3 tháng 1, 2019

HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ NỘT CUỘC CHUYỂN HÓA DÂN CHỦ THẤT BẠI TẠI NGA?
Việt Anh











Từ một viễn cảnh dân chủ với một tương lai tươi đẹp có được năm 1991, nước Nga kết thúc bởi chế độ độc tại mafia của Putin. Đây không phải một sự kiện diễn ra ngẫu nhiên, nó là kết quả của lối làm chính trị vụng về, vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Hậu quả của tiến trình dân chủ hóa thất bại thì quá rõ. Nga là đất nước rộng nhất thế giới với 145 triệu dân. Nó có nguồn khoáng sản phong phú và có một nền văn minh tương đối. Ngày nay, Nga là một nước hầu như không biết sản xuất, chế tạo. Hoạt động kinh tế của Nga chủ yếu là khai thác dầu mỏ, than đá và khí đốt. Nga tụt hậu hơn rất nhiều so với các nước châu Âu khác và thế giới nói chung, đang không ngừng vươn lên về công nghệ-kĩ thuật... Chúng ta rút ra được bài học gì từ nước Nga?


“LÀN GIÓ” KHÔNG MANG LẠI ĐỔI THAY!

Tôi đặt bút viết những dòng này vào ngày cuối cùng của năm 2018. Đây là thời khắc mà người ta thường nhìn lại rõ những gì đã xảy ra trong năm cũ, cũng như đón đợi mọi sự tốt đẹp nhất của một năm mới. Với một thiểu số ít ỏi những người Việt quan tâm đến đất nước như chúng ta, chắc hẳn không có một mơ ước nào to lớn hơn mơ ước về một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do.
Vào thời điểm này tôi thường nghe lại ca khúc nổi tiếng “Wind of Change” (tạm dịch “Làn gió đổi thay”), bài hát mà tôi nghe lần đầu tiên không phải trên một kênh đài phương Tây, mà trên Đài Phát thanh Tiếng Nói Việt Nam chuyên mục nhạc ngoại. Bài hát được sáng tác bởi nhóm trưởng của ban nhạc Đức Scorpions Klaus Meine và được ban nhạc này trình diễn rất thành công, Nó được công bố trước công chúng vào ngay tháng một năm 1991, sau cuộc đảo chính Gorbachev của quan chức Liên Xô thất bại dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ khối Liên Xô.
“Wind of change” là một bài hát Anh ngữ hiếm hoi ghi lại sự hân hoan, niềm hưng phấn vào thời khắc Liên Xô bắt đầu có dấu hiệu rung chuyển. Vào tháng 8 năm 1991, các thành viên trong chính quyền Liên Xô tìm cách đảo chính lật đổ Gorbachev và đã hạ bệ ông trong một thời gian ngắn ngủi. Sự kiện này đã giáng đòn cuối cùng vào chế độ cộng sản Liên Xô, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của nó.

Vào ngày 21 tháng 12 năm 1991, bản tin ngắn trên truyền hình Nga bắt đầu với một tuyên bố dõng dạc: “Chào buổi tối. Đây là chương trình thời sự. Liên Xô không còn tồn tại”.
Đến ngày Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 1991, một ngày cuối năm sương tuyết, lá cờ đỏ búa liềm bị hạ xuống sau 70 năm ngự trị trên nóc điện Kremli. Vào sáng hôm đó, Mikhail Gorbachev từ chức khỏi vị trí chủ tịch Liên Xô. Thực ra, cũng không chính xác lắm khi nói Gorbachev từ chức chủ tịch Liên Xô, vì 11 nước trong khối Cộng Hòa Xô Viết đã thành lập một liên minh độc lập (CIS) ly khai khỏi Liên Bang Xô Viết, đánh dấu sự chấm hết của Liên Bang này với tư cách là một khối. Trong diễn văn từ chức của mình, Gorbachev nói:
“Chúng ta đã có tất cả mọi thứ, đất đai, mỏ dầu, khí tự nhiên và các tài nguyên thiên nhiên khác. Chúng ta cũng có đầy những trí tuệ và tài năng. Tuy nhiên, chúng ta có cuộc sống tồi tệ hơn nhiều nước công nghiệp hóa và chúng ta đang thụt lùi đằng sau họ. Lý do thật nhà hiển nhiên. Đất nước này đã bị bóp nghẹt bởi xiềng xích của hệ thống chỉ huy quan liêu. Chúng ta bị cuốn vào ý thức hệ, chịu đựng gánh nặng khổng lồ của cuộc đua vũ trang, những điều đó đã dẫn tới bước ngoặc ngày hôm nay.”
Gorbachev thừa nhận những cuộc cải tổ nửa vời của ông đã thất bại hoàn toàn, nước Nga nay cần phải được hưởng tự do, dân chủ và loại bỏ chế độ độc tài đã ngăn chặn Nga trở thành một nước giàu có và phồn vinh bấy lâu nay.
Như vậy, vào khoảng thời gian này 27 năm về trước, chế độ Liên Xô chính thức sụp đổ. Đây là một trong những sự kiện được đánh giá là quan trọng nhất của thế kỉ trước. Nó đánh dấu sự chấm hết của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới sau thế chiến thứ Hai. Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hầu hết mọi nơi trên thế giới, hoàn toàn tại Nga và Đông Âu. Khối Xô Viết tưởng chừng vững chắc là vậy nhưng rồi đã tan rã sau 74 năm thành lập và sự kiện này cũng đánh dấu hồi kết của thời kì chiến tranh lạnh kéo dài khoảng gần nửa thế kỷ giữa hai khối siêu cường Mỹ và Liên Xô.
Vào thời điểm này, tâm lý chung của người Nga là hướng tới một xã hội dân chủ và phồn thịnh, cộng đồng thế giới đón đợi một nước Nga mới, thân thiện và có nhiều đóng góp tích cực cho thế giới. Ca khúc “Wind of Change” cũng gửi gắm ước mơ đó; một thế giới không còn sự thù địch, mọi quốc gia coi nhau như những người anh em.
Tuy nhiên, ngày nay nước Nga đã đi theo một hướng hoàn toàn khác, hoàn toàn trái ngược với mong ước của thế giới vào thời điểm bấy giờ. Nó không dân chủ cũng chẳng thân thiện hơn. Hôm nay nước Nga vẫn là một nước độc tài tập trung quyền lực vào tay tổng thống Nga Vladimir Putin. Với một đội ngũ tư bản thân hữu trung thành, Putin thành công trong việc kiểm soát hệ thống tư pháp, truyền thông, Công Giáo Chính thống và đàn áp đối lập. Nga vẫn tiếp tục cấm các nhân vật đối lập tham gia tranh cử và chỉ riêng tháng tư và tháng năm, chính quyền Putin đã hạ sát hai nhà báo bất đồng chính kiến.
Với cộng đồng thế giới, Nga không hề bày tỏ một chút thiện cảm nào. Từ năm 2014 sau cuộc cách mạng Maidan tại Ukraine, Nga đã cưỡng chiếm bán đảo Crimea thông qua một cuộc trưng cầu dân ý bất chính.
Nga không ngừng tài trợ cho hai nước cộng hòa tự xưng là Donetsk và Luhansk tại miền Đông Ukraine. Vào năm 2015, Nga nhân danh chống khủng bố, can thiệp quân sự vào Syria để trợ giúp cho chế độ diệt chủng của Bashar al-Assad và tăng cường sự hiện diện của mình tại Trung Đông. Không chỉ thế, vào năm 2016, Nga tiếp tục can thiệp mạnh tay vào chính trị phương Tây điển hình là hành động can thiệp vào bầu cử tổng thống Hoa Kì và đầu độc hai công dân Anh.
“Wind of Change” hóa ra không mang đến sự đổi thay cho nước Nga như ý nghĩa của nó. Trái với hưng phấn ban đầu của thời khắc Liên Xô sụp đổ, nước Nga thu về một chế độ độc tài khác. Rõ ràng, nước Nga không hề dân chủ và thân thiện hơn sau làn sóng dân chủ thứ ba quét sạch chủ nghĩa cộng sản khỏi phần lớn của thế giới.

TẠI SAO DÂN CHỦ HÓA THẤT BẠI TẠI NGA?

Nước Nga đã đứng trước một cơ hội đổi đời, nhưng nó đã thất bại trong cuộc chuyển hóa về dân chủ, để rồi cuối cùng bị cai trị bởi một chế độ độc tài mafia của Putin. Có phải ngẫu nhiên mà nước Nga thất bại dân chủ hóa?
Để giải đáp câu hỏi này, đầu tiên chúng ta hãy cùng trở lại trường hợp Gorbachev, một nhân vật ít nhiều có yếu tố quyết định tới sự sụp đổ của Liên Xô và mở ra một kỷ nguyên mới cho thế giới. Nhiều người cho rằng chúng ta phải cảm ơn Gorbachev, vì ông là người chính thức khai tử chế độ cộng sản Xô Viết. Dù người ta có nhiều quan điểm khác nhau về ông, không thể phủ nhận rằng ông dũng cảm vì ông dám nói ra một phần sai lầm của mình trong khi giới chính trị gia thường hiếm khi thừa nhận lỗi lầm của họ. Gorbachev đã từng thừa nhận cộng sản là một thứ chủ nghĩa dối trá, bịp bợm và cả nửa đời ông đã phục vụ cho sự dối trá, bịp bợm ấy. Ông đã từng tuyên bố, đáng lẽ ra ông phải rời khỏi cái đảng ấy sớm hơn thế. Nhiều người từng chỉ trích Gorbachev là thành vẫn hữu khuynh trong đảng cộng sản, cho rằng ông là người đã phản bội lại lý tưởng của mình, để cho chế độ cộng sản Liên Xô sụp đổ. Tuy nhiên, Gorbachev không hề muốn Liên Xô sụp đổ, thậm chí ông còn là một trong những người cộng sản trung kiên nhất bảo vệ Đảng.
Gorbachev là một sản phẩm của chế độ, ông trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô không phải nhờ thân phương Tây, mà bằng cách thăng tiến trong bộ máy của Đảng. Gorbachev lên cầm quyền vào năm 1985, thời điểm Liên Xô và khối cộng sản gặp nhiều khó khăn lớn.
Người tiền nhiệm của ông Leonid Brezhnev đã đánh đổi hết nguồn tiền mà Nga thu được từ thập kỉ vàng của dầu mỏ (1960-1970) để chi viện cho các cuộc chiến bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô tại chiến trường Trung Đông và chạy đua vũ trang với Hoa Kì. Khi giá dầu mỏ thế giới tụt dốc thì Liên Xô rơi vào tình trang chao đảo khó khăn về kinh tế và xã hội, nhà nước hoàn toàn kiệt quệ về tài chính. Trong khi đó, sự nhất trí trong nội bộ khối Cộng Sản đã suy yếu đi trông thấy, đảng cộng sản tại nhiều nước đều trên tâm thế rã hàng và Liên Xô không còn đủ sức can thiệp quân sự hay viện trợ để cứu các quốc gia vệ tinh Đông Âu của mình một khi cách mạng xảy ra. Bản thân đảng cộng sản Liên Xô cũng lung lay và tê liệt. Trước những tình hình đó, Gorbachev được chọn để tiến hành một cuộc cải tổ bắt buộc để cứu lấy một chế độ đang có nguy cơ sụp đổ.
Có hai chính sách quan trọng mà Gorbachev đã thực hiện. Ngay khi lên cầm quyền Gorbachev đề xuất giảm 50% việc vận hành vũ khí hạt nhân và hướng về kết thúc chiến tranh lạnh dù không được chấp thuận hoàn toàn.
Năm 1988, chính quyền Gorbachev đã cho phép các cá nhân được kinh doanh quy mô nhỏ như các cửa hàng và tiệm ăn, quán café dưới chính sách Perestroika (Tái Thiết). Theo nghĩa đó, tư nhân được phép hoạt động và thu về lợi nhuận dù nhà nước vẫn kiểm soát mức giá và phần lớn các phương tiện sản xuất. Các doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu được phép hoạt động ở Liên Xô. Như năm 1990, người ta thấy cửa hàng Mc Donald đầu tiên được mở tại Moscow.
Glasnost (Mở/ Minh Bạch) cho phép đất nước tự do hơn về mặt chính trị, việc chỉ trích đảng cộng sản và các quan chức diễn ra công khai khiến nhiều quan chức phải từ chức. Vào đại hội thứ 19 của Đảng năm 1988, điều 6 Hiến Pháp quy định đảng cộng sản là lãnh đạo duy nhất của đất nước đã bị hủy bỏ. Các đảng phái bắt đầu được hoạt động tự do, mở rộng thảo luận và bầu cử. Và lần đầu tiên các đảng viên đảng cộng sản bội thất của tại địa phương.
Gorbachev đã được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình vì ông đã tạo điều kiện thuận lợi để bức tường Bá Linh sụp đổ trong hòa bình. Ông đại diện cho thế hệ lãnh đạo Liên Xô đầu tiên sinh ra sau thế chiến thứ nhất, trẻ trung và ít giáo điều. Gorbachev cũng được xem như một nhân vật thân thiện với phương Tây. Tuy nhiên, trong mọi phát ngôn trước công chúng và báo chí phương Tây Gorbachev đều “lên án mạnh mẽ” mọi âm mưu phá hoại sự ổn định và cầm quyền của đảng cộng sản và khối Liên Bang Xô Viết. Gorbachev chưa bao giờ có ý định dẹp bỏ đảng cộng sản và dân chủ hóa đất nước, cuộc cải tổ của ông được thực hiện nhằm mục đích cứu vớt đảng cộng sản. Các chính sách cải tổ như Glasnost hay Perestroika của Gorbachev hầu hết đều nửa vời nhằm giúp đảng cộng sản Liên Xô ứng phó với những tình huống khẩn cấp của thời đại. Nhưng thay vì cứu được Đảng Cộng Sản Liên Xô, các cải tổ trên góp phần đẩy nhanh mâu thuẫn và quá trình sụp đổ của nó.
Sau khi Gorbachev từ chức, đất nước Nga bước vào một giai đoạn chuyển tiếp cực kì quan trọng. Chính quyền mới một mặt phải giải quyết những hậu quả to lớn do chế độ cộng sản để lại, một mặt phải tiến hành công việc dân chủ hóa đất nước. Vào thời điểm này, không khí lạc quan dân chủ tràn ngập nước Nga bất chấp những khó khăn hiện tại về kinh tế, đại đa số dân chúng đều đồng thuận rằng nước Nga cần đi đến việc dân chủ hóa đất nước. Tuy nhiên, một điều nghịch lý là giới đối lập Nga hoàn toàn không có một sự chuẩn bị nào để đáp lại nguyện vọng dân chủ của nhân dân và cho cuộc chuyển hóa vĩ đại này.
Yeltsin là một cựu quan chức cộng sản sau trở thành một chính trị gia đối lập và được bầu là tổng thống đầu tiên của Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Có lẽ thực tâm ông mong nước Nga có được dân chủ như phần lớn các nước phương Tây. Tuy nhiên, cũng như các lãnh đạo Nga thời hậu cộng sản khác khác, Yeltsin thuộc về một tầng lớp thế hệ cũ còn chưa dứt khoát được tâm lý độc tài. Ông không có một tư tưởng, một viễn kiến nào cho nước Nga dân chủ hết sức mới mẻ này, ông cũng không có một đội ngũ chính trị đủ để thực hiện cuộc chuyển hóa về dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của mình, Yelstin có tới bốn lần thành lập các chính phủ. Các chính quyền này đều tồn tại trong ngắn hạn và thất bại.
Sau khi lên nắm quyền, Yeltsin cho mời một nhóm trí thức bởi Igor Timirovich Gaidar tham gia chính quyền để giải quyết bài toán kinh tế của Nga. Một thời gian không lâu sau đó, Yeltsin loại Gaidar khỏi chính quyền để liên minh với nhóm quan chức cựu cộng sản Viktor Chernomyrdin khi các chính sách cải tổ được đề xướng bởi Gaidar vẫn đang được tiến hành dang dở.
Năm 1993 chứng kiến những căng thẳng trong chính trường Nga. Các chương trình cải cách kinh tế nửa vời của Yeltsin làm tình hình kinh tế xấu đi (năm 1992 tăng trưởng kinh tế chạm đáy -19%). Nhiều chính trị gia ra mặt chống chính sách cải tổ nửa vời của Yeltsin, yêu cầu một cải tổ triệt để. Điều này dẫn đến một cuộc tranh chấp quyền lực giữa tổng thống và Quốc Hội và cuối cùng kết thúc bằng một cuộc bạo lực khiến tới hàng trăm người chết và bị thương. Để dàn xếp cuộc khủng hoảng năm 1993, Yeltsin mời Gaidar trở lại thành lập một chính quyền mới mà thực chất chỉ nhằm mục đích ổn định tình hình và bảo toàn hình ảnh của Yeltsin như một nhân vật cải tổ trong con mắt của nhân dân Nga và cộng đồng quốc tế. Ngay sau khi tình hình ổn định, Gaidar bị buộc phải rời khỏi chính quyền.
Mùa hè năm 1997, Yeltsin thành lập một nhóm ‘những người cải tổ trẻ ”gồm hai nhân vật tiêu biểu Anotoli và Boris Nemtsov. Nhóm này được thành lập để mang lại bộ mặt mới cho chính quyền Yeltsin, và một mặt vẫn tiếp tục thực hiện những chính sách cũ đã chứng tỏ thất bại từ những ngày đầu.
Vào tháng Ba năm 1998 khi thời điểm bầu cử bắt đầu đến gần, Yeltsin cho mời Sergei Kirienko về làm thủ tướng. Chính quyền Yeltsin-Kirienko cố gắng trong tuyệt vọng cải thiện tình hình và đối phó với sự bất mãn, chán nản của quần chúng ngày một dâng cao. Để rồi năm 2000, Yeltsin biết rõ là sẽ thất cử trong cuộc bầu cử tổng thống sắp đến nên đã “nhường ngôi” lại cho Putin. Cũng từ đây, nước Nga quay trở lại chế độ độc tài chống phương Tây.
Nước Nga tuột mất cơ hội chuyển hóa về dân chủ và quay trở lại thành một chế độ độc tài khác. Chúng ta có thể giải thích sự thất bại đó như thế nào? Vào thời điểm chín muồi của cuộc cách mạng dân chủ tại Nga, giới đối lập nước này hoàn toàn yếu ớt, họ hoạt động trong các tổ chức xã hội dân sự lẻ tẻ, không có năng lực tham gia vào tiếp quản đất nước Nga hậu cộng sản. Tại Nga thời điểm bấy giờ, hoàn toàn thiếu một tổ chức chính trị đối lập có uy tín và tầm vóc. Một điều nghịch lý là phần lớn những người tiếp quản nhà nước dân chủ mới thành lập là những cựu quan chức cộng sản, từ bỏ Đảng Cộng Sản để đứng về phía dân chủ đại diện bởi Yeltsin. Họ là những con người vụng về, thiếu viễn kiến và hoàn toàn không phù hợp để tiếp quản một đất nước chuyển tiếp lên dân chủ. Yeltsin không hề có lấy một đội ngũ, một tổ chức chính trị đàng hoàng, ông thành lập chính phủ bằng cách triệu tập những nhân vật cải cách vào chính quyền của mình, rồi lại sẵn sàng đuổi họ một cách tùy tiện. Chính quyền Yeltsin tiếp quản đất nước một cách vụng về và cẩu thả.
Yeltsin tiếp tục cho tư nhân hóa lĩnh vực công từ thời Gorbachev, với hy vọng sự phát triển của tư nhân sẽ thúc đẩy nền kinh tế. Nhưng ông thậm chí còn không đưa ra một định nghĩa cụ thể về mặt luật pháp như “tư nhân hóa” hay “sở hữu” là gì và phải được tiến hành như thế nào? Quá trình tư nhân hóa này đã giải giáp toàn bộ hệ thống kinh tế chỉ huy dưới thời Liên Xô, nhưng sự cẩu thả của chính sách tư nhân hóa đã dẫn tới sự hình thành của một tầng lớp tư bản cơ hội, những kẻ nhanh chóng chiếm đoạt các khối tài sản mà trước đây thuộc về nhà nước. Giới tư bản này nhanh chóng bắt tay với quyền lực chính trị, trở thành cái móng vững chắc cho một chế độ độc tài mới của Nga.
Sự vụng về của Yeltsin còn vô tình gây ra những cuộc xung đột sắc tộc không đáng có. Nga vốn là một nước có tình hình khá phức tạp về sắc tộc, Stalin còn làm tình hình đó phức tạp hơn bằng cách lưu đầy những người thuộc cộng đồng thiểu số khỏi lãnh thổ của họ.
Vào những năm đầu của thập niên 90 Yeltsin cho phép những dân tộc thiểu số trở về vùng đất của mình. Đây là một quyết định được chào đón, tuy nhiên ông đã không lường trước được hậu quả rằng tranh chấp lãnh thổ có thể xảy ra. Cụ thể, sau chiến tranh lạnh, người Inguish bị Liên Xô kết án “hợp tác với phát xít”. Vào năm 1944, quân đội được triển khai để tiến hành trục xuất những người thuộc cộng hòa Inguish, mọi cố gắng chống trả đều dẫn tới cái chết. Họ bị mang đi tới Kazakhstan, vùng đất xa lạ cách hàng ngàn cây số từ quê hương của mình. Những người Ossetian sau đó đến sinh sống trên vùng đất trống và trở thành chủ sở hữu của vùng đất này. Vì không có sự tính toán kĩ lưỡng, cho nên khi những người Ingush được trở về vùng đất của họ vào tháng mười năm 1992 thì bạo lực, xung đột tranh chấp đất ngay lập tức xảy ra.
Từ một viễn cảnh dân chủ với một tương lai tươi đẹp có được năm 1991, nước Nga kết thúc bởi chế độ độc tại mafia của Putin. Đây không phải một sự kiện diễn ra ngẫu nhiên, nó là kết quả của lối làm chính trị vụng về, vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Hậu quả của tiến trình dân chủ hóa thất bại thì quá rõ. Nga là đất nước rộng nhất thế giới với 145 triệu dân. Nó có nguồn khoáng sản phong phú và có một nền văn minh tương đối. Ngày nay, Nga là một nước hầu như không biết sản xuất, chế tạo. Hoạt động kinh tế của Nga chủ yếu là khai thác dầu mỏ, than đá và khí đốt. Nga tụt hậu hơn rất nhiều so với các nước châu Âu khác và thế giới nói chung, đang không ngừng vươn lên về công nghệ-kĩ thuật.

CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ BÀI HỌC DÂN CHỦ HÓA THẤT BẠI CỦA NGA?

Dù không có một sự tương đồng nào cụ thể giữa Gorbachev và ông Nguyễn Phú Trọng, tuy nhiên ông Nguyễn Phú Trọng hiển nhiên đang ở vị trí của Gorbachev và thực hiện những gì mà Gorbachev cũng từng làm. Trong năm 2018 vừa qua, ông Trọng trở thành người nắm giữ nhiều quyền lực trong đảng nhất, một lúc đồng thời giữ hai vị trí là Chủ tịch nước (người đứng đầu nhà nước) và Tổng bí thư (người đứng đầu đảng). Đứng trên đỉnh cao của danh vọng như vậy, ông Nguyễn Phú Trọng được Đảng giao phó thực hiện một cuộc cải tổ lớn và quan trọng để cứu đảng cộng sản Việt Nam mà nhìn ở đâu, từ góc độ nào cũng thấy nguy ngập.
Nhưng liệu ông Nguyễn Phú Trọng có đáp lại được sự tin cậy của Đảng và đưa Đảng của ông vượt qua sự nguy khó này không? Bản thân ông Trọng dường như cũng suy nghĩ nhiều về điều đó, trái với một sự lạc quan ngày nhậm chức, ông Trọng tỏ ra khá lo lắng. Ông cho rằng trách nhiệm trước mắt là “hết sức nặng nề” và ông không chắc rằng bản thân ông có thực hiện nổi những gì được giao phó không. Ông Tổng bí thư còn ngẫu hứng trích dẫn hai câu Kiều để minh họa cho tâm trạng cô đơn và lo lắng của mình:
“Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn hay không!”
Ông Nguyễn Phú Trọng lo lắng như vậy cũng hoàn toàn có lý của mình. Bản thân ông biết mình không phải là một người kiệt xuất, cũng không có một thành tích gì cụ thể và cả đời ông chỉ biết đến Marx- Lênin, một tư tưởng đã lạc hậu, lỗi thời hàng thế kỉ. Một con người chỉ biết đến chủ nghĩa Mác Lê như vậy có thể làm gì trước một thế giới với đầy những biến động và đổi thay?
Các chiến dịch chống tham nhũng để cứu vớt Đảng của ông liệu có thành công không? Đảng Cộng sản từ lâu đã không còn một lý tưởng nào, nó tồn tại như một liên minh các nhóm lợi ích và tham nhũng. Ông Trọng chống tham nhũng bằng cách đang đánh thẳng vào tử huyệt của chế độ. Nhìn vào lịch sử, hiếm thấy một chế độ độc tài nào thành công trong việc cải cách, các chế độ độc tài đều sụp đổ trong khi nó cố gắng cải cách và hẳn là công cuộc cải tổ đảng dưới sự lãnh đạo của ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không phải là một ngoại lệ. Những cố gắng của ông Trọng chỉ là dã tràng xe cát biển Đông mà thôi!
Ông Trọng cố cứu lấy đảng để làm gì? Khó có thể tưởng tượng rằng ông làm vậy vì lợi ích, địa vị cá nhân. Ở độ tuổi của ông làm gì còn ai đủ sức để mơ tưởng đến quyền lực, địa vị hay tiền bạc. Nếu vì Đảng thì càng vô lý vì ông chẳng có lý do gì để cứu lấy một tập đoàn tham nhũng và không còn lý tưởng. Đảng cộng sản Việt Nam không còn có lý do để tồn tại vì ngày nay chẳng ai còn tin vào chủ nghĩa cộng sản. Ngay cả những đảng viên cũng đã bắt đầu từ bỏ, xa lánh Đảng mà một đời họ đã gắn bó.
Ông cứu làm chi một đảng đã không còn một tương lai nào? Còn vì đất nước thì ông Trọng nên hiểu rằng con đường duy nhất của đất nước này là con đường dân chủ hóa. Như vậy, ông cần phải tạo điều kiện cho đất nước hướng về dân chủ hơn là cố giữ lấy Đảng của ông.
Vào thời điểm cuối năm nay, ông Nguyễn Phú Trọng tuyên bố đất nước đang đi lên, đảng và nhà nước giành được thắng lợi lớn về mọi mặt. Kinh tế tăng kỷ lục từ năm 2008, GDP ở trên mức 7.0%. Tuy nhiên, cũng ngay tại thời điểm đó, 152 du khách Việt Nam bất chấp thể diện và nguy hiểm, trốn lại ở Đài Loan để được làm lao động trái phép.
Thời cơ dân chủ hóa đất nước của Việt Nam đang đến gần trước mắt, bất kể thời gian tới ông Trọng có lựa chọn thế nào. Tuy nhiên, đây cũng là một thời điểm mà ý thức và trách nhiệm phải được đặt trên hết. Trí thức Việt Nam cần ý thức rõ ràng rằng họ sắp phải gánh vác một trách nhiệm cực kì lớn lao, họ sẽ là lực lượng chính đưa Việt Nam chuyển tiếp về dân chủ và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước chúng ta. Nhưng đây cũng là một nhiệm vụ đầy thử thách vì chúng ta không được phép làm sai và không còn cơ hội sửa sai. Chúng ta là một trong những nước cuối cùng trên thế giới đang sống dưới chế độ độc tài, chúng ta đã chậm chân trong cuộc đua toàn cầu và nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn là có thật.
Bài học về quá trình dân chủ hóa của nước Nga đắt giá với Việt Nam vì nó chứng minh cho chúng ta thấy rõ rằng lối làm chính trị không có tổ chức và thiếu vắng một “dự án chính trị” sớm muộn gì cũng đem tới thất bại. Để phong trào dân chủ Việt Nam thành công, nhất thiết chúng ta cần phải có một dự án chính trị được đặt trên những nền tảng đúng đắn với một tổ chức chính trị có tầm vóc để chuyên chở dự án chính trị đó.
Nếu những người trí thức Việt Nam đặt đất nước lên hàng đầu, chúng ta cần nghiêm khắc nói không với lối hành động nhân sĩ vô tổ chức và thiếu một dự án chính trị nghiêm chỉnh. Sự thiếu ý thức và vô trách nhiệm với dân tộc tại thời điểm này là có lỗi lớn với đất nước, với dân tộc. Đây là thời điểm của những người trí thức chính trị nặng lòng với đất nước, chúng ta cần phải tìm đến với nhau. Những vấn đề lớn của dân tộc cần được được thảo luận một cách tương kính trong tình huynh đệ. Đây là thời điểm mà trí thức Việt Nam cần có một sự chuẩn bị thực sự nghiêm túc cho một giai đoạn đầy thử thách sắp tới.
Thời khắc giao thừa giữa năm cũ và năm mới thường mang lại cho chúng ta niềm hy vọng, lạc quan và cảm hứng mới. Chúc cho phong trào dân chủ trong năm 2019 sẽ đạt thêm nhiều bước tiến mới quan trọng. Chúc những trí thức, người yêu nước Việt Nam ngày càng tự tin và lớn mạnh hơn để trở thành những người dẫn dắt phong trào dân chủ Việt Nam.



Việt Anh (1/1/2019)

24 tháng 12, 2018

Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
Sóng Việt Đàm Giang • Chủ Nhật, 23/12/2018 •

Cách đây hơn 125 năm, Việt Nam chúng ta cũng đã có một tượng Nữ Thần Tự Do. Vậy lịch sử tượng Tự do soi sáng Thế giới (thông thường được gọi là Nữ Thần Tự Do) từ khi xuất hiện cho đến khi biến mất tại Hà Nội, Việt Nam, là như thế nào? 


Trái: Đảo Tự do, Mỹ; Giữa: Đảo Thiên Nga, sông Seine, Pháp; Phải: Vườn Hoa Cửa Nam, Việt Nam.

Trước hết cần có vài hàng nói về tượng Nữ Thần Tự Do tại cảng New York.
Tượng Nữ Thần Tự Do tại hải cảng New York trên đảo Liberty phía nam đảo Ellis là một món quà đặc biệt của Pháp tặng Hoa Kỳ và được chính thức khánh thành ngày 28 tháng 10, 1886, sau hơn hai năm thực hiện tượng cùng làm chân đài, để kỷ niệm lễ độc lập ngày 4 tháng 7 1884 của Hoa Kỳ. Người thực hiện là điêu khắc gia Frédéric Auguste Bartholdi. Tượng đúng ra mang tên “Tự do Soi Sáng Thế giới” với biểu hiệu tượng là một người phụ nữ mặc áo choàng rộng đại diện cho Nữ thần La mã mang tên Libertas, đầu đội vương miện có bẩy tia dài và nhọn tượng trưng cho nguồn sáng tỏa chiếu ra khắp 7 đại dương và 7 châu, tay phải dơ cao một bó đuốc, trong tay trái ôm một tấm bảng có ghi ngày độc lập Hoa Kỳ (4/7/1776). Tượng cao 46 m. Dưới chân tượng có sợi xích sắt chặt đứt đoạn hàm ý chống lại ách nô lệ. Tượng là một biểu tượng cho Tự do và cho Hợp Chủng Quốc: một dấu hiệu đón chào tất cả những người di dân từ khắp nơi đến đất hứa.


Khi làm tượng Nữ thần, ngoài tượng chính, và một phiên bản gốc kích thước cao hơn 11 m đặt ở trên đảo Grenelle, sông Seine, Paris, Bartholdi có làm một số phiên bản gốc nhỏ có kích thước cỡ 2.85m (chiếm tỷ lệ 1/16 so với tượng chính), trong số đó, một bản đặt trong vườn Luxembourg, Paris, và một phiên bản nhỏ cùng cỡ được cho lên tàu mang sang Việt Nam để dự tham dự Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt – Xô) vào năm 1887.
Lý do sau khi chinh phục được vùng Đông Dương, và có Hòa ước Patenôtre vào năm 1884 (hòa ước Giáp Thân 1884), chính phủ Pháp muốn tổ chức một cuộc đấu xảo/triển lãm (thời đó hai chữ đấu xảo được hiểu theo nghĩa là triển lãm). Địa điểm là một khu đất cỏ trống rộng, nơi thường được tổ chức thi Hương vào những nãm có cuộc thi. Cuộc triển lãm có mục đích phô trương sự văn minh, kỹ thuật tân tiến của Pháp cùng ý đồ “khai hóa”, mang ánh sáng văn minh soi sáng dân thuộc địa qua tượng “Tự Do soi sáng Thế giới”.
Sau cuộc triển lãm năm 1887, khu đất trống phải trả lại cho trường thi Hương diễn ra cứ bốn nãm một lần, tượng được hội Bắc kỳ tương tế (Fraternite Tonkinoise) mượn tạm để khánh thành trụ sở, sau đó tượng được Pháp trao lại cho cho chính quyền Hà Nội, Việt Nam, và được mang đặt tại quảng trường bốn tòa nhà, nơi có một vườn hoa mới làm giữa bốn tòa nhà được dùng làm tòa Thị chính, Kho bạc, nhà Bưu điện, và phủ Thống sứ , nơi này sau đó được mang tên là vườn hoa Chí Linh (nơi hiện nay có tượng đài Lý Thái Tổ và mang tên công viên Lý Thái Tổ).
Khi chính phủ bảo hộ muốn mang tượng ông Paul Bert – vị Thống sứ đầu tiên của nhà nước bảo hộ đã qua đời vào ngày 11, ttháng 11, 1886, chỉ sau bẩy tháng nhậm chức Thống sứ- từ Pháp qua để kỷ niệm Quốc Khánh nước Pháp (14 tháng 7, 1890), họ muốn đặt tượng ông Paul Bert tại vườn hoa Chí Linh, và như thế là tượng Nữ Thần phải mang đi chỗ khác. Trong khi chờ đợi một chỗ đặt, tượng Nữ thần phải đứng trên bãi đất đâu đó. Một kỹ sư Pháp tên Daurelle đề nghị đặt tượng ngay trên nóc Tháp Rùa (Quy sơn Tháp), thế là sau một thời gian nằm trên đất, dân Hà nội thấy tượng Nữ thần (hay tượng Bà Đầm Xòe) đứng trên nóc Tháp Rùa, quay mặt về vườn hoa Chí Linh/vườn hoa Paul Bert/Ngân hàng Đông Dương gần cạnh đó. Vườn hoa Paul Bert còn được gọi là vườn hoa Nhà kèn, vì ở đấy có một nhà bát giác mà hàng tuần đội kèn đồng của dàn quân nhạc Pháp ra đó biểu diễn. Những chi tiết này được viết rõ trong cuốn “Le vieux Tonkin” (Bắc Ký cổ xưa) của Claude Bourrin, viết về xứ Bắc Kỳ trong thời điểm từ 1890 đến 1894 (nhà in IDEO, Hà Nội, 1941, tr. 48-49).


(1) Hình chụp từ phía tây hồ Gươm: tượng thần Tư do trên nóc Tháp rùa nhìn về tượng Paul Bert (góc bên tay trái), hình này lấy từ báo L’ Indépendance tonkinoise, số đặc biệt, ra tháng 7/1891
(2) Hình do Bác sĩ Louis Sadoul chụp năm 1890, có tượng thần Tự do trên nóc Tháp rùa, quay lưng vào Nhà Thờ Lớn St. Joseph bên góc phải.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội

(3) Hình vẽ (khuyết danh) từ gần đến xa cho thấy lưng tượng Paul Bert tay trái dương cờ Pháp nằm tại vườn hoa Paul Bert/vườn Nhà Kèn nhìn ra hồ Hoàn Kiếm có tượng thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa, và xa hơn nữa là nhà Thờ Lớn bên góc phải.
(4) Post card: Công viên Chí Linh/Paul Bert/vườn nhà Kèn tám cạnh và tòa nhà Kho bạc.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(5) Hình vẽ Nữ Thần Tự Do phía sau có Nhà thờ Lớn, có Tượng Tự Do trên nóc Tháp Rùa ở Hà Nội, của Cesard, với ghi chú “Liberté sur le Pagodon du Petit – Lac à Hanoi” được đãng trong báo La Vie Indochinoise, tháng 12 năm 1896. (Nguyễn Phúc Giác Hải- DCV online.net).
(6) Hình thuộc tài liệu của R. Duboil
(7) Hồ Hoàn Kiếm, Tháp Rùa, và cầu Thê Húc.
Qua ghi chú trên những tấm hình kể trên, chúng có thể đoán rằng tượng Nữ Thần đã đứng trên nóc Tháp Rùa từ khoảng từ năm 1890 (dựa theo hình của Louis Sadoul) cho đến 1896 (theo hình vẽ và ghi chú của báo La Vie Indochinoise vào năm 1896.
Như vậy, tượng Nữ Thần bị đặt trên đất một thời gian rồi được đặt trên nóc Tháp Rùa, rồi đến năm 1896 lại được mang xuống vì bị sự phản đối và chỉ trích nặng nề của người dân địa phương và cả một số giới chức Pháp. Và rồi, tượng được chuyển đến vườn hoa Neyret ở phía đông hồ Hoàn kiếm (tức Vườn Hoa Cửa Nam gần Thư viện Quốc gia) cho đến ngày Cách Mạng Tháng 8 1945. Tượng vào thời điểm đó được mệnh danh là Tượng Đài Công Lý (Monument de La Justice).

Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(8) – (9): Bức tượng toàn thân của Paul Bert tay cầm lá cờ Pháp và một người bản xứ nhỏ bé ngồi dưới chân đã tạo nên nhiều bất bình và chỉ trích.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(10) – (11): Tượng Nữ Thần đặt tại vườn hoa Cửa Nam – vườn hoa Neyret – (1896-1945)
Vào ngày 1 tháng 8, 1945, tượng Nữ thần, và một số tượng khác (kể cả tượng Paul Bert) bị kéo đổ do lệnh của ông Trần văn Lai, thị trưởng đầu tiên người Việt của Hà Nội. (Bản tin trên báo Đông Pháp ngày 2/8/1945 cho biết, pho tượng Paul Bert bị kéo đổ lúc 9 giờ 10 phút, “Bà đầm xoè” bị giật đổ lúc 9 giờ 45 phút ngày 1/8/1945).
Những tượng đồng bị kéo đổ này được mang cất vào trong kho phế vật của sở Lục lộ thành phố Hà Nội từ năm 1945. Vào năm 1949, chùa Thần Quang thuộc làng Ngũ Xã khởi công dự án đúc tượng phật A Di Ðà. Tài liệu cho biết trong ba năm chuẩn bị đúc tượng (1949-1952), chùa đã kêu gọi khách thập phương đóng góp nhiều đồ đồng để đúc tượng nhưng vẫn không đủ số lượng nên đã đến xin chính quyền cho những tượng đồng trong kho của sở Lục lộ Thành phố, và ông thị trưởng thành phố đã chấp thuận cho chùa Thần Quang tất cả số tượng đồng trong kho, trong số đó có cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert.
Ngày 26 tháng 10, 1952, sồ đồng thu thập đủ loại và từ nhiều tượng kể cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn để đúc tượng A Di Đà cho chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã. Pho đại tượng Phật A Di Đà ở chùa Thần Quang này có tư thế ngồi bằng. Tượng có chiều cao 3.95 m, chu vi phần dưới là 11.6m, chu vi toà sen (bệ tượng) là 15 m, tổng cộng trọng lượng là khoảng trên dưới 10 tấn.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội 
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(12) Tượng A Di Đà: chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã
Kết luận
Phiên bản Tượng Nữ thần “Tự Do soi sáng Thế giới” được Pháp tặng cho Việt Nam vào năm 1887, qua nhiều thăng trầm di chuyển nhiều lần, rồi nằm trong bóng tối nhà kho hơn bảy năm trời, sau cùng tượng đã bị nấu chảy để lấy đồng đúc tượng A Di Đà vào năm 1952. Như vậy tổng cộng tượng Tư do đã hiện diện ở Hà Nội, Việt Nam được khoảng 65 năm (1887-1952)
Năm nay 2012 là vừa tròn 60 năm tượng “Tự do soi sáng Thế giới” ở Việt Nam đã nằm trong tâm, thân của tượng A Di Đà của chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã.
Trong cõi vô thường sở hữu chủ có có không không, sự xót xa ngậm ngùi tiếc nuối nếu có tưởng cũng chẳng nên lấy thế mà mang thêm phiền muộn. Thôi thì cũng có thể nghĩ dù tượng thần “Tự do soi sáng Thế giới” ở Hà nội không còn nữa nhưng ít nhất người dân Hà Nội hay người Việt trong nước cũng vẫn còn tượng Phật A Di Đà Từ Bi Đức Độ để thờ cúng.
Sóng Việt Đàm Giang
29 Tháng 9, 2012
Đăng lại từ bài viết “Tượng Thần Tự Do Tại Hà Nội, Việt Nam”

Tạp chí Chim Việt Cành Nam

15 tháng 12, 2018

Topten ngháo và điên rồ nhất của quan chức cấp Bộ

Đây chỉ là topten của quan chức cấp Bộ, không tính tới các quan cấp cao hơn.
Topten điên rồ nhất của quan chức Việt Nam năm 2018
FB Trương Duy Nhất, 10-12-2018, Tiếng dân
1- TÙ TẠI GIA: Ý tưởng của ĐBQH, Tổng kiểm toàn nhà nước Hồ Đức Phớc. Theo đó, phạm nhân thay vì tập trung lao động cải tạo tại các trại giam, sẽ được đưa về nhốt trong một “chuồng sắt” tại nhà rồi giao cho gia đình canh giữ, chăm sóc. Chìa khoá “chuồng sắt” đó vẫn được giao cho giám thị để kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất.

2- TỰ TẠO TÌNH TRANG CHIẾN TRANH: Là sáng kiến của Bộ trưởng thông tin – truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng. Ông gọi cách tự tạo tình trạng chiến tranh, hoặc tình huống giống như chiến tranh để làm “động lực phát triển” cho xã hội.


3- BAY TỪ DELHI ẤN ĐỘ ĐẾN THƯỜNG CHÂU, TUNG QUỐC CHỈ ĐỂ CHUYỂN 1 BỨC THƯ: Ngày 28/1/2018, khi đang tháp tùng Thủ tướng trong chuyến công cán tại Ấn Độ, Bộ trưởng công thương Trần Tuấn Anh đã nhận lệnh phải bay gấp từ New Delhi đến Thường Châu, chỉ để chuyển một bức thư thăm hỏi động viên của Thủ tướng đến đội U23 Việt Nam trước trận chung kết giải U23 châu Á gặp Uzebekistan.

4- TIẾP DÂN QUA TIVI: Tại buổi tiếp dân của Chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Thành Phong ngày 7/11/2018, hàng trăm cử tri là dân oan Thủ Thiêm đã phải kê ghế ngồi ngoài sân theo dõi ông Phong đối thoại và trả lời qua màn hình ti vi.

5- CAO HỒNG SÂM CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO: Dự án chi 311.250.000 đồng từ nguồn kinh phí hoạt động của văn phòng tỉnh uỷ Quảng Ninh, để mua cao hồng sâm phục vụ cán bộ lãnh đạo.



6- TRẠM THU GIÁ: Sau làn sóng phản đối BOT giao thông và các cuộc “cách mạng tiền lẻ”, Tổng cục đường bộ và Bộ giao thông vận tải đã chống chế bằng cách đổi tên trạm thu phí thành “thu giá”.

7- GÍA DỊCH VỤ ĐÀO TẠO: Chuyển đổi “học phí” thành “giá dịch vụ đào tạo” của Bộ giáo dục trong dự thảo sửa đổi luật giáo dục đại học.

8- ĐƠN XIN RÚT ĐƠN TỪ CHỨC: Tháng 1/2018, Phó chủ tịch UBND quận 1 TP HCM Đoàn Ngọc Hải, “người hùng” của chiến dịch dẹp loạn vỉa hè bất ngờ nộp đơn “xin từ chức”. 4 tháng sau, ông gây bất ngờ hơn khi nộp đơn “xin rút đơn từ chức” trước đó.



9- SINH VIÊN ĐƯỢC BÁN DÂM 3 LẦN: Là qui định trong bộ khung chuẩn để xử lý kỷ luật học sinh sinh viên của Bộ giáo dục đào tạo. Theo đó, học sinh, sinh viên ngành sư phạm nếu hoạt động mại dâm đến lần thứ 4 sẽ bị buộc thôi học. Vi phạm lần đầu bị khiển trách, lần thứ hai cảnh cáo, lần thứ ba đình chỉ có thời hạn.



10- CHỐNG DỘT HẦM CAO TỐC BẰNG BĂNG KEO: Là cách nhà thầu dùng băng keo dán lên các khe nứt toác để khắc phục hiện tượng thấm dột trên hệ thống cầu cống, hầm chui thuộc tuyến cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi.

9 tháng 12, 2018


Tại sao Tổng thống Đức lại nói Chủ nghĩa Marx là thảm hoạ của nhân loại.
Thứ Bảy, 12/08/2018 - 04:30 — nguyenvandai 

Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh một cách hùng hồn rằng bất kỳ quốc gia nào trên thế giới bị cai trị bởi đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx thì nó đều gây ra đau khổ, nghèo đói, lạc hậu , tham nhũng, hủ bại và các quyền con người bị tước đoạt.
Vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, sau hơn 40 năm không chịu nổi sự cai trị phi dân chủ, độc đoán và giáo điều của đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx. Nhân dân các nước XHCN(Đông Âu cũ) đã vùng lên đập tan sự cai trị độc đoán của đảng cộng sản và chủ nghĩa Marx. Họ đã tiến hành thiết lập lên chế độ dân chủ đa đảng và ngày nay đã hội nhập vào các nước tư bản dân chủ Tây Âu một cách thành công.
Để lên án tội ác của các chệ độ cộng sản trên toàn thế giới. Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasbourg, CH Pháp, Hội đồng Nghị viện Âu Châu đã bỏ phiếu và thông qua Nghị quyết số 1481 lên án những tội ác chống nhân loại của các chế độ cộng sản trên toàn thế giới, với đa số áp đảo 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống.

Đặc biệt điều 9 của Nghị quyết xác định rằng : "Các chế độ toàn trị cộng sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quyền lợi quốc gia không thể là cái cớ nhằm phản bác những phê phán thích đáng các chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay. Hội đồng Châu Âu cực lực lên án tất cả những vi phạm nhân quyền".

Các tội ác này đến từ đâu ? Điều 3 của Nghị quyết ghi nhận: "Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh. Sự giải thích hai nguyên tắc này đã hợp thức hóa việc "thủ tiêu" những người bị cho là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới, và do đó, bị xem là kẻ thù của các chế độ độc tài toàn trị cộng sản".
Điều 5 còn xác định : "Sự sụp đổ của những chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Trung và Đông Âu không được quốc tế điều tra theo dõi các tội ác gây ra. Hơn nữa, tác giả những tội ác nầy chưa hề bị đưa ra xét xử trước cộng đồng quốc tế, như trường hợp những tội ác khủng khiếp do Đức Quốc xã gây ra trước đây".
Ở Việt Nam thì đảng cộng sản đã gây ra biết bao đau khổ cho Nhân dân hơn nửa thế kỷ đã qua, và chúng vẫn còn đang tiếp tục vi phạm nhân quyền, chà đạp các quyền con người.
Những tội ác nổi bật của đảng cộng sản VN: Tàn phá và khai thác cạn kiệt rừng tự nhiên và tài nguyên khoáng sản; phá huỷ môi trường sống trong các đô thị, biển; tham nhũng trong mọi ngành mọi cấp, phá huỷ nền tảng đạo đức dân tộc, duy trì một chế độ hủ bại; bất lực trong việc kiểm soát hàng hoá tiêu dùng, thực phẩm, thuốc chữa bệnh đẩy cả dân tộc vào thảm hoạ bệnh tật, suy thoái nòi giống; tước đoạt các quyền con người về chính trị như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tư nhân, tự do hoạt động đảng phái chính trị,… Duy trì sự bất công trong xã hội, đàn áp, sách nhiễu, cầm tù những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền, môi trường,….
Ngoài ra, chế độ cộng sản VN còn vi phạm và phá vỡ luật pháp quốc tế trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và xuất khẩu tội phạm có tổ chức ra quốc tế,…
Nguyễn Phú Trọng, người cầm đầu đảng CSVN và nhà nước VN đã nhìn thấy dõ những tội ác mà đảng CSVN và chế độ của ông ta đã và đang gây ra cho đất nước và dân tộc. Nhưng trong phát biểu tại các hội nghị chuẩn bị cho đại hội 13, ông ta vẫn giáo điều nói tiếp tục giữ vững lập trường tư tưởng chủ nghĩa Marx để cai trị dân tộc VN.
Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier đã từng chứng kiến đảng CS và chủ nghĩa Marx gây ra biết bao đau khổ cho đồng bào mình ở Đông Đức trong hơn 40 năm. Nên trong chuyến thăm tới Trung Quốc, Tổng thống Frank-Walter Steinmeier phát biểu với các sinh viên Trung Quốc hôm 7/12 rằng có những “tai họa” đã xảy ra ở Đức và Đông Âu nhân danh Karl Marx.
Nhưng tư tưởng của ông Marx không chỉ là lý thuyết, ông Steinmeier nói.
"Chúng tôi, những người Đức, không thể nói về ông Marx mà không nghĩ đến những tai họa xảy ra nhân danh ông ở Đông Đức và Đông Âu trong thời kỳ khốn khổ sau Bức màn Sắt".
Trong thời gian đó, chủ nghĩa Marx là tất cả mọi thứ và các cá nhân bị coi là con số 0, các gia đình bị xé lẻ, hàng xóm hại lẫn nhau, và “con người bị giam giữ sau các bức tường còn những người cố gắng bỏ trốn đều bị sát hại”, ông nói.
Steinmeier nói: “Điều này khiến chúng tôi đặc biệt nhạy cảm và nhận thức được những gì xảy ra với những người không có chung ý kiến với số đông, những người thuộc sắc dân thiểu số, muốn thực hành tôn giáo của họ, hoặc vận động ôn hòa về các tư tưởng và đức tin của họ”.
Bởi vậy, đất nước, dân tộc Việt Nam muốn có được tự do, dân chủ, các quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và có được sự thịnh vượng văn minh. Không có con đường nào khác ngoài con đường cùng nhau đoàn kết đấu tranh xoá bỏ chế độ độc đảng cộng sản toàn trị.
Chừng nào đảng CSVN và chủ nghĩa Marx còn độc quyền cai trị đất nước và dân tộc, chừng đó Nhân dân VN còn bị tước đoạt các quyền tự do và nhân phẩm.
Blog PVĐ

7 tháng 12, 2018

Tưởng Năng Tiến – Phố Trịnh Văn Bô 

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội!
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! 
Lẽ nào trời đất dung tha? 
Ai bảo thần dân chịu được? - Bình Ngô Đại Cáo


Khoảng bằng giờ này năm trước, báo Thanh Niên Online (số ra ngày 7 tháng 11) ái ngại loan tin:

Cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ, quả phụ nhà tư sản dân tộc yêu nước Trịnh Văn Bô vừa trút hơi thở cuối cùng vào đêm 5.11 tại Hà Nội trong sự tiếc thương và ngưỡng mộ của hàng triệu người Việt Nam yêu Tổ quốc. Không nhiều người biết, lúc cụ nhắm mắt, nỗi buồn sâu thẳm trong lòng vẫn chưa được khơi thông, thậm chí còn là nỗi buồn nhân đôi!

Chuyện gì mà buồn dữ vậy, Trời?

Tác giả bài báo thượng dẫn, nhà báo Quốc Phong, cho biết:

Năm 1954, sau khi Cách mạng về tiếp quản Thủ đô, hai vợ chồng cụ Trịnh Văn Bô khi đó đã cho Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái mượn ngôi biệt thự tại 34 Hoàng Diệu, Hà Nội có khuôn viên rộng 3.000 m2 trong 2 năm. Lý do tướng Thái muốn mượn là vì nó rất tiện cho công việc. Nhất là lúc này, đất nước vẫn còn chia cắt và cuộc chiến đấu giải phóng đất nước vẫn chưa trọn vẹn. Vị trí này rất tiện làm việc vì nó rất gần Bộ Quốc phòng. Theo như lời hứa của tướng Thái (sau này là đại tướng) thì "khi nào Bắc Nam thống nhất, quân đội sẽ trả anh chị"...

Thế rồi, phải đến ngày 9.9.1994, vợ chồng cụ Trịnh Văn Bô mới có quyết định của Thủ tướng trả nhà, dù rằng có chút tế nhị, ngôi biệt thự 34 Hoàng Diệu được ghi là "Tặng" gia đình, do ông bà Trịnh Văn Bô có công lao to lớn đối với đất nước trong Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc... "Ngày vui vắn chẳng tày gang", tiếc thay, vì lý do nào đó, quyết định "Tặng nhà" trên đã bị tạm dừng (tháng 3.1995) đến nay vẫn chưa được thi hành.

Qua đến năm nay, câu chuyện về “nỗi buồn sâu thẳm” kể trên lại “rẽ” hướng khác (e) cũng chả vui gì – theo bản tin của báo Người Lao Động, số ra hôm 5 tháng 12 năm 2018: “Hà Nội Chính Thức Có Phô Mang Nhà Tư Sản Trịnh Văn Bô.”

Sự kiện này khiến tôi nhớ đến bức thư (“Gửi Bạn Ở Cõi-Bên-Kia”) của dịch giả Dương Tường, viết vào ngày giỗ đầu của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:

“Mình đang đi trên một con phố mới, hình như ở Hải Phòng. Lạ hoắc song lại có nét gì quen quen mà không tài nào xác định nổi. Giống như khi ta cố nhớ ra một cái tên rất thân quen, chắc chắn nó ở quanh quanh đâu đây trong bộ nhớ, chỉ dấn chút xíu nữa là ‘bắt’ được mà nó vẫn vuột mất để rồi đến một lúc thôi không cố nhớ nữa thì nó lại bất ngờ hiện ra. À, đây rồi cái biển tên phố gắn trên một cột đèn. Mình tiến lại và đọc thấy: BÙI NGỌC TẤN…

Thế là mình thức giấc. Và ngồi viết thư cho Tấn đây...

Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng… , những điểm son của văn học Việt Nam. Thế còn bao giờ Nam Định có phố Trần Dần, Bắc Ninh có phố Hoàng Cầm, Thanh Hóa có phố Hữu Loan, Yên Bái có phố Lê Đạt, Thừa Thiên-Huế có phố Phùng Quán? Và Hải Phòng có phố Bùi Ngọc Tấn? Một dự cảm tâm linh nói với mình: rồi những giá trị đích thực sẽ được trả về đúng vị trí. Con đường mình vừa dạo chơi trong mơ – đường Bùi Ngọc Tấn – rồi sẽ thực sư có trong thực tại. Và biết đâu đấy, mình lại có dịp thả bộ trên con đường ấy, như đã thả bộ trên đường Văn Cao dăm năm trước... ”

Con đường “trong mơ” của Dương Tường, tiếc thay, chưa chắc đã được mọi người chia sẻ:

“Tôi thỉnh thoảng dạo phố vẫn hay dừng lại nhìn lên một tên phố mà chuyện trò lặng lẽ với con người ngồi ở trên cái bảng sắt tây dó. Để nghe anh ta giãi bày. Và cũng để anh ta đừng tưởng bở.

Thí dụ Văn Cao, ngày hai lượt ra trung tâm thành phố và về Cầu Giấy, tôi từng có lần hỏi anh: Cậu khỏe không?... Bây giờ ở trên cao này có thấy sao không?” Thì Văn Cao bảo tôi: “Tao làm nhạc, làm thơ, vẽ, ai hay nay làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài. Mày với tao sống trong cái chăn toàn rận này, mày lạ đ. gì nữa.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cái chăn đời của Bùi Ngọc Tấn không chỉ toàn rận mà còn thấm đẫm biết bao nhiêu mồ hôi cùng nước mắt. Ở trang bìa sau tác phẩm cuối cùng (Hậu Chuyện Kể Năm 2000) của ông, do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2014, có in những dòng sau:

“Tôi mong đợi từng ngày và mong đợi quá lâu rồi, sự sụp đổ của cái trật tự bóp chết con người, bóp chết tự do, sự dối trá thống trị, cái trật tự làm thành một bầu trời đá xám úp chụp lên đầu..! Cái trật tự xã hội tôi đã sống gần trọn đời và ghê sợ nó.”
 

Chả ai ước mơ được đặt tên đường trong một cái xứ sở mà mình “mong đợi từng ngày” cho nó “sụp đổ” cả. Đã thế, thực chả vinh hạnh chi khi tên mình bị đặt nằm giữa những con phố đầy rẫy bất trắc và tệ đoan xã hội:

- “Quét Gái Mãi Dâm Trên Đường Nguyễn Chí Thanh” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Đột Nhập Động Mãi Dâm Trên Đường Phạm Văn Đồng” – báo Người Đưa Tin

- “Bắt Kẻ Giao Hàng Trắng Dọc Đường Trường Chinh” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Trộm Vàng Táo Tợn Trên Đường Xuân Thuỷ” – báo VietNamNet

- “Phóng Viên Truy Đuổi Đối Tượng Trộm Cắp Trên Đường Phạm Hùng” – báo An Ninh Thủ Đô

- “Dàn Cảnh Cướp Xe Trên Đường Hồ Chí Minh” – báo Dân Trí

-“Đột Kích Hàng Loạt Tụ Điểm Mát Xa Kích Dục Trên Đường Nguyễn Duy Trinh” – Báo Vnexpress.

Thế còn Trịnh Văn Bô? Liệu cụ có hào hứng đứng cạnh các vị “danh tướng” (Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp) mà chính họ hay con cháu đã giựt mất tài sản và nhà cửa của gia đình mình không? Tôi cũng không tin rằng cụ lại “muốn làm diễn viên lên sân khấu đóng vai kịch ca ngợi đảng trọng hiền tài” trong khi cái đảng ôn dịch này không chỉ vô ơn mà còn độc ác nữa:

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”, đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột... 

Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên người Hà Nội không còn nhiều... Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông vẫn không đòi lại được.(Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Sau đường Trịnh Văn Bô, rồi ra sẽ có đường Nguyễn Thị Năm, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo chăng? Cứ giết người, cướp của, đầy đọa, chôn sống nhân tài rồi tìm cách xí xoá mọi chuyện bằng một cái bảng tên đường (vớ vẩn) gì đó là coi như xong sao? Chuyện đời đâu có giản dị như vậy. Trúc Nam Sơn có thể không ghi hết tội nhưng mạng internet thì bảo đảm sẽ lưu giữ không thiếu thiếu tội nào. Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
 
Tưởng Năng Tiến
 
(Blog Tưởng Năng Tiến) 
Đăng trên TTHNO

4 tháng 12, 2018

Những trò hề của Giang Trạch Dân khiến quốc tế phải kinh ngạc

Từ khi trở thành người đứng đầu ĐCSTQ, ông Giang Trạch Dân thường biểu diễn và thể hiện hình tượng trong các trường hợp ngoại giao, cũng vì thế mà rất nhiều hình ảnh xấu xí của ông cũng thể hiện ra hết trên báo chí nước ngoài.

Trong cuộc gặp với nhà vua Tây Ban Nha, Giang Trạch Dân lấy lược ra và chải đầu ngay trước nhà vua. (Ảnh trên Twitter)
Năm 2002, khi ông Giang Trạch Dân đến thăm Iceland, trong buổi quốc yến do Tổng thống Iceland tổ chức, ông Giang Trạch Dân ăn được nửa chừng, đột nhiên đứng dậy cao giọng hát, khiến cho cả chủ nhà và khách mời khi đó đều phải kinh ngạc. Vợ của ông là Vương Dã Bình khi đó với vẻ mặt càu nhàu, biểu hiện vô cùng lúng túng. Đoàn nhân viên tháp tùng phía Trung Quốc cũng nhìn Giang với ánh mắt coi thường. Tổng thống Iceland cũng nhìn vào Giang, tỏ vẻ lúng túng.
Giang Trạch Dân
Hình ảnh Giang Trạch Dân hát trong buổi quốc yến do Tổng thống Iceland tổ chức năm 2002 (Ảnh từ internet)
Toàn bộ tình cảnh đã bị tờ báo lớn nhất Iceland đưa tin chi tiết bằng những bức ảnh màu, ông Giang Trạch Dân khiến truyền thông quốc tế được một phen chế giễu.
Việc ông Giang Trạch Dân không quan tâm đến lễ nghi và trường hợp ngoại giao, lúc nào cũng có thể ca hát nhảy múa cũng không phải là hiếm.
Năm 1996, ông Giang Trạch Dân có chuyến thăm Philippines, buổi tối, Tổng thống Philippines Fidel V. Ramos mời ông Giang Trạch Dân yến tiệc trên du thuyền. Trong bữa tiệc, ông Giang Trạch Dân đột nhiên đứng dậy cầm micro hát bài Love me tender.
Cuối tháng 6/1996, ông Giang Trạch Dân đến thăm Tây Ban Nha. Quốc vương Tây Ban Nha Juan Carlos I mời ông Giang Trạch Dân cùng tham dự lễ kiểm duyệt tam quân. Điều khiến vua Juan Carlos I kinh ngạc đó là, đột nhiên ông Giang cầm một cái lược ra và chải đầu ngay trước mặt khiến nhà vua kinh ngạc há hốc mồm đứng nhìn.  
Buổi tối nhà vua mở tiệc chiêu đãi, ông Giang ngồi bên phải Hoàng Hậu, lại một lần nữa chải đầu trước ống kính máy ảnh. Sau việc này, tờ báo lớn nhất Tây Ban Nha là “Nhật báo Quốc gia” và nhiều tờ báo khác đã đăng lên trang nhất của mình với tiêu đề: “Quốc vương Juan Carlos I xem Giang Trạch Dân chải đầu”
giang trạch dân
Rất nhanh, nhiều tờ báo khác trên thế giới cũng bắt đầu đưa tin này. Nhiều Hoa kiều ở nước ngoài đọc xong bất giác cảm thấy thể diện của người Trung Quốc đã bị Giang làm mất hết.
Ngày 30/3/1993, ông Giang Trạch Dân đi cùng Tổng thống nước Áo Thomas Klestil đến thăm nơi ở của Mozart tại Salzburg. Bộ sưu tập có giá trị nhất trong dinh thự cũ của Mozart là một cây đàn piano do ông mua ở Vienna năm 1785; được biết, ngoài cây đàn này ra thì không có cái thứ 2, trên thế giới cũng chưa có người thứ 2 nào đàn qua. Ở phía trước của cây đàn, có một thông báo “cấm chạm vào” bằng tiếng Đức và tiếng Anh.
Nào ngờ, sau khi Tổng thống Klestil giới thiệu xong về cây đàn này, ông Giang Trạch Dân lại ngồi xuống ghế, bắt đầu đàn. Hành động đột phát của Giang khiến cho những người đi cùng thuộc Đại sứ quán Trung Quốc (những người biết rõ về bối cảnh văn hóa của Áo) phải kinh ngạc và hổ thẹn, còn Tổng thống Áo có ý ngăn cản hành động này của Giang, nhưng lại chiếu cố đến lễ tiết ngoại giao nên biểu cảm vô cùng lúng túng.  
Trong mắt người Áo, Mozart giống như một thánh nhân, đối với hành động không tôn trọng kỷ vật của Mozart, thì chính là xỉ nhục người Áo. Ngày hôm sau, truyền thông Áo tràn ngập tin tức trên trang nhất về vụ việc này, trong đó có một tờ báo đăng một tranh biếm họa với tựa đề : “Giang Trạch Dân cầm búa và liềm đánh đàn”.
Ngày 24/10/1993, ông Giang Trạch Dân đến thăm một bảo tàng ở Pháp, đã kéo tay phu nhân của Tổng thống Pháp Jacques Chirac là bà Bernadette Chirac cùng nhảy điệu Waltz, hành động này khiến cho ông Jacques Chirac rất không vui, ông cho rằng Giang làm mình khó xử. Còn người dân Pháp lại càng sôi sục căm phẫn, cho rằng đây là điều xúc phạm đối với dân tộc Pháp.
giang trạch dân
Ông Giang Trạch Dân kéo tay phu nhân Tổng thống Chirac để cùng nhảy điệu waltz. (Ảnh từ internet)
Ngày 21/2/2002, tại Đại Lễ Đường ở Bắc Kinh, ông Giang Trạch Dân mở tiệc chiêu đãi Tổng thống Mỹ George W. Bush. Khi đó, ông Giang Trạch Dân cất cao giọng hát bài “Mặt trời của tôi” trước hàng trăm khách mời, khi đó Tổng thống Bush lập tức vỗ tay, và còn nửa đùa nửa thật mời Ngoại trưởng Colin Powell hát một điệu nhạc nhẹ, Colin Powell đã cười và lịch sự từ chối.
Trong tiệc tối, ông Giang Trạch Dân lại kéo Đệ nhất Phu nhân Mỹ Laura Bush cùng khiêu vũ, sau khi khiêu vũ xong, Giang lại lần lượt kéo Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ khi đó là bà Susan Rice và phu nhân của Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh là Sarah cùng khiêu vũ.
giang trạch dân
Tổng thống Bush đến thăm Bắc Kinh, một tay ông Giang đẩy vợ ra sau, một tay đẩy Tổng thống Bush qua để chuẩn bị lao tới bắt tay phu nhân ông Bush (Ảnh internet)
Trong các bản tin công khai của truyền thông quốc tế, ông Giang Trạch Dân không phân thời gian và trường hợp mà làm ra những hành động kỳ quái như ngâm thơ, làm thơ, hát hò, khoe khoang tiếng Anh, trước nơi quần chúng đông người mà ngoáy mũi, nhìn chăm chăm vào cô gái trẻ đã thành điều thường thấy. Ông Giang Trạch Dân với thân phận là nguyên thủ quốc gia, nhưng khi thăm nước ngoài lại liên tục có những vụ tai tiếng, cũng đã khiến cho hình ảnh quốc gia và dân tộc mất đi sự tôn nghiêm trên vũ đài quốc tế.
Theo Trithucvn