cả thể chế vẫn dựa vào một ông lão ở độ 70.

Sự giàu mạnh sẽ được hoạch định bằng cách nào, khi mà nền chính trị chưa có gì chắc chắn về kiểm soát quyền lực vẫn đang tồn tại. Nơi mà những  kẻ áp bức vĩ đại hoạt động như một hệ thống chính trị độc đoán, tham nhũng và tàn bạo. Những người cộng sản cao cấp của Việt Nam có thể tự hào vì những gì mà chiến dịch đốt lò mang lại, nhưng sâu thẳm họ biết nhà nước công an trị của họ rất dễ vỡ về mặt chính trị, đó là lý do tại sao Hà Nội tìm mọi cách học hỏi Trung Quốc trong phương cách trừng trị công dân, khi họ thách thức quyền lực trong nước của ĐCSVN.

Chính trị Việt Nam trở thành một chính trị chỉ huy, mặc dù thừa nhận sự lưu tâm đáng kể của ĐCSVN đối với kinh tế, so với Tập Cận Bình, nhưng chừng đó là chưa đủ để đảm bảo Việt Nam tránh được một cuộc khủng hoảng, suy thoái về kinh tế - chính trị, khi Bắc Kinh suy thoái về chính trị - kinh tế.

Việt Nam không có hệ thống pháp lý độc lập, nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên nguồn tài nguyên và các ưu đãi thuế quan trong ký kết các hiệp định, và trên cả, một Chính phủ độc tôn gồng gánh con thuyền kinh tế - xã hội. Hoàn toàn thiếu vắng bóng dáng của xã hội dân sự, pháp quyền, và một sự chủ động kiểm soát quyền lực.

Thế nhưng, giống như Trung Quốc, cái thời kỳ “ổn định chính trị, phát triển kinh tế” sẽ chẳng thể bền lâu. Thực tế, chế độ độc tài của Trung Quốc đã ca ngợi sức mạnh kinh tế của nó như là dấu hiệu cho thấy sự vượt trội của chủ nghĩa độc đoán với các đặc điểm của Trung Quốc. Và rằng mô hình cai trị độc tài của ĐCSTQ hoạt động thành công đã chứng minh các thực tiễn của nó. Tuy nhiên, cái thời tăng trưởng cao, công xưởng thế giới đã qua đi, trong khi những khó khăn vô cùng lớn về kinh tế, năm 2018 và 2019, và các cuộc biểu tình đã và đang tiếp tục thách thức tính chính danh của Nhà nước Bắc Kinh. Và giờ đây, sự đình trệ kinh tế có thể phơi bày Trung Quốc như là một Nhà nước của sự kiêu ngạo, độc đoán. Tạo cộng hưởng do sụp đổ cả cơ chế chính trị.

Hình ảnh của Trung Quốc đang phản chiếu về Việt Nam.

Việt Nam, vẫn đang hấp thu nguồn đầu tư từ các hiệp định, nhưng Việt Nam phản ánh một nền kinh tế Trung Quốc trước năm 2018. Và cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam đang được Mỹ lưu tâm liên quan đến “vấn đề kinh tế - thương mại”, nội lực kinh tế của Việt Nam cũng không bền vững và có phần giống như Trung Quốc trong sử dụng tăng trưởng GDP để làm nền và biểu trưng cho sự phát triển. Trong khi chính trị ngày càng được siết chặt hơn.

Trung Quốc và sự lúng túng lẫn kiệt quệ trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ, liệu có cho những nhà lý luận hàng đầu của ĐCSVN, lại là những người miền Bắc bài học đắt giá nào rút ra không? Chỉ biết rằng, nếu ông Tập Cận Bình đang phải đối mặt với một nền kinh tế chậm lại, sự chỉ trích nhân quyền của phương Tây, và sự đe dọa quyền lực cá nhân, thì ông Trọng hay những người kế thừa quan điểm, phương thức xử lý các vấn đề của quốc gia qua đảng cũng sẽ đối mặt với điều đó tương tự.

Thời gian luôn là liều thuốc đắng, và bài học luôn cần được rút ra sớm hơn.

Đảng CSVN đã làm được gì cho dân?



Diễm Thi, RFA

2019-08-12


Một người đạp xích lô đi qua biểu tượng búa - liềm ở Hà Nội.
 AFP


Đảng Cộng sản Việt Nam phản ứng ngày càng yếu ớt trước những hành động xâm lấn ngày càng hung hăng của Trung Quốc, mà điển hình là vụ Bãi Tư Chính vừa qua. Người dân trong nước nghĩ gì về vai trò của Đảng, họ hồ nghi về việc Đảng của dân và vì dân?
Tính “chính danh” của Đảng Cộng Sản
Đảng cộng sản (ĐCS) Việt Nam là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam được đảm bảo bằng Điều 4 Hiến pháp năm 1980, khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992 sửa đổi trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất” sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ. Việc bỏ đi từ “duy nhất” không làm nhẹ đi sự lãnh đạo độc quyền của ĐCS ở một nước mà khái niệm đa đảng không được chấp nhận. Phó Giáo sư - Tiến sĩ Mạc Văn Trang, một đảng viên đã từ bỏ đảng từng chia sẻ với RFA:
Sự phát triển của xã hội loài người thì như chúng ta đều biết, nước nào đa nguyên, có đảng đối lập, tam quyền phân lập, thì họ sẽ phát triển nhanh và bền vững, dân trí, nhân quyền, nhân cách con người ngày càng được nâng cao. Ngược lại các nước độc tài toàn trị về hình thức ngắn hạn thì thấy có vẻ ổn định, nhưng về lâu dài thì không bền vng được. Thứ hai là không có tự do thì làm gì có sáng tạo. Không được tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo, tự do biểu đạt thì xã hội không thể phát triển được.”
Chủ tịch Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam, người tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản Việt Nam năm 2013 - ông Phạm Chí Dũng - ghi nhận về “tính chính danh” của ĐCS:
Ghi nhận duy nhất về tính chính danh của chính thể độc tài ở Việt Nam trong cuộc khủng hoảng Bãi Tư Chính lần 3 chỉ là động thái của Bộ Ngoại giao Việt Nam: trong một lần quá hiếm muộn của lịch sử quan hệ gấu ó Việt - Trung, cơ quan cấp bộ này đã hai lần liên tiếp gửi công hàm phản đối Trung Quốc về vụ tàu Hải Dương 8 xâm nhập Bãi Tư Chính và vụ Trung Quốc tổ chức tập trận ở Hoàng Sa.
Nhưng những đặc trưng còn lại của đảng CSVN đều thiếu hẳn tính ‘công chính’.
Theo ông Dũng, với những phản ứng yếu ớt như thế thì tính nhân danh bảo vệ quyền lợi cho người dân của chính thể độc đảng ở Việt Nam đã được “tôn vinh trọn vẹn” đến mức nếu không phải là hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của hải quân Mỹ tiến thẳng vào Biển Đông vào ngày 6/8 thì còn lâu, chứ không phải chỉ một ngày sau đó - 7/8, Trung Quốc mới chịu rút tàu Hải Dương 8 ra khỏi Bãi Tư Chính.
Còn với Luật sư Lê Công Định, khi phân tích về vai trò của ĐCS, ông nói tính chính danh của một chế độ chính trị phải được toàn dân bầu cử một cách tự do và dân chủ. Chế độ cộng sản dù ở đâu trên thế giới cũng không thể có tính chính danh vì toàn dân không ai bầu ra. Ông nói tiếp:
“Do đó nó phải có hai biện pháp có thể cứu vãn tính “chính danh”. Thứ nhất nó phải mị dân; tuyên truyền; dối trá để nó lừa người dân mặc nhiên công nhận tính “chính danh” của nó.
Chuyện thứ hai là nó phải huy động sức mạnh để làm sao bảo vệ chủ quyền quốc gia và nó chứng minh rằng cái thể chế này tuy không được toàn dân bầu một cách tự do thật nhưng nó vẫn có khả năng duy trì chủ quyền quốc gia.”
ĐCS đã thể hiện đúng vai trò của mình
Kể từ ngày có đảng, 89 năm qua đảng đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành độc lập, và đưa một chủ nghĩa tiến bộ là chủ nghĩa cộng sản, đến với dân tộc Việt Nam.
Thực tế đảng đã làm được gì cho dân? Nhà báo Phạm Chí Dũng đưa nhận xét của mình:
“Chính thể độc tài Việt Nam vẫn còn vài đặc thù rất ‘chính danh’ khác: sẵn sàng đàn áp bất cứ tiếng nói bất đồng và người dân nào dám lên tiếng và xuống đường biểu thị tinh thần phản kháng ‘đảng anh’ Trung Quốc, như bao lần đàn áp dã man các cuộc biểu tình của người dân chống Trung Cộng kể từ năm 2011 đến tận giờ đây.”
Tiến sĩ bác sĩ Đinh Đức Long, nguyên trung tá quân đội nhân dân Việt Nam, người tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản Việt Nam vào năm 2014 nói với RFA:
“Vụ Bãi Tư Chính vừa rồi thì trên thực tế họ có hành động nhưng điều đáng nói là giấu diếm nhân dân. Cái đó không thể được.
Anh (Đảng-pv) phải cho nhân dân biết ngay vì đất nước này đâu phải của mấy triệu đảng viên mà đất này của dân tộc Việt Nam, của người dân Việt Nam trong và ngoài nước. Đảng phải thông tin cho toàn dân và cho thế giới biết một cách công khai. Cái thứ hai là đảng phải thu xếp kiện Trung Quốc càng sớm càng tốt để khẳng định chủ quyền Việt Nam.”
Trong một hội nghị đại đoàn kết dân tộc, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng tuyên bố mỗi Đảng viên phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân để hoàn thành tốt nghiệm vụ. Lãnh đạo TP HCM Nguyễn Thành Phong cũng từng nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”…
Có thể thấy, lãnh đạo đất nước này luôn thể hiện tinh thần “vì dân” trong các khẩu hiệu trên các diễn đàn, hội nghị. Nhưng trên thực tế, Luật sư Lê Công Định cho RFA biết:
“Họ cũng bày ra những trò hội thảo để nghe giới nhân sĩ trí thức góp ý, nhưng họ chỉ nghe lời nào mà nó thuận tai, còn lời nào nghịch tai thì họ sẽ lên án, họ dùng truyền thông họ trù dập người đó. Họ bêu rếu là thế lực thù địch…
Đảng cộng sản Việt Nam họ chỉ quan tâm đến lợi ích của họ và người trong đảng cũng chỉ quan tâm đến phe phái, nhóm và cá nhân của họ có lợi ích gì trong một hành động chính trị nào đó. Họ hoàn toàn không cần lắng nghe những ý kiến đóng góp cũng như là phản biện một cách ngay thẳng, trung thực.”
Ông kết luận trong vụ Bãi Tư Chính vừa rồi nói riêng và trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung thì chế độ này hoàn toàn đánh mất tính “Đảng của dân và vì dân”. Nó không thể hiện cái khả năng nào có thể tự bảo vệ chủ quyền quốc gia trước sự khiêu khích và xâm lấn ngày càng nhiều của Trung Quốc.
Cũng liên quan đến căng thẳng tại Bãi Tư Chính, trong thời gian Trung Quốc điều hàng chục tàu hải cảnh cùng dân binh vào vùng nước chủ quyền Việt Nam, ngư dân ở nhiều nơi đã nhận được những lá cờ tổ quốc khuyến khích họ bám biển. Ông Phạm Chí Dũng nói về việc này:
Trong bầu không khí rũ rượi của câu vè ‘ngư dân bám biển, hải quân bám bờ’ vẫn dồn nén châm chích đến buốt tim, giới quan chức mặt lầy mỡ tổ chức phát hàng chục ngàn lá cờ đỏ sao vàng cho những ngư dân xơ xác và thiểu não vì mất biển, mất kế mưu sinh và mất cả lòng tin vào lực lượng ‘quân với dân như cá với nước’, mưu biến những ngư dân này trở thành lá chắn sống lao ra biển đối đầu với tàu vũ trang của địch.
Trong một lần trò chuyện với RFA về mối liên quan giữa phát triển đất nước và sự tồn tại của đảng cộng sản, Giáo sư Nguyễn Đình Cống đưa ra lời khuyên, nếu muốn phát triển phải thay đổi từ một đảng cách mạng thành một đảng chính trị thì mới tồn tại được, chứ như hiện nay không những đảng sẽ đem tai họa cho đất nước mà sự tồn tại của đảng cũng khó bền vững.

17 tháng 7, 2019

MẤY NGUY CƠ LỚN VIỆT NAM PHẢI ĐỐI PHÓ

Nguyễn Quang Dy 


Theo Stratfor (3/7/2019) Việt Nam nằm trong tầm ngắm (cross hairs) mà Mỹ theo dõi (watch list). Chính quyền Trump ngày càng bực mình (displeasure) với Việt Nam vì: (1) Thâm hụt thương mại xếp thứ 5 thế giới (US$ 38 tỷ/2017), tăng mạnh đầu 2019; (2) Vi phạm bản quyền (điều “Special 301”); (3) Thao túng tiền tệ (currency manipulation).
Tuy ông Trump tính khí thất thường, nhưng đã nói là làm quyết liệt. Quan hệ Mỹ-Việt đang phát triển tốt đẹp (nhất là về hợp tác chiến lược) nên Mỹ có thể nhân nhượng Việt Nam như “đối tác thân cận”. Nhưng Trump vẫn sẵn sàng trừng phạt Việt Nam (hay các đồng minh khác) nếu tiếp tay cho Trung Quốc, trung chuyển hàng hóa nhằm trốn thuế của Mỹ.
Việt Nam đã mua nhiều máy bay Boeing (trị giá US$ 20 tỷ) làm “Trump vui”. Việt Nam đang tăng cường giám sát và xử lý các doanh nghiệp gian lận thương mại để tái xuất và trốn thuế (như công ty điện tử Asanzo), nhưng vẫn chưa đủ. Mỹ muốn Việt Nam nhập thêm nhiều hàng hóa của Mỹ (như năng lượng và vũ khí) để giảm thiểu thâm hụt thương mại.
Thứ hai, nguy cơ mất chủ quyền biển đảo và tài nguyên tại Biển Đông (như dầu khí và hải sản) đang đe dọa không gian sinh tồn của Việt Nam. Nếu để mất hai nguồn thu lớn đó cho ngân sách, thì rất nguy hiểm cho an ninh năng lượng và “chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển” (nghị quyết 36-NQ/TW). Vì vậy, đây là nguy cơ mà Việt Nam phải hóa giải.
Trong bối cảnh Trung Quốc áp đặt “đường chín đoạn”, bất chấp phán quyết PCA, tiếp tục quân sự hóa các đảo họ chiếm giữ và bồi đắp tại Hoàng Sa và Trường Sa, để biến Biển Đông thành cái ao của họ, thì hợp tác chiến lược với Mỹ tại Biển Đông theo tầm nhìn Indo-Pacific là thiết thực để bảo vệ chủ quyền và triển khai dự án “Cá Voi Xanh”. Dự án này không chỉ có ý nghĩa lớn về kinh tế (trước mắt) mà còn có có ý nghĩa chiến lược (lâu dài).
Chuyến thăm lịch sử của tàu sân bay USS Carl Vinson đến Đà Nẵng (5/3/2018) là một tín hiệu rõ ràng, nhưng chưa đủ răn đe Trung Quốc. Chuyến thăm thứ hai của một tàu sân bay Mỹ đến Cam Ranh là cần thiết (dù chỉ tượng trưng). Gần đây, Mỹ đang tăng cường các biện pháp đối phó với “hạm đội dân quân” của Trung Quốc đang tung hoành trên Biển Đông như “vùng xám” (grey area) mà họ có ưu thế hơn Mỹ, để bắt nạt các nước khu vực.
Thứ ba, đồng bằng Nam Bộ đang bị đe dọa bởi thiên tai và nhân họa. Với dân số trên 20 triệu người, đó là tiêu điểm của “Tiểu vùng Mekong”. Trên thượng nguồn, Trung Quốc đã khai thác tối đa dòng Lan Cang (với 10 đập thủy điện lớn) nên dòng chảy biến đổi, làm cạn kiệt nguồn nước và phù sa. Dưới hạ nguồn, Campuchia cũng làm đập thủy điện lớn (Sesan 2), đe dọa môi trường hạ lưu tại Đồng bằng Nam Bộ, dẫn đến hạn hán và ngập mặn.
Trước nguy cơ thiên tai và nhân họa, và trước sức ép của thị trường đòi hỏi phải chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng thương mại hóa, 4 tỉnh/thành tại đồng bằng Nam Bộ Là An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, và Đồng Tháp (ABCD) đã liên kết triển khai sáng kiến “Mekong Connect” nhằm “biến nguy thành cơ”. Sáng kiến này cần được Trung ương bảo trợ và quốc tế hỗ trợ. Lâu nay ngành nông nghiệp chỉ chú trọng đến nâng cao sản lượng lúa, mà chưa quan tâm tháo gỡ những ách tắc và bất cập trong cơ cấu nông nghiệp (như “hạn điền”).
Ý tưởng về “Tiểu vùng Mekong” rất quan trọng đối với chiến lược Châu Á của Mỹ, nhưng chỉ được quan tâm hơn gần đây, trong tầm nhìn về khu vực Indo-Pacific Tự do và Rộng mở (FOIP). Dòng sông Mekong đang bị đe dọa bởi quá nhiều đập thủy điện, và Tiểu vùng Mekong có thể bị thao túng bởi Trung Quốc đang trỗi dậy. Tương lai Tiểu vùng Mekong phụ thuộc vào tầm nhìn mới về các đồng minh và đối tác Indo-Pacific (trong đó có ASEAN).
Thứ tư, cần xem xét lại các dự án lớn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và rủi ro về an ninh. Điển hình là dự án thép Formosa và cảng Vũng Áng (cho thuê 70 năm) đã gây ra thảm họa môi trường biển miền Trung, làm bất ổn xã hội và khủng hoảng lòng tin. Nếu dự án bauxite (Nhân Cơ và Tân Rai) đe dọa môi trường vì bùn đỏ có nguy cơ tràn xuống đồng bằng, thì các nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân (tại Bình Thuận) đang gây ô nhiễm không khí.
Nhưng nhờ có phản ứng của dư luận đối với Formosa, nên miền Trung thoát được dự án thép Cà Ná (dự kiến US$ 10 tỷ) mà ông chủ Hoa Sen định thuê nhà thầu Trung Quốc làm như Formosa. Câu nói “nổi tiếng” của Lê Phước Vũ “Ngu gì mà không làm thép” phản ánh tư duy “đánh quả” của các nhóm lợi ích muốn “đầu tư bằng mọi gía”, bất chấp rủi ro.
Các nhóm lợi ích thân hữu tuy rất khôn về lợi ích nhóm nhưng rất dại về lợi ích quốc gia. Vì lòng tham và tầm nhìn, họ đã tự bịt mắt trước thực tế và bịt tai trước cảnh báo về nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do sử dụng công nghệ lạc hậu. Nay những kẻ chịu trách nhiệm chính (như Võ Kim Cự) dù có hạ cánh an toàn thì Formosa vẫn như “quả bom nổ chậm”.
Thứ năm, các chủ trương mới được thúc đẩy như dự luật “Ba đặc khu” và dự án “Đường cao tốc Bắc-Nam” cũng ẩn chứa những nguy cơ lớn về an ninh. Trong khi Quốc Hội hoãn vô thời hạn việc thông qua dự luật “Ba đặc khu”. thì “Đường cao tốc Bắc-Nam” vẫn được Bộ Giao thông thúc đẩy, nhưng bị dư luận phản ứng mạnh vì “yếu tố Trung Quốc”.
Nếu “Ba đặc khu” có tính chất vùng miền thì “Đường cao tốc Bắc Nam” (cả đường bộ và đường sắt) có ý nghĩa chiến lược như huyết mạch kết nối cả nước. Vấn đề không phải là nên làm đường cao tốc Bắc-Nam hay không, mà là ai làm và làm thế nào. Nếu để Trung Quốc làm theo khuôn khổ “Vành đai Con đường” thì vướng vào “bẫy nợ”. Nếu để Mỹ làm theo khuôn khổ USIDFC thì mất lòng Trung Quốc. Vì vậy, Việt Nam nên tự làm lấy dự án này, khâu nào không làm được thì mới phải thuê thầu phụ nước ngoài (nhưng Việt Nam phải làm chủ).
Năm nay (2019) kỷ niệm 10 năm Sáng kiến Hạ lưu sông MeKong (Lower Mekong Initiative) do chính quyền Obama đề xuất để tăng cường hợp tác Tiểu vùng Mekong và nâng cao năng lực cho các nước Đông Nam Á. Tuy chính quyền Trump không chú trọng đến sáng kiến đó, nhưng gần đây, Mỹ và các đồng minh thân cận (như Nhật và Úc) đã tăng cường hỗ trợ cho các dự án hạ tầng mới tại khu vực này, trong khuôn khổ USIDFC (International Development Finance Corporation) với ngân sách ban đầu là US$ 60 tỷ (Build Act, 10/2018).
Đồng thuận quốc gia
Các nhà quản trị/điều hành và giới nghiên cứu trên thế giới (nói chung) và ở Việt Nam (nói riêng), đang chứng kiến nhiều biến động khó lường, làm người ta dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Muốn hiểu và đánh giá đúng các hiện tượng mới đang diễn ra, người Việt Nam Nam cần đổi mới tư duy (mindset change) và điều chỉnh hệ quy chiếu (paradigm shift).
Trong khi tìm cách đối phó với các thách thức cấp bách (trước mắt), Việt Nam cần chú trọng giải quyết tận gốc nguyên nhân (lâu dài). Phải đối phó được với các thách thức cấp bách thì mới có thể đột phá để tháo gỡ được các ách tắc. Nhưng nếu không giải quyết tận gốc các nguyên nhân cơ bản thì kết quả ban đầu chỉ là tạm thời và không bền vững. Những bê bối về đất đai ở Thủ Thiêm hay Đồng Tâm là những vấn đề cơ bản phải tháo gỡ sớm.
Thể chế cũ đã gây ra ách tắc và bất cập như “lỗi hệ thống”, làm vô hiệu hóa và triệt tiêu các nguồn lực của đất nước. Việt Nam có 97 triệu dân là một cái “mỏ lộ thiên” không bao giờ cạn kiệt. Nhưng muốn khai thác được cái “mỏ người” to lớn đó, Việt Nam phải biết quản trị nguồn nhân lực, bao gồm quản trị “giai cấp sáng tạo” là động lực để phát triển đất nước. Nhưng hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam vào loại thấp nhất khu vực.
Trong mấy năm qua, đứng trước các nguy cơ và thách thức nói trên, Việt Nam đã tăng cường chống tham nhũng và kiểm soát quyền lực của các nhóm lợi ích thân hữu. Nhiều quan chức cấp cao thuộc các bộ ngành đã đã bị kỷ luật (cho vào lò) vì phạm luật. Kết quả chống tham nhũng trong mấy năm qua đã từng bước lấy lại lòng tin của người dân. Đó là tiền đề quan trọng để Việt Nam đổi mới thể chế, nhằm từng bước tháo gỡ ách tắc và bất cập.
Theo quy luật phát triển của thời kỳ quá độ, muốn đổi mới thể chế cần thay đổi tư duy và hệ quy chiếu. Đây là yêu cầu khách quan đối với người Việt Nam. Muốn đồng thuận quốc gia (national consensus) phải quy tụ được lòng người (inclusive politics). Nói cách khác, phải đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân và phe nhóm (hay “Việt Nam trên hết”).
Người ta hay nói nhiều đến “nâng cao dân trí”, nhưng lúc này dân trí cao phải dựa trên tinh thần dân tộc (nationalism) vì đồng thuận quốc gia. Để quy tụ được sức mạnh của dân tộc gần 100 triệu người (trong nước và ngoài nước) Người Việt không nên cố chấp và cực đoan, để có thể chấp nhận sự khác biệt của nhau. Nếu không phát huy được sức mạnh tiềm tàng của dân tộc (là nguồn tài nguyên vô tận), Việt Nam sẽ mãi mãi tụt hậu và hèn kém, như lời sấm của cụ Tản Đà: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn, nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”.
NQD. 10/7/2019

24 tháng 6, 2019

Bài Đặc biệt: ĐƯỜNG CAO TỐC BẮC NAM - SINH LỘ CỦA DÂN TỘC

Phỏng vấn Tiến sĩ Trịnh Định
Phan Văn Thắng thực hiện
 
Văn hóa Nghệ An

Thứ hai, 17 Tháng 6 2019 18:12 



LTS: Hiện nay, dư luận đang rất quan tâm về việc lựa chọn nhà thầu xây dựng đường cao tốc Bắc Nam và tỏ ra rất băn khoăn, lo lắng về sự an nguy của đất nước nếu nhà thầu Trung Quốc trúng thầu thực thi con đường này. Văn hóa Nghệ An xin giới thiệu cùng bạn đọc chia sẻ của Tiến sỹ Trịnh Định đến từ ĐH Quốc gia Hà Nội với nhà báo Phan Văn Thắng về vấn đề này. 

Phan Văn Thắng: Gần đây Việt Nam có chủ trương xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của đường cao tốc này đối với sự phát triển của đất nước? 

Trịnh Định:Ở bất cứ quốc gia nào, hệ thống đường giao thông là tiền đề để công nghiệp hóa, đô thị hóa. Một quốc gia muốn phát triển, việc trước tiên là phải chú trọng phát triển giao thông. Về cơ bản, cho đến nay, hệ thống giao thông chúng ta đang thua rất xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, việc xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, xét về chủ trương và ý tưởng là đúng đắn, tuy hơi muộn.

Tuy nhiên, khi đề ra chủ trương xây dựng đường cao tốc Bắc Nam cần tính bài toán tổng thể của cơ sở hạ tầng quốc gia, đặc biệt là giải quyết cơ sở hạ tầng giao thông nội đô trong các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi không phải là người am hiểu về giao thông nên tôi chỉ có thể chia sẻ từ góc độ lịch sử và hệ quả an ninh, chính trị của nó mà thôi.


Việc xây dựng đường Bắc Nam, hay đường cao tốc Bắc Nam hoàn toàn không giống với việc xây dựng các tuyến đường khác, bởi nói đến chữ Bắc Nam và nói đến đường Bắc Nam, trong tâm thức người Việt, là nói đến câu chuyện con đường biểu tượng, thiêng liêng. Đường Bắc Nam hội tụ nhiều tầng ý nghĩa hơn trong tâm thức người Việt so với bất kỳ con đường nào khác. Đó là con đường lịch sử nhiều nghìn năm, là con đường biểu tượng của sự thống nhất, là con đường trí tuệ, là con đường chất đầy xương máu của rất nhiều thế hệ người Việt Nam trong hành trình mở mang bờ cõi và thống nhất đất nước. Nói về điều này tôi lại nhớ đến trường ca Con đường cái quan của nhạc sĩ Phạm DuyThật là thiêng liêng. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, ở cấp chiến lược, khi đề xuất xây dựng con đường cái quan quốc gia này, cần tư duy và hình dung con đường này khác biệt với tất cả con đường khác, và tính đến tất cả các yếu tố trước khi quyết định phượng án xây dựng, đặc biệt là khâu lựa chọn nhà thầu xây dựng. Bởi suy cho cùng, đó là sinh lộ Việt. Sinh lộ này lại đến từ những nguyên nhân cắc cớ trong lịch sử mà căn nguyên sâu xa là áp lực từ phương Bắc. Lịch sử dân tộc, và lịch sử con đường cái quan Bắc Nam đã cảnh báo chúng ta về việc tư duy và lựa chọn nhà thầu xây dựng con đường này.

Một điểm lưu ý rằng, từ trước tới nay trong tư duy bảo vệ đất nước, chúng ta thường nghĩ đến nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều ngang, do miền Trung hẹp, đường bờ biển dài và trong thực tế chia cắt Bắc Nam đã từng xẩy ra. Tuy nhiên, cần nhìn nhận, nguy cơ mới, nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều dọc của nó, mà theo tôi nghĩ, đang ngày càng hiện hữu.

Phan Văn Thắng: Từ góc nhìn lịch sử, ông nghĩ như thế nào về tính biểu tượng của tuyến đường Bắc Nam của Việt Nam?

Trịnh Định: Như tôi đã nhắc đến ở trên, tuyến đường Bắc Nam của Việt Nam mang tính biểu tượng năng lực thống nhất quốc gia, biểu tượng cho sự độc lập, là lời tuyên bố của sự khác biệt về căn cước và trí tuệ Việt Nam, nó còn là xương máu của cha ông trong nhiều nghìn năm.

Chúng ta nhớ lại lịch sử, để có được đất nước liền một dải, là công lao của biết bao anh hào trong lịch sử dân tộc. So với bất kỳ con đường nào khác, đường vô Nam, đường Bắc - Nam không phải là con đường cơ học như những con đường khác, nó là con đường lịch sử, linh thiêng, là con đường tâm linh, sinh lộ Việt, mất nó hoặc để nó vào tay giặc là đồng nghĩa với việc chúng ta đánh mất những gì thiêng liêng nhất, lại một lần nữa trao nỏ thần vào tay giặc.

Một việc nữa không được phép quên là các nghĩa trang trải dài theo con đường này. Trong những nghĩa trang đó có rất nhiều người con vô tự, họ hi sinh khi còn rất trẻ, quá trẻ trên con đường cái quan này vì dân tộc. Những đoàn người vô tự của đất mẹ Việt chúng ta nằm dọc từ Bắc vào Nam để giữ sinh lộ này cho đất nước. Khi sống họ mở đường, giữ đường quốc thổ; khi ngã xuống họ là thần linh hộ mệnh cho những tuyến đường. Tuyệt đối không để quân thù làm tổn thương những giá trị thiêng liêng đó. Điều này cần phải đặc biệt ghi nhớ.

Nếu lựa chọn nhà thầu  thực hiện cao tốc Bắc Nam không cẩn thận thì không chỉ là rước về nguy cơ bất an mà còn là xúc phạm đến xương cốt và tinh thần của tiền nhân đã hi sinh! Người Việt Nam không cho phép bất cứ ai làm điều đó.

Phan Văn Thắng: Tôi nghĩ là nếu ai đó cố tình làm nhất định sẽ phải trả với giá đắt nhất. Thưa ông, ông có thấy có mối liên hệ nào giữa đường cao tốc Bắc Nam với Vành đai và Con đường  Trung Quốc?

Trịnh Định: Cần phải nói rõ thế này, Việt Nam có vị trí địa chính trị độc nhất vô nhị so với tất cả các quốc gia mà cả Vành đai và Con đường đi qua. Không một nước nào như Việt Nam, là nơi mà tất cả hệ thống trọng điểm cả Vành đai và Con đường đi xuống và tiền đề để tiến tiếp xuống Đông Nam Á, Biển Đông, Ấn Độ Dương. Việt Nam là điểm khởi đầu của con đường Biển - Đảo mà Vân Đồn là điểm đảo đầu tiên của Con đường trên biển. Quảng Ninh -  Lào Cai là điểm đầu tiên của con đường tơ lụa trên bộ đổ xuống. Sông Mê Kông, điểm đến sau cùng cũng là Việt Nam. Và nay, cao tốc Bắc Nam là trọng tâm của Vành đai - Con đường của Trung Quốc.

Không nghi ngờ gì nữa, cùng với chuỗi đảo ở vị trí cực kỳ then chốt của Tổ quốc được người ta định danh đơn giản từ góc độ kinh tế là đặc khu như Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc, đại dự án cơ sở hạ tầng - chính trị cao tốc Bắc Nam Việt Nam sẽ là trọng tâm chiến lược của chiến lượcVành đai - Con đường của Trung Quốc ở Việt Nam. Điều này có nghĩa, dự án này sẽ được cả hệ thống chính trị Trung Quốc đứng đằng sau để bằng mọi giá thắng thầu. Nếu nhìn sâu hơn, Trung Quốc đã ém sau lưng chúng ta ở Lào và Campuchia cũng bằng dự án Vành đai - Con đường. Nếu họ thực hiện điều đó ở Việt Nam và chúng ta lại thông qua luật đặc khu thì có thể hình dung đất nước ta sẽ bị bao vây từ tất cả mọi hướng, mọi phía.

Nếu vậy, tôi nghĩ, nhiều khả năng, Hoa Vi và các công ty công nghệ khác của Trung Quốc cũng sẽ theo sau chân các nhà thầu Trung Quốc để hiện diện một cách khéo léo, lồng vào hệ thống cao tốc của Việt Nam bằng các thiết bị điện tử để theo dõi, thu thập thông tin của chúng ta. Đến lúc đó các thông số kỹ thuật và các thông tin của tuyết đường sinh lộ sẽ không còn là bí mật nữa. Nên nhớ, độ an toàn thông tin của tuyến sinh lộ này có vai trò cực kỳ to lớn với an ninh của quốc gia.

Phan Văn Thắng: Trục Bắc - Nam, cao tốc Bắc Nam có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ với Trung Quốc, trong quá khứ và hiện tại, cũng như tương lai?

Trịnh Định: Nhìn lại lịch sử, ông sẽ thấy, trục Bắc Nam là trục sống của người dân Việt Nam. Có sự cộng hưởng, kết nối, gắn kết của cộng đồng các dân tộc, đặc biệt là có các dân tộc ở miền Trung và miền Nam, chúng ta mới đủ sức chống đỡ sức bành trướng Trung Quốc liên tiếp nhiều nghìn năm trong lịch sử. Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn đã nói:Chúng ta lập quốc nền tảng ở phương Nam (Minh Mệnh chính yếu). Tức là căn cước văn hóa để xác lập và trường trụ trên nền tảng phương Nam, khác với phương Bắc. Và cũng vì có phương Nam, chúng ta mới đủ sức trụ vững cho đến ngày nay, mới đủ sức vượt qua vòng kim cô thế giới Hán hóa để đến với thế giới văn minh. Nếu để Trung Quốc thực hiện đường cao tốc Bắc - Nam, có nghĩa chúng ta phải đối mặt với nguy cơ trở lại với thế giới Hán hóa thêm một lần nữa.

Như mọi người Việt đều biết, dù công khai hay không, một cái nhìn từ biển, Trung Quốc đang chiếm từng đảo của chúng ta đi dọc từ phía Bắc xuống Nam. Tham vọng điểm đến của họ sẽ là Trường Sa và nhiều đảo, cụm đảo khác và xa hơn nữa…. Với họ, không có điểm kết, lòng tham của họ là vô hạn. Điều này chắc không phải bàn cãi.

Còn đi vào đất liền, họ đã phân khúc Việt Nam với những lát cắt theo kiểu chiếc cầu “Nam Hải đại kiều” (cầu lớn Nam Hải) nối Đảo Hải Nam với Hà Tĩnh và những phân khúc dọc miền Trung xuống miền Nam.

Nếu như để nỏ thần trao tay giặc thì có phải là một phát nỏ sẽ chẻ dọc đất nước ta theo phương thẳng đứng từ đỉnh đầu (thủ đô Hà Nội liêng thiêng), dọc xuống miền Trung xương sống và đến tận cùng Nam Việt Nam.

Như vậy, nếu nhìn thẳng, đất nước ta sẽ bị chia làm đôi. Từ trước đến nay, cái chúng ta lo sợ miền Trung hẹp và bờ biển dài nên nguy cơ chia cắt đất nước theo chiều ngang rất cao. Nhưng chia cắt đất nước theo chiều dọc, chia cắt đất nước làm hai mảng Tây và Đông thì là lần đầu tiên trong lịch sử có một nguy cơ như vậy.

Phan Văn Thắng: Thực ra trong câu chuyện, từ đầu chúng ta đã nói đến chuyện an nguy của đất nước nếu TQ thắng thầu xây dựng cao tốc Bắc Nam. Ở đây tôi muốn chúng ta trao đổi kĩ hơn mà thôi. Thưa ông,sau khi có quyết định xây dựng cao tốc Bắc Nam, như ông biết, có nhiều thông tin về việc triển khai xây dựng nhất là việc lựa chọn nhà thầu. Có thông tin lan truyền về khả năng các nhà thầu TQ sẽ tham gia và trúng thầu vì như một quan chức Bộ GTVT thì “chỉ có các nhà thầu TQ quan tâm” đến công trình quan trọng này. Ông bình luận gì về thông tin này? Nếu điều đó trở thành hiện thực thì lợi và hại sẽ như thế nào?

Trịnh Định: Có chi tiết là, ngay sau khi Việt Nam có thông báo về xây dựng đường cao tốc Bắc Nam, nhà thầu Trung Quốc đã đến đặt vấn đề, tức là có khả năng họ biết trước thông tin và có sự chuẩn bị sẵn. Ý nghĩa của việc này là gì? Tại sao họ lại là người đầu tiên đến. Việc này dẫn đến nhiều suy tư? Như chúng ta đã biết, Trung Quốc sẽ trả thầu thấp nhất, như vậy rõ ràng các nhà thầu của các nước khác sẽ khó có cơ hội. Với sự nhạy cảm và kinh nghiệm của mình, các nhà thầu có tư cách họ sẽ rất cân nhắc hoặc thậm chí họ muốn tham gia nhưng sẽ không mặn mà hoặc không tham gia, bởi họ sẽ biết chắc rằng Trung Quốc sẽ thắng thầu. Vậy sự hiện diện sớm của nhà thầu Trung Quốc, mang rất nhiều ý nghĩa. Theo tôi, nó có nghĩa tuyên bố với các nhà thầu trên thế giới, miếng mồi này đã thuộc về Trung Quốc, nếu có tham gia vào cũng vô ích mà thôi. Bước đi này, thực sự có tính toán kỹ lưỡng từ không chỉ một bên, nếu bỏ thầu chỉ có một hồ sơ thì khi đó kết quả thế nào mọi người đều biết. Nếu điều đó trở thành hiện thực thì nguy cơ đất nước bị chia cắt theo chiều dọc không còn là nguy cơ, mà nó đang được, đúng hơn là bị, hiện thực hóa. Lúc đó, Sinh lộ  biến thànhtử lộ.

Phan Văn Thắng: Tôi cũng rất lo ngại về nguy cơ này nhưng không quá bi quan như ông. Vì tôi tin vào trí tuệ, bản lĩnh, kinh nghiệm của người Việt Nam mình không phải là dễ bị lừa. Vả lại, cha ông mình nói rồi, “cha nó lú có chú nó khôn”. Cha con An Dương Vương bị lừa nhưng rồi người Việt vẫn lấy lại được nước đó thôi, dẫu là giá quá đắt. Trở lại, ông có tin là người VN hoàn toàn có thể tự lực xây cao tốc Bắc Nam, con đường huyết mạch của đất nước? Vì sao?

Trịnh Định: Tôi không phải chuyên gia về xây dựng, tôi chỉ nhìn những nguy cơ của nó từ chiều lịch sử và ảnh hưởng và hệ quả chính trị nếu Trung Quốc tham gia xây dựng đường cao tốc. Về cá nhân, tôi tin và mong muốn người Việt chúng ta sẽ chủ động xây dựng sinh lộ cho mình, nếu cần tham vấn hoặc mời thầu thì nên lựa chọn những nhà thầu từ Nhật, Đức, châu Âu hoặc Mỹ....

Tôi tin rằng người Việt hoàn toàn làm được.

Phan Văn Thắng: Tôi lại tin hơn, rằng người VN sẽ không những làm được mà còn làm tốt. Theo ông, cần như thế nào để chúng ta không nằm trong vòng kim cô thế giới Hán hóa mới, vẫn có thể quan hệ bình thường, bình đẳng và không bị phụ thuộc với TQ?

Trịnh Định: Thế giới Hán hóa mới có cái tên chính thức rất mỹ miều là: Vành đai kinh tế con đường tơ lụa và con đường tơ lụa thế kỷ XXI, tức nói tắt là Vành đai - Con đường. Trong đó, dự án cao tốc Bắc - Nam là có thể được coi là đại dự án trọng điểm cơ sở hạ tầng chính trị của Vành đai của Trung Quốc ở Việt Nam.

Để quan hệ bình đẳng, bình thường và không phụ thuộc với tất cả các nước, đặc biệt là với Trung Quốc, đã có nhiều người nói rồi, tôi chỉ kể một chi tiết từ kinh nghiệm bản thân khi tôi đi ra nước ngoài thôi. Trong các chuyến đi đó, tôi ngộ ra một điều, khi nào mình tự tôn trọng mình, kiên quyết không quỳ gối thì họ sẽ tôn trọng mình. Theo tôi lý lẽ chỉ giản dị như vậy thôi. Nhưng làm được thì lại không dễ. Nên chỉ bằng cách giáo dục con người Việt Nam biết tự tôn trọng mình và không quỳ gốimới có thể làm được diều đó. Đến đây, tôi nhớ đến cụ Phan Chu Trinh và tinh thần vượt thời đại của cụ. Chỉ cần như vậy, đất nước mình, người Việt Nam mình sẽ được tôn trọng. Đây hoàn toàn là câu chuyện nhân cách không phải là câu chuyện tiền bạc.

Trên quan điểm tổng thể, với tư cách là một người dân, tôi đề nghị đến người có quyền lực cao nhất và chỉ người đó mới thấu hiểu điều này, cần quán triệt một nền tảng triết lý trên cơ sở thấu hiểu lịch sử, thấu hiểu tầm quan trọng của con đường, tính đặc biệt, độc đáo và vai trò của con đường Bắc Nam trong tiến trình hình thành quốc gia dân tộc để có một nhận thức sâu sắc và toàn diện về cao tốc Bắc Nam. Nó phải là tuyến đường đi tiếp của truyền thống cha ông, nó là sinh lộ chứ không phải tử lộ, không nên để lực lượng trấn yểm bên ngoài vào phá vỡ long mạch, huyết mạch, sinh lộ truyền thừa từ cha ông để lại.

Tóm lại, chủ trương và ý tưởng của Quốc hội và Chính phủ là đúng đắn. Nhưng cách làm là phải cân nhắc thật thấu đáo, kĩ càng. Phải luôn nhớ đây là con đường biểu tượng cho năng lực thống nhất Tổ quốc nên bắt buộc phải loại bỏ mọi nguy cơ tiềm ẩn từ chính nó.

Phan Văn Thắng: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này. Hi vọng vấn đề này sẽ được nhiều người quan tâm và trao đổi.

  
 Minh họa của Trần Nhương.

23 tháng 6, 2019

CÓ PHẢI TRUNG CỘNG ĐANG Ở THỜI ĐIỂM TAN RÃ? 
FB Nguyễn Quang Duy - Hai triệu người Hồng Kông xuống đường biểu tình chống Dự Luật Dẫn Độ, vào chủ nhật 16/6/2019, cho thấy sách lược “một quốc gia hai thể chế” đã hoàn toàn thất bại, hệ quả có thể là một Trung cộng chia năm xẻ bảy.Trong hình ảnh có thể có: 1 người, văn bản
Vì sao Anh trao trả Hồng Kông cho Bắc Kinh?
Theo Điều Ước Nam Kinh ký năm 1842, nhà Thanh vĩnh viễn nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc.
Sau đó, năm 1860, theo Điều Ứớc Bắc Kinh, lại nhượng vĩnh viễn cho Anh bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu.
Đến năm 1898, Anh Quốc lại thuê đảo Lạn Đầu và một số vùng phía bắc Cửu Long trong vòng 99 năm để lập ra khu Tân Giới.
Năm 1982, Anh Quốc ban đầu định giữ đảo Hồng Kông và bán đảo Cửu Long, còn trao trả phần còn lại cho Trung cộng nhưng bị Đặng Tiểu Bình bác bỏ.



Họ Đặng hứa sẽ đối xử với Hồng Kông như một lãnh thổ tự trị, tiếp tục duy trì hệ thống tự do chính trị, pháp lý, kinh tế, tài chính, văn hóa và giáo dục, chỉ ngoại giao và quân sự thuộc quyền kiểm soát của Bắc Kinh.

Lời hứa của họ Đặng được coi là sách lược “một quốc gia hai thể chế”.

Năm 1984, Tuyên bố chung Trung-Anh ra đời, Hồng Kông trở thành đặc khu hành chính thuộc Trung cộng, nhưng duy trì phương thức sinh hoạt tự trị trong ít nhất là 50 năm.

Phía Anh Quốc tin vào lời hứa, và nghĩ rằng sau cải cách kinh tế Trung cộng sẽ tiến hành cải cách chính trị, như tiến trình dân chủ hóa tại Đài Loan và Nam Hàn, nhưng điều này đã không hề xảy ra.

Ngày 4/6/1989, Trung cộng nổ súng tàn sát Phong Trào dânchủ tại Thiên An Môn.

Năm 1990, mặc dù bị Bắc Kinh phản đối, Thống đốc Chris Patten đã phê chuẩn Bộ Luật Cơ bản và cải cách phương pháp bầu cử vào Hội Đồng Lập Pháp Hồng Kông.

Chuyển giao êm thắm

Trước đây, Thống đốc Hồng Kông được Nữ Hoàng Anh bổ nhiệm, nhưng cư dân Hồng Kông có cuộc sống hoàn toàn tự do.

Luật pháp Hồng Kông được xây dựng dựa trên Luật pháp Anh, mọi quyền tự do đều được bảo đảm.

Hồng Kông là một thương cảng tự do và mở cửa hấp thu tư tưởng từ khắp nơi trên thế giới.

Kết quả chuyển giao tốt hơn mọi dự đoán, tới ngày trao trả, 1/7/1997, chỉ hơn 10% cư dân rời bỏ Hồng Kông, và sau đó không xảy ra một làn sóng thuyền nhân chạy trốn cộng sản như trường hợp Việt Nam.

Thời gian đầu, sinh hoạt chính trị Hồng Kông có phần cởi mở. Nhưng càng ngày mọi sinh hoạt chính trị càng bị kiểm soát và bị lèo lái bởi Bắc Kinh, làm dân Hồng Kông lo ngại các quyền tự do căn bản của họ sẽ bị Bắc Kinh tước đoạt dần dần.

Năm 2003, nửa triệu người tham gia biểu tình tuần hành phản đối Dự Luật An Ninh “chống lật đổ chính quyền” do Đặc Khu Trưởng Đổng Kiến Hoa (Tung Chee hwa) đề nghị.

Người biểu tình lo ngại Dự Luật này sẽ tước đi quyền tự do biểu lộ chính kiến, tự do ngôn luận và cả tự do tôn giáo, buộc Đổng Kiến Hoa phải hủy bỏ và sau đó từ chức.

Thời đại Tập Cận Bình.

Đầu năm 2014, Quốc hội Trung cộng tuyên bố đặc khu trưởng Hồng Kông sẽ do 1,200 đại cử tri đoàn bầu, và phải được Bắc Kinh bổ nhiệm.

Một cuộc trưng cầu dân ý trên mạng được mở ra đòi người Hồng Kông được quyền trực tiếp bầu Đặc Khu Trưởng. Trong ba ngày đã có gần 600 ngàn người tham dự ký tên.

Phong trào mở thêm 15 phòng bỏ phiếu với kết quả 787 ngàn người bỏ phiếu trong số 3.5 triệu người có quyền đi bầu.

Sau đó Phong Trào Dù Vàng dấy lên cuộc biểu tình đòi tự do bầu cử, làm tê liệt Hồng Kông trong vòng hai tháng, nhưng Tập Cận Bình dứt khoát không chấp nhận.

Năm 2017, bà Carrie Lam được bổ nhiệm làm Đặc Khu Trưởng, vào tháng 11/2018, bà đã cùng Ban cố vấn bay sang Bắc Kinh để gặp Tập Cận Bình.

Theo tin Tân Hoa Xã, ông Tập cho biết Hồng Kông phải ban hành các đạo luật an ninh quốc gia chống lại nổi loạn, lật đổ, ly khai và phản quốc.

Dự luật dẫn độ.

Nhân vụ án giết người ở Đài Loan nhưng thủ phạm lại bỏ trốn về Hồng Kông, bà Carrie Lam đề nghị Dự Luật Dẫn Độ cho phép đặc khu trưởng ký chấp nhận yêu cầu dẫn độ sang Đài Loan và Trung cộng, mà không cần thông qua Hội Đồng Lập Pháp.

Có ý kiến cho rằng nên gia tăng quyền tư pháp để những vụ án xảy ra bên ngoài Hồng Kông có thể được xử bởi tòa án Hồng Kông.

Chính phủ Đài Loan công khai biểu lộ lo lắng về quyền tự do của người Hồng Kông bị lạm dụng nên không đòi hỏi và cũng không chấp nhận việc dẫn độ về Đài Loan.

Bà Carrie Lam từ chối mọi đề nghị, làm dấy lên dư luận Trung cộng lợi dụng vai trò của đặc khu trưởng để giới hạn dần quyền tự do người Hồng Kông, họ lo sợ bị ghép tội, bị bắt bớ và bị xử không công bằng như vẫn thường xảy ra ở Trung cộng.

Mỹ can thiệp?

Thủ Tướng Anh Quốc, Theresa May, đã lên tiếng phản đối dự luật dẫn độ và tuyên bố sẽ xem xét lại Tuyên Bố Chung Anh-Trung năm 1984.

Năm 1992, Quốc Hội Mỹ thông qua Đạo luật Chính Sách Mỹ cho Hồng Kông một quy chế đặc biệt tự do và tự trị tách biệt khỏi Trung cộng.

Nhờ thế, Hồng Kông tiếp tục được chuyển giao kỹ nghệ tiên tiến, tự do thương mãi, tự do trao đổi giữa đô la Mỹ và đô la Hồng Kông, công nhận là trung tâm tài chính thế giới…

Đạo luật cũng trao cho tổng thống Mỹ quyền ban hành sắc lệnh trừng phạt nếu Hồng Kông mất quyền tự trị đầy đủ theo các điều khoản trong Tuyên Bố Chung 1984.

Trong hoàn cảnh hiện nay, một sắc lệnh như thế sẽ ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, kỹ nghệ và tài chính Trung cộng vốn đang trên đà tụt dốc.

Mọi hàng hóa từ Hồng Kông xuất cảng sang Mỹ sẽ bị cùng một mức thuế như hàng Trung cộng.

Trung cộng sẽ mất trung tâm tài chính Hồng Kông, vốn đầu tư sẽ bị rút khỏi Hồng Kông, các công ty Trung cộng sẽ bị phong tỏa tài chính từ nguồn tư bản của Mỹ và giá trị của các công ty nhà nước niêm yết trên sàn trao đổi chứng khoán của Hồng Kông sẽ sụt giảm thảm hại.

Ngày 12/6/2019, Quốc Hội Mỹ cho tu chính đạo luật về Hồng Kông năm 1992, yêu cầu Bộ Ngoại Giao mỗi sáu tháng phải phúc trình Quốc Hội về tình trạng tự trị của Hồng Kông, xem còn đáng hưởng quy chế đặc biệt nữa không.

Biểu tình, bài học cần rút tỉa…

Ngày 14/6/2019, từ trung tâm giam giữ Lục Chi Giác, Joshua Wong kêu gọi Mỹ phải đánh giá lại Đạo Luật Chính Sách Hồng Kông năm 1992, xem xét Đạo Luật Nhân Quyền và Dân Chủ Hồng Kông và điều chỉnh quan hệ giữa hai bên Mỹ-Trung.

Dân chúng Hồng Kông đều biết nếu Mỹ phong tỏa kinh tế Trung cộng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, nhưng vì tự do và dân chủ họ chịu hy sinh quyền lợi nên đã kêu gọi Chính Phủ và Quốc Hội Mỹ hành động.

Mọi người tham dự biểu tình có mục tiêu chung là phản đối dự luật dẫn độ, đòi bảo đảm quyền tự do và đòi bà Carrie Lam từ chức.

Mọi người quyết giữ những mục tiêu này và không cho bất cứ ai đại diện thương lượng hay tìm cách chia rẽ hàng ngũ để tránh "việc chưa thành đã tranh giành kết quả."

Cuộc tuần hành lên đến 2 triệu người, không có người tổ chức nhưng lại được tổ chức một cách toàn hảo nhờ ý thức trách nhiệm của mọi người.

Họ tự động sửa soạn mọi thứ, thay vì dựa vào người khởi xướng, tổ chức hay lãnh đạo và liên kết gắn bó với nhau.

Mọi người nhịp nhàng kết hợp giữa đấu tranh ôn hòa và đấu tranh bạo lực, không tranh cãi về phương cách đấu tranh.

Khi cảnh sát tấn công đàn áp, người ôn hòa rút xuống phía dưới, nhường chỗ cho những thanh niên sẵn sàng đối đầu ngăn chặn cảnh sát.

Lực lượng cảnh sát ít lại bị chia mỏng so với số người biểu tình, và với sự hổ trợ của truyền thông báo chí, của những người không đi biểu tình nên kết quả nhà cầm quyền phải thối lui.

Mặc dù bà Carrie Lam đã xin lỗi và tuyên bố hoãn dự luật dẫn độ nhưng mọi người tiếp tục đòi bà phải từ chức và kêu gọi tiếp tục biểu tình làm áp lực.

Nếu bà Carrie Lam từ chức thì sẽ là một thất bại vô cùng to lớn của Tập Cận Bình trước các đối thủ trong đảng cộng sản và trước thế giới, vì thế họ Tập sẽ không chấp nhận, ngay cả khi bà Carrie Lam thực sự muốn từ chức.

Trung cộng đang tan rã?

Tập Cận Bình vừa ngon ngọt “một quốc gia, hai thể chế” với Đài Loan, lại vừa hăm dọa sẽ sử dụng vũ lực để thống nhất đất nước.

Tổng Thống Đài Loan Thái Anh Văn tuyên bố Đài Loan ủng hộ Hồng Kông, bà cho biết:

“Tự do là một giá trị mà người dân Đài Loan trân trọng, Đài Loan đang ngày càng tự do dân chủ hơn, trong khi Hồng Kông đang mất dần tự do…”

Chủ nhật vừa qua, trước Quốc Hội Đài Loan, khoảng 10 ngàn người biểu tình mang theo biểu ngữ “Đài Loan ủng hộ Hồng Kông”, “Nói không với luật dẫn độ sang Trung cộng” và kêu gọi Quốc Hội chính thức ra tuyên bố lên án Dự Luật Dẫn Độ của Hồng Kông.

Gần đây, Mỹ thông qua “Đạo Luật Bảo Đảm Đài Loan 2019”, ủng hộ Đài Loan tăng chi tiêu quốc phòng, thường xuyên bán vũ khí, dụng cụ quốc phòng cho Đài Loan, ủng hộ Đài Bắc tham gia các tổ chức quốc tế, nhìn nhận Đài Loan là quốc gia và sử dụng Quốc kỳ Đài Loan.

Lời hứa “một quốc gia, hai thể chế” không được thực hiện nên Hoa Kỳ cũng đang từng bước nhìn nhận lại Đài Loan và Hồng Kông như hai thể chế độc lập.

Nhà Thanh đã nhường vĩnh viễn đảo Hồng Kông, bán đảo Cửu Long và đảo Ngang Thuyền Châu cho Anh Quốc, nên nhiều người Hồng Kông muốn thành phố của họ quay về với nước Anh và được độc lập với Trung cộng.

Thế giới cũng đang rất quan tâm đến hàng triệu người Tân Cương đang bị giam trong các trại tù "tập trung cải tạo" ở Trung cộng.

Tình hình an ninh và chính trị Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và nhiều nơi khác cũng không được ổn định, vì thế Bắc Kinh phải thiết lập cả hệ thống an ninh dùng kỹ nghệ tối tân để kiểm soát toàn bộ xã hội và kiểm soát ý thức chính trị của người dân.

Quốc Hội Mỹ hiện đang xem xét việc chế tài các công ty cộng tác với Bắc Kinh trong việc đàn áp nhân quyền.

Tiến trình sụp đổ nhanh chóng của Đông Âu và Liên Xô trước đây dường như đang tái diễn.

Các tiền đồn cuối cùng của Xã Hội Chủ Nghĩa bao gồm Trung cộng, Bắc Hàn, Việt Nam,… đang bộc lộ những khủng hoảng khó có thể thoát qua.

Hồng Kông, Đài Loan, Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông… sẽ đứng lên giành lại tự do và độc lập.

Việt Nam sẽ thoát khỏi sự thống trị tàn ác của đảng cộng sản Việt Nam, và thế giới sẽ thanh bình, thoát khỏi ác mộng bá chủ toàn cầu của Tập Cận Bình và nhà cầm quyền cộng sản Bắc Kinh.

Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
19/6/2019