22 tháng 8, 2018

Nghiên cứu Quốc tế

Suy nghĩ lại về Trung Quốc


Nguồn: Kurt Campbell & Ely Ratner, “The China Reckoning”, Foreign Affairs, March/April 2018.
Biên dịch: Huỳnh Hoa
Bắc Kinh coi thường những kỳ vọng của Hoa Kỳ như thế nào
Hoa Kỳ luôn luôn có một ý thức quá lớn về khả năng của mình trong việc quyết định con đường đi của Trung Quốc. Hết lần này đến lượt khác, các tham vọng của Hoa Kỳ đều tan vỡ như bọt nước. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, George Marshall, đặc phái viên Hoa Kỳ tại Trung Quốc, hy vọng được làm mối lái cho một nền hòa bình giữa phe Quốc dân đảng và phe Cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Hoa. Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Truman nghĩ rằng Mỹ có thể ngăn chặn được bộ đội của Mao Trạch Đông vượt qua sông Áp Lục [biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Hàn]. Chính phủ Johnson thì tin Bắc Kinh cuối cùng sẽ cố tránh dính dáng vào Việt Nam. Trong mỗi trường hợp này, thực tế của Trung Quốc đã làm đảo lộn mọi kỳ vọng của Hoa Kỳ.
Với sự kiện tổng thống Richard Nixon mở cửa với Trung Quốc, Washington đã làm cú đặt cược lớn nhất và lạc quan nhất. Cả Nixon và Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của ông ta, đều cho rằng cuộc hòa giải này sẽ chêm một cái nêm vào giữa Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa và làm thay đổi quan niệm của Trung Quốc về lợi ích của họ khi tiến gần hơn tới Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1967, Nixon đã viết trên tạp chí Foreign Affairs: “Thế giới không thể an toàn cho đến khi Trung Quốc thay đổi. Vì vậy mục tiêu của chúng tôi, ở mức độ mà chúng tôi có thể tác động đến các sự kiện, là đem lại sự thay đổi đó”. Kể từ ngày ấy, chiến lược của Hoa Kỳ luôn đặt trên nền tảng là  giả thuyết: làm sâu sắc hơn các mối quan hệ thương mại, ngoại giao và văn hóa sẽ có tác dụng làm thay đổi sự phát triển nội bộ của Trung Quốc và cách hành xử của nước này với bên ngoài. Ngay trong giới chính sách Hoa Kỳ những người mang nỗi hoài nghi về ý định của Trung Quốc cũng chia sẻ  niềm tin tiềm ẩn rằng sức mạnh và vị thế bá chủ của Hoa Kỳ có thể dễ dàng uốn nắn Trung Quốc theo sở thích của Washington.
Nửa thế kỷ đã trôi qua từ những bước đi đầu tiên của Nixon hướng tới tái lập tình hữu nghị Trung-Mỹ, đã có các bằng chứng ngày càng rõ ràng rằng Washington một lần nữa lại đặt quá nhiều niềm tin vào sức mạnh của mình trong việc định hình con đường phát triển của Trung Quốc. Tất cả mọi phe trong cuộc tranh luận chính sách này đều sai: cả những người ủng hộ thương mại tự do và các nhà tài chính từng tiên đoán về sự cởi mở tất yếu và ngày càng tăng ở Trung Quốc; những người ủng hộ hội nhập từng cho rằng các tham vọng của Bắc Kinh sẽ được thuần hóa nhờ sự tương tác rộng lớn hơn với cộng đồng quốc tế; và cả những chính trị gia diều hâu từng tin rằng, sức mạnh của Trung Quốc có thể bị làm cho cùn nhụt bởi tính ưu việt vĩnh cửu của Hoa Kỳ.
Không có cây gậy hoặc củ cà rốt nào có tác động tới Trung Quốc như dự kiến. Những mối ràng buộc về ngoại giao và thương mại đã không mang lại được sự cởi mở về chính trị và kinh tế ở Trung Quốc. Cả sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ cũng như cán cân lực lượng khu vực đều không ngăn cản được Bắc Kinh tìm cách thay thế những thành phần cốt lõi của một hệ thống do Hoa Kỳ dẫn dắt. Và trật tự tự do quốc tế cũng đã thất bại trong việc thu hút hoặc ràng buộc Trung Quốc một cách mạnh mẽ như đã từng kỳ vọng. Thay vì vậy, Trung Quốc đã đi theo con đường của riêng mình, và chứng tỏ hàng loạt kỳ vọng của Hoa Kỳ cho tiến trình này là hoàn toàn sai lầm.
Thực tế ấy đặt cơ sở hợp lý để biện minh cho sự “nghĩ lại tỉnh táo” về đường lối của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Có rất nhiều rủi ro đi kèm với một sự đánh giá lại như vậy; những người bảo vệ cho khuôn khổ hiện hành cảnh báo về một sự mất ổn định trong quan hệ song phương, hoặc khả năng kích hoạt một cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Nhưng công cuộc xây dựng một cách tiếp cận và một mối quan hệ vững mạnh hơn, bền vững hơn với Bắc Kinh đòi hỏi phải thật sự thành thực về nhiều giả định căn bản đã biến thành sai lầm như thế nào. Từ bên này sang bên kia phổ ý thức hệ, cộng đồng chính sách ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đầu tư sâu rộng vào những kỳ vọng về Trung Quốc – về đường lối của nước này với kinh tế, chính sách đối nội, an ninh và trật tự thế giới – ngay cả khi đã tích lũy được rất nhiều bằng chứng chống lại các kỳ vọng ấy. Những chính sách xây dựng trên kỳ vọng đã thất bại trong việc thay đổi Trung Quốc ngay trong cách mà chúng ta dự tính hoặc hy vọng.
SỨC MẠNH CỦA THỊ TRƯỜNG
Sự tương tác thương mại rộng lớn hơn với Trung Quốc được giả định sẽ mang lại cuộc giải phóng nền kinh tế Trung Quốc, từng bước một nhưng đều đặn. Chiến lược An ninh quốc gia năm 1990 của tổng thống Mỹ George H.W. Bush [Bush cha] miêu tả các quan hệ được nâng cao với thế giới là “cốt yếu cho triển vọng của Trung Quốc giành lại con đường cải cách kinh tế”. Lối suy nghĩ này chiếm ưu thế trong nhiều thập niên. Nó dẫn dắt các quyết định của Mỹ trong việc cấp cho Trung Quốc quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN) trong thập niên 1990, ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2001, thiết lập đối thoại kinh tế cấp cao năm 2006 và đàm phán một hiệp định đầu tư song phương dưới thời tổng thống Barack Obama.
Thương mại hàng hóa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bùng nổ, từ mức dưới 8 tỉ USD năm 1986 lên mức hơn 578 tỉ USD năm 2016, tăng hơn 30 lần sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát. Tuy nhiên, từ những ngày đầu tiên của thế kỷ này, công cuộc tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã dừng lại. Trái với những kỳ vọng của phương Tây, Bắc Kinh đã đầu tư gấp đôi vào mô hình tư bản nhà nước ngay cả khi họ đã trở nên giàu có hơn. Thay vì trở thành một lực lượng thúc đẩy sự cởi mở rộng lớn, mức tăng trưởng kinh tế liên tục đã phục vụ cho sự chính danh hóa quyền cai trị của đảng Cộng sản Trung Quốc và mô hình kinh tế do nhà nước dẫn dắt của nước này.
Các quan chức Hoa Kỳ tin rằng, nợ nần, sự kém hiệu quả và nhu cầu của một nền kinh tế tiến bộ hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những cải cách sâu rộng ở Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc cũng nhận ra những vấn đề trong đường lối của họ; năm 2007 thủ tướng Ôn Gia Bảo đã gọi nền kinh tế Trung Quốc là “không ổn định, không thăng bằng, không kết nối và không bền vững”. Nhưng thay vì mở cửa đất nước cho cuộc cạnh tranh lớn hơn thì với ý đồ duy trì quyền kiểm soát nền kinh tế, đảng Cộng sản Trung Quốc lại củng cố khối doanh nghiệp nhà nước và theo đuổi những chính sách công nghiệp nhắm tới việc thúc đẩy các tập đoàn hàng đầu về công nghệ quốc gia trong các lĩnh vực thiết yếu, bao gồm cả hàng không không gian, y sinh học và robotics (đáng chú ý là kế hoạch “Made in China 2025”). Và bất chấp những lời hứa hẹn cứ nhắc đi nhắc lại, Bắc Kinh vẫn luôn chống lại áp lực từ Washington và nhiều thủ đô khác đòi Trung Quốc phải tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp nước ngoài. Trung Quốc đã hạn chế quyền tiếp cận thị trường và buộc các doanh nghiệp không phải Trung Quốc phải ký kết những hợp đồng liên doanh và chia sẻ công nghệ, trong khi họ vẫn tuồn vốn đầu tư và trợ cấp cho những công ty nội địa được nhà nước hậu thuẫn.
Cho tới gần đây, phần lớn các nhà hoạch định chính sách và quản lý doanh nghiệp Hoa Kỳ vẫn ngầm chấp nhận một sự phân biệt đối xử như vậy; những lợi ích thương mại tiềm tàng thì lớn đến mức họ cho rằng sẽ là không khôn ngoan khi đảo lộn mối quan hệ hiện hành bằng những chính sách bảo hộ thị trường hoặc cấm vận thương mại. Thay vì vậy, họ đấu tranh quyết liệt để giành những sự nhượng bộ nhỏ nhoi, từng chút một. Nhưng giờ đây, những gì có thời được coi chỉ là những thất bại ngắn hạn trong việc làm ăn với Trung Quốc đã trở thành những nỗi thất vọng thường trực và tai hại hơn nhiều. Năm ngoái Phòng Thương mại Hoa Kỳ báo cáo cứ 10 doanh nghiệp Mỹ thì có 8 đơn vị cảm thấy ít được hoan nghênh ở Trung Quốc so với những năm trước, và khoảng 60 phần trăm số doanh nghiệp được hỏi ý kiến có rất ít hoặc không có niềm tin rằng Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường nhiều hơn trong vòng ba năm tới. Những cơ chế tự nguyện và hợp tác để thúc đẩy mở cửa nền kinh tế Trung Quốc nhìn chung đã thất bại, kể cả cơ chế Đối thoại Kinh tế toàn diện mới được chính phủ của ông Trump khai trương.
MỆNH LỆNH CỦA TỰ DO HÓA
Tăng trưởng kinh tế được giả định sẽ không chỉ mang lại sự cởi mở kinh tế rộng hơn mà cả sự tự do hóa chính trị. Lối tư duy này cũng cho rằng, sự phát triển sẽ kích hoạt một chu kỳ thuận lợi; một tầng lớp trung lưu mới manh nha sẽ đòi hỏi những quyền lợi mới và các quan chức thực dụng sẽ chấp nhận các cải cách tư pháp cần thiết để tiến xa hơn. Cuộc tiến hóa này dường như là điều chắc chắn sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ và các cuộc chuyển hóa dân chủ diễn ra ở Đài Loan và Nam Hàn. “Không quốc gia nào trên trái đất này tìm ra được một con đường nhập cảng hàng hóa và dịch vụ của thế giới trong khi vẫn ngăn chặn các ý tưởng nước ngoài tại biên giới của mình”, ông George H. W. Bush tuyên bố như vậy. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm tạo thuận lợi cho tiến trình này bằng cách chia sẻ công nghệ, đẩy mạnh thương mại và đầu tư, hỗ trợ giao lưu nhân dân và tiếp nhận hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc vào các trường đại học Mỹ.
Vụ đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989 đánh tan niềm hy vọng về sự trỗi dậy của nền dân chủ đại diện ở Trung Quốc. Nhưng nhiều chuyên gia và nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ vẫn kỳ vọng chính phủ Trung Quốc sẽ cho phép thực thi quyền tự do báo chí rộng rãi hơn, cho phép xã hội dân sự mạnh mẽ hơn trong khi dần dần chấp nhận cạnh tranh chính trị nhiều hơn cả bên trong đảng Cộng sản lẫn ở cấp địa phương. Họ tin rằng, cuộc cách mạng công nghệ thông tin của thập niên 1990 sẽ khuyến khích những xu hướng như vậy bằng cách giúp công dân Trung Quốc tiếp xúc nhiều hơn với thế giới bên ngoài và nâng cao những phần thưởng kinh tế cho việc mở cửa. Như tổng thống Bill Clinton có lần nói, “Không có tự do đầy đủ để suy nghĩ, để truy vấn và để sáng tạo, Trung Quốc sẽ rơi vào một tình thế bất lợi rõ ràng khi cạnh tranh với các xã hội hoàn toàn mở trong kỷ nguyên thông tin, trong đó nguồn lực lớn lao nhất của tài sản quốc gia là những gì nằm bên trong đầu óc của con người”. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ dần dần nhận ra rằng chỉ bằng cách chấp nhận tự do cá nhân thì Trung Quốc mới có thể thịnh vượng trong một tương lai công nghệ cao.
Nhưng nỗi lo sợ rằng sự cởi mở rộng hơn có thể đe dọa cả sự ổn định quốc nội và sự sống còn của chế độ đã thôi thúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm kiếm một con đường thay thế. Họ coi cả hai cú sốc biến cố Quảng trường Thiên An Môn và biến cố Liên xô sụp đổ như là bằng chứng của những mối hiểm nguy mà công cuộc dân chủ hóa và cạnh tranh chính trị mang lại. Và thế là, thay vì chấp nhận những chu kỳ tích cực của công cuộc cởi mở, Bắc Kinh lại phản ứng chống lại các lực lượng toàn cầu hóa bằng cách dựng lên những bức tường và siết chặt quyền kiểm soát của nhà nước, thui chột thay vì tăng cường dòng chảy tự do của người dân, của ý tưởng và hoạt động thương mại. Những áp lực bổ sung lên chế độ của Trung Quốc trong thế kỷ này – bao gồm một sự giảm tốc về kinh tế, bệnh tham nhũng đặc hữu của chính quyền và quân đội, cũng như những trường hợp đáng ngại về sự nổi dậy của dân chúng ở khắp nơi trên thế giới – đã kích thích thêm chứ không làm giảm đi chế độ chuyên chế độc tài.
Thật vậy, những biến cố trong thập niên vừa qua đã phá hỏng những niềm hy vọng khiêm tốn nhất về tự do hóa chính trị ở Trung Quốc. Năm 2013, một chỉ thị nội bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc, được biết tới như là Tài liệu số 9, cảnh cáo thẳng thừng rằng, “chế độ dân chủ hiến định phương Tây” và các “giá trị phổ quát” khác là những bức bình phong che giấu ý đồ làm suy yếu, mất ổn định, thậm chí làm tan rã nước Trung Quốc. Chỉ thị đó chứng tỏ rằng hố ngăn cách giữa những kỳ vọng của Hoa Kỳ với kỳ vọng của Trung Quốc về tương lai chính trị của nước này đang mở rộng ra rất nhanh. Như Orville Schell, một chuyên gia về Trung Quốc hàng đầu của Mỹ, nhận xét: “Trung Quốc chắc chắn đang trượt lùi vào một bầu không khí chính trị gợi nhớ tới ông Mao Trạch Đông trong thập niên 1970 hơn là ông Đặng Tiểu Bình của thập niên 1980”. Ngày nay, cuộc đàn áp đang diễn ra với các nhà báo, các lãnh tụ tôn giáo, người hoạt động xã hội và các luật sư nhân quyền không có dấu hiệu giảm xuống – chỉ trong năm 2015 đã có hơn 300 luật sư, người trợ giúp pháp lý và người hoạt động xã hội bị giam giữ.
Công nghệ thông tin, thay vì giúp chuyển giao quyền lực cho nhân dân Trung Quốc như ở nhiều nước phương Tây, lại giúp tăng cường bàn tay của nhà nước, giúp nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm soát dòng chảy thông tin và giám sát hành vi của công dân. Kiểm duyệt, giam cầm, và một bộ luật an ninh mạng mới trao cho chính quyền quyền kiểm soát rộng rãi mạng Internet ở Trung Quốc, ngăn cản hoạt động chính trị bên trong “Vạn lý hỏa thành” (Great Firewall) của Trung Quốc. Giờ đây chế độ chuyên chế thế kỷ 21 của Trung Quốc còn triển khai cả một “hệ thống tín nhiệm xã hội”, sử dụng nguồn dữ liệu lớn (big data) kết hợp với trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence) để khen thưởng hay trừng phạt công dân Trung Quốc dựa vào hoạt động chính trị, thương mại, xã hội và hoạt động trực tuyến của họ. Ứng dụng công nghệ nhận diện khuôn mặt, kết hợp với mạng lưới máy quay phim theo dõi phủ khắp Trung Quốc, đã giúp cho nhà nước có thể xác định vị trí của bất kỳ người dân nào chỉ trong vài phút đồng hồ.
NGĂN CHẶN VỊ THẾ HÀNG ĐẦU
Sự kết hợp giữa ngoại giao Hoa Kỳ với sức mạnh quân sự Hoa Kỳ – củ cà rốt và cây gậy – được giả định sẽ thuyết phục Bắc Kinh rằng Trung Quốc sẽ không thể và không cần thiết phải thách thức  trật tự về an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á. Washington đã “thúc đẩy mạnh mẽ sự tham gia của Trung Quốc vào các cơ chế an ninh khu vực để trấn an các quốc gia láng giềng và làm dịu mối quan ngại về an ninh của chính mình”, Chiến lược An ninh quốc gia năm 1995 của chính phủ Clinton xác định như vậy và được hỗ trợ bằng những mối quan hệ giữa quân đội với quân đội cùng nhiều biện pháp xây dựng lòng tin khác. Những phương thức giao kết này được kết hợp với một “hàng rào an toàn” – gia tăng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ trong khu vực, được hỗ trợ bởi các đối tác và đồng minh có năng lực. Lối suy nghĩ này cho rằng, tác động của đường lối này là để làm nguội cuộc cạnh tranh quân sự ở châu Á và kiềm chế tham vọng của Trung Quốc trong việc thay đổi trật tự khu vực. Bắc Kinh sẽ hài lòng chấp nhận một mức độ đủ về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang cho những sự kiện bất ngờ hạn hẹp ở khu vực và dành phần lớn nguồn lực cho các nhu cầu nội địa.
Lập luận này giả định rằng, Trung Quốc sẽ tập trung vào cái mà họ tự mô tả là “cửa sổ cơ hội chiến lược” cho công cuộc phát triển ở trong nước với rất nhiều thách thức về kinh tế và xã hội xâm chiếm sự quan tâm của các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và các học giả Hoa Kỳ cũng giả định rằng Trung Quốc đã học được bài học quý báu từ Liên xô về cái giá khủng khiếp phải trả cho việc tham gia chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ. Như vậy, Washington không chỉ có thể ngăn cản hành động xâm lăng của Trung Quốc mà còn có thể – dùng từ của Ngũ giác đài – “can ngăn” Trung Quốc đừng thử cạnh tranh với Hoa Kỳ. Zalmay Khalilzad, một quan chức trong cả hai chính phủ Reagan và Bush, lập luận, một Hoa Kỳ ở vị thế thống trị có thể “thuyết phục giới lãnh đạo Trung Quốc rằng một thách thức như vậy sẽ rất khó khăn khi chuẩn bị và hết sức rủi ro khi theo đuổi”. Hơn thế nữa, vẫn không rõ là liệu Trung Quốc có thể thách thức vị thế hàng đầu của Hoa Kỳ cho dù họ muốn vậy hay không. Vào cuối thập niên 1990, quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) được coi là vẫn đi sau quân đội Hoa Kỳ và quân đội các nước đồng minh nhiều thập kỷ.
Trong bối cảnh như vậy, các quan chức Hoa Kỳ luôn giữ sự thận trọng đáng kể để không bị vấp vào một cuộc chạm trán với Trung Quốc. Nhà khoa học chính trị Joseph Nye giải thích lối suy nghĩ này khi ông phụ trách văn phòng châu Á của Ngũ giác đài dưới thời chính phủ Clinton: “Nếu chúng ta đối đãi với Trung Quốc như kẻ thù, chúng ta chắc chắn sẽ có kẻ thù trong tương lai. Còn nếu chúng ta đối đãi với Trung Quốc như bạn bè, chúng ta không chắc có được tình bạn, nhưng ít ra chúng ta cũng để ngỏ khả năng có thêm nhiều kết quả tốt lành”. Trong cuộc điều trần trước quốc hội để được xem xét phê chuẩn làm bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ hồi tháng 1-2001, ông Colin Powell nói rằng: “Trung Quốc không phải là kẻ thù và thách thức của chúng ta là giữ cho họ không biến thành kẻ thù”.
Ngay cả khi Bắc Kinh bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào quân đội bằng nguồn của cải mà họ mới tích lũy được, chính phủ Trung Quốc vẫn tìm cách trấn an Washington; tỏ dấu hiệu cho thấy họ vẫn tiếp tục gắn bó với con đường chính sách ngoại giao ôn hòa, thận trọng mà ông Đặng đã vạch ra. Năm 2005, quan chức cao cấp của đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Trương Tất Kiên (Zhang Bijian) đã viết trên tạp chí Foreign Affairs rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ khu vực mà vẫn duy trì cam kết “trỗi dậy hòa bình”. Năm 2011, sau một cuộc tranh luận sôi nổi trong các nhà lãnh đạo Trung Quốc về chuyện liệu đã đến lúc “sang số” chưa, ông Đới Bỉnh Quốc (Dai Bingguo), ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc, khẳng định với thế giới rằng “phát triển hòa bình là lựa chọn chiến lược mà Trung Quốc đã thực hiện”. Bắt đầu từ năm 2002, bộ quốc phòng Hoa Kỳ được quốc hội ủy quyền đã soạn thảo báo cáo hàng năm về quân đội Trung Quốc, nhưng có một sự đồng thuận trong các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục là một thách thức xa xôi và có thể quản lý được.
Tuy nhiên quan điểm đó đã đánh giá không đúng mức thực trạng giới lãnh đạo Trung Quốc vừa đầy tham vọng vừa đồng thời bất an như thế nào. Đối với Bắc Kinh, khối đồng minh của Mỹ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở châu Á đặt ra những mối đe dọa không thể chấp nhận đối với lợi ích của Trung Quốc ở Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông và biển Đông. Theo lời của Vương Cát Tư (Wang Jisi), giáo sư Đại học Bắc Kinh, thì “ở Trung Quốc, mọi người đều tin chắc rằng… Washington sẽ cố gắng ngăn cản các cường quốc đang nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc, thực hiện các mục tiêu và nâng cao vị thế của họ”. Vì thế Trung Quốc đã bắt đầu phá hủy dần dần  trật tự an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á, phát triển những khả năng [quân sự] để ngăn chặn sự tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ tới khu vực này, và ly gián hoặc gây chia rẽ Washington với các đồng minh.
Cuối cùng, cả sức mạnh quân sự lẫn nỗ lực giao kết ngoại giao của Hoa Kỳ đều không can ngăn được Trung Quốc xây dựng một đội quân đẳng cấp thế giới của riêng mình. Những cuộc phô diễn công nghệ cao của lực lượng Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Iraq và nhiều nơi khác chỉ có tác dụng thúc đẩy nhanh hơn những nỗ lực hiện đại hóa PLA của Trung Quốc. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát động những kế hoạch cải cách quân đội nhằm làm cho các lực lượng vũ trang của Trung Quốc có sức sát thương hơn, có khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự rất xa ngoài bờ biển Trung Quốc. Với chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba đang được xây dựng, với những căn cứ quân sự tân tiến mới được lập trên các đảo ở biển Đông và với căn cứ quân sự đầu tiên của Trung Quốc ở nước ngoài được lập ở Djibouti (châu Phi), Trung Quốc đang trên đường trở thành một đối thủ quân sự bằng vai phải lứa mà Hoa Kỳ chưa từng nhìn thấy kể từ thời Liên bang Xô viết. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không còn nhắc lại câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình rằng để phát triển, Trung Quốc cần phải “thao quang dưỡng hối” (che giấu năng lực, chờ đợi thời cơ). Hồi tháng 10-2017, Tập Cận Bình tuyên bố “đất nước Trung Quốc đã đi từ chỗ đứng lên, trở nên giàu có và trở nên hùng mạnh”.
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TRẬT TỰ
Vào cuối cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, Hoa Kỳ xây dựng những thiết chế (institution) và luật lệ góp phần tạo nên cơ cấu chính trị toàn cầu và động lực khu vực ở châu Á. Những quy tắc được chấp nhận rộng rãi, chẳng hạn như tự do thương mại và tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, hợp tác quốc tế để xử lý những thách thức toàn cầu v.v… đã thay thế cho các không gian ảnh hưởng của thế kỷ 19. Lối suy nghĩ thiện chí cho rằng, là người được hưởng lợi nhiều nhất từ  trật tự tự do quốc tế này, Bắc Kinh chắc hẳn sẽ có phần đóng góp đáng kể vào việc duy trì  trật tự ấy và coi sự tiếp tục  trật tự này là hết sức thiết yếu cho tiến bộ của chính Trung Quốc. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm khích lệ sự tham gia của Bắc Kinh bằng việc chào đón Trung Quốc vào các thiết chế hàng đầu và làm việc với Trung Quốc về những vấn đề quản trị toàn cầu và an ninh khu vực.
Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ hy vọng rằng, một khi Trung Quốc đã gia nhập các thiết chế đa phương thì Bắc Kinh sẽ học cách chơi theo luật lệ và chẳng bao lâu Trung Quốc sẽ bắt đầu góp phần vào việc duy trì các thiết chế ấy. Thứ trưởng bộ ngoại giao Robert Zoellick trong chính phủ George W. Bush [Bush con] đã kêu gọi Bắc Kinh hãy trở thành một “cổ đông có trách nhiệm” trong hệ thống quốc tế. Từ quan điểm của Washington, quyền lực lớn hơn đi kèm với nghĩa vụ lớn hơn, đặc biệt là vì Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều từ hệ thống. Như ông Obama đã nhấn mạnh, “Chúng ta kỳ vọng Trung Quốc tôn trọng và bảo vệ chính những luật lệ đã giúp họ thành công”.
Ở một số thiết chế, Trung Quốc có vẻ sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm, dù mưa nắng thất thường. Trung Quốc gia nhập tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1991, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1992, Tổ chức Thương mại thế giới năm 2001, và tham gia nhiều nỗ lực ngoại giao quan trọng, kể cả hội nghị 6 bên [Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật, Nam Hàn và Bắc Hàn] và các cuộc đàm phán P5+1 [5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc + Đức] để giải quyết các chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn và Iran. Trung Quốc cũng trở thành nước đóng góp quan trọng cho các hoạt động chống hải tặc và gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc.
Nhưng Bắc Kinh vẫn cảm thấy bị đe dọa bởi các yếu tố trung tâm khác trong  trật tự do Hoa Kỳ dẫn dắt – và đang ngày càng tìm cách thay thế chúng. Điều đó đặc biệt đúng về những gì mà Trung Quốc coi là những vụ vi phạm không mong muốn về chủ quyền quốc gia của họ do Hoa Kỳ và các đối tác của Hoa Kỳ thực hiện, dù dưới hình thức cấm vận kinh tế hoặc hành động quân sự. Những quy tắc của chủ nghĩa tự do liên quan tới quyền hay trách nhiệm của cộng đồng quốc tế được can thiệp để bảo vệ người dân khỏi những vụ vi phạm nhân quyền chẳng hạn, đã đối chọi trực tiếp với ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là bảo vệ hệ thống chuyên chế khỏi sự can thiệp của nước ngoài. Với một vài ngoại lệ đáng chú ý, Trung Quốc luôn bận rộn với việc làm giảm nhẹ những biện pháp cấm vận đa phương, che chở các chế độ chuyên chế trước sự lên án của phương Tây và kết bè cánh với Nga để ngăn chặn Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc phê chuẩn các hành động can thiệp. Một số chính phủ phi dân chủ – ở Sudan, Syria, Venezuela, Zimbabwe và nhiều nơi khác – đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự ngăn chặn này.
Trung Quốc cũng bắt đầu xây dựng một tập hợp các thiết chế quốc tế và khu vực của riêng mình – mà Hoa Kỳ chỉ là kẻ ngoại cuộc đứng ngoài nhìn vào – hơn là làm sâu sắc hơn các cam kết của Bắc Kinh đối với các thiết chế hiện tồn. Bắc Kinh đã khai trương Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB), Ngân hàng Phát triển mới (NDB) (cùng với Brazil, Ấn Độ, Nga và Nam Phi) và đáng chú ý nhất, Trung Quốc đã khởi động dự án “Nhất lộ nhất đới” (một vành đai, một con đường) –  tầm nhìn phi thực tế của ông Tập nhằm xây dựng những tuyến đường bộ và đường hàng hải nối Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Những thiết chế và chương trình này đã trao cho Bắc Kinh tư cách đặt ra nghị trình và tập hợp sức mạnh của riêng mình trong khi bỏ qua các tiêu chuẩn và giá trị được các thiết chế quốc tế hiện hành tôn trọng và tuân thủ. Bắc Kinh công khai phân biệt rõ đường lối phát triển của mình bằng việc lưu ý rằng, không giống như Hoa Kỳ và các cường quốc châu Âu, họ không đòi hỏi các nước nhận viện trợ phải chấp nhận cải cách quản trị quốc gia như là điều kiện để được hỗ trợ.
Trong khi đó, ở khu vực châu Á, Bắc Kinh đã bắt đầu thay đổi cán cân về an ninh, từng chút từng chút làm biến đổi hiện trạng bằng những bước đi đủ nhỏ để tránh kích hoạt một phản ứng quân sự từ Hoa Kỳ. Ở biển Đông, một trong những hải lộ quan trọng nhất của thế giới, Trung Quốc đã khéo léo sử dụng tàu tuần tra biển, chiến tranh pháp lý và cưỡng bức kinh tế để thúc đẩy đòi hỏi chủ quyền của mình. Trong một số trường hợp, Trung Quốc chỉ đơn giản xâm chiếm các vùng lãnh thổ tranh chấp hoặc quân sự hóa các đảo đá nhân tạo. Trong khi Bắc Kinh có lúc thể hiện sự kiềm chế và thận trọng có tính chiến thuật, đường lối chung của Trung Quốc cho thấy họ mong muốn tạo ra một không gian ảnh hưởng hiện đại trên mặt biển.
Vào mùa hè năm 2016, Trung Quốc bỏ qua một phán quyết có tính cột mốc của tòa án quốc tế theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển [UNCLOS], theo đó những đòi hỏi quá rộng của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông là bất hợp pháp xét theo luật quốc tế. Các quan chức Hoa Kỳ đã giả định một cách sai lầm rằng một sự kết hợp nào đó giữa áp lực, sự sỉ nhục và mong muốn của chính Trung Quốc về một trật tự hàng hải căn cứ trên luật lệ sẽ dần dần làm cho Bắc Kinh chấp nhận phán quyết ấy. Nhưng thay vì vậy, Trung Quốc đã bác bỏ thẳng thừng phán quyết của tòa. Tháng 7-2017, một năm sau ngày tòa PCA ban hành phán quyết nói trên, nói chuyện tại một diễn đàn an ninh quốc tế ở Aspen, bang Colorado, một nhà phân tích cao cấp của Cơ quan Tình báo Hoa Kỳ (CIA) đưa ra kết luận, kinh nghiệm đã dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc “rằng họ có thể coi thường luật pháp quốc tế mà vẫn không sao cả”. Các quốc gia trong khu vực, bị ảnh hưởng bởi sự phụ thuộc về kinh tế với Trung Quốc lẫn mối lo ngại ngày càng tăng về cam kết của Hoa Kỳ với châu Á, đã thất bại trong việc phản kháng sự xâm lấn của Trung Quốc chứ không như kỳ vọng của Hoa Kỳ rằng họ sẽ phản kháng mạnh.
KIỂM KÊ LẠI
Khi những giả định dẫn dắt chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã có vẻ ngày càng mong manh, khi khoảng cách giữa kỳ vọng của Hoa Kỳ và thực tế tại Trung Quốc ngày càng doãng rộng ra thì Washington lại tập trung phần lớn sự chú ý vào những nơi khác. Từ năm 2001, cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan (jihadist) đã choáng hết tâm trí của bộ máy an ninh quốc gia Hoa Kỳ, lôi kéo sự chú ý ra khỏi những thay đổi ở châu Á đúng vào lúc Trung Quốc thực hiện những bước tiến dài về quân sự, ngoại giao và thương mại. Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush lúc đầu đề cập tới Trung Quốc như là “đối thủ cạnh tranh chiến lược”, nhưng sau vụ tấn công khủng bố ngày 11-9, trong Chiến lược An ninh quốc gia năm 2002 của mình, ông lại tuyên bố, “Các cường quốc của thế giới tự thấy mình đứng về cùng một phía – đoàn kết chống lại những mối hiểm nguy chung của bạo lực và hỗn loạn mà bọn khủng bố gây ra”. Trong thời chính phủ của tổng thống Obama, đã có một nỗ lực “xoay trục” hoặc “tái cân bằng”, chuyển mối quan tâm chiến lược về châu Á. Nhưng đến cuối nhiệm kỳ của tổng thống Obama, ngân sách và nhân lực của Hoa Kỳ vẫn được tập trung chủ yếu cho các khu vực khác – ví dụ, đội ngũ chuyên viên Hội đồng An ninh quốc gia phụ trách khu vực Trung Đông thì đông gấp ba lần đội ngũ phụ trách Đông Á và Đông Nam Á.
Sự sao nhãng chiến lược này đã đem lại cho Trung Quốc cơ hội để tận dụng các lợi thế của mình, và được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi  quan điểm ngày càng phổ biến ở Trung Quốc rằng Hoa Kỳ (cùng với phương Tây nói chung) đang trong tiến trình suy thoái nhanh chóng và không thể lay chuyển được. Các quan chức Trung Quốc nhìn thấy một nước Mỹ trong nhiều năm liền bước đi khập khiễng vì khủng hoảng tài chính toàn cầu, vì những nỗ lực chiến tranh rất tốn kém ở Iraq và Afghanistan và tình trạng rối loạn chức năng ngày càng sâu sắc ở Washington. Ông Tập đã kêu gọi Trung Quốc phải trở thành “một nhà lãnh đạo toàn cầu về phương diện sức mạnh toàn diện của quốc gia và ảnh hưởng quốc tế” vào giữa thế kỷ này. Ông ta khoe khoang mô hình phát triển của Trung Quốc như là “một lựa chọn mới cho các quốc gia khác”.
Giờ đây Washington phải đối mặt với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, năng động nhất trong lịch sử hiện đại. Để xử lý đúng đắn thách thức này, đòi hỏi nước Mỹ phải từ bỏ ngay lối suy nghĩ đầy hy vọng từ lâu đã là đặc điểm của lối tiếp cận của Mỹ đối với Trung Quốc. Chiến lược An ninh quốc gia đầu tiên của chính phủ Trump đã tiến một bước theo hướng đúng đắn bằng cách đặt thành nghi vấn những giả định trong chiến lược của Hoa Kỳ trong quá khứ. Nhưng nhiều chính sách của ông Donald Trump – như tập trung chú ý quá hạn hẹp vào thâm hụt thương mại song phương, từ bỏ các hiệp định thương mại đa phương, đặt câu hỏi về giá trị của quan hệ đồng minh, và giáng cấp các chính sách ngoại giao và nhân quyền – đã đặt Washington vào nguy cơ đi theo cách tiếp cận đối đầu mà không cạnh tranh (confrontational without being competitive); trong khi Bắc Kinh theo đuổi đường lối ngày càng cạnh tranh mà không đối đầu.
Khởi điểm cho một lối tiếp cận tốt hơn là Hoa Kỳ cần tỏ ra khiêm tốn về khả năng làm thay đổi Trung Quốc. Nguyên tắc chỉ đạo chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á không phải là tìm cách cô lập và làm suy yếu Trung Quốc, cũng không phải là cố gắng thay đổi Trung Quốc theo hướng tốt hơn. Thay vì vậy, Washington nên tập trung chú ý nhiều hơn vào sức mạnh và cách hành xử của chính mình; sức mạnh và các hành xử của tất cả các đồng minh và đối tác. Xây dựng chính sách trên nền tảng là một tập hợp các giả định có tính hiện thực hơn về Trung Quốc có thể nâng cao lợi ích của Hoa Kỳ và đưa mối quan hệ song phương vào một cơ sở bền vững. Để đạt được điều đó đòi hỏi phải làm việc, nhưng bước đi đầu tiên tương đối đơn giản: Hoa Kỳ cần phải thừa nhận các chính sách của chúng ta đã thất bại trong việc thực hiện các kỳ vọng của chúng ta đến mức nào.
Kurt M. Campbell là chủ tịch Asia Group, nguyên trợ lý bộ trưởng bộ ngoại giao Hoa Kỳ phụ trách vụ Đông Á-Thái Bình Dương trong giai đoạn 2009-2013. Ely Ratner là nhà nghiên cứu cao cấp về nghiên cứu Trung Quốc của Hội đồng Quan hệ đối ngoại (CFR), nguyên phó cố vấn an ninh quốc gia của phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden giai đoạn 2015-2017.
Nguồn: Viet-studies

Campuchia ngã theo Trung Quốc

Nghiên cứu Quốc tế
Nguồn: Charles Edel, “Cambodia’s Troubling Tilt Toward China”, Foreign Affairs17/08/2018.
Biên dịch: Huỳnh Hoa
Và điều đó có ý nghĩa gì cho chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ?
Khi thủ tướng Campuchia Hun Sen tuyên bố giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử ngày 29-7 của nước này, đa số các quan sát viên quốc tế đều nhanh chóng tố cáo kết quả đó là gian lận. Với cuộc bầu cử giúp củng cố việc nắm giữ quyền hành kéo dài đã 33 năm và ngày càng chuyên chế của Hun Sen, lời tố cáo đó gây lo lắng. Nhưng còn đáng lo hơn nữa có lẽ là chuyện Hun Sen gần đây đã ngã theo Trung Quốc, cùng những lợi ích địa phương và khu vực ngày càng tăng mà Bắc Kinh nhận được từ mối quan hệ với Campuchia.
Vì vô số lý do, từ lâu Washington đã coi Campuchia như một mục tiêu chiến lược đã mất. Nhưng việc quốc gia này quay sang Trung Quốc có thể là lời cảnh báo về sự hiện diện kinh tế ngày càng lớn của Trung Quốc, đặc biệt là ở các quốc gia chuyên chế, có ý nghĩa như thế nào đối với vùng Đông Nam Á, và rộng hơn là với khu vực Á-Âu. Để ứng phó một cách hiệu quả, Hoa Kỳ và các đồng minh cần nhìn Campuchia bằng cách nhìn mới, coi đây vừa như một thách thức về an ninh quốc gia vừa như một cơ hội. Mặc dù Hun Sen đã siết chặt quyền kiểm soát đất nước này và đẩy nó tới gần Bắc Kinh hơn, thực sự vẫn có một nỗi căm giận ngày càng rộng lớn, có thể là thầm lặng, trong dân chúng bình thường trước sự thần phục Trung Quốc của chính phủ.
Những mối quan hệ ràng buộc
Trong hai thập niên qua, Trung Quốc ra sức vun đắp mối quan hệ với nhà độc tài Campuchia. Bắc Kinh tiếp tục ủng hộ Hun Sen khi ông này giải tán đảng đối lập chính của Campuchia, đẩy lãnh tụ của nó vào tù, lũng đoạn mạng xã hội để tăng sự ủng hộ bề nổi của ông ta và chủ trì cuộc trấn áp hai tờ báo độc lập lớn nhất đất nước. Khi cuộc đàn áp đối lập chính trị bắt đầu hồi giữa tháng Mười Một, Trung Quốc đã đứng ra bảo vệ chính phủ [Campuchia]. Sau cuộc gặp ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) hồi cuối tháng Ba, Hun Sen viết trên trang Facebook cá nhân: “Các nhà lãnh đạo Trung Quốc muốn ủng hộ và mong muốn Samdech Techo [Hun Sen] chiến thắng cuộc bầu cử và dẫn dắt vận mệnh của Campuchia, làm cho nó phát triển hơn trong tương lai”. Và trước cuộc bầu cử tháng Bảy, đại sứ Trung Quốc tại Campuchia đã tham gia cuộc tuần hành vận động bầu cử của đảng cầm quyền tại Phnom Penh.
Sự ủng hộ này còn có nhiều hình thức cụ thể. Tháng Mười Hai năm ngoái, Trung Quốc cam kết cho Chiến dịch Bầu cử Quốc gia của Campuchia 20 triệu đô la Mỹ để dựng phòng bỏ phiếu, máy vi tính và các thiết bị khác. Trong chuyến thăm Campuchia hồi tháng Sáu, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc công bố một gói viện trợ quân sự trị giá 100 triệu đô la và tuyên bố rằng Campuchia là một “người bạn trung thành”. Bắc Kinh cũng làm việc cật lực để vun đắp lòng trung thành đó ở quốc gia láng giềng phương nam của mình. Để giúp Hun Sen bù đắp sự phê phán ở trong nước và quốc tế về bước ngoặt ngày càng chuyên chế của ông ta, Trung Quốc đã gia tăng viện trợ và đầu tư, công bố các món cho vay ưu đãi trị giá hàng trăm triệu đô la, hỗ trợ các dự án hạ tầng cơ sở và nâng số du khách Trung Quốc thăm viếng Campuchia trong năm ngoái thêm hơn 40 phần trăm. Hiện nay Trung Quốc là nước viện trợ lớn nhất của Campuchia.
Đáp lại sự ủng hộ tận tình của Bắc Kinh, Campuchia dưới quyền Hun Sen ngày càng trở thành nước chư hầu của Trung Quốc, giúp mở rộng các tham vọng địa phương và khu vực của Bắc Kinh. Chính phủ Campuchia đã giải tỏa hàng chục ngàn hộ gia đình người Campuchia cho các dự án mà Trung Quốc tài trợ. Quá đáng nhất là trong một thỏa thuận vi phạm luật pháp quốc gia Campuchia, chính phủ đã bí mật nhượng cho một công ty Trung Quốc hơn 20 phần trăm dải bờ biển của Campuchia. Hun Sen đã tận tụy đáp ứng yêu cầu của Bắc Kinh phải làm nhiều hơn nữa để bảo vệ đầu tư của Trung Quốc, phải tấn công những kẻ nào đặt nghi vấn về sự phụ thuộc kinh tế ngày càng nặng của Campuchia vào nước láng giềng phương bắc. Ông ta cũng bảo vệ các dự án phát triển của Trung Quốc ở nước ngoài, gạt sang một bên những lời phê phán rằng những dự án như vậy đặt gánh nặng không chịu đựng nổi lên các quốc gia tiếp nhận, gây ra những thiệt hại môi sinh về lâu dài và khiến người lao động địa phương phải rời bỏ quê hương.
Đối với những tham vọng khu vực của Trung Quốc, mối quan hệ với Campuchia mang lại những khoản lợi lộc liên tục. Mặc dù không phải là một nước có tuyên bố chủ quyền trong vùng lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông, Campuchia đã kiên trì ủng hộ hoạt động xây đảo nhân tạo và quân sự hóa ở đó. Campuchia đã che chắn Bắc Kinh khỏi sự phê phán của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á bằng cách nhiều lần ngăn chặn các biện pháp buộc Bắc Kinh phải chịu trách nhiệm cho hành vi xâm lấn của mình. Ngoài ra, việc Trung Quốc thâu tóm nhiều khu đất rộng lớn trên dải bờ biển của Campuchia và xây dựng các cơ sở cảng biển ở thành phố duyên hải Sihanoukville hé lộ những vị trí tiềm tàng cho các căn cứ hải quân Trung Quốc trong tương lai, cho phép Bắc Kinh có khả năng phóng chiếu sức mạnh ra toàn khu vực và xa hơn nữa. Và năm ngoái, Campuchia đã bãi bỏ một chương trình viện trợ quân sự kéo dài đã lâu của Hoa Kỳ đồng thời nâng cấp hoạt động phối hợp và huấn luyện với quân đội Trung Quốc.
Có lẽ điều quan trọng nhất với một chế độ Trung Quốc mà hình ảnh bị hoen ố ở nước ngoài là Campuchia đã phục vụ như một tiếng nói trung thành, cung cấp sự tuyên truyền tích cực cho Bắc Kinh. Đứng bên cạnh một quan chức cao cấp từ ban tuyên giáo của đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng Tư vừa qua, Hun Sen đã chủ trì việc phát hành cuốn sách về tư tưởng Tập Cận Bình bản dịch tiếng Khmer và khuyến khích “các quan chức, giáo sư, sinh viên Campuchia đọc cuốn sách ấy”. Khi truyền thông độc lập bị bịt miệng ở Campuchia, các cơ quan báo chí do nhà nước điều hành của Trung Quốc như báo China DailyThời báo Hoàn Cầu (the Global Times) và Tân hoa xã (Xinhua) lập tức vào lấp chỗ trống, đăng đầy các trang bình luận của báo chí Campuchia và biến chúng thành cái loa tuyên truyền cho Trung Quốc. Về phương diện này, Campuchia là một ví dụ đáng lo ngại về một nhà nước hoạt động nhịp nhàng với bộ máy tuyên truyền và kiểm duyệt của Bắc Kinh.
Trong khi đó, quan hệ với Trung Quốc gây nguy hiểm tiềm tàng cho độc lập và chủ quyền của Campuchia mà chỉ mang lại rất ít lợi lộc cho người dân thường. Mặc dù vốn đầu tư của Trung Quốc mở ra nhiều dự án xây dựng trên khắp Campuchia, các nhà quan sát đã bày tỏ mối lo rằng “các dự án bạch tượng, các thành phố ma và các ngôi làng Potemkin”[1] không làm được gì cho sự phát triển tương lai của đất nước. Theo đúng cung cách làm ăn mà họ thực hiện ở nhiều nơi khác trên thế giới, các công ty quốc doanh Trung Quốc mang theo lao động Trung Quốc để làm đường sá, đập nước, cầu cống mà không thuê mướn lao động địa phương hoặc chuyển giao kiến thức, chuyên môn cho các cộng đồng địa phương. Tiêu biểu cho cách làm này là đầu tư của Trung Quốc ở thành phố duyên hải Sihanoukville, nơi các sòng bài và du khách Trung Quốc đang ồ ạt tràn vào. Như phóng viên Anna Fifield tường thuật trên báo The Washington Post, một nỗi căm ghét đang dâng trào trong những người dân thường Campuchia. “Tất cả công cuộc xây dựng mà họ đang làm chỉ có lợi cho người Trung Quốc. Nó tốt cho bọn chủ đất chứ không phải cho dân thường”, một người đàn ông ở Sihanoukville nói. “Trong rất nhiều trường hợp, lợi ích là rất bé nhỏ hoặc chỉ có thiệt hại”, ông Sebastian Strangio, tác giả sách Hun Sen’s Cambodia (Nước Campuchia của Hun Sen), nhận xét. Vốn đầu tư của Bắc Kinh cũng dẫn tới sự suy thoái về môi trường sinh thái ở một đất nước đã phải vật lộn với hàng loạt vấn đề môi sinh.
Một lĩnh vực đáng quan tâm khác là khía cạnh ngoại giao bẫy nợ của viện trợ của Trung Quốc. Trung Quốc đã sắm một vai trò quá lớn trong sự phát triển của Campuchia, đóng góp khoảng 44 phần trăm tổng số vốn đầu tư nước ngoài mà Campuchia nhận được từ năm 1994 đến 2014. Ước tính có khoảng 70 phần trăm số đường sá và cầu cống ở nước này được Trung Quốc hỗ trợ tài chính qua khoản cho vay gần 2 tỉ đô la, tương đương với một phần mười tổng sản lượng GDP của Campuchia. Dòng tiền Trung Quốc đổ vào đã đẩy Campuchia vào một mối quan hệ bấp bênh, thậm chí lệ thuộc vào Bắc Kinh. Campuchia hiện mắc nợ Trung Quốc hơn 4 tỉ đô la, bằng bốn mươi phần trăm tổng số nợ công chưa trả của quốc gia, theo một số dự tính.
Washington sẽ bước vào?
Sự kiện Campuchia ngã theo Trung Quốc đã xảy ra trong sự thiếu vắng một mối quan hệ gắn bó bền vững với Hoa Kỳ và phương Tây. Đây là chuyện không may bởi vì cuộc đấu tranh đang diễn ra ở Campuchia là mô hình thu nhỏ của một cuộc chiến rộng lớn hơn nhiều nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Trong Chiến lược An ninh quốc gia Hoa Kỳ năm 2017, Washington thừa nhận rằng “cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa tầm nhìn tự do và tầm nhìn áp bức về trật tự thế giới… đang diễn ra ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương”. Nếu Hoa Kỳ muốn ủng hộ các xã hội tự do và cởi mở thì Washington phải làm sao để nêu bật chuyện các chế độ chuyên chế như Campuchia đã không phục vụ nhân dân mình như thế nào.
Các nhà hoạch định chính sách ở Washington thường lãng quên Campuchia trong những cuộc thảo luận rộng rãi hơn về những vấn đề này vì một số lý do. Đây là một nước nhỏ đang phát triển, không có lãnh thổ hoặc biên giới mang tính chiến lược; nó đã bị Hun Sen cai trị hơn ba mươi năm rồi và nói chung nó được coi là một nước hầu như đã nằm trong túi áo của Trung Quốc. Vì vậy, từ quan điểm kinh tế, dân chủ, chính trị và chiến lược, Campuchia bị coi là vùng lãnh thổ cằn cỗi, đáng được công nhận nhưng không đáng chú ý hoặc giúp đỡ.
Đây là một sai lầm. Campuchia có lẽ là kẻ báo hiệu cho những gì có thể xảy ra trong chính trị và chính sách của một quốc gia có chủ quyền khi chính phủ của nó chuyển hoàn toàn sang phe Bắc Kinh; nhưng điều đó không biến nó thành một trường hợp vô vọng. Hoa Kỳ có thể và nên chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc như là một phần của chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Và làm như vậy ở một đất nước như Campuchia cũng sẽ cho thấy cam kết của Hoa Kỳ với toàn bộ khu vực chứ không chỉ ở những nơi thuận lợi mà thôi.
Nếu Washington và các đồng minh xem xét lại cách suy nghĩ về Campuchia, sẽ có nhiều việc họ có thể làm – cả trong phạm vi nước này và rộng hơn ở khắp Đông Nam Á. Tính cấp bách của việc cạnh tranh với một nước Trung Quốc ngày càng phi tự do ở Đông Nam Á đang tăng lên, nhưng các nguồn lực của Hoa Kỳ đã không tăng lên tương ứng. Tăng cạnh tranh mà không tăng nguồn lực không phải là công thức để thành công. Để cạnh tranh hiệu quả, Washington cần cam kết thêm nhiều ngân quỹ để thúc đẩy hoạt động ngoại giao công cộng và giao lưu nhân dân với Campuchia. Hai là, cần phải làm nhiều hơn để chống lại các chiến dịch tung tin giả. Trong vòng một năm rưỡi qua, Campuchia đã từ một môi trường truyền thông tương đối cởi mở chuyển sang một môi trường càng lúc càng bị chế ngự bởi tuyên truyền và thông tin méo mó. Hãy suy nghĩ một cách sáng tạo về cách giúp người dân Campuchia tiếp cận thông tin nhiều hơn – hoặc dùng công nghệ để phiên dịch truyền thông nước ngoài sang tiếng Khmer hoặc gia tăng nguồn lực cho đài Voice of America và Radio Free Asia – tạo ra bên trong Campuchia một cuộc thảo luận cởi mở hơn về phương hướng tương lai của đất nước và hoạt động của Trung Quốc trong phương hướng đó. Ngoài ra, mở rộng danh sách các cuộc cấm vận có mục tiêu vào những cá nhân đã tiến hành cuộc đàn áp người bất đồng chính kiến có thể sẽ làm gia tăng áp lực bên trong chế độ, buộc họ phải suy nghĩ lại về sự trung thành vô điều kiện với Hun Sen.
Washington có thể nỗ lực gấp đôi về hỗ trợ và đầu tư nhằm giúp người dân Campuchia, kể cả thông qua viện trợ nhân đạo và ủng hộ các nỗ lực rà phá bom mìn. Diễn đàn Doanh nghiệp Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ mới đây có thể cung cấp một bệ phóng để khích lệ đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân vào Campuchia, vừa nhắm thúc đẩy tăng trưởng tương lai của Campuchia vừa không chỉ khai thác tài nguyên của nước này. Nhiều người Campuchia cảm thấy rằng Trung Quốc chẳng quan tâm gì tới bảo vệ môi trường, quyền của người lao động, huấn luyện nhân viên hoặc tính minh bạch. Đây là lãnh địa có tiềm năng thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân của Hoa Kỳ, vốn bền vững, do thị trường dẫn dắt, đáp ứng những tiêu chuẩn cao về an toàn và có ý định góp phần thúc đẩy tăng trưởng hơn là lôi kéo quốc gia ấy xuống bằng những món nợ không cáng đáng nổi.
Tuy nhiên, để những ý tưởng trên vận hành được, Hoa Kỳ và các đối tác cần thực hiện một nỗ lực nhịp nhàng để cung cấp một mô hình thay thế khả thi về phát triển bền vững. Tính gộp lại, nguồn lực của Hoa Kỳ, Úc, châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản và Nam Hàn là rất to lớn. Tất cả các quốc gia này đều chính thức ghi nhận tầm quan trọng của Đông Nam Á trong sự phát triển tương lai của mình – và đang tiến hành một nỗ lực bền bĩ để cung cấp một hình mẫu thay thế có tác động mạnh mẽ. Làm được như vậy ít ra cũng cung cấp cho các quốc gia như Campuchia một sự lựa chọn thật sự. Gia tăng áp lực lên Hun Sen – hoặc bằng cách nêu bật hơn nữa mối liên kết cá nhân gần gũi của ông ta với Bắc Kinh hoặc tiến hành những cuộc cấm vận có phối hợp nhằm vào những kẻ chịu trách nhiệm về vi phạm nhân quyền trong chế độ của ông ta – không phải là một mục đích tự thân. Thay vì vậy, những công cụ chính sách này nhằm chống lại sự lan tràn ảnh hưởng của Trung Quốc và truyền sự tự tin cho người dân Campuchia.
Những cuộc bầu cử gần đây ở Campuchia chỉ nhận được một khoảnh khắc ngắn ngủi sự quan tâm và lên án ở Washington. Nếu như đó là tất cả sự ràng buộc của Washington thì quả là một cơ hội bị bỏ lỡ. Trò chuyện với hàng trăm người Campuchia là sinh viên, lãnh đạo doanh nghiệp, sĩ quan quân đội, viên chức chính phủ và nhà báo trong các cuộc thăm dò dư luận đều cho thấy rằng đất nước còn rất trẻ này có xu hướng thân Hoa Kỳ. Cùng với nỗi khó chịu ngày càng tăng với Trung Quốc là khát vọng có thêm sự ràng buộc với Hoa Kỳ. Campuchia không phải đang nằm trong túi áo của Trung Quốc, cho dù giới lãnh đạo hiện thời của nó làm như vậy. Hãy tận dụng thực tế đó để đấu tranh cho lợi ích của nhân dân Campuchia, làm suy yếu vòng kiềm tỏa của Trung Quốc lên Phnom Penh và làm cho chiến lược của Hoa Kỳ có thêm sức cạnh tranh trong khu vực.
Charles Edel là nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ tại trường đại học Sydney; trước đây từng phục vụ trong bộ phận hoạch định chính sách của bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ. Ông cùng với Hal Brands là đồng tác giả cuốn sách sắp xuất bản The Lesson of Tragedy: Statecraft and World Order (Bài học của Bi kịch: Tài trị quốc và Trật tự Thế giới).
——————-
[1] Chỉ những công trình xây dựng có thật hoặc tưởng tượng nhằm mục đích đánh lừa mọi người rằng tình hình tốt đẹp hơn thực tế.

Ma Cao kế tiếp? Canh bạc lớn của Trung Quốc ở Campuchia

Lindsay Mủdochv Kate Geraghty
Trúc Lam dịch
Đồng tiền Trung Quốc đã làm cho tài sản ở ngôi làng ven biển Sihanoukville mắc như ở Vịnh Byron. Nhưng bây giờ, các sòng bạc và khu nghỉ mát [ở ngôi làng này] quá nhiều, người dân địa phương đang đẩy lùi trở lại – theo nghĩa đen.
Khi một số người đàn ông Trung Quốc kéo hai nhân viên massage người Campuchia ra khỏi một quán bar và buộc họ leo lên một chiếc taxi, Som Neang nói rằng, anh đã không thể bảo vệ được và để cho họ bị bắt cóc.
Cứu tôi! Người Trung Quốc đưa tôi đi! Tôi không muốn đi!” Một trong những người phụ nữ đang la hét.
Neang và những tài xế taxi người Campuchia khác ở gần đó yêu cầu thả những người phụ nữ đó ra.
Người Trung Quốc trở nên giận dữ và bắt đầu tấn công chúng tôi“, Neang nói. Những người khác đã sớm tham gia với họ.
Ông nói: “Cuối cùng, có hơn 100 người trong số họ, một số người cầm các thanh kim loạiNhiều người Campuchia tham gia vào cuộc chiến, nhưng một số người chúng tôi bị đánh đập tệ hại… khi cảnh sát đến nơi, họ bắn chỉ thiên, nhưng người Trung Quốc không sợ  vẫn tiếp tục đánh”.
Sihanoukville từng là một ngôi làng ven biển im lìm, nổi tiếng với những khách du lịch ba lô, ngày càng có nhiều công nhân Trung Quốc, các nhà phát triển, sòng bạc và các nhà đầu tư đến. Nó được các nhà phát triển chào mời như là cảng đầu tiên được Bắc Kinh đầu tư 1.000 tỷ Mỹ kim trong Sáng kiến Vành Đai, Con Đường và một số người nói rằng, thị trấn du lịch nhỏ này được hình thành trong rừng vào thập niên 1960, sẽ là Macau kế tiếp.
Thành phố có một cảng nước sâu và một đặc khu kinh tế liên doanh của đất nước, với 121 công ty hầu hết là Trung Quốc, sản xuất hàng dệt may, may mặc, máy móc và điện tử.
Khu kinh tế rộng 11 km vuông đang được nâng cấp để phục vụ 300 công ty, cung cấp việc làm cho 100.000 lao động, và đường cao tốc 4 làn xe, đã được đề xuất nối thành phố Sihanoukville với Phnom Penh, cách 220 km về phía bắc.
Kết nối Sihanoukville với mạng lưới đường sắt rộng lớn toàn cầu, đường bộ, cảng, đường ống, cáp quang và ngoại giao của Sáng kiến Vành đai Con đường (BRI) là một phần của sự thay đổi triệt để ở Campuchia.
Mọi người nhảy vào quá nhanh
Tiền từ các doanh nghiệp và cá nhân Trung Quốc đang đổ vào Campuchia qua hình thức đường cao tốc, sân bay, tòa nhà chọc trời, đập, cầu, khách sạn, sòng bạc, nhà hàng và các chung cư.
Giá đất ở cả Sihanoukville và Phnom Penh tăng vọt.
Các công ty Trung Quốc, một số do chính phủ kiểm soát, đang đầu tư hàng tỷ đô la vào các ngành công nghiệp may mặc, giày dép và năng lượng, cũng như truyền thông, ngân hàng, tài chính và nông nghiệp.
Trong khi đó, một số đảo và công viên quốc gia của Campuchia, nhô ra trong vùng biển màu ngọc lam của Vịnh Thái Lan, đang bị các nhà phát triển bất động sản Trung Quốc lấy, trong bối cảnh các giao dịch bí mật và các cáo buộc xoáy vào tham nhũng.
Tiền của Trung Quốc chiếm khoảng 30% tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào Campuchia trong năm 2017.
Khoản đầu tư này đã mang lại những thay đổi nhanh chóng về mặt xã hội, tài chính, ngoại giao, chiến lược và nhân khẩu học. Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hun Sen, Thủ tướng cố thủ của chế độ Campuchia, cả hai ủng hộ tất cả mọi người nhảy vào đầu tư tài sản quá nhanh.
Tháng Giêng, các đại diện của Tập đoàn Huashi Tứ Xuyên, một trong 50 công ty hàng đầu của Trung Quốc, đã ký một thỏa thuận tại Hội nghị Thượng đỉnh Hợp tác Doanh nhân Vành Đai và Con Đường Trung Quốc – Campuchia, xây dựng một dự án nhà ở thương mại khổng lồ ở Phnom Penh.
Hun Sen và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã công bố 7 tỷ Mỹ kim, là các khoản đầu tư mới trong vài tháng qua, bao gồm lâm nghiệp, sân bay mới cho Phnom Penh, một bệnh viện và một vệ tinh truyền thông.
Trung Quốc xây dựng đường cao tốc từ Phnôm Pênh tới Sihanoukville, dự kiến ​​sẽ tốn hơn 2 tỷ Mỹ kim.
Quốc gia Đông Nam Á này chỉ có 16 triệu dân, đã trở nên quan trọng đối với tham vọng chính trị và chiến lược của Bắc Kinh tại thời điểm gia tăng mối lo ngại về tiềm năng xung đột trong tuyên bố của Bắc Kinh đối với hầu hết các tuyến đường thủy chiến lược trên Biển Đông.
Ở Sihanoukville, nơi khách du lịch ba lô đến hàng năm để tổ chức tiệc tùng trên một số bãi biển hoang sơ nhất châu Á, nhiều người Campuchia xem sự xuất hiện của hàng chục ngàn người Trung Quốc đại lục, như là một sự thôn tính.
Các biển báo tiếng Anh và tiếng Campuchia đang được thay thế bằng các biển báo được viết bằng tiếng Quan Thoại. Một số địa điểm ven biển và đảo của Campuchia đã được đặt tên mới của Trung Quốc. Siêu thị được đóng gói với hàng hóa Trung Quốc. Người Trung Quốc chơi cờ bạc suốt ngày đêm tại hơn 50 sòng bạc, hầu hết do người Trung Quốc làm chủ và điều hành, với nhiều trò gian lận cờ bạc trên mạng bất hợp pháp dày đặc.
Dọc theo những con đường trải nhựa, người dân từ Trung Quốc đại lục lái xe Bentleys, Porsche và Ferraris.
Trong chín tháng đầu năm 2017, các chuyến bay kết nối với tám tỉnh Trung Quốc đại lục đã đưa 87.900 lượt khách tới, tăng 170% so với năm trước. Hướng dẫn viên Trung Quốc hướng dẫn du khách đến các khách sạn, nhà hàng, sòng bạc và quán bar karaoke của người Trung Quốc.
Sự bùng nổ trong xây dựng được thúc đẩy bởi những người lao động, chủ yếu là người Trung Quốc, mặc dù mức lương tối thiểu cho người lao động địa phương thì thấp $140 Mỹ kim ($184 Úc kim) mỗi tháng.
Mạng xã hội ở Campuchia tràn ngập sự khinh miệt vì thực tế người Trung Quốc đang trả gấp đôi hoặc gấp ba để mua hoặc thuê mặt bằng cho các doanh nghiệp hoặc nhà ở, buộc người Campuchia và người nước ngoài, không phải người Trung Quốc, phải ra khỏi thị trường.
Nhu cầu về đất đai đã đẩy giá cả đất đai ở bờ biển Sihanoukville cao hơn giá cả ở vịnh Byron của Úc. Trong một nhà hàng Trung Quốc trên bãi biển, cạnh bên bốn sòng bạc, một đĩa tôm hùm hấp có giá 80 Mỹ kim (107 Úc kim), cũng đĩa tôm đó có giá chưa tới 5 Mỹ kim (6,7 Úc kim) tại các quán ăn Campuchia gần đó.
Những người nước ngoài không phải người Trung Quốc nói rằng, họ cảm thấy không được chào đón ở các sòng bạc, nơi có một số người Trung Quốc thua hàng trăm ngàn đô la mỗi ngày, theo một doanh nhân Campuchia ở Sihanoukville, đã làm việc 20 năm trong các sòng bạc, cho biết.
Gần đây, một người đàn ông Campuchia đã thắng 130.000 Mỹ kim (175.000 Úc kim) trong một sòng bạc, nhưng khi anh ta đi nhận tiền, người điều hành Trung Quốc từ chối thanh toán, nói rằng người Campuchia đánh bạc là bất hợp pháp. Người đàn ông này trở lại cùng một nhóm bạn đập nát các bàn cờ bạc, trước khi cảnh sát đến.
Phía trên các bãi biển của Sihanoukville là sự phát triển các căn hộ ngoài quy hoạch đang mọc lên, rõ ràng không tuân theo các quy định về quy hoạch, vượt cao hơn các nhà trọ giá rẻ và những chiếc xe van bán burger. Chúng được bán gần như chỉ dành riêng cho các nhà đầu tư Trung Quốc đại lục.
“Bãi biển sẽ chỉ dành cho những người thuê nhà”, Cheng Sourkea, người phụ nữ bán hàng cho Blue Bay, một khu phức hợp sòng bạc và cao ốc 1450 căn hộ chung cư vẫn còn đang xây trên Bãi biển Độc lập (Independence Beach) nổi tiếng của thành phố.
Giá khởi điểm là 320.000 Mỹ kim (khoảng 430.000 Úc kim) cho một căn hộ nhỏ với hai phòng ngủ.
Người nước ngoài không được phép sở hữu đất ở Campuchia, nhưng người kinh doanh Trung Quốc phải trả tới 100.000 Mỹ kim (khoảng 135.000 Úc kim) để mua quyền công dân.
Các nhóm hoạt động môi trường nói rằng, việc thả lỏng xây dựng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và những người ủng hộ nhân quyền lo lắng, điều này sẽ gây ra những xung đột văn hóa.
Trong một báo cáo dài ba trang gần đây cho chính quyền trung ương ở Phnom Penh, tỉnh trưởng tỉnh Sihanoukville, ông Yun Min than phiền rằng, sự bùng nổ đã làm gia tăng tỷ lệ tội phạm. Ông nói: Người Trung Quốc tràn ra ngoài sòng bạc và ấu đả, rồi giá cả khách sạn tăng cao, đã ngăn cản khách du lịch Campuchia đến thành phố này, một sân chơi truyền thống cho người dân ở thủ đô.
Tội phạm cũng đổ vào từ Trung Quốc đại lục, qua việc bắt cóc các nhà đầu tư, báo cáo cảnh báo, tạo ra một bầu không khí bất an trong tỉnh. Ngành xây dựng đã trở nên quá tải với các công nhân nước ngoài. Các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, tỉnh trưởng đã viết.
Chế độ của ông Hun Sen có lập một lực lượng đặc nhiệm liên Bộ để kiểm tra các khiếu nại.
Xiong Bo, đại sứ Trung Quốc tại Phnom Penh, thừa nhận rằng, một số công dân thất học Trung Quốc đang vi phạm luật pháp Campuchia.
Brad King, một người Úc là giám đốc điều hành của trang web CambodiaRealEstate.com, là người đã sống và làm việc ở Sihanoukville trong hai năm, cho rằng, đó là một cách nói giảm nhẹ vấn đề.
Tôi sẽ nói thẳng. Họ đã dồn tới nơi này. Bạn hỏi bất kỳ người Campuchia nào ở đó xem”. Ông King nói khi ngồi tại một bàn cafe trên một cầu cảng gần đảo Koh Rong, nơi ông đang sống.
Nếu bạn đi đến vòng xoay của thành phố khoảng nửa đêm, bạn thường thấy người Trung Quốc và người Campuchia ấu đả … còn có những băng nhóm mafia Trung Quốc đánh nhau nữa”.
Sok Sotam đối mặt với việc bị lấy lại một cửa hàng đồ uống mà cô bán trên đường Serendipity của thành phố, khi các chủ đất Campuchia tìm cách kiếm chác, bằng cách tăng giá.
Tôi không thích người Trung Quốc … Họ đang chiếm hết chỗ của chúng tôi“, cô nói.
Công nhân và khách du lịch Trung Quốc mà chúng tôi tiếp cận từ chối bình luận.
Phần lớn sự bùng nổ đang được thúc đẩy từ các con bạc, nhiều người trong số họ đến đánh cược trên mạng, điều này là phạm pháp ở Trung Quốc.
Một người trong sòng bạc nói với điều kiện giấu tên, rằng khu vực cờ bạc của thành phố tạo ra lợi nhuận có thể lên đến 1 tỷ Mỹ kim và dễ dàng cho các con bạc vay nợ, điều này dẫn đến xung đột các khoản nợ.
Người trong cuộc cho biết, cảnh sát Trung Quốc thỉnh thoảng đến Campuchia để hỗ trợ cảnh sát địa phương trong việc xác định các tổ chức lừa đảo và các thành viên của các băng nhóm bắt cóc.
Năm ngoái có khoảng 500 đến 600 người tống tiền, đã bị trục xuất khỏi Campuchia, người này nói, và một vài con bạc không có khả năng trả tiền, đã bị giữ lại, trong khi người thân của họ ở Trung Quốc phải thực hiện yêu cầu tài chính.
Những vụ việc như vậy thường không được trình báo với cảnh sát Campuchia.
Bắc Kinh đã tìm cách ngăn chặn những dòng tiền đen chảy vào cờ bạc và đầu cơ khác. Nhưng ông Carl Thayer, một chuyên gia châu Á của Đại học NSW, lưu ý rằng, nhiều doanh nhân đại lục Trung Quốc, đầu tư mạnh vào bất động sản ở nước ngoài để tránh kiểm soát.
Campuchia thiếu khả năng giám sát có hiệu quả ở tất cả các dự án đầu tư và sắp xếp tài chính của Trung Quốc”, ông nói.
Các nhà phê bình sự đầu tư của Trung Quốc ở Campuchia nói rằng, các nhà lãnh đạo của nước này đã đối xử thuận lợi với các giám đốc của các công ty có mối quan hệ tốt ở một quốc gia được xếp hạng là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới.
Cả chục cần cẩu đang làm việc 24 giờ mỗi ngày, xây dựng những khu được cho là một khu nhà chung cư phức hợp và một sòng bạc lớn liền kề với bãi biển Otres của thành phố Sihanoukville. Chủ thầu xây dựng là Tập đoàn Đầu tư và Xây dựng Vân Nam khổng lồ của nhà nước Trung Quốc, nhưng không biết ai đang sở hữu dự án này.
Khi các báo cáo chưa được kiểm chứng lan truyền năm ngoái, rằng một công ty con của tỷ phú Trung Quốc, Jack Ma của Alibaba đứng đằng sau, đã làm giá đất dọc bãi biển tăng vọt. Alibaba từ chối bình luận, chỉ đề cập đến ‘các tin đồn thị trường’.
Các nhóm hoạt động môi trường đã phản đối việc cấp cho công ty Unite International của Trung Quốc một hợp đồng thuê 99 năm, cho thuê 33 km2 bờ biển nằm trong Vườn Quốc gia Ream, gần Sihanoukville, với kế hoạch phát triển du lịch trị giá 5,7 tỷ Mỹ kim.
Một con tàu có sòng bạc trên đó mang tên Rex Fortune, đang neo đậu ngoài khơi, cách bãi biển một cây số, nhưng vẫn chưa mở cửa cho những con bạc.
Sen Chantha, 60 tuổi, đã đánh bắt trên bãi biển này hàng chục năm, nói rằng, các nhân viên kiểm lâm được công ty Yeejia Development Development, công ty con của Unite International, chi trả, giờ đây khuyến khích người dân địa phương không đi đến đó.
Ngay cả khi chúng tôi đi chung một gia đình và nằm xuống chiếc chiếu, họ đòi chúng tôi phải trả tiền”, ông nói.
Gần 500 gia đình địa phương, nhiều người trong số họ đã phải làm việc quần quật dưới chế độ diệt chủng của Khmer Đỏ trong thập niên 1970, đã nhiều năm phản đối, chống lại sự phát triển trong công viên, bao gồm sân golf, biệt thự bên bờ biển và chung cư cao tầng.
Công ty đã san ủi đất nhiều chỗ trong khu rừng và nhiều loài động vật chúng tôi từng săn bắn như hươu, gần như đã biến mất”, Chantha nói khi ông hướng dẫn chúng tôi đi xung quanh khối tài sản của công ty.
Chúng tôi đã hỏi một quan chức trong Bộ Đất đai mà chúng tôi gặp tại công viên rằng, tại sao lại phê duyệt, trao cho Trung Quốc rất nhiều dự án sở hữu và xây dựng.
Chính phủ đã cho người châu Âu và người Mỹ 15 năm để phát triển ở đây và tất cả họ mang lại là [du lịch] ba lô và cần sa”. Ông ta trả lời.
Vài giờ lái xe dọc theo bờ biển Sihanoukville, công viên quốc gia Botum Sakor nằm ở phía tây nam, từng là chỗ ở hoang sơ cho voi, gấu và vượn.
Nhưng Tập đoàn Phát triển Liên minh Thiên Tân từ miền bắc Trung Quốc, lên kế hoạch cho một khu nghỉ mát có kích thước bằng thành phố, rộng 340 km2. Kế hoạch cho một sòng bạc đã bị hủy bỏ. Nó nằm trong hợp đồng thuê 99 năm, bao gồm một bờ biển dài 99 km. Một cao tốc đã cắt một đường xuyên qua khu rừng nguyên sinh và một khách sạn cùng sân golf đã được dựng lên.
Nước ép dưa hấu có giá 8 Mỹ kim (10,75 Úc kim).
Việc phát triển 3,8 tỷ Mỹ kim bao gồm một cảng đủ sâu để xử lý các tàu có trọng tải lên đến 10.000 tấn, dự đoán ngay là nó có thể được Hải quân Trung Quốc sử dụng cho mục đích chiến lược.
Xe hơi được người Trung Quốc chạy trong khu phức hợp, có những chiếc xe quân sự của Campuchia được trưng bày trên cửa sổ của chúng.
Nơi này chỉ cách vùng biển xung đột ở Biển Đông khoảng vài trăm kilômét. Các nhóm hoạt động nhân quyền cho biết, có tới 4.000 gia đình Campuchia được tái định cư khi họ rời khỏi nhà trong khu vực công viên, một số bị buộc trục xuất do những người đàn ông vung rìu và súng trường tự động.
Nhưng sâu bên trong công viên, ở trong một căn cứ quân sự thời Đệ Nhị Thế chiến, bốn gia đình từ chối rời khỏi ngôi làng bên bờ biển của họ, được gọi là Prek Smach Poy Japon. Không ai có thể ghé thăm ngôi làng mà không phải qua một trạm kiểm soát an ninh của công ty.
Một hàng rào lưới thép đã được dựng lên để cô lập dân làng, các cây điều, mít và chuối đã bị đốn bỏ, buộc các gia đình phải sinh sống bằng cách nuôi gia súc và gà.
Sengheang Seh, một phụ nữ trông coi một cửa hàng sửa xe gắn máy, nói rằng, cô lo ngại công ty sẽ san phẳng ngôi làng, hầu hết mọi thứ giờ nằm trong đống đổ nát.
Cô nói: “Tôi cảm thấy mình đang sống trong tù. Tôi không có tự doChúng tôi không muốn rời đi”.
Công ty đã cấp cho Sengheang một ngôi nhà nhỏ và lô đất cách xa công viên, nhưng cô không muốn nhận nó. “Nơi tái định cư không có chợ và không có cơ hội cho tôi làm ăn”, cô nói.
Ngin Mon, một góa phụ sống một mình trong làng, nói rằng, cô phải xin phép công ty để được đi lại. Cô nói: “Công ty Trung Quốc bắt nạt tôi quá nhiều. Ngày nay tôi không biết làm cách nào để sống vì tôi không thể rời bỏ làng của mình”.
Lãnh đạo Campuchia, ông Hun Sen, một người khét tiếng chuyên quyền, đã trở thành đối tác khu vực đáng tin cậy nhất của Trung Quốc, khi ông lảng tránh phối hợp với các nước phương Tây, bởi họ chỉ trích các vi phạm nhân quyền của chế độ ông.
Trong một bài phát biểu hồi tháng Hai, nhà lãnh đạo Campuchia đã quá khen ngợi Trung Quốc và khiển trách những người lo lắng về mức độ đầu tư và ảnh hưởng của Trung Quốc lên đất nước ông.
Điều này không phải luôn như vậy.
Năm 1988, Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ, nhưng sau khi Hun Sen đào thoát khỏi hàng ngũ của mình vào cuối thập niên 1970, ông mô tả Trung Quốc là ‘gốc rễ của mọi điều xấu xa’.
Bây giờ Trung Quốc đã tăng cường quan hệ với Lực lượng vũ trang Hoàng gia Campuchia – kể cả cung cấp phần lớn vũ khí cho họ.
Nhưng ông Carl Thayer nói, Campuchia có nhiều khả năng trở thành một nước lệ thuộc Trung Quốc hơn là một đồng minh quân sự chính thức.
Khi Thủ tướng Hun Sen qua cầu rút ván với châu Âu và Hoa Kỳ, ông ta có ít lựa chọn … [ông ta] cần Trung Quốc hỗ trợ về chính trị và tiền bạc qua hình thức đầu tư, viện trợ và cho vay để giữ cho chế độ của ông tiếp tục cầm quyền”.
Ông Thayer nói thêm rằng, có nhiều bất cập đối với các khoản đầu tư của Trung Quốc, bao gồm tập trung vào cơ sở hạ tầng vật chất và bỏ mặc các dịch vụ như sức khỏe cộng đồng thiếu đầu tư.
Brad King, một nhà đầu tư bất động sản người Úc, cho biết, Koh Rong có diện tích 78 cây số vuông, cách Sihanoukville 45 phút đi phà, là một trong những hòn đảo đẹp nhất thế giới.
Tôi muốn chết ở đây”, ông nói về nơi định cư mới của mình.
Nhưng ông King là người từng điều hành hoạt động kinh doanh bất động sản cho chính ông trên Gold Coast, lo ngại, các nhà phát triển Trung Quốc sắp sửa nhắm tới và một chuỗi đảo hoang sơ khác ngoài khơi Campuchia, một trong những biên giới cuối cùng của châu Á.
Sau nhiều năm phản đối một nhà phát triển người Campuchia chiếm lấy đất đai, khoảng 500 gia đình Koh Rong đã thắng trong một trận chiến dài ở tòa án, họ đã giành được quyền sở hữu đất đai.
Ông King nói rằng, ông đang tư vấn cho người dân địa phương tìm kiếm các đối tác Campuchia để cùng nhau phát triển các dự án và không bán cho các nhà đầu tư có tiền mặt đến từ Trung Quốc.
Ông King nói: “Người dân ở đây không muốn thấy người Trung Quốc chiếm lấy hòn đảo. Nhưng nếu họ được trả gấp đôi hoặc gấp ba lần so giá thị trường, họ sẽ làm gì khi họ còn phải lo cho gia đình? Tất nhiên họ sẽ bán, và nó sẽ báo hiệu một thảm họa”.
 Các sòng bạc do Trung Quốc tài trợ mọc lên, hủy hoại một ngôi chợ cũ ở Sihanoukville. Ảnh: Kate Geraghty Những tòa tháp trong khu phức hợp Blue Bay mọc lên bên các tòa nhà Campuchia thấp trên bãi biển Independence. Dự án bao gồm một bãi biển riêng. Ảnh: Kate Geraghty  Các nhà hàng Trung Quốc và Khmer trên bãi biển Ochheuteal ở Sihanoukville. Ảnh: Kate Geraghty Khách du lịch Trung Quốc chờ để lên phà từ đảo Koh Rong. Ảnh: Kate Geraghty Một người cung cấp thực phẩm Trung Quốc nấu ăn bên ngoài một sòng bạc Trung Quốc ở Sihanoukville. Ảnh: Kate Geraghty Công viên quốc gia không có rào cản để phát triển xung quanh Sihanoukville. Ảnh: Fairfax Công nhân Trung Quốc trong sòng bạc Blue Bay và trong dự án căn hộ ở Sihanoukville. Ảnh: Kate Geraghty Tàu Rex Fortune có sòng bạc, đang neo đậu ngoài Vườn Quốc gia Ream. Ảnh: Kate Geraghty Sengheang Seh (phải) và những người dân làng trong Vườn quốc gia Botum Sakor. Ảnh: Kate Geraghty Tượng đài Sư Tử Vàng Sihanoukville và sòng bạc JinBei gần đó. Ảnh: Kate Geraghty Hun Sen với Tập Cận Bình trong Diễn đàn Vành đai và Con đường ở Bắc Kinh năm 2017. Ảnh: AP Hành lang kinh tế Ấn-Trung, với tuyến đường sắt Côn Minh-Singapore, là một phần của Sáng kiến Vành đai – Con đường. Ảnh: Fairfax