12 tháng 9, 2018

Biệt phủ tướng Hoàng Kiền 

Tướng Hoàng Kiền là ai? Lâu nay chẳng ai nghe danh. Cộng đồng mạng chỉ biết đến thiếu tướng Hoàng Kiền, cựu Tư lệnh Binh chủng Công binh, khi hắn lớn giọng mạt sát tướng Lê Mã Lương và cuốn sách “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” do tướng Lương chủ biên. Cựu chiến binh Gạc Ma và công chúng đều ngạc nhiên, vô cùng bất bình tướng Kiền. Nhiều người tin rằng chỉ có tay sai Bắc Kinh mới chống đối cuốn sách dữ dội đến vậy.

Tướng Hoàng Kiền . Ảnh: FB Võ Văn Tạo
Không chỉ vậy, qua lùm xùm này, công chúng còn biết đến một cựu Tư lệnh Binh chủng Công binh, chủ đầu tư (bên A) các công trình quốc phòng, đặc biệt tại Trường Sa và toàn tuyến phòng thủ biên giới, hải đảo, chủ nhân cái biệt phủ “hoành tá tràng” hàng trăm tỷ đồng, núp danh “Bảo tàng đồng quê”, tự vênh vang, hợm hĩnh, trơ tráo.

Ngà voi, sừng hươu, đầu bò tót, tượng và nội thất gỗ quý rừng tự nhiên chạm trổ cầu kỳ… phô trương một thứ văn hóa lùn kệch cỡm kiểu Nghị Quế, Nông Đức Mọi…

Dĩ nhiên, ai cũng biết, biệt phủ hoành tráng bao nhiêu, công trình quốc phòng mong manh bấy nhiêu.

Một cán bộ quân đội biết rõ chân tướng Hoàng Kiền rất bức xúc, vừa gửi đăng bài viết dưới đây:

—–

PHÁT HIỆN CHẤN ĐỘNG: Thiếu tướng về hưu Hoàng Kiền – Tề Thiên Đại Thánh hóa thân!

Mấy hôm nay thiên hạ tròn mắt ngạc nhiên bàn tán rầm rầm vì phát hiện ông thiếu tướng Hoàng Kiền có tài ngang Tề Thiên Đại Thánh!

Không có tài sao khi chỉ là một thiếu tướng èng èng nghỉ hưu mà bỗng biến hóa ra cả tòa “bảo tàng đồng quê” cho tới phủ đệ, nhà vườn?!

Thiên hạ lao xao phán: Cuối cùng thì ông tướng “anh hùng mà không mấy ai biết” cũng lộ mặt tham nhũng. Không tham nhũng quyền lực thì cũng tham nhũng tiền bạc, vì dưới dạng nào thì tiền bạc cũng không thể từ trên trời rơi xuống. Cũng chưa nghe tướng Hoàng Kiền chạy xe ôm hay buôn chổi đót bao giờ!

“Bảo tàng”, biệt phủ, nhà vườn xa hoa rực rỡ ấy, tất cũng từ những đồng tiền mồ hôi xương máu của nhân dân chắt chiu gom góp cho quân đội nuôi quân đánh giặc, rồi biến hóa ra thế mà thôi!

Có tật, giật mình nên tướng Kiền tức khắc đăng đàn giống Thiên Bồng Nguyên Súy Trư Ngộ Năng bỗng nhiên tự thú với sư phụ, sư huynh về nguồn gốc và lý do có mấy lạng bạc vẫn dấu trong tai(!)

Sau một hồi biện hộ hằm bà lằng về những cái “lý” cho biệt phủ và những công trình kia. Để thêm điểm tựa cho sự “chính danh” cái “Bảo tàng” của riêng rất hoành tráng đó, ông Kiền đã tự tin cho thiên hạ biết khi làm “bảo tàng” cho mình, ông đã báo cáo Bộ trưởng Quốc phòng rồi!?

Tưởng báo cáo Bộ trưởng nào, hóa ra là báo cáo ông “đại tướng tâm tư” vốn nổi tiếng với câu nói đầy hoan hỷ bên hành lang QH.

Khi được hỏi về tình hình nóng bỏng ở Biển Đông, ông lại phấn khởi kể về sự “trọng thị” tuyệt vời mà “bạn” đã giành cho ông và tùy tùng hơn 20 tướng tá trong chuyến thăm hữu nghị vừa qua. Rồi ông mới nói: ở Trường Sa, “bạn” xây, ta cũng xây. Đều là xây để phục vụ đời sống bộ đội và cứu hộ ngư dân đánh cá!

Đó là lời ông đại tướng nói về việc giặc đang ồ ạt bồi lấn trái phép các đảo đá chúng cưỡng chiếm trái phép của ta để biến thành cứ điểm quân sự, có sân bay, ra đa, tên lửa chĩa vào đất ta!

Các nhà báo không tin nổi vào tai mình, trố mắt ngạc nhiên. Độc giả đọc tin thì bàng hoàng lo lắng, cứ ngỡ mình mơ chưa tỉnh. Còn ông Bộ trưởng QP trả lời báo chí xong, lại xoa tay sảng khoái mỉm cười!

Chuyện “bạn” và “ta” ở Trường Sa là vậy. Còn chuyện cuộc sống cá nhân và cấp độ giàu sang hay nghèo túng của cha con ông Bộ trưởng khét tiếng kia, ta ko cần phải nói ngược hay cãi xuôi thì toàn quân, toàn dân, chẳng ai lạ!

Cha ông ta đã đúc kết: “Ngưu tầm ngưu. Mã tầm mã”. “Giấy không gói được lửa”. Lời bao biện hào nhoáng không thể che giấu bản chất biệt phủ, bảo tàng riêng, nhà thờ họ hoành tráng xa hoa.

Than ôi, lại thương các tướng lĩnh thời cụ Hồ, bác Giáp! Suốt đời cầm quân xông pha trận mạc. Máu chảy đầu rơi, tơi bời lửa khói mà đa số chỉ có căn hộ tập thể nhà nước cho mượn hay chỉ mái nhà nhỏ đơn sơ. Thu nhập của thế hệ “tướng vô tư” khác thu nhập của thế hệ “tướng tâm tư” ở chỗ chỉ vừa đủ đưa vợ nuôi con ăn học. Dẫu thời ấy đồng lương tướng so với mặt bằng xã hội cũng là cao rất nhiều. Nhưng, dù có phép quảng đại thần thông cũng không thể đẻ ra biệt phủ, nhà vườn, lầu cao, biển sáng, vàng son rực rỡ như các “tướng tâm tư” của Phùng tướng quân thời buổi bây giờ!

Muốn đặt câu hỏi: Đồng lương chỉ có vậy, mà sao các “tướng tâm tư” nhà ta như tướng Hoàng Kiền lại có tài hóa phép như Tề Thiên Đại Thánh ra nhiều tài sản kinh hoàng thế nhỉ?!

Hỏi, cũng đành tự trả lời: Nếu ko tham nhũng, tham ô thì nhất định các chuyện biến hóa thần thông trong truyện Tây Du là có thật!?

Chao ôi! Thiếu tướng Hoàng Kiền ơi!

(Và nhà văn Phạm Thông của đất Quảng trung dũng kiên cường ơi! Tôi “gọi thầm tên anh” ở đây là có lý do cả đấy. Bởi tôi không quên cái chuẩn mực anh đề ra để phân biệt người hay, kẻ dở rất giản dị mà chính xác vô cùng. Anh nói đại ý “Nếu cán bộ cách mạng mà giàu có quá trời so với nhân dân thì với lý do nào thì cũng là hỏng hẳn”. Căn theo chuẩn của anh thì “thần tượng” của anh đã đổ nhào rồi!).







Một số hình ảnh về cơ ngơi của tướng Hoàng Kiền ( Ảnh Internet)

8 tháng 9, 2018

Nếu biết trước có hôm nay thì trước đây đã không chọn lầm đường

Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xây dựng chính quyền nhờ sự ủng hộ của không ít nhân sĩ lòng tràn đầy lý tưởng. Tuy nhiên, sau này rất nhiều người hiểu ra ngay từ đầu họ đã sai khi chọn con đường này. 

Các nhóm Hồng vệ binh Trung Quốc xuống đường trong Cách mạng Văn hóa. (Ảnh: AFP)

Trong vài thập niên mà Mao Trạch Đông chủ chính, biến hóa ra đủ kiểu vận động chính trị, mục đích lấy việc chỉnh đốn con người, giết người để làm trò vui. Ông ta khiến cho nhân dân cả nước nơm nớp lo sợ và dè chừng. Có rất nhiều những người nổi tiếng, sau này đã hối hận về con đường mình đã chọn. Nổi bật có ba người: văn nhân Trần Dần Khác, nhân sĩ Tống Khánh Linhvà quân nhân Lâm Bưu.
Người đầu tiên: Trần Dần Khác

Giáo sư Trần Dần Khác lúc về già. (Ảnh: internet)

Vào năm 1949, khi ĐCSTQ xây dựng chính quyền, toàn bộ rập khuôn theo thể chế của Liên Bang Xô Viết. Một số lớn các văn nhân, học giả như mới tỉnh giấc mộng! Năm 1950, Giáo sư triết học Bắc Đại, học giả nổi tiếng Lương Thấu Minh, không thể tiếp nhận thể chế của ĐCSTQ (Trong đó có một việc là cắt bỏ công nông nghiệp), vì vậy viết một bài văn “Kính cáo Cộng Sản Đảng” được phát hành ở Hong Kong, khiến Mao Trạch Đông rất khó chịu.
Nhưng người đầu tiên thể hiện sự hối hận là Trần Dần Khác, một trong “Tứ đại đạo sư” quốc học. Trần Dần Khác vốn tiếp thu văn hóa Trung – Tây, ở Trung Quốc, ông là vị giáo sư duy nhất đảm nhiệm cùng lúc 2 khoa (Trung văn và Lịch sử). Được người trong ngành gọi là vị giáo sư trong những giáo sư, 500 năm mới có một người như vậy, Tổng thống Tưởng Giới Thạch cũng gọi ông là Quốc Bảo giáo sư.
Lúc Quốc Dân Đảng thất bại lui về Đài Loan, Tưởng Giới Thạch đích thân hạ lệnh: “Quốc Bảo không thể ở lại đại lục, nhất thiết phải đưa đi”. Lúc đó quyền hiệu trưởng của Bắc Đại là Phó Tư Niên mỗi ngày gọi ông ba cuộc điện thoại để hối thúc ông rời đi, Trần Dần Khác không chịu đi. Ông nói đã từng tuổi này, không muốn rời khỏi nơi cố hương thân thuộc.
Từ sau khi thể chế “Trung Quốc mới” xuất hiện, Trần Dần Khác đã phải hối hận. Trong nhật ký ông ghi lại, bản thân cảm thấy hối hận vì lúc đầu không đi Đài Loan. Đồng thời tự mình viết sẵn câu đối phúng điếu, chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể chết. Viết một bộ luận “Tái Sinh Duyên”, ẩn ý biểu đạt tâm cảnh của ông, nếu như có kiếp sau, sẽ không làm ra chọn lựa sai lầm đến mức như vậy.
“Tái Sinh Duyên” sau đó được Chương Sĩ Chiêu mang đi công bố ở Hong Kong khiến nhóm người Mao Trạch Đông rất ngượng ngùng khó xử. Sau này, Chu Ân Lai gợi ý thành lập Sở nghiên cứu Lịch sử ở Viện Khoa học Trung Quốc, quyết định mời Trần Dần Khác làm Sở trưởng “Sở Nghiên cứu Lịch sử Trung Cổ”, Quách Muội Nhược làm Sở trưởng “Sở Nghiên cứu Lịch Sử Viễn Cổ”, Ngô Mật Đương làm Sở trưởng “Sở nghiên cứu lịch sử Cận Cổ”.
Thế nhưng Trần Dần Khác đã từ chối, ông nói: “Tôi là học giả, phải được ‘tự do về tư tưởng, độc lập về tinh thần’, không tôn phụng chủ nghĩa Mác – Lenin”. Vào thời Cách mạng Văn hóa, vị giáo sư 500 năm mới có một người này đã bị xử tử, ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch nghe xong tin tức này, đã làm rơi bể ly nước, rơi lệ mà nói: “Tàn ác vô nhân đạo!”.
Người thứ 2: Tống Khánh Linh 
ĐCSTQ, Dang cong san trung quoc,
Tống Khánh Linh, phu nhân của Tôn Trung Sơn. (Ảnh: internet)
Người thứ hai thể hiện sự hối hận là Tống Khánh Linh, phu nhân của Tôn Trung Sơn. Những năm 50, Tống Khánh Linh nói: “Không muốn đi họp nữa, mỗi lần đi họp là mỗi lần bệnh, không thể tiếp thu được cách làm hoang đường của Mao Trạch Đông”. Sau này, nhóm người Chu Ân Lai một mực khuyên bà, phải để lại cho “Trung Quốc mới” của đảng chấp chính một chút thể diện, Tống Khánh Linh mới tham gia họp.
Nhưng đến thời Cách mạng Văn hóa, tận mắt chứng kiến tai ương của người dân cả nước, nhiều vị khai quốc nguyên lão bị chỉnh đốn hoặc xử tử, Tống Khánh Linh lại rơi lệ, còn nói: “Mắt nhìn bao nhiêu khai quốc công thần, làm cách mạng nửa đời người thập tử nhất sinh, trong một đêm biến thành phản cách mạng, bọn họ tại sao lúc bắt đầu cách mạng lại không phản, tại sao lúc khó khăn lại không phản? Đến lúc cách mạng thành công rồi, đến lúc hưởng phúc lại đi phản?
Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ làm bao nhiêu năm Chủ tịch nước, đột nhiên biến thành phản cách mạng. Những vị đồng chí này không chết trong tay của kẻ địch, ngược lại chết trong tay của người phe mình. Nghĩ không thông, không thể tiếp nhận thực tế tàn khốc này!”.
Tống Khánh Linh đã công khai nói: “Tôi thực sự rất hối hận, lúc đầu tại sao đưa ra lựa chọn một con đường sai lầm như vậy?”. Sau khi Mao Trạch Đông biết, nói với Chu Ân Lai: “Có người không vui rồi, có thể kêu bà ta đi qua bên đối diện rồi (ý nói Đài Loan)”.
Chu Ân Lai phái người khuyên bà: “Sức khỏe bà không tốt, có thể đi ra ngoài dạo một chút”. Tống Khánh Linh nói: “Bây giờ muốn đuổi tôi đi sao? Tôi cứ không đi, chết cũng phải chết ở Trung Quốc này”. Thế là từ chối tham gia tất cả buổi họp và các hoạt động công khai, dựa vào bán vật dụng đồ cổ để sống qua ngày.
Thư ký báo cáo sự tình cho Thị ủy Thượng Hải, Thị ủy Thượng Hải báo cho trung ương. Trung ương phái người đến tặng tiền 2 lần: Lần thứ nhất 10.000 tệ; lần thứ hai 50.000 tệ. Tống Khánh Linh dặn dò đem tiền cất vào két sắt. Sau khi bà qua đời, người ta mới phát hiện, số tiền cả 2 lần được tặng, một xu bà cũng không động đến, vẫn bọc ở trong giấy. Tống Khánh Linh thà rằng sống những ngày tháng khổ sở, chứ không dùng tiền của Mao Trạch Đông.
Người thứ ba hối hận là Lâm Bưu

Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. (Ảnh: internet)

Cả đời trung thành và tận tâm với Mao Trạch Đông, nhưng trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Lâm Bưu vì chứng tỏ lòng trung thành với Mao Trạch Đông, cùng 4 người dẫn một đạo binh tham gia tàn sát khai quốc công thần. 
Nhưng trong nội tâm Lâm Bưu rất đau khổ, nếu không đứng về một phía với Mao Trạch Đông, nếu không biểu thị như vậy (tham gia hại người, chỉnh đốn người), Lâm Bưu trong thâm tâm biết rõ kết cục của mình cũng sẽ giống Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài chết một cách thê thảm. Bao gồm cả Chu Ân Lai trong đó, làm bao nhiêu việc chỉnh đốn người để ủng hộ Mao Trạch Đông. Kỳ thực Chu và Lâm, cách nghĩ và mục đích của hai người này là giống nhau, đó là để bảo vệ bản thân! 
Nhưng đến giữa thời kỳ Cách mạng Văn hóa, sau khi các khai quốc công thần bị đánh đổ rồi, Lâm Bưu biết mục tiêu tiếp theo chính là mình. Lâm Bưu nói: “Ta thực sự hối hận khi chọn lựa con đường cách mạng này. Lúc đầu là vì đánh bại Quốc Dân Đảng, lật đổ vương triều của Tưởng gia, để người dân có thể sống những ngày tốt đẹp. Không ngờ sự tình lại ra nước này. Quả thực ta đã quá ấu trĩ, quá ngây thơ rồi!”.
Lâm Bưu là võ tướng mưu lược thông minh như thế, đương nhiên hiểu được chuyện “qua cầu rút ván”. Trong Cách mạng Văn hóa đã cùng Mao Trạch Đông lợi dụng lẫn nhau, tất cả chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong Cách mạng Văn hóa, Lâm Bưu quyền cao chức trọng, Mao Trạch Đông liệu có thể dễ dàng bỏ qua? Về kết cục, Lâm Bưu hiểu rất rõ, vậy nên chỉ còn một cách là bỏ trốn!
Sự hối hận của Tống Khánh Linh, Trần Dần Khác và Lâm Bưu, chính là năm đó đã cả tin lời nói trong ngoài bất nhất của Mao Trạch Đông.
Kỳ thực, số người hối hận không chỉ có bấy nhiêu:
Lúc mới vào thời kỳ quá độ, nhân sĩ dân chủ Huỳnh Viêm Bồi cùng Mao Trạch Đông tâm tình hai đêm. Huỳnh Viêm Bồi đề xuất: “Lịch sử vốn có chu kỳ, kẻ thắng thì thịnh vượng, kẻ bại thì không được xem trọng!”. Mao Trạch Đông nói: “Người cộng sản đã tìm được phương thuốc phá giải chu kỳ đó, chính là dân chủ và tự do”. Nhưng Mao Trạch Đông chấp chính đã mấy mươi năm, không có dân chủ, cũng không có tự do.
Con của Huỳnh Viêm Bồi, chuyên gia hàng đầu về thủy lợi của Trung Quốc tên Huỳnh Vạn Lý, bị Mao gán là phản động. Nguyên do là năm đó Huỳnh Vạn Lý, một mình đứng ra chống đối với hơn 200 chuyên gia, kịch liệt phản đối việc tu sửa đập chứa nước ở eo đất Tam Môn. Tuy rằng sau này sự thật được chứng minh là Huỳnh Vạn Lý đã đúng, nhưng nỗi khổ bị cho là phe cánh hữu đã giam cầm ông mấy năm. Chẳng lẽ nhân sĩ Huỳnh Viêm Bồi lại không hối hận hay sao?
Phó Tác Nghĩa là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi của Trung Quốc nhiệm kỳ đầu tiên, vốn là tướng quân đầu hàng từ phía Quốc Dân Đảng. Vào năm 1953, ông tự mình nói với Mao Trạch Đông: “Nếu như 50 năm sau, ĐCSTQ vẫn nói về dân chủ, tự do, thì tôi thực sự bái phục”. Thế nhưng chưa tới 5 năm, Mao Trạch Đông đã bắt đầu chỉnh đốn người. Năm 1957, Mao Trạch Đông từ chỉnh đốn tác phong trong nội bộ Đảng đến chỉnh đốn cánh hữu (tạo phản), cả nước tất cả những người dám nói sự thật được gọi là cánh hữu với hơn 56 vạn người. Chẳng lẽ Phó Tác Nghĩa đã không hối hận bản thân mình phát biểu quá sớm hay sao?
Lão Xá là một nhà văn nổi tiếng, một trong Văn Đàn Lục Nhạc, tràn đầy nhiệt huyết ủng hộ các loại vận động chính trị của Mao Trạch Đông, ông đã viết một lượng lớn văn chương và nhạc phẩm ca ngợi. Nhưng vào thời kỳ Cách mạng Văn hóa, bản thân Lão Xá cũng bị chỉnh đốn, cuối cùng như trong mộng mới tỉnh, xấu hổ không chịu nổi, tự sát tại hồ Thái Bình. Người chỉ biết có sách vở như Lão Xá rốt cục cũng hiểu được, những người mà cả nước đang phê phán kia, thì ra cũng trong sạch giống như bản thân mình thôi. Lão Xá không hối hận sao?
Dân chúng cả nước bao nhiêu năm phải đối mặt với các loại vận động chính trị, lần lượt mỗi người đều bị chỉnh đốn, đều phải trải qua kiểm tra. Người dân cảm thấy bất an, nhà nhà chịu đói, ngày đêm không được an bình, chẳng lẽ đều không hối hận sao? Những người hối hận này trong cả nước từ trên xuống dưới, nhất định là hối hận chính mình năm đó rất ngốc, rất ngây thơ!

Natalie
(theo Secretchina)

7 tháng 9, 2018


Thầy Hồ Ngọc Đại bàn về chương trình mới: cơ bản là để chia tiền


(GDVN) - Đã đến lúc Bộ Giáo dục cần chính thức làm rõ phát biểu của thầy Hồ Ngọc Đại về việc Bộ trưởng, Thứ trưởng giúp ông "lách luật", chương trình mới chỉ làm tiền.

Trước những ồn ào của dư luận về cách đánh vần theo Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, ngày 28/8 Giáo sư Hồ Ngọc Đại đã lên tiếng chia sẻ với kênh VTC14 về vấn đề này. 
Ảnh chụp màn hình đoạn video nhà báo kênh VTC14 phỏng vấn Giáo sư Hồ Ngọc Đại ngày 28/8/2018 đang được chia sẻ mạnh mẽ trên mạng xã hội.
Nội dung thầy Hồ Ngọc Đại nói về cách đánh vần theo Công nghệ giáo dục và sự khác biệt với cách đánh vần tiếng Việt lâu nay khá dài, thời lượng phát sóng hơn 2 phút không lột tả hết;
Chính vì vậy nên nhà báo của VTC14 đã tải toàn bộ video phỏng vấn lên tài khoản mạng xã hội Facebook của mình. Đoạn video này đã và đang được người xem chia sẻ rộng rãi. 
Bên cạnh đó, điều khiến chúng tôi còn đặc biệt quan tâm là những đánh giá và bình luận của thầy về chương trình sách giáo khoa mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
"Tiêu chuẩn cơ bản của nó là chia tiền"
Chúng tôi xin được ghi lại những trao đổi giữa nhà báo của VTC14 với Giáo sư Hồ Ngọc Đại trong đoạn cuối của video phỏng vấn thầy Đại, về chương trình sách giáo khoa mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo để hầu bạn đọc:
Phóng viên: "Từ năm 2019-2020, tức năm học sau đấy, sách giáo khoa mới của chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ đưa vào..."
Giáo sư Hồ Ngọc Đại: Không hơn gì cái cũ đâu. Nó chỉ chia nhau tiền, để nó làm tiền, không hơn gì hết. Bản chất nó vẫn thế.
Phóng viên: "Mà lúc đó lại có nhiều bộ sách giáo khoa cho học sinh, cho giáo viên, cho phụ huynh lựa chọn thì nó sẽ rối rắm như thế nào ạ?"
Giáo sư Hồ Ngọc Đại: "Cái này rối rắm, việc vớ vẩn thôi. Tức là tiêu chuẩn cơ bản của nó là chia tiền, thế thôi. Cô có biết cái số tiền nó bỏ ra bao nhiêu không? Cô tưởng tượng 1 con số 7 và 13 con số 0." [1]
"1 con số 7 và 13 con số 0", theo cá nhân người viết, dường như thầy Hồ Ngọc Đại muốn nhắc đến đề án Đổi mới Chương trình - sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau 2015.
Đề án này dư luận gọi vắn tắt là "đề án 70 nghìn tỷ", được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra năm 2011 với vài chục trang giấy và khái toán 70 nghìn tỷ đồng từng làm rúng động xã hội một thời.
Đáng chú ý, đề án này được xây dựng dưới thời Bộ trưởng Phạm Vũ Luận và Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, bắt đầu từ ngay khi vừa triển khai xong cuốn sách giáo khoa cuối cùng của lớp 12, Chương trình 2000
Thầy Hồ Ngọc Đại phê phán đội ngũ làm Chương trình 2000, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đồng tình hưởng ứng
Trong chương trình Đối thoại chính sách vào khoảng thời gian vừa bắt đầu năm học mới 2011-2012 giữa nhà báo Quang Minh của VTV với Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, Giáo sư Hồ Ngọc Đại, đề án 70 nghìn tỷ đồng đã được nhắc đến.
Sau 2015 Bộ lại có một đợt cải tổ chương trình sách giáo khoa. Vấn đề cải cách sách giáo khoa là buộc phải làm thôi. Vấn đề là ai làm?
"Khẩu hiệu tôi đưa ra năm 1978 là: "Đi học là hạnh phúc", "mỗi ngày đến trường náo nức một ngày vui".
Tôi thì tôi không tin cái bộ phận hiện nay làm có thể thành công được.
Những người mà từng làm dự án ấy, họ mà tiếp tục làm thì không thể thành công được. Vì mỗi một người cái trình độ tư duy chỉ có thế thôi.
Một cái tổ chức, trình độ tư duy của nó chỉ có thế thôi.
Anh không thể khác được. Không thể ra tư duy mới được. Nhất là những người đã định hình rồi.
Nghe danh hiệu thì ghê gớm lắm, nhưng mà không biết gì đâu. Giáo sư gì, Phó giáo sư gì, Tiến sĩ, Phó tiến sĩ. Tư duy cũ lắm.
Với cái lớp ấy mà nó hạn chế thì đất nước này nguy hiểm lắm. Cho nên tôi tin rằng Bộ trưởng mới sẽ có cách xử lý mới. Tôi tin là như thế.
Bởi vì không thể dựa vào cái lực lượng như thế được." 
Khi đó Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đáp lời thầy Hồ Ngọc Đại rằng:
"Điều ấy là khẳng định rồi. 
Hiện nay như tôi nói ban đầu là cái đề án này, cái phần hồn của việc đổi mới chưa có. Ở đây nó mới chỉ là cái khung thời gian triển khai những cái loại công việc.
Ví dụ đến ngày này hội đồng phải họp, nhưng họp bàn cái gì, quyết định cái điều gì, ai ngồi dự họp ở đấy thì chưa có. Mà quan trọng cái khó nó ở cái phần hồn ấy." [2]

Còn trên chương trình phát sóng chính thức của VTV không thấy thầy Đại nhắc đến 70 nghìn tỷ đồng.Không biết hậu trường cuộc đối thoại chính sách này, thầy Hồ Ngọc Đại có góp ý gì cho Giáo sư Phạm Vũ Luận về "nguy cơ chia tiền" của đề án "1 con số 7 và 13 con số 0" khi chỉ có mấy dòng về khung thời gian, hay không;
Chúng tôi cũng chưa tìm thấy bất kỳ ý kiến nào thầy Đại công khai trên truyền thông, tham mưu cho Giáo sư Phạm Vũ Luận và Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hiển về "nguy cơ chia tiền" trong đề án rất sơ sài mà 2 ông chịu trách nhiệm chính.
Ngợi ca Bộ trưởng, Thứ trưởng biết "lách luật"
Khoảng gần 1 năm sau đó, ngày 21/5/2012 tham dự bàn tròn trực tuyến "Những vấn đề giáo dục sau sự kiện đạp đổ cổng trường"do Báo VietnamNet tổ chức, thầy Hồ Ngọc Đại ca ngợi Giáo sư Phạm Vũ Luận và Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hiển:
"Năm vừa rồi, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận ra quyết định chính thức đưa phương án của công nghệ giáo dục về địa phương. Nhưng vì Quốc hội ra Nghị quyết số 40 chỉ có một bộ sách toàn quốc nên buộc phải dùng từ “thí điểm”. 
Nhưng mà “thí điểm” hiện nay có 16 tỉnh và có 50.000 học sinh… Chỉ cần nếu làm thí điểm thì chỉ cần 1.000 là đáng tin cậy.
Giải pháp đưa ra là giải pháp, khi Bộ trưởng Phạm Vũ Luận chỉ đạo thì xuống chủ tịch ủy ban nhân dân quận ra quyết định, ủy ban nhân dân huyện ra quyết định nên làm việc ngon hẳn. Rất ngon!
Tôi chưa bao giờ làm việc thuận lợi như năm vừa rồi. Trước đây làm gì thì chỉ làm với anh Hiển thôi, anh Thành thôi. Anh Hiển là Thứ trưởng, anh Thành là Vụ trưởng, các anh ấy cho phép làm, cùng hỗ trợ.
Trong 3-4 năm nay, khi chỉ có thứ trưởng và vụ trưởng làm, nói chung cũng vất vả, phải thuyết phục. Nhưng khi Bộ trưởng có quyết định thì tình hình khác hẳn. 
Tôi thấy khi thực sự chính quyền vào cuộc thì tình hình rất dễ. Mà cũng may, hai anh là anh Hiển và anh Luận phụ trách là hai người thực bụng muốn làm giáo dục, không sợ, không ngại thủ tục và chấp nhận danh từ “thí điểm” để lách luật. 
Khi Bộ trưởng Phạm Vũ Luận dám ra quyết định chính thức bằng văn bản, tôi thấy tình hình khác rồi.
Nhân chuyện ấy tôi nói, chúng ta không nên nhận, kể cả anh Tiến, anh Thành, anh Luận… không phải là tác giả của “chương trình 2000”. Chương trình này đã triển khai đã mười mấy năm nay. 
Những người đó là một bộ phận hoàn toàn khác. Còn các anh là những người chịu một việc đã rồi.

Giáo sư Hồ Ngọc Đại và Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hiển, ảnh: Báo VietnamNet.
Nên nếu nền giáo dục hiện này có vấn đề gì, cần truy cứu thì phải truy cứu bộ máy làm Chương trình năm 2000, tốn hàng ngàn tỉ nhưng không ra gì." [3]Nhưng cả một hệ thống từ xưa đến nay… Chuyện này, chuyện khác là hậu quả của "Chương trình năm 2000".
Bộ Giáo dục và Đào tạo cứ im lặng mãi, dân biết tin vào đâu?
Chúng tôi không thấy thầy Hồ Ngọc Đại nhắc gì đến tác giả của đề án "một con số 7 và 13 con số 0" trong bình luận mới nhất ngày 28/8/2018 với VTC14.
Cho đến nay, chúng tôi mới ghi nhận được sự ca ngợi thày Đại đã dành cho Giáo sư Phạm Vũ Luận, Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hiển là hai người "thực bụng muốn làm giáo dục, không sợ, không ngại thủ tục và chấp nhận danh từ "thí điểm" để lách luật.
Chúng tôi càng bất ngờ hơn khi Giáo sư Phạm Vũ Luận lúc còn đương chức Bộ trưởng cũng như toàn bộ ban lãnh đạo, đội ngũ tham mưu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã im lặng.
Cá nhân Bộ trưởng Luận cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo đã không có bất kỳ ý kiến nào về phát biểu của thầy Hồ Ngọc Đại trên Báo Nhân Dân, Báo VietnamNet rằng thầy Luận, thầy Hiển giúp thầy Đại lách luật.

Nếu Bộ trưởng, Thứ trưởng Giáo dục mà còn "lách luật" thì làm sao dạy học sinh sống, làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật?Trong khi thông tin này thực sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Bộ trưởng, Thứ trưởng lẫn Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thượng bất chính, hạ tắc loạn, đó là lời dạy thống thiết của cha ông.
Câu chuyện hấp dẫn về việc Giáo sư Phạm Vũ Luận bỏ 50 triệu đồng tiền túi thuê luật sư tư vấn cho mình chuyện "lách luật" được thầy Đại kể trên Báo Nhân Dân;
Việc Bộ trưởng Phạm Vũ Luận giấu gia đình vợ con và cơ quan đi Lào Cai để thực mục sở thị việc dạy và học Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục rồi về mới nhân rộng, được thầy Hồ Ngọc Đại kể trên truyền hình Thông tấn xã Việt Nam. [4]
Đây là những bình luận công khai trên truyền thông chính thống, không phải những câu chuyện trà dư tửu hậu;
Ấy thế mà thầy Luận, thầy Hiển và cả Bộ Giáo dục và Đào tạo đều không có ý kiến gì về một việc nghiêm trọng như thế, đúng là kỳ lạ.
Nay thầy Hồ Ngọc Đại nói chương trình sách giáo khoa mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai chỉ là "làm tiền", "tiêu chuẩn cơ bản của nó là chia tiền, thế thôi", vậy thì dư luận có quyền đặt câu hỏi:
Chương trình sách giáo khoa mới có chuyện chia tiền như thầy Hồ Ngọc Đại nói không? Nếu có thì ai chia, chia cho ai, chia bao nhiêu, chia như thế nào?
Dù đi vay, đó vẫn là tiền ngân sách và sẽ phải trả bằng tiền thuế của Dân, nên Dân có quyền được biết việc ấy.

Điều quan trọng là Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục đang được dạy cho hơn 800 ngàn học sinh trên cả nước, thì dư luận không thể xem nhẹ những đánh giá của Giáo sư Hồ Ngọc Đại về chương trình sách giáo khoa của Bộ, như là chuyện cá nhân.Nếu cho rằng đây chỉ là quan điểm cá nhân của Giáo sư Hồ Ngọc Đại nên Bộ Giáo dục và Đào tạo không bình luận, thì bộ sách công nghệ giáo dục của thầy Đại tới đây ai sẽ thẩm định, để thành sách giáo khoa của chương trình mới?
Tất nhiên, Giáo sư Phạm Vũ Luận đã về trường dạy học, Tiến sĩ Nguyễn Vinh Hiển cũng đã vui cảnh điền viên thì 2 tác giả của đề án "1 con số 7 và 13 con số 0" có lẽ khó có thể nằm trong danh sách, nếu có.
Thiết nghĩ, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên có quan điểm chính thức về vấn đề thầy Hồ Ngọc Đại đã nêu, gồm 2 chuyện "lách luật"triển khai đại trà Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, và bình luận "tiêu chuẩn cơ bản của nó là chia tiền", để dư luận đỡ hoang mang.
Hồng Thủy
Nguồn:
[1]https://www.facebook.com/tuyetnhung.nguyen.31/videos/10204925435972047/UzpfSTgyNjU4NjM4OToxMDE1NjUyMDg1NTUxNjM5MA/
[2]https://www.youtube.com/watch?v=5x1vTk3L1Fs
[3]http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/truong-thuc-nghiem-mot-bi-mat-khong-ai-biet-73075.html
[4]https://www.youtube.com/watch?v=9U3yqMZhb3g

5 tháng 9, 2018

NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ :

Tại sao Marx sai?


Nguồn: Carl Bildt, “Why Marx Was Wrong”, Project Syndicate, 09/05/2018.
Biên dịch: Đậu Thế Hoàng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Karl Marx đã làm cho nhiều người quan tâm tới các tác phẩm của ông, cùng với việc khánh thành bức tượng tại quê nhà của ông ở Trier, Đức.
Tại lễ kỷ niệm chủ nghĩa Marx ở Bắc Kinh vào tuần trước, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố, “như ánh mặt trời ló rạng, học thuyết này đã soi sáng con đường cho nhân loại khám phá quy luật của lịch sử và tìm đường giải phóng chính mình.” Ông còn tuyên bố rằng Marx “đã chỉ ra con đường lý thuyết khoa học để tiến tới một xã hội lý tưởng nơi mọi người được hưởng sự bình đẳng và tự do, không còn áp bức hay bóc lột.”
Do những điều ông Tập phát biểu là ở một nước Trung Quốc theo chủ nghĩa Marx, những người tham dự không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng tình với chúng. Tuy nhiên, phát biểu tại Trier cùng ngày, Chủ tịch Uỷ ban châu Âu Jean-Claude Juncker cũng đưa ra nhận định riêng của mình khá hào phóng với Marx: “Ngày nay, ông bị gán cho những thứ mà ông không phải chịu trách nhiệm và cho những việc không phải do ông gây ra, bởi có nhiều quan điểm ông viết ra đã được biên soạn lại thành những điều đối nghịch.”
Ý nghĩa đằng sau câu nói này của Juncker chưa thực sự rõ ràng. Xét cho cùng, chủ nghĩa Marx gây ra đau khổ cho hàng chục triệu người vốn đã bị buộc phải sống dưới những chế độ tự ủng hộ chủ nghĩa Marx. Phần lớn trong thế kỷ 20, 40% nhân loại phải chịu cảnh đói ăn, lao động cưỡng bức, bị kiểm duyệt và các hình thức đàn áp khác dưới tay của những người tự xưng là các nhà Marxist.
Trong phát biểu của mình, Juncker dường như muốn ám chỉ đến phản đề thường thấy: tội ác của những người cộng sản trong suốt thế kỷ 20 đều do người ta bóp méo tư tưởng của Marx, chứ bản thân ông không phải chịu trách nhiệm.
Lập luận này có hợp lý không? Marx đã dành phần lớn cuộc đời mình để phân tích nền kinh tế chính trị phương Tây trong giai đoạn công nghiệp hoá vào giữa thế kỷ 19. Song, những ảnh hưởng lâu dài của ông liên quan tới những tư tưởng của ông về tương lai cũng như tác động của chúng đối với xã hội. Khi xem xét di sản của Marx, chúng ta không thể bỏ qua khía cạnh này.
Marx coi tài sản tư hữu là căn nguyên của mọi tội lỗi trong các xã hội tư bản mới nổi trong thời đại của ông. Theo đó, ông tin rằng chỉ bằng cách bãi bỏ nó mới giải quyết được sự phân chia giai cấp trong xã hội và qua đó đảm bảo cho một tương lai hòa hợp của con người. Sau này, cộng sự của Marx là Friedrich Engels tuyên bố rằng dưới chế độ cộng sản, nhà nước sẽ không còn cần thiết nữa và “sẽ lụi tàn đi.” Những lời khẳng định này không phải là suy đoán, mà đúng hơn là được đưa ra như các tuyên bố khoa học về viễn cảnh tương lai.
Nhưng, tất nhiên những luận điểm đó đều là rác rưởi, và học thuyết về lịch sử của Marx – chủ nghĩa duy vật biện chứng – đã được chứng minh là sai lầm và nguy hiểm trong mọi khía cạnh thực tiễn. Nhà triết học lỗi lạc thế kỷ 20, Karl Popper, một trong những người phê bình Marx mạnh mẽ nhất, đã gọi Marx là “nhà tiên tri sai lầm.” Và nếu cần thêm bằng chứng, thì đó là việc các quốc gia ủng hộ chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ 20 đã trở thành những xã hội dân chủ, cởi mở và thịnh vượng.
Ngược lại, những chế độ từ chối chủ nghĩa tư bản và đi theo chủ nghĩa Marx đều đã thất bại, và không phải do trùng hợp ngẫu nhiên hay là do những tín đồ của chủ nghĩa Marx hiểu lầm học thuyết của ông. Bãi bỏ chế độ tư hữu và thiết lập nền kinh tế nhà nước không chỉ cướp đi tinh thần kinh doanh, vốn rất cần cho việc thúc đẩy xã hội phát triển, mà thậm chí còn xoá bỏ quyền tự do của con người.
Bởi chủ nghĩa Marx coi tất cả những mâu thuẫn trong xã hội là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, điều sẽ biến mất khi quyền tư hữu tài sản không còn, nên sau khi xây dựng chủ nghĩa cộng sản thì sự bất đồng quan điểm không còn được cho phép. Theo mặc định, bất kỳ thách thức nào đối với chế độ mới đó đều được coi là tàn dư bất hợp pháp của chế độ áp bức trước đó.
Do đó, những chế độ theo chủ nghĩa Marx trên thực tế đều là sự mở rộng mang tính logic của học thuyết Marx. Tất nhiên Juncker đã đúng khi cho rằng Marx, qua đời 34 năm trước Cách mạng Nga, không phải chịu trách nhiệm đối với những trại cải tạo lao động, nhưng các tư tưởngcủa Marx phải chịu trách nhiệm đối với chúng.
Trong công trình nghiên cứu mang tính cột mốc có nhan đề Main Currents of Marxism (Những dòng chảy chính của chủ nghĩa Marx), gồm ba tập, nhà triết học Ba Lan Leszek Kolakowski, người đã trở thành một nhà phê bình hàng đầu về chủ nghĩa Marx sau một thời tuổi trẻ ủng hộ chủ nghĩa này, lưu ý rằng Marx gần như không quan tâm tới con người dù họ thực sự tồn tại. “Chủ nghĩa Marx rất ít hoặc không để ý tới thực tế là con người được sinh ra và chết đi, họ là đàn ông hay đàn bà, trẻ hay già, khoẻ mạnh hay ốm yếu.” Cũng như vậy, “trong mắt ông, cái ác và sự đau khổ chẳng có ý nghĩa gì ngoại trừ là công cụ của giải phóng. Chúng chỉ là những thực tế xã hội thuần tuý, chứ không phải là một phần thiết yếu của điều kiện sống con người.”
Góc nhìn của Kolakowski giúp lý giải việc nhiều chế độ theo đuổi học thuyết mang tính tiên định và máy móc này của Marx buộc phải áp dụng chủ nghĩa toàn trị khi đối mặt với thực tế của một xã hội phức tạp. Họ không phải lúc nào cũng thành công, nhưng kết quả thì bao giờ cũng bi thảm.
Về phần mình, Tập coi sự phát triển kinh tế của Trung Quốc trong vài thập niên qua là “minh chứng thép” cho giá trị tiếp tục của chủ nghĩa Marx. Song, thực tế lại là điều ngược lại. Nên nhớ rằng chính Trung Quốc thời cộng sản thuần tuý đã gây ra nạn đói và sự khủng bố trong phong trào “Đại nhảy vọt” và “Cách mạng Văn hoá.” Thời điểm Mao ra quyết định tịch thu đất đai của nông dân và quốc hữu hóa các công ty của doanh nhân cũng là lúc các thảm kịch đã được dự báo trước. Kể từ đó Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã từ bỏ cách tiếp cận giáo điều này.
Dưới thời người kế nhiệm Mao là Đặng Tiểu Bình, ĐCSTQ đã phát động chính sách “mở cửa” kinh tế. Sau năm 1978, Trung Quốc tiến hành khôi phục chế độ tư hữu và cho phép tư nhân thành lập doanh nghiệp, và kết quả thật sự ngoạn mục.
Ngày nay, nếu sự phát triển của Trung Quốc bị kìm hãm bởi bất cứ thứ gì, thì đó là tàn dư của chủ nghĩa Marx vốn còn hiện hữu tại các doanh nghiệp nhà nước yếu kém và trong hoạt động đàn áp những người bất đồng chính kiến. Hệ thống độc đảng tập trung của Trung Quốc đơn giản là không tương thích với một xã hội đa dạng và hiện đại.
Hai trăm năm sau ngày sinh của Marx, ngẫm nghĩ về di sản trí tuệ của Marx chắc chắn vẫn là một điều khôn ngoan. Tuy nhiên, chúng ta làm vậy không phải để kỷ niệm, tung hô, mà để phòng ngừa cho xã hội cởi mở của chúng ta khỏi những cám dỗ về chủ nghĩa toàn trị vốn đang ẩn náu trong các lý thuyết sai lệch của ông.
(Giáo dục)Cổ nhân có câu “lương sư hưng quốc”. Nhưng bất hạnh thay là nước Việt Nam hôm nay, “lương sư” đang ngày ngày càng hiếm; trong khi những nhà sư phạm “nửa mùa”, thích lôi người người học ra làm chuột bạch thí nghiệm với các sáng kiến lạ đời, thì lại nhiều nhan nhản.
GS Hồ Ngọc Đại và phương pháp đánh vần mới
Giữa bầu không khí phấn khởi của cả nước vì một số thành tựu kinh tế xã hội nổi bật trong thời gian qua, thì những vết sạn của cả nền giáo dục lại khiến công chúng không thể không bức xúc. Gần đây nhất, đó chính là những tranh cãi xoay quanh “công nghệ giáo dục” trong việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc tiểu học của ông Giáo sư Hồ Ngọc Đại (con rể cố Tổng bí thư Lê Duẩn).
Trên thực tế, ông Đại chỉ là dân ngoại đạo về ngữ văn và ngôn ngữ học, hoàn toàn không có thành tựu nào nổi bật (ở đây chỉ các công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, được công nhận là có giá trị học thuật lẫn khả năng ứng dụng trong thực tiễn). Thời chiến tranh khốc liệt, ông được nhà nước cử sang Liên Xô học ngành tâm lý học, rồi trở về nước làm luận án tiến sĩ, song lại liên quan đến chủ đề tâm lý trong việc giảng dạy toán học ở bậc phổ thông. Từng nhận là có đọc một cuốn sách ghi chép những kiến thức tổng hợp về lịch sử hình thành và phát triển của tiếng Việt suốt hơn 300 năm, ông đã lấy đó để làm động lực cho những sáng kiến cải cách ngôn ngữ về sau này. Thử hỏi như vậy, ông Đại lấy tư cách gì hay dựa trên cơ sở học thuật nền tảng nào để đòi cải biến tiếng Việt?
Bằng công nghệ giáo dục “độc đáo” của mình, ông Đại đề nghị giản lược hóa cách phát âm, chỉ sử dụng âm vị “cờ” cho cả 3 mặt chữ C,Q,K. Cách làm này, theo nhiều thầy cô giáo có kinh nghiệm đứng lớp, rất dễ gây nhầm lẫn (ngay với người lớn, đừng nói trẻ nhỏ), khiến các bậc phụ huynh không khỏi lo lắng. Nhiều học giả, như nhà nghiên cứu độc lập Cao Tự Thanh, đã chỉ ra âm vị của C,K có thể giống nhau, nhưng nếu áp đặt cho Q thì chắc chắn là sai và không thể thay thế một cách tùy tiện như trên được. Và mặc dù không thể phản biện lại, nhưng ông Đại vẫn luôn khăng khăng, rằng chỉ có phương pháp của mình mới là đúng và sẽ hữu ích đối với hoạt động dạy học hiện đại, giúp cả thầy cô giáo lẫn học sinh thuân tiện hơn trong việc đánh vần. Chưa hết, sáng kiến của ông Đại còn được một người bạn lâu năm của ông là PGS. TS Bùi Hiền – từng gây hoang mang dư luận bởi đề án đòi thay đổi lối viết tiếng Việt (mà ngay đến chính ông Bùi Hiền cũng còn chưa quen) – cổ vũ hết mình.
PGS. TS Bùi Hiền, nguyên phó hiệu trưởng Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội từng đề xuất cải cách chữ viết tiếng Việt
Là người Việt Nam, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc và trân trọng ngôn ngữ của mình, bao gồm tiếng nói và chữ viết. Nếu chữ Quốc ngữ – thành quả vĩ đại, kết tinh ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa như mang thanh âm của người Việt, nghĩa Hán tự, nhưng được biểu thị bằng các ký tự La tinh – mới có lịch sử khoảng 400 năm nay và chỉ thực sự trở nên phổ biến, thành chữ viết chính thức của cả dân tộc trong độ 100 năm trở lại; thì các thanh điệu trong tiếng Việt (cụ thể là 6 dấu thanh) đã phải mất gần 2000 năm để hình thành và phát triển đến độ ổn định như ngày nay. Ấy vậy mà hai ông giáo sư tiến sỹ đương đại, vốn chẳng được đào tạo bài bản về ngôn ngữ học như các giáo sĩ, thừa sai truyền đạo phương Tây khia xưa (có công phát minh và hoàn thiện lối viết Quốc ngữ khi nghe tiếng nói của người An Nam rồi ghi lại bằng các ký tự La tin, ban đầu chỉ là để phục vụ mục đích rao giảng Tin mừng), đã đòi cải biến cả cách phát âm lẫn lối viết của tiếng dân tộc, chỉ vì cái tôi và sự ngạo mạn của bản thân (hoặc giả cũng có thể nắm được một chút lợi ích nào đó).
Các linh mục, giáo sĩ và thừa sai truyền đạo phương Tây chính là những người được đào tạo cực kỳ bài bản về ngữ văn và ngôn ngữ học. Chúng ta không thể phủ nhận công lao của những người như vậy đối với sự hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ
Nhưng nguy hiểm hơn, thay vì lấy ý kiến rộng rãi để bổ túc và hoàn thiện, nhất là cần chứng minh tính đúng đắn và khả năng ứng dụng đại trà của phương pháp mới (nếu đúng là nó có giá trị) dựa trên tinh thần bao dung của khoa học, thì một người được gọi là trí thức, đạo mạo, đức cao vọng trọng như ông Đại lại tìm cách “lách luật”, đi đường “tiểu ngạch” cùng một số vị quan chức, lãnh đạo giáo dục (như nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận và Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển) thực hiện chiến lược đánh “du kích”, ban đầu cho in, thí điểm và chỉ đạo địa phương mua sách (thông qua công ty xuất bản độc quyền với giá bán cao gấp 2 – 3 lần bình thường), ban đầu từ Lào Cai – một tỉnh miền núi, để rồi sau đó nhân rộng ra. Một số nguồn tin cho biết, nhiều phụ huynh đã phải chạy đôn chạy đáo để tìm mua những cuốn sách giáo khoa tiếng Việt có chất lượng rất thấp (do ông Đại làm chủ biên), và ước tính cả xã hội đã tiêu tốn tới 400 – 500 tỷ đồng cho mô hình thí điểm này.
Lễ ra mắt Trung tâm công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại, có sự tham dự của hai ông Phạm Vũ Luận và Nguyễn Vinh Hiển. Nhiều người còn hoài nghi rằng liệu Vụ Tiểu học, Bộ GD&ĐT có phải là sân sau của ông Đại?
Nội dung trong sách giáo khoa do ông Đại làm chủ biên có chất lượng rất thấp
Cuối cùng, theo GSTS Trần Đình Sử, mọi nghiên cứu khoa học cần thiết phải vì mục đích nhân văn và mang lại lợi ích kinh tế xã hội. Đất nước này đang rất thiếu những sáng tạo và ý tưởng đột phá (nhất là về khoa học công nghệ) để đẩy mạnh năng suất lao động, nhằm thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển, chứ chúng ta không cần những đề xuất “tào lao”, gây lãng phí tốn kém, thậm chí chỉ nhằm mục đích bòn rút ngân sách công. Những đề xuất và việc làm, theo kiểu của GS. Hồ Ngọc Đại hay PGS.TS Bùi Hiền, vì rất thiếu nền tảng căn bản, bên cạnh trình độ nhận thức lẫn hiểu biết về kinh tế – văn hóa – xã hội quá thấp, tất yếu sẽ gây nên hậu quả tai hại cho đất nước, thậm chí còn mang tính “hủy diệt văn hóa” … Thế mới biết, sở hữu nhiều bằng cấp, học hàm, học vị thì chưa hẳn đã là trí thức, … và ngay trong giới “trí thức”, cũng có không ít trường hợp điển hình của việc “giả” hay bằng “dỏm”. Vì vậy, dư luận không nên ủng hộ hay thậm chí là tiếp tay cho những suy nghĩ và hành vi “hại dân hại nước” như vậy.
(Theo Bút Danh)