20 tháng 8, 2018

VÌ SAO ĐẢNG CỨ IM LẶNG MÃI, KHÔNG DÁM LÊN TIẾNG


Giang Trạch Dân và Lý Bằng hồ hởi chào đón các lãnh đạo ĐCSVN chiều 3/9/1990. 

Nguồn: Internet

Nguyễn Đăng Quang
20-8-2018

Hội nghị Thành Đô (3-4/9/1990) và các thỏa thuận ký kết giữa lãnh đạo 2 Đảng và Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc đến nay đã đúng 38 năm, song vẫn là một bí mật lạnh lùng! Không chỉ nhân dân thế giới mà ngay cả người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc đều bị lãnh đạo của họ dấu tiệt, không hé lộ một lời về những gì họ đã thỏa thuận với nhau tại Hội nghị này cách đây 38 năm về trước!

Cách đây hơn 4 năm, ngày 28/7/2014, 61 đảng viên tâm huyết của ĐCSVN đã ký “Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên ĐCSVN” (gọi tắt là “Thư ngỏ 61”). “Thư ngỏ 61” đưa kiến nghị ĐCSVN cần thực hiện 2 yêu cầu cấp thiết và trọng yếu của đất nước:

Một: “ĐCSVN cần thay đổi cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa.”

Hai: “Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như Thỏa thuận Thành Đô 1990, các thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…”.

Trong 61 đảng viên ký Thư ngỏ này có 1 quân nhân kỳ cựu, 1 “anh bộ đội cụ Hồ” đích thực, đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật (1927-2015), cựu Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang (1979-1984). Tướng Lê Duy Mật là người rất cương trực, tính khí khẳng khái, là một vị tướng can trường trận mạc, trải khắp các chiến trường A,B,C,K qua 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và Tầu xâm lược! Một chi tiết không phải ai cũng biết, 1 tuần trước khi đấy, ngày 20/7/2014, ông đã gửi TBT Nguyễn Phú Trọng, BCT và BBT một Tâm thư với nội dung rất mạnh mẽ và quyết liệt, đó là yêu cầu Đảng phải công khai hóa Thỏa hiệp Thành Đô, đồng thời phải cho Tổng kết cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược.

Đặc biệt, trong Tâm thư trên, tướng Lê Duy Mật đã trích dẫn nguyên văn một Điều khoản trong Thỏa hiệp Thành Đô do Tân Hoa xã và Hoàn Cầu Thời báo của Trung Quốc tiết lộ: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng CNCS, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa 2 nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa 2 Đảng và nhân dân 2 nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp trong quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam 30 năm (1990-2020) để ĐCSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa.” (hết trích).

Ông nêu nghi vấn việc này có hay không, thực hư ra sao, Đảng phải làm rõ! Và rồi ông yêu cầu BCT và BBT phải công bố các văn bản đã thỏa thuận ký kết giữa 2 Đảng trong Hội nghị Thành Đô cho toàn Đảng, toàn dân biết để chứng minh hư thực. Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đưa tin, thì rõ ràng đấy là bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước, chẳng khác nào là phản bội Tổ quốc! Tiếp ngay sau đấy, ông kiến nghị Trung ương xem xét ra tuyên bố phản bác bản Thỏa hiệp đó, chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và cả những người thực hiện sau này!

Tôi quen biết Tướng Lê Duy Mật trong những dịp bàn thảo và ký “Thư ngỏ 61”. Tất cả 61 đảng viên ký tên đều nhất trí cao về nội dung, câu chữ và đặc biệt là về 2 vấn đề trọng yếu và cấp thiết của đất nước. Riêng tướng Lê Duy Mật và một vài anh muốn “Thư ngỏ 61” đề cập thêm Điều khoản mà Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã tiết lộ, nhưng khi cân nhắc, ý kiến trên không được chấp thuận, đa số cho rằng cần phải rất thận trọng, để theo dõi thêm, chưa khẳng định vội. Sau này mỗi khi gặp nhau, tướng Mật nói vui, bảo tôi là “Ồ đây rồi, ông bạn hăng hái nhất chặn tớ đây rồi!”.

Khi gửi Tâm thư và ký vào “Thư ngỏ 61”, tướng Mật ở tuổi 87, sức khỏe đã yếu. Không lâu sau ông phải vào Quân y viện 108 điều trị bệnh hiểm nghèo. Mỗi lần vào thăm ông, tôi nhận thấy, dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng ông luôn đau đáu, trăn trở với hiện tình đất nước, nhất là về mối nghi ngờ của ông đối với Hội nghị Thành Đô. Ông hỏi tôi lý do vì sao không đồng tình với ông về Điều khoản mà ông gọi là “bán nước”, tôi đáp: “Thưa anh, tất cả bọn họ đều u mê về ý thức hệ, họ sẵn sàng đặt quyền lợi của họ lên trên lợi ích quốc gia. Song có lẽ họ chưa ngu muội đến mức có thể bán rẻ Tổ quốc!”. Tôi phân tích thêm: “Vả lại, kẻ thù của ta, chắc anh không xa lạ và còn biết rõ hơn em, chúng là bậc thày trong các quỷ kế gây chia rẽ, ly dán và phân hóa nội bộ ta! Do vậy chúng ta cần hết sức tỉnh táo, thận trọng và cảnh giác để khỏi xa vào mưu đồ xấu xa, hiểm độc của chúng!”. Ông im lặng, tay vỗ nhẹ vào vai tôi, không rõ ông đồng tình hay phản đối? Thế rồi hơn một tháng sau, ngày 20/10/2015, tôi lặng người khi nghe tin ông mất, mang sang thế giới bên kia mối nghi ngờ lớn nhất mà ông chưa được Đảng giải đáp! 

Nỗi u buồn và vẻ mặt trầm tư của tướng Lê Duy Mật trước ngày ra đi. Ảnh: Phạm Viết Đào

“Tâm thư” của tướng Mật và “Thư ngỏ 61” của các đảng viên gửi ĐCSVN đã hơn 4 năm rồi mà chẳng có ai trả lời họ cả. Tính đến nay, ngoài tướng Lê Duy Mật, có 4 người khác ký “Thư ngỏ 61” đã ra đi mãi mãi cùng ông! Không rõ Đảng muốn đợi những đảng viên ký “Thư ngỏ 61” ra đi bớt rồi mới trả lời hay là Đảng đợi 2 năm nữa, đúng ngày 4/9/2020, mới chính thức công bố cho toàn dân biết? Những điều họ kiến nghị, hoặc những vấn đề họ yêu cầu đều nằm trong quy định những quyền đảng viên được biết và bổn phận Đảng phải làm (Điều 3 Điều lệ Đảng và Điều 4 Hiến pháp). Hơn nữa, câu hỏi mà tướng Mật yêu cầu Đảng làm rõ đâu có phải là của “thế lực thù địch” bịa đặt ra, mà đây là sự tiết lộ của “các đồng chí 4 tốt” của Đảng! Sự việc ở đây thật đơn giản: Nếu CÓ thì bảo là CÓ. Nếu KHÔNG thì bảo là KHÔNG, uẩn khúc ghê gớm gì đâu mà Đảng không dám trả lời?

Trong bài viết ngày 3/8/2014 với nhan đề: “Phải công bố các thỏa thuận ở Thành Đô cho nhân dân biết”, người viết bài này kiến nghị: “Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô, có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định và thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận… làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ VN – TQ, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô”.

Nhà thơ thế sự nổi tiếng Thái Bá Tân mới đây post lên FB của mình bài thơ Đề nghị Đảng giải thích”, nói về việc tướng Lê Duy Mật gửi Tâm thư chất vẩn Đảng mà không được trả lời. Xin mạn phép trích dẫn 4 khổ trong bài thơ nói trên để chia xẻ cùng bạn đọc:

“Thiếu tướng Lê Duy Mật,
Không phải người hồ đồ,
Vừa tiết lộ một ý
Trong Thỏa hiệp Thành Đô.

“Rằng vì lợi ích đảng,
Đảng ta đã tự mình
Xin làm Khu tự trị
Của chính quyền Bắc Kinh.

“Không thể nào tin nổi.
Nhưng nếu đúng, thì đây
Là tội ác cực lớn,
Loại ngựa xéo, voi dày!

“Tôi là con dân Việt,
Có quyền biết thật hư.
Yêu cầu Đảng giải thích,
Không một phút chần chừ !

Vâng, thưa nhà thơ Thái Bá Tân, nói rõ thật hư, công khai, minh bạch, không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của Đảng cầm quyền đối với 4 triệu đảng viên của mình và 90 triệu con dân đất Việt! Nếu cứ lặng thinh, từ chối trách nhiệm thì Đảng không xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như đã ghi trong Điều 4 Hiến pháp 2013!

____

Ghi chú của người viết:

Bài viết này chắc chắn sẽ không có nếu Đảng không giữ im lặng trong suốt 4 năm qua. Lẽ ra, theo nghi thức thông thường, khi nhận được “Tâm thư” của tướng Lê Duy Mật và “Thư ngỏ” của 61 đảng viên tâm huyết, Đảng nên có hồi âm hoặc đối thoại dưới hình thức nào đó. Nhưng rất tiếc những điều này không diễn ra, mà là những việc làm ngược lại!

Nếu vì lý do gì đó, Đảng không thể công khai cho nhân dân biết về mối quan hệ giữa 2 nước VN-TQ, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô, thì ít ra, Đảng cũng nên lên tiếng phủ nhận và bác bỏ nguồn tin (Điều khoản) do Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo tiết lộ, đồng thời lệnh cho 700 báo đài ở Trung ương và địa phương phản bác, lên án, tố cáo nguồn tin xấu độc trên là bịa đặt! Và, cũng khó hiểu, tại sao Đảng không chỉ thị cho Ban Đối ngoại hoặc BNG hay TTXVN lên tiếng yêu cầu phía Trung Quốc có biện pháp chấm dứt, không để lặp lại những trường hợp tương tự!

Vậy, vì sao Đảng cứ im lặng mãi, không lên tiếng, và cũng chẳng giải thích để yên lòng dân, mà cứ để ai muốn hiểu sao thì hiểu, muốn nghĩ sao thì nghĩ? Đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghi ngờ ngày một lớn trong dư luận người dân, kể cả trong nội bộ Đảng! Lỗi này không phải của ai mà chính là của Lãnh đạo và các cơ quan tham mưu của Đảng!

Còn Đảng, còn… nhiều!
Để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của mình, Đảng CSVN đặt định nhiều tiêu chí nhằm chỉ chọn – sắp đặt – bổ nhiệm những cá nhân là thành viên, đã được giáo dục cẩn thận về “lý luận chính trị”, sẵn sàng phục tùng vô điều kiện. Đó là lý do dẫu quy hoạch, quy trình bộc lộ đủ thứ khiếm khuyết nhưng Đảng vẫn duy trì, không gạt bỏ. Tuy tình thế, nhân tâm đẩy Đảng tới chỗ phải nhóm “lò” nhưng thực tế cho thấy, ngay cả “củi” cũng có… quy hoạch. Đó không phải may rủi, ngẫu nhiên mà được tính toán cẩn thận, thành ra ngày mai, ông Nguyễn Đức Hoàng bị lột sách mọi thứ, ngày mốt, bà nào đó bị bóc trần thì cứ vững tin là còn Đảng thì còn… nhiều những câu chuyện kỳ quái về lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm.
Image result for Nguyễn Đức Hoàng, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ
Chủ tịch tỉnh Bình Định vừa cho biết, ông ta đang chờ kết quả xử lý của Tỉnh ủy Bình Định để quyết định xử lý về mặt chính quyền đối với ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ của tỉnh này (1). Chuyện bổ nhiệm ông Hoàng, sinh năm 1986, làm Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định cách nay bốn năm giờ mới trở thành lùm xùm.

Năm 2010, lúc 24 tuổi, ông Hoàng được Công ty Chứng khoán Dầu khí tuyển vào làm việc tại Chi nhánh TP.HCM. Về nguyên tắc, đảng viên CSVN chỉ có thể giới thiệu người khác vào Đảng khi đã làm việc chung, sinh hoạt chung với đương sự tối thiểu một năm, tuy nhiên Bí thư Chi bộ phía Nam của Công ty Chứng khoán Dầu khí lại làm thủ tục giới thiệu ông Hoàng vào Đảng lúc ông Hoàng mới vào công ty làm việc được… 15 ngày. Về nguyên tắc, phải có tối thiểu ba đảng viên chính thức thì mới thành lập chi bộ, thế nhưng chỉ có một đảng viên chính thức, Chi nhánh TP.HCM của Công ty Chứng khoán Dầu khí vẫn được lập chi bộ để hoàn thiện các thủ tục cần thiết cho Đảng ủy Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam kết nạp ông Hoàng.

Ông Hoàng trở thành đảng viên dự bị vào đầu tháng 9 năm 2011 thì cuối… tháng 9 năm 2011, Viện Kiểm sát Bình Định loan báo tiếp nhận ông Hoàng – có văn bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh – vào làm việc tại Phòng Tổ chức và vài tháng sau bổ nhiệm ông Hoàng làm Phó phòng.

Bởi Cao cấp Lý luận chính trị là điều kiện tiên quyết để được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo cấp tỉnh nên đảng CSVN đặt định rất nhiều yêu cầu về việc lựa chọn – cử đảng viên đi học chương trình này. Chẳng hiểu tại sao ông Hoàng lại được Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bình Định chọn - cử đi học Cao cấp Lý luận chính trị trong khi còn là đảng viên dự bị.

Ông Hoàng trở thành học viên của lớp Cao cấp Lý luận chính trị tại Học viện Hành chính – Chính trị Khu vực 3 hồi tháng 11 năm 2012 thì tháng sau, Viện Kiểm sát Bình Định cho phép ông Hoàng chuyển ngành sang Sở Ngoại vụ Bình Định. Do ông Hoàng từng là Phó Phòng Tổ chức của Viện Kiểm sát Bình Định nên khi tiếp nhận, Sở Ngoại vụ Bình Định giao cho ông Hoàng làm Phó Phòng Hợp tác quốc tế. 15 tháng sau, ông Hoàng được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Hợp tác Quốc tế và tháng sau nữa (tháng 5 năm 2014), ông Hoàng được “phân công” làm Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định…

Thời gian từ lúc ông Hoàng đặt chân vào Đảng cho tới khi trở thành Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định tính ra chỉ có hai năm bảy tháng. Trong hai năm bảy tháng ấy, ông Hoàng đi qua ba nơi, nơi nào cũng chỉ làm việc theo kiểu… tạm trú, song hàng chục cơ quan, tổ chức Đảng thuộc nhiều ngành, nhiều cấp - từ doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Công Thương (Công ty Chứng khoán Dầu khí, Chi bộ Công ty Chứng khoán Dầu khí, Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam, Đảng ủy Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam), tới cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Bình Định (Viện Kiểm sát Bình Định, Đảng bộ Viện Kiểm sát Bình Định), chính quyền tỉnh Bình Định (Sở Ngoại vụ Bình Định, Đảng bộ Sở Ngoại vụ Bình Định, Sở Nội vụ Bình Định, Đảng bộ Sở Nội vụ Bình Định, Ban Cán sự UBND tỉnh), Tỉnh ủy Bình Định (Ban Tổ chức Tỉnh ủy),… - đều không thấy đó là bất thường. Kể cả khi hồ sơ của đảng viên Nguyễn Đức Hoàng không có Giấy Chứng nhận đã học lớp dành cho đảng viên mới nên không thể có giấy công nhận đảng viên chính thức.

Mãi đến khi cha ông Hoàng là ông Nguyễn Đức Trí, Tỉnh ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh Bình Định đã nghỉ hưu, cả hệ thống mới chuyển từ trạng thái đui, què, câm, điếc, đột nhiên nghe thấy, nhìn ra, chợt nghĩ, chợt nghi, động chân, động tay để kiểm tra, rồi chính thức lên tiếng, thừa nhận cả hệ thống đã “sai sót nghiêm trọng” về đảng tịch của ông Hoàng...

***

Ông Hoàng không phải là trường hợp đầu tiên lâm nạn vì cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền đột nhiên chuyển từ trạng trái tứ chi, ngũ quan đột nhiên tê liệt rất lâu rồi trở thành… bình thường! Trước ông Hoàng đã có ông Lê Phước Hoài Bảo (Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Quảng Nam), bà Trần Vũ Quỳnh Anh (Trưởng phòng Quản lý Nhà và Thị trường bất động sản, đã được qui hoạch làm Phó Giám đốc Sở Xây dựng Thanh Hóa), ông Vũ Minh Hoàng (Vụ phó Vụ Kinh tế của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN), trước nữa là Trịnh Xuân Thanh (Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, đã được qui hoạch làm Thứ trưởng Công Thương),…

Cho đến giờ, cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền tại Việt Nam vẫn thất thường như thế trong việc lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm viên chức lãnh đạo. Dân chúng có bất bình, lo âu vì tiến trình vừa kể tước đoạt cơ hội của những thường dân tử tế nhưng thiếu thân thế, không tiền, kém nhan sắc,… thì quy hoạch vẫn là nguyên tắc, qui trình luôn luôn đúng cho đến khi đột nhiên cần xác định là sai đối với một số cá nhân nào đó.

Chẳng hạn giữa năm ngoái, Bộ Nội vụ của chính phủ Việt Nam xác định Hà Giang là 1/11 địa phương “nóng” bởi hiện tượng “bổ nhiệm người nhà” và tuyên bố “đã khắc phục những sai sót, đồng thời đã xem xét, xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có liên quan”, song đến giờ, ông Triệu Tài Vinh, Bí thư tỉnh Hà Giang (người có vợ là Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn. Ba em trai chia nhau các vị trí Bí thư huyện, Phó Chủ tịch huyện, cán bộ lãnh đạo Sở Bưu chính - Viễn thông Hà Giang. Em gái đang chờ trở thành lãnh đạo Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Hà Giang. Em rể chuẩn bị rời vị trí Phó Công an thành phố Hà Giang để bước lên những bậc cao hơn) vẫn yên vị (3)!

Tương tự, ông Nguyễn Nhân Chiến vẫn vững như bàn thạch ở vị trí Bí thư tỉnh Bắc Ninh cho dù tố cáo gia tộc ông Chiến (bao gồm: vợ, hai con trai, hai con dâu, hai em trai, hai em dâu, em gái, em rể, cháu ruột, cháu dâu, anh chị em con chú bác ruột,… tổng cộng 24 người, chia nhau ngồi rải rác ở tất cả các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh) như bươm bướm trên mạng xã hội (4).

Rõ ràng nỗ lực “chỉnh đốn Đảng” đã biến một số cá nhân, kể cả Ủy viên Bộ Chính trị như ông Đinh La Thăng thành “củi” nhưng khó có thể tin nỗ lực này sẽ biến “tham quan, ô lại” thành “củi” hết. Tại sao ông Thăng thành củi mà ông Phạm Sỹ Quý thì không? Tại sao ông Quý từng khuấy động dư luận vì bị bắt quả tang đánh bạc nhưng không những không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn được đề bạt làm Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Yên Bái? Tại sao ông Quý vi phạm hàng loạt qui định về quản lý - sử dụng đất, kê khai tài sản thiếu trung thực nhưng vẫn chấp nhận khối tài sản vài trăm tỉ ấy là do… bện chổi mà có, không những không truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn lưu dụng, điều động sang làm Phó Văn phòng Hội đồng nhân dân Yên Bái với các khoản đãi ngộ ngang với Phó Giám đốc một Sở (5)?

Để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của mình, Đảng CSVN đặt định nhiều tiêu chí nhằm chỉ chọn – sắp đặt – bổ nhiệm những cá nhân là thành viên, đã được giáo dục cẩn thận về “lý luận chính trị”, sẵn sàng phục tùng vô điều kiện. Đó là lý do dẫu quy hoạch, quy trình bộc lộ đủ thứ khiếm khuyết nhưng Đảng vẫn duy trì, không gạt bỏ. Tuy tình thế, nhân tâm đẩy Đảng tới chỗ phải nhóm “lò” nhưng thực tế cho thấy, ngay cả “củi” cũng có… quy hoạch. Đó không phải may rủi, ngẫu nhiên mà được tính toán cẩn thận, thành ra ngày mai, ông Nguyễn Đức Hoàng bị lột sách mọi thứ, ngày mốt, bà nào đó bị bóc trần thì cứ vững tin là còn Đảng thì còn… nhiều những câu chuyện kỳ quái về lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm. Nhiều ông, bà khác là con ông này, cháu bà kia sẽ được chọn để lấp những chỗ trống cũng theo qui hoạch, đúng qui trình cho tới khi Đảng thấy cần thêm “củi” khôi phục lại “tin, yêu”.

Trân Văn
Blog VOA

Chú thích

(1) http://plo.vn/thoi-su/cac-ben-noi-ve-vu-pho-giam-doc-so-sieu-toc-787640.html

(2) http://baochinhphu.vn/Nhan-su/Xu-ly-nghiem-cac-vu-bo-nhiem-nguoi-nha-thua-lanh-dao-cap-pho/309792.vgp

(3) https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/bi-thu-ha-giang-trieu-tai-vinh-noi-ve-viec-nguoi-than-lam-lanh-dao-2016091718174122.htm

(4) https://www.facebook.com/lecam.tran.3/posts/1067344836763177

(5) https://nld.com.vn/tin-doc-quyen/chu-tich-yen-bai-noi-ve-viec-dieu-ong-pham-sy-quy-sang-hdnd-20171030180602957.htm

15 tháng 8, 2018

MỘT MẢNH ĐỜI- MỘT GIẤC MƠ
FB Loc Duong 11 Tháng 7 - Nghe cái tên bọn trẻ gọi "Dì Hai khoai lang" tưởng là ghê gớm lắm, nhưng thật ra Dì mới chỉ đi bán khoai khoảng 5 năm nay thôi. Và việc phải chọn gánh khoai làm kế mưu sinh hoàn toàn là do "cái bọn chó đẻ nhà nước này xui khiến", theo như lời Dì nói.

Dì sinh ra trong một gia đình cũng không đến nổi tệ. Mẹ bán khoai lang, cha làm phụ hồ. Là con một trong nhà nên Dì được đi học và Dì học rất giỏi. Các loại giấy khen nhà trường và tổ dân phố cấp dư sức để mẹ Dì tha hồ gói khoai lang. Rồi Dì tốt nghiệp đại học. Đó là năm hạnh phúc nhất trong đời Dì. Cuộc đời như thể màu hồng. Cha Dì đi làm ở đâu cũng đem Dì ra khoe, còn mẹ Dì thì bất cứ ai mua khoai đều được nghe nhóc một lổ tai về sự học giỏi giang của Dì.




Nhưng niềm vui không kéo dài được lâu khi thực tế ập đến. Dì không xin được việc làm. Đi tới đâu người ta cũng nháy mắt đòi thủ tục "đầu tiên", toàn là chục triệu, có nơi còn đòi tới trăm triệu. Đào đâu ra "bác hồ" bây giờ? Thế là Dì phải ở nhà loanh quanh phụ mẹ bán khoai. Cha Dì buồn quay quắt, suốt ngày lôi rượu ra uống và chửi chính phủ từ trên xuống dưới. Mấy người tổ dân phố sợ lắm, dạo trước còn thỉnh thoảng đến thu tiền hoặc nhắc nhở treo cờ, bây giờ cạch không dám đến, thế nào cũng có xô xát. Cả mấy chàng trai theo đuổi Dì cũng không ai dám léo hánh tới vì sợ dính líu tới "phản động".

Dì chỉ lấy được chồng khi cha Dì ít năm sau chết vì uất ức. Chết mắt cứ mở trừng trừng, bao nhiêu người làm đủ mọi cách cũng không làm cho ông nhắm mắt được, cuối cùng phải phủ miếng khăn đỏ lên mặt rồi đem đi thiêu. Dì lấy chồng không phải vì yêu mà vì cảm kích người đàn ông xấu xí, từng có một đời vợ, đã bỏ tiền ra lo cho đám ma cha Dì được phần tươm tất.

Chồng Dì làm tài xế xe hàng. Hai vợ chồng có được 3 đứa con. Cuộc sống hạnh phúc, ít khi nào gây lộn. Dì cảm thấy mãn nguyện. Nhưng cái số Dì là số ăn mày, mới sướng được một chút thì tai họa ập tới liền liền: Mọi lần chạy xe, chồng Dì phải hối lộ, đút tiền cho cảnh sát giao thông là chuyện thường, tự dưng bữa đó chồng Dì trở chứng, không lòi tiền ra, lại còn cự cãi quyết liệt. Thế là bị bắt về tội chống người thi hành công vụ. Cò chạy án tới nhà rần rần, "tội này nhẹ, 50 triệu tại ngoại, 100 triệu bảo đảm miễn tố luôn". Dì đâu có tiền, đi mượn cũng không ai cho. Người ta đưa chồng Dì vào trại tạm giam, ở chưa được ba tháng thì xích mích sao đó, tụi đại bàng, đầu gấu đánh chồng Dì chết trên đường đưa tới bệnh xá.

Còn lại một mình Dì với 3 con và mẹ già phải nuôi, Dì còn không mau nối nghiệp mẹ gánh gánh khoai ra đường kiếm lấy cái ăn? Dẫu rằng Dì chẳng bao giờ được ăn no. Cơm thì nhường cho 3 đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn. Khoai cũng không dám ăn vì sợ cụt vốn. Dì chỉ thấy mình được no khi ăn trong những giấc mơ thôi. Giống như một lời thơ của Trần Mạnh Hảo: " củ khoai không vùi trong bếp, củ khoai vùi trong giấc ta mơ..." Cho nên Dì rất thích ngủ. Cho nên Dì rất thèm ngủ.


Như mới hôm qua thôi, trời nắng nóng, lại đá banh World Cup, không ai mua khoai hết. Dì bèn vào ngồi ngủ ngon lành dưới một mái hiên. Và giấc mơ đẹp lại đến với Dì.

Dì mơ thấy mình đi lạc vào một cung điện, trên sân khấu cao ngất có 3 người đứng uống rượu. Một ông cao lớn thấy gánh khoai của Dì thì thích lắm, ra hiệu sẽ mua mão hết số khoai và đậu phộng ế của Dì. Nhưng cái ông đầu bạc nói " khoai Việt Nam không ngon bằng khoai trung Quốc". còn ông đầu hói mà lại niễng niễng thì nói "đậu phộng Việt Nam cũng không ngon bằng đậu phộng Trung Quốc, xin ngài đừng mua". Rồi ông đầu bạc kêu gia nhân lôi Dì ra ngoài. Ra tới cửa, người gia nhân lén đưa cho Dì một nồi cơm to, Dì ăn loáng cái hết, mà vẫn còn thòm thèm. Dì đang định vét sạch đáy nồi thì có người lay lay vai Dì.



Mở mắt ra, Dì thấy một người công an đang bóp vai Dì đau điếng: " Đi chỗ khác, sao lại ngủ ở đây? Bộ muốn ở tù hả?". Sợ quá, Dì quảy gánh khoai và đậu phộng ế đi một nước. Dì mang phận dân đen nên không biết rằng chỗ Dì ngủ là gần cổng của một quan lớn. Ở trong tòa nhà đó, ngồi trên những bộ bàn ghế tiền tỷ là những ông quan lãnh đạo. Họ đang nói chuyện về những dự án lớn lao của đất nước, họ đang nói toàn những chuyện tầm vĩ mô nhưng tuyệt nhiên không có chuyện nào liên quan đến việc cứu rổi những mảnh đời bất hạnh như mảnh đời của Dì Hai Khoai Lang mà ngày xưa đã từng tốt nghiệp đại học, đã từng mơ sánh vai cùng bạn bè thế giới.../.

Loc Duong

BLOG ttđ

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, mọi người đang đứng

11 tháng 8, 2018

‘Cân nhắc lại’ luật Đặc khu: Sợ dân hay sợ nội bộ đảng?


Hoàn toàn không như những gì mà nhóm lợi ích của luật Đặc khu hình dung quy trình thông qua sẽ thông thống suôn sẻ, bộ luật ác nghiệt này không chỉ phải chịu lời oán thán và lên án từ Bắc chí Nam của nhiều triệu người dân Việt, mà còn có thể trở thành một trong những tâm điểm của cuộc chiến ác liệt giữa các thế lực trong nội bộ đảng vào nửa cuối năm 2018 và kéo sang cả năm 2019.

Cảnh sát và người biểu tình đối mặt nhau trên quốc lộ 1 ở Bình Thuận, 11/6/2018.
Bất ngờ ‘cân nhắc lại’

Vào những ngày đầu tháng Tám năm 2018, nỗi lo sợ và phẫn nộ của người dân Việt về ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà nhân dân đặt cho dự luật Đặc khu) đã một lần nữa tạm dịu xuống khi một bản thông cáo mới nhất về chương trình kỳ họp thứ 26 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội - được phát đi từ Văn phòng Quốc hội - đã bất ngờ biến mất nội dung ‘cho ý kiến về dự án luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu)’ như chương trình được lên trước đó.

Dự án luật này “đang được cân nhắc lại” - Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc viện dẫn lý do.

Lần đầu tiên nỗi lo sợ của dân tạm lắng là vào tháng Sáu năm 2018 khi ‘đảng và nhà nước ta’ buộc phải lùi thông qua luật Đặc khu sau cuộc biểu tình khổng lồ lên đến hàng trăm ngàn người ở Sài Gòn và lan ra hơn 50% tỉnh thành trong cả nước, biến thành một sự kiện phản ứng chính trị chưa từng có đối với chế độ cầm quyền kể từ thời đểm năm 1975.

Thân phận của dự luật Đặc khu vào năm 2018 đang ngày càng nhái lại số phận Điều 60 luật Bảo hiểm xã hội ba năm trước.

Bài học Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội

Vào cuối tháng Ba năm 2015, cuộc đình công của gần 90.000 công nhân tại công ty Pou Yuen ở Sài Gòn và công nhân ở một số tỉnh thành khác phản đối Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội quá bất công khi không cho nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần đã mang tính quy mô chưa từng thấy, cũng là lần đầu tiên không phải công nhân phản đối doanh nghiệp mà chính là phản ứng quyết liệt mang tính đối đầu với một chính sách nhà nước.

Tình thế khẩn cấp khi đó là nếu Luật Bảo Hiểm Xã Hội không được sớm sửa đổi và công nhân không thể nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, trong đó đương nhiên phải bỏ quy định phi lý về việc người đóng bảo hiểm xã hội dưới 20 năm mới được nhận trợ cấp một lần, rất nhiều cuộc đình công và biểu tình của lớp người dưới đáy xã hội này sẽ tái bùng phát và còn ghê gớm hơn nhiều ở các địa phương Việt Nam.

Với tinh thần “nước đến chân mới nhảy” bất di bất dịch trong hệ thống chính trị Việt Nam, chỉ đến lúc giới công nhân đồng loạt phản ứng dữ dội thì 500 đại biểu quốc hội và 200 ủy viên trung ương mới giật mình lo sợ “tình hình sẽ diễn biến phức tạp.”

Sau đó, và như một “phép màu, phía chính phủ phát ra kiến nghị Quốc hội xem xét, điều chỉnh Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội theo hướng trước mắt cho phép người lao động khi chưa đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu, sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội thì có quyền lựa chọn hưởng bảo hiểm xã hội một lần, hoặc tiếp tục bảo lưu thời gian đóng như quy định của Luật Bảo Hiểm Xã Hội Luật năm 2006.

Phong trào đình công không khoan nhượng của hàng trăm ngàn công nhân đã thắng lợi!

3 năm sau, 2018. Tình trạng còn trầm trọng hơn nhiều. Không chỉ là một điều luật bất cập mà còn mang nguy cơ mất nước trong những nội dung ‘cho thuê như bán’ của dự luật Đặc khu và khiến ‘Mật ước Thành Đô’ trở nên sờ sờ trườc mắt cho tương lai gần Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc, dù cho tới nay chẳng người dân nào được nhìn thấy bản mặt của mật ước này.

Chính - Ngân và Phúc?

Bất chấp phản ứng dữ dội của dư luận xã hội và hàng triệu cử tri về ý đồ nhượng địa trong dự luật Đặc khu và cảnh báo đặc khu có thể bị Trung Quốc lợi dụng để di dân, vào giữa năm 2018 Quốc hội Việt Nam vẫn một lần nữa chứng tỏ cái năng lực nổi bật của nó: không chỉ hùa theo các nhóm lợi ích để tăng vọt thuế và ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, ‘cơ quan dân cử’ này còn tiến xa hơn một bước bằng một kỳ họp châu đầu vào ‘luật bán nước’, trong khi hoàn toàn không thèm ngó ngàng gì đến cảnh nạn hàng ngàn người dân ở ‘Khu đô thị mới Thủ Thiêm’ đã bị chính quyền TP.HCM biến thành dân oan, phải tha phương cầu thực và cả những cái chết tự treo cổ do quá phẫn uất khi bị cưỡng chế đẩy đuổi khỏi mảnh đất sinh nhai duy nhất.

Trừ một số rất hiếm hoi dân biểu phát tiếng nói phản biện, tuyệt đại đa số còn lại trong số gần 500 đại biểu quốc hội vẫn tiếp tục thói ‘ngủ ngày’ trong cơn mộng du vong bản và vong dân.

Mạng xã hội đã biến thành một chiến trường gầm vang với vô số chỉ trích, kể cả chửi rủa nhắm vào Bộ Chính trị đảng, đặc biệt xoáy vào những nhân vật có liên quan trực tiếp đến dự luật này là Phạm Minh Chính - Ủy viên bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức trung ương và là bí thư tỉnh Quảng Ninh vào thời lập dự án cho đặc khu Vân Đồn tại tỉnh này; Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội và là nhân vật đã ủng hộ tuyệt đối ‘Luật bán nước’, thậm chí còn áp dụng tiểu xảo chính trị với phát ngôn đầy tính áp đặt ‘Bộ Chính trị đã kết luận rồi…’ như một cách nói để không cho ai nói khác với đảng; và cả Nguyễn Phú Trọng - một tổng bí thư mà sau chuỗi hô hào ‘lò nóng lên rồi!’ thì lại gần như mất dạng trước con sóng phẫn nộ của nhân dân đòi hoãn hay hủy bỏ dự luật Đặc khu.

Cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu năm 2018 chống luật Đặc khu đã chứng tỏ cái sức mạnh biển trời của nó trước con thuyền mục nát của chính quyền. Cuộc biểu tình khổng lồ này cũng là đầu tiên xác quyết không chỉ phản đối một chủ trương hay một chính sách của chính quyền, mà còn thể hiện sự phản kháng trực tiếp đối với chính quyền.

Sang tháng Bảy năm 2018, lồng trong bầu không khi căng thẳng và tàn nhẫn khi công an lao vào ‘bắt nguội’ và đưa ra xử án nhiều người dân biểu tình, Thủ tướng Phúc bắt đầu lấp ló ‘sẽ xin ý kiến nhân dân về luật Đặc khu’.

Chính phủ đã quan tâm đến ‘ý kiến nhân dân’ từ khi nào thế?

Còn nhân dân thì làm sao quên được một sự thật quá sức trần trụi: một trong những quyền dân đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1992 là trưng cầu dân ý vẫn chưa hề được luật hóa cho đến tận giờ đây.

‘Luật bán nước’ là một minh chứng hùng hồn về quan điểm quên dân và gạt dân. Dù đã được âm thầm chuẩn bị trong nội bộ đảng cầm quyền từ vài năm trước, nhưng chỉ đến sát kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như đặt sự đã rồi. Còn trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự luật đặc khu. Và càng tuyệt đối không có bất kỳ ý tưởng nào của chính quyền về ‘trưng cần dân ý’ đối với dự luật gắn liền với cơ thể chủ quyền lãnh thổ này.

Sợ dân và sợ lẫn nhau

Không còn nghi ngờ gì nữa, hiệu ứng của cuộc tổng biểu tình Mười tháng Sáu và phong trào văn thư kiến nghị, phản bác trước đó của giới trí thức đã buộc đảng cầm quyền, chính phủ và một quốc hội ‘đầu sai của đảng’ phải lùi thông qua dự luật Đặc khu để ‘nghiên cứu tiếp’, để cho đến nay phải tìm cách hoãn bàn về ‘luật bán nước’ vì lo sợ sẽ bùng nổ một phong trào biểu tình khổng lồ mới của dân chúng, dù trước đó đã muốn đặt dự luật này vào sự đã rồi mà không thèm quan tâm đến quan điểm, chính kiến và ý kiến của các tầng lớp nhân dân.

Không chỉ sợ dân chúng biểu tình, giới quan chức cao cấp và đặc biệt là những quan chức đã hứa hẹn với đủ điều với Bắc Kinh về một mô hình đặc khu ‘dành cho người Trung Quốc’, những quan chức đã âm thầm gom đất trong các đặc khu để chờ ngày đặc khu được thông qua chính thức thì sẽ ‘xả hàng’ với giá cao ngất trời…, còn sợ hãi lẫn nhau.

Hiện tượng Ủy ban Thường vụ quốc hội của người đàn bà nổi tiếng diêm dúa Nguyễn Thị Kim Ngân bất thần thông báo hoãn bàn về ‘Luật bán nước’ đã hé ra một sự thật: trong đảng và trong khối cơ quan chính phủ cùng các tỉnh thành, không phải quan chức nào cũng ‘đồng cam cộng khổ’ về lợi ích đất đai và xu hướng ‘Thiên triều hóa’ với dự luật Đặc khu, không phải quan chức cũng sẵn sàng cúi gật một cách vô não và vô đạo như một nghị trường ‘cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp’.

Từ trước khi dự luật Đặc khu được đưa ra trung ương nghị bàn, một số cựu thần và một bộ phận trong giới cách mạng lão thành đã có những phản ứng nhất định. Nhưng sau khi nổ ra cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu của dân chúng và khi người ta chứng kiến một Nguyễn Phú Trọng cũng nói nước đôi chứ không thể ủng hộ tuyệt đối ‘luật bán nước’ theo cách mà những Phạm Minh Chính, Nguyễn Thị Kim Ngân có lẽ rất mong muốn, đã có những cựu thần công khai lên tiếng phản đối dự luật Đặc khu trước ông Trọng và trong các cơ quan đảng. Hẳn sự phản ứng này, được tích tụ từ trước tháng Sáu và phát ra mạnh hơn sau tháng Sáu, đã tạo nên một sức ép đủ lớn khiến bộ phận quan thức yêu mến ‘luật bán nước’ phải chùn tay mà chưa dám đặt dự luật này lên bàn nghị luận như một hành vi khiêu khích toàn dân.

Không chỉ có thế, những động thái lạ lùng vừa công khai vừa âm thầm xảy ra xung quanh luật Đặc khu từ tháng Năm năm 2018 đến nay càng cho thấy nếu dự luật này được nhóm lợi ích thúc đẩy theo cách cố đấm ăn xôi, nó có thể trở thành một trong những tâm điểm của cuộc chiến ác liệt giữa các thế lực trong nội bộ đảng vào nửa cuối năm 2018 và kéo sang cả năm 2019, dẫn đến những hậu quả tung tóe mà không một quan chức dây phần nào muốn nhìn thấy.

Phạm Chí Dũng 

10 tháng 8, 2018

Ông Phan Diễn

Sự kiêu ngạo cộng sản

Mở bài: Ai không đọc bài này, bị thiệt thòi ráng chịu (hihi, mình cũng bị nhiễm sự kiêu ngạo của các bác ấy). Rảnh rỗi hãy đọc. Đang bận bịu thì đừng.


Những chữ trên không phải do tôi nghĩ ra, cũng không phải do thế lực thù địch nào vu cáo, mà là chữ dùng của ông Phan Diễn. Ông Diễn người Quảng Nam, con cụ Phan Thanh – một nhân vật nổi tiếng thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Ông Diễn từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đóng đến chức Thường trực Ban Bí thư (tức nhân vật số 2 của đảng, chỉ sau Tổng bí thư). Họ hàng ông Diễn còn có những người là yếu nhân của chế độ, chẳng hạn ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), em ông Phan Thanh, ông Bôi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền sau cách mạng tháng 8, Chánh văn phòng chính phủ, người được cụ Hồ hết sức tin cậy; mẹ ông là bà Lê Thị Xuyến từng là Phó chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam… Kể qua như vậy để nói rằng phát ngôn của ông Diễn không phải dạng ai đó nói vu vơ, nói lấy được, mà là rất có trọng lượng. Đó là nhận xét của người trong cuộc, "ở trong chăn..." chứ không phải bị kích động, xúi giục, nhẹ dạ gì (làm sao mà kích động nổi những người như ông Diễn, nay ông vẫn còn sống và mạnh khỏe, sáng suốt, ai không tin thì cứ hỏi ông).

Trong bài trả lời báo điện tử VnExpress đăng ngày 17.12.2016, ông Diễn chắc thấm nhuần tư tưởng của Lênin, người thầy của cách mạng vô sản thế giới, đưa ra nhận định “Tôi cho rằng, chúng ta ít nhiều đã có sự chủ quan, có thể gọi là “kiêu ngạo cộng sản” sau chiến thắng 1975. Việc này có thể hiểu là xuất phát từ những điều tự hào về lý tưởng và thành công của mình trên con đường cách mạng, nhưng rồi đi quá đà đến xu hướng chủ quan...” (trích nguyên xi câu). Cũng trong bài trả lời này, ông cựu nhân vật số 2 còn cho biết chi tiết rất đáng quan tâm đối với những người chép sử, ông bảo “Trước giải phóng, mỗi năm kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng xấp xỉ như thế”. (trích nguyên xi câu). Nếu đúng như ông Diễn nói thì với 1 tỉ đô như vậy, ở miền Nam ngoài chi cho phương tiện chiến tranh, tiền viện trợ còn được biến thành nền kinh tế “phồn vinh giả tạo”, dân thực sự được nhờ, được sung túc, chứ 1 tỉ ở miền Bắc bị chuyển hóa thành vũ khí đạn dược hết để “giải phóng miền Nam”, nên dân chịu đói khổ thiếu thốn kéo dài suốt mấy chục năm.

Phải nói rằng, trong gầm trời này, từ thời thượng cổ đến nay, nếu nói về sự kiêu ngạo thì có thể nói rằng người cộng sản là số 1, vô địch, “thì treo giải nhất chi nhường cho ai”. Người đời vẫn nhắc với nhau một “tấm gương” điển hình về kiêu ngạo, đố các vị biết là ai, đó là ông Quan Vũ (còn gọi là Quan Công, Quan Vân Trường) thời Tam quốc. Ông đứng đầu ngũ hổ tướng của Lưu Bị, tài giỏi, công lao hãn mã khó ai bì, chỉ có điều ông kiêu ngạo quá lắm. Thiên hạ có thể khen ông nhiều điều, cho qua chuyện ông xem thường Mã Siêu (và cả Hoàng Trung, Triệu Vân nữa, những “đồng chí” của ông, tài giỏi chẳng kém ông, thậm chí còn hơn ông) nhưng chỉ với việc ông khước từ sự cầu hôn của nhà Ngô, họ muốn gả con trai vua Tôn Quyền lừng lẫy đất Giang Nam cho con gái ông để hai nhà liên kết, nhưng bằng thói kiêu ngạo ngấm trong máu, Quan Vũ thẳng thừng “con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho con loài chó à” thì với chính thái độ đó ông đã phết chữ tử vào sự nghiệp của mình cũng như sự tồn tại của nhà Thục. Thói kiêu ngạo đã giết chết ông và nhà nước của ông chứ không phải thứ gì khác. Ở đây cũng phải nói thêm cái “tội” của Khổng Minh, đã biết không thể tin cậy Quan Vũ trong việc giữ Kinh Châu mà vẫn cứ giao, dù thừa hiểu mấy chữ lời khuyên “Đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo” đối với một kẻ kiêu ngạo chả có ý nghĩa gì, chả là cái đinh gì.

Kiêu ngạo là gì? Kiêu là sự ngạo mạn, không chịu phục tùng. Kiêu ngạo là thái độ khoe khoang, ngạo mạn. Kẻ kiêu ngạo thường tự cho mình hơn người, thậm chí mình là nhất. Kiêu căng ngạo mạn, trên đời không ai bằng mình. Từ đó dẫn đến coi thường người khác, coi thường tất cả. Việc gì mình làm cũng hay cũng đúng. Mình chả bao giờ sai. Luôn nhìn đời bằng nửa con mắt. Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta. Nếu có ai phê phán phản đối thì lấy làm khó chịu, nhẹ thì chê bai dè bỉu người ta, nặng thì dùng quyền lực tìm cách vùi dập. Trong mênh mông thế sự, kẻ kiêu ngạo luôn sống cô độc với vòng hào quang mà nó tự tô vẽ.

Nói cho công bằng, không phải ai cũng có thể sinh thói kiêu ngạo. Những hạng ngu đần, an phận, rụt rè, kém bản lĩnh, thiếu tài năng, tầm thường thì không thể là kẻ kiêu ngạo. Những người cả đời không lập công, không thành đạt thì lấy gì để kiêu ngạo. Phải có khí chất nhất định của kẻ anh hùng, phải hơn người mới có thể kiêu ngạo được. 

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản với cốt lõi là tư tưởng Marx - Lênin và học thuyết đấu tranh giai cấp được du nhập vào Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 20, người cộng sản đã dần tìm được chỗ đứng trong đời sống chính trị bởi họ khá khôn ngoan. Họ biết lợi dụng và dựa vào dân nghèo, nhất là nông dân, lực lượng đông nhất ở một xứ thuộc địa. Những ông tổ của cộng sản, khi truyền bá học thuyết đấu tranh giai cấp đã khẳng định “ai nắm được công nông, người ấy sẽ chiến thắng”. Lý luận ấy từng chính xác ở nơi nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng xứ ta trước năm 1945 thì quả đúng như vậy.

Sau khi đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng, người cộng sản VN từng bước giành thắng lợi. Đó là nghệ thuật biết thắng từng bước, dù họ biết phải giá đắt máu và nước mắt. Dấu mốc lịch sử quan trọng vẻ vang nhất là họ khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng, khơi mối căm thù giai cấp bóc lột, hô hào nhân dân đứng lên làm cuộc lật đổ nhà nước thực dân-phong kiến, cướp chính quyền (chữ “cướp” được người cộng sản trước kia hay dùng, sau có lẽ thấy chối quá mới lặng thầm bỏ), thiết lập được bộ máy cầm quyền mới vào tháng 8.1945.

Theo dòng lịch sử, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1945-1954), cuộc nội chiến Bắc Nam để thống nhất đất nước (1954-1975), cuối cùng người cộng sản đã đoạt chiến thắng chung cuộc. Đánh ván cờ xương máu, họ đã thắng. Bao nhiêu đau thương mất mát, biết bao bi kịch ám vào số phận từng cá nhân, từng gia đình, từng vùng đất ròng rã mấy chục năm trời để có ngày toàn thắng. Tiếp theo nữa, gần nửa thế kỷ, suốt từ năm 1975 đến nay, người cộng sản hãnh diện mình đã có công trời biển thu non sông về một mối. Bộ máy tuyên truyền của họ hằng năm bắt mọi người phải nhớ ơn cái công lao được xây bằng núi xương sông máu của mấy triệu con người. Góp thây trăm họ nên công vài người.

Trong chiến tranh, do cần lợi dụng sức dân, người cộng sản đã khéo léo tô vẽ được hình ảnh về chiến sĩ hết lòng vì nước vì dân, hy sinh quyền lợi cá nhân, bình dị gần gũi, chan hòa với quần chúng, không ngại gian khổ không sợ hy sinh… Họ đầy ham muốn, nhưng lúc cần che giấu vẫn biết khôn khéo lui xuống vị trí cần thiết để tạo nên hình ảnh có lợi trong mắt dân. Có lẽ chính vì thế mà trong cộng đồng dân tộc những năm đầy ác liệt, người cộng sản được số đông dân chúng tin cậy, giao phó sứ mệnh chèo lái mà ít mảy may nghi ngờ, lăn tăn. Đội ngũ văn nghệ sĩ “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật” hoặc với tấm lòng ngây thơ, hoặc có dụng ý, đã thỏa sức làm thơ, kẻ nhạc, dựng kịch, đóng phim, viết tiểu thuyết… ca ngợi người cộng sản, nâng họ thành “tên quân cảm tử đi tiên phong”, “như cánh chim trời không biết mỏi, mỗi bước đi biết mấy yêu thương”. Những hình tượng, hình ảnh đẹp nhất, có sức lôi cuốn nhất ở trên đời được ví, được gắn với người cộng sản. Đó là vầng thái dương, đuốc soi đường, nguồn ánh sáng, đỉnh cao chói lọi, người cầm lái vững vàng, ngọn cờ bách chiến bách thắng, chiến sĩ tiên phong…, tất cả được báo chí, đài phát thanh, cán bộ tuyên huấn hằng ngày ra rả phong tặng cho người cộng sản. Nói một cách khách quan, công bằng, không phải toàn bộ đảng cộng sản ở xứ này, không phải tất cả mọi thành viên (đảng viên) của tổ chức chính trị đòi độc quyền lãnh đạo xứ này đều xứng đáng đeo những tấm huân huy chương bốc giời ấy, nhưng thực sự trong đội ngũ họ có những người như vậy, chỉ có điều rất ít, rất hiếm hoi. 

Một trong những sai lầm và định kiến khó chữa nhất của người cộng sản là họ luôn cho mình đúng. Họ xem cộng đồng xã hội như một cơ thể, mà họ là bộ óc. Óc chi phối tất cả, điều khiển mọi hành vi. So với tim gan phèo phổi mắt mũi chân tay thì chỉ óc mới là lý trí. Có sai cũng vẫn lý trí hơn tim gan phèo phổi. Độc quyền nghĩ, độc quyền đúng. Không chịu lắng nghe. Ít phục thiện, ít sửa chữa. Từ đó phát sinh ra những hệ lụy khủng khiếp.

Sinh thời, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, người nổi tiếng với câu nói "Ấy, cái xứ ta nó thế", đã viết rằng những nhà cai trị của chế độ này cần đọc Luận ngữ của Khổng tử. Đừng vội cho rằng tư tưởng, lý luận của ông Tàu hủ nho đó thì đọc làm gì. Bài Trung chống Tàu (cộng) không có nghĩa là sổ toẹt hết. Cái nào đúng, đã được thử thách giá trị qua thời gian thì chả tội gì phải bỏ. Thiển nghĩ rằng, thứ cần bỏ ngay bây giờ không phải những lời răn của Khổng tử hoặc Hàn Phi tử mà chính là học thuyết Marx - Lênin, nhất là sự xúi giục đấu tranh giai cấp và lý luận về một chủ nghĩa xã hội không tưởng của mấy ông tây này, bởi chúng đã quá lỗi thời.

Trở lại cuốn sách nho nói trên. Trong sách đó có thuyết "Tử tứ tuyệt" gồm: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Đáng chú ý, “vô ý” có nghĩa là trong bất kỳ xã hội hoặc thể chế nào, không được dành đặc quyền cho ý kiến quan điểm nào cả, đừng tuyệt đối hóa nó, bởi nếu như thế sẽ khiến ta (nhất là người cầm quyền) không nhìn thấy những ý khác, điều khác có thể còn đúng, còn hay hơn ý của ta, kể cả những ý kiến trái chiều, đối lập. Chỉ một cái “vô” đó thôi, chúng ta đã thấy người xưa tiến bộ như thế nào, cách nay cả hơn 2 nghìn năm.

Vậy mà bây giờ những nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng (cộng sản), luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là ánh sáng (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ. Khi còn quyền lực trong tay thì họ trấn áp, đe dọa, vùi dập, nhưng liệu trong dòng chảy cuộc sống đang biến đổi tích cực từng ngày từng giờ thì liệu có dậm dọa được mãi không. 

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới theo chim én về, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.

Trước hết, có thể thấy rõ sự kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt…, tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. Đi đâu cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng vô địch muôn năm, đảng lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ lao động bằng chữ cộng sản), đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững, tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… Hồi mấy chục năm trước, tôi đi xe lửa qua chỗ nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau nó mất đi lúc nào không biết. Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc họ Hòa còn bị sứt mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược.

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Những Lênin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả phật, cả chúa. Không cho ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa nhơ nhỡ ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh…, tới dịp kỷ niệm ngày sinh ngày mất cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm, tượng đài nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là thánh chứ không phải người.

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Chắc nhiều người còn nhớ, sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm, người cộng sản giành phần thắng. Thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự Thật (nhà xuất bản riêng của đảng), xuất bản tháng 8.1975 (tôi đang có cuốn sách này). Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế nếu ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “Quảng Trị đẹp nhất từ xưa đến nay”, “Dân chủ đến thế là cùng”… Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì đang tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo cuộc sống.

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Nhưng dần thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, khiến họ rất khó coi, trở thành lố lăng, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Chắc nhiều người còn nhớ nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, đại loại “dân chủ của ta còn dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn "sự kiêu ngạo" của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ có quy kết tôi chống này đối nọ thì tôi cũng đành chịu vậy, chả thể cãi họ được.

Nguyễn Thông

8 tháng 8, 2018


Bàn về vài quan điểm của Nguyễn Trần Bạt (Phần 1)
Nguyễn Đình Cống
3-7-2018
1- Giới thiệu
Trong vài chục năm trở lại đây Nguyễn Trần Bạt nổi lên như một trí thức làm kinh doanh rất thành đạt. Ông sinh năm 1946 tại Nghệ An, năm 1963 vào quân đội, năm 1973 tốt nghiệp Đại học Xây dựng. Năm 1984 thôi việc nhà nước, năm 1989 thành lập Công ty tư vấn về đầu tư và chuyển giao công nghệ – InvestConsult Group. Hiện nay Công ty hoạt động trên nhiều nước, có doanh thu nhiều triệu đô la mỗi năm.
Ông Bạt là người nổi tiếng trong các lĩnh vực: doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả. Ngoài thành tích về kinh tế, ông được giới trẻ rất hâm mộ vì những buổi nói chuyện hấp dẫn, những cuộc trả lời phỏng vấn thông minh, và in hơn chục quyển sách về rất nhiều vấn đề nhằm hướng dẫn, động viên thanh niên trên con đường lập nghiệp.
Tôi kính phục kiến thức, ý chí, quan hệ và sự đóng góp của ông Bạt. Tôi đã từng say sưa đọc các sách của ông bàn về văn hóa, con người, tri thức, kinh tế, đạo đức, tự do, dân chủ, khoa học, giáo dục, cải cách v.v… và công nhận rằng sách của ông đã giúp tôi hệ thống hóa một số suy nghĩ còn rời rạc, giúp phát hiện một vài nhận thức mới. Thế nhưng gần đây đọc sách “SỨC MẠNH CỦA CÁI ĐÚNG”, NXB Hội nhà văn – 2018, tôi gặp một vài quan điểm khó chấp nhận, liên quan đến chính trị, thời cuộc. Những vấn đề này không mới, chắc rằng có xuất hiện trong những sách tôi đã đọc, nhưng trước đây tôi không để ý tới.
Ông Bạt luôn nhận mình “không phải là người đối lập”. Khi viết sách ông chủ trương “vì sự tiến bộ, vì trăn trở với tương lai đất nước, làm hết mình để giải độc cho thế hệ trẻ v.v”… Nhưng tôi nhận thấy trong sách ông có vài điểm bất đồng, đó là nhận thức về Mác, về cách mạng, về sự lãnh đạo của ĐCS VN, về vai trò của trí thức và vài điều lẻ tẻ. Tôi xin nêu ra một cách vắn tắt để những ai quan tâm có thể tham khảo và thảo luận. Riêng với ông Bạt, nếu ông vui lòng chấp nhận trao đổi kỹ hơn, tôi xin sẵn sàng gặp trực tiếp để nói chuyện như giữa những người bạn.
Trong các phản biện dưới đây tôi có trích vài câu trong sách “Sức mạnh của cái đúng”, con số đặt trong ngoặc (…) ghi số trang có câu được trích.
2- Về Mác và chủ nghĩa Mác – Lê
Ông Bạt tỏ ra vẫn một lòng tin vào Mác và Chủ nghĩa Mác Lê (CNML). Ông nhận xét “Chủ nghĩa Mác hấp dẫn ở phương pháp luận của nhận thức (386)”. Về vấn đề này ông còn viết: “Tôi có hai hệ thống tín hiệu để suy nghĩ tạo cảm hứng. Một là luận lý…(187)”.

Nguyễn Đình Cống

Rất nhiều người cũng một thời bị hấp dẫn bởi những lập luận rất hay, rất chặt chẽ của Mác, nhưng rồi đã phát hiện ra sự ngụy biện trong đó. Luận lý ông Bạt nói đến, theo cách hiểu thông thường gồm Luận cứ, Luận chứng và Luận đề. Dựa vào luận cứ, dùng luận chứng để chứng minh nhằm rút ra kết luận, là luận đề. Lập luận rất hay, rất chặt chẽ, rất hấp dẫn của Mác nằm ở phần luận chứng. Đó là phần được nhiều người quan tâm và Mác, bằng phép biện chứng đã mê hoặc được nhiều người. Ít người để ý phân tích luận cứ. Có phân tích sâu vào luận cứ mới tìm ra sai lầm và ngụy biện của Mác, từ đó dẫn tới sai cơ bản về luận đề (Tôi đã trình bày trong loạt bài: Một số nhầm lẫn của Mác; Ngụy biện của CNML; Chất đất sét trong các hòn đá tảng của Mác).
Ông Bạt viết: “Mác là nhà triết học xây dựng được hệ thống tư tưởng toàn diện và chắc chắn đến mức những ai trở thành đệ tử của nó đều không ra khỏi nó được (362). Và: “Trần Đức Thảo là người rất mê Marxist… (386)”. Viết như thế phải chăng là chủ quan vì có thể dẫn ra nhiều người nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã từng là đệ tử của CN Mác, nhưng rồi đã phản tỉnh khi nhận ra những sai lầm cơ bản của nó. Riêng Trần Đức Thảo, vào cuối đời, ông Thảo đã phản tỉnh và cho rằng Mác là thủ phạm chính của mọi tai họa cho nhân loại do cách mạng vô sản gây nên. (Theo “Trần Đức Thảo – Những lời trăng trối”, chương 14 – Nêu đích danh thủ phạm – Sách của Phan Ngọc Khuê).
Ông Bạt cho rằng ông đã thành công lớn trong việc giải thích Mác khi viết: “Nhiều anh em nói với tôi rằng họ đọc nhiều về Mác, nhưng cũng không hiểu lắm, đến khi họ đọc những phân tích của tôi về Mác là họ hiểu ra ngay.” Ông còn viết: “Chúng ta còn cái vướng là chưa Việt hóa được cả các nguyên lý của CNML…(25)”.
Sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, sau khi Quốc hội Châu Âu kết tội phong trào cộng sản và quan trọng nhất là thực tế nhem nhuốc của xã hội Việt Nam do ĐCS gây ra mà ông Bạt, một trí thức có hiểu biết rất rộng vẫn ca ngợi hết lời CN Mác làm tôi khó hiểu. Tôi đề ra 2 giả thuyết sau
1- Ông Bạt hiểu CN Mác rất kỹ, ông nguyện bảo vệ và phát triển nó. Như vậy thì đáng khâm phục, đáng tôn trọng. Tôi cũng nghiên cứu CN Mác và cho rằng nó phạm sai lầm ngay từ gốc. Tôi ao ước có được dịp trao đổi với một người nào rất giỏi về CN Mác để tham khảo ý kiến của họ, đặng tìm ra chỗ sai của mình. Tôi đã vài lần đề nghị được đối thoại với Hội đồng Lý luận Trung ương, nhưng không được chấp nhận. Nếu ông Bạt vui lòng đối thoại với tôi thì tôi vô cùng biết ơn.
2- Ông Bạt đã phần nào biết được những thiếu sót, sai lầm của CN Mác, nhưng vì một lý do nào đó mà chưa tiện nói ra. Hoặc giả ông cho rằng: “Trong mọi xã hội đều tồn tại tầng lớp dưới thấp kém, nghèo đói, luôn có nguy cơ trở thành giai cấp vô sản, cho nên CN Mác vẫn có giá trị, nó chính là công cụ triết học của tầng lớp dưới (363)”.
Ông Bạt chủ trương viết sách vì sự tiến bộ và giải độc cho thế hệ trẻ. Không rõ ông quan niệm thế hệ trẻ đang bị đầu độc như thế nào. Tôi nghĩ rằng họ đang bị đầu độc nhiều thứ mà nguy hiểm nhất là về chính trị.Trong trường học và sinh hoạt đoàn thể, họ bị tẩy não, bị nhồi sọ, bị đầu độc bằng CNML đã tỏ ra có nhiều sai lầm, có nhiều độc hại. Thế thì việc ca ngợi CNML tiến bộ ở đâu, giải độc ở đâu hay là phản lại những ý tưởng tốt đẹp do ông đề ra.
3- Về thể chế chính trị, sự lãnh đạo của ĐCS
Nhiều nhà hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến ở trong và ngoài nước cho rằng ở VN hiện nay đang tồn tại thể chế độc tài toàn trị của ĐCS. Thể chế này làm phát sinh và nuôi dưỡng tham nhũng, mua quan bán tước, từ đó lại sinh ra rất nhiều tệ nạn nguy hiểm khác. Vì vậy muốn cho xã hội phát triển thì việc cần thiết đầu tiên là cải cách (hoặc đổi mới) thể chế, xây dựng nền dân chủ với tam quyền phân lập. Ông Bạt hình như cũng nhận thấy điều này và thỉnh thoảng có nhắc đến. Ông viết: “Đầu tiên là cải cách kinh tế…, sau đó đến cải cách chính trị (20)”. Ông còn dẫn lời của TBT: “đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế (32)”.
Tuy vậy trong nhiều chỗ ông Bạt tỏ ra bảo vệ thể chế, bảo vệ và ca ngợi sự lãnh đạo của Đảng. Xin đọc những câu sau: “Không có sự thay đổi thể chế mà chỉ có sự cải cách để thay đổi dần dần các mặt tiêu cực của thể chế mà thôi (23)….Dù chúng ta có một xã hội chưa trong sạch lắm, nhưng rõ ràng Đảng ta có một ý chí trong sạch (30)…Ý chí chính trị của Đảng và Nhà nước thống nhất với ý chí chính trị của xã hội, đó là điều quan trọng nhất (31)” … Đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, kêu gọi mọi tầng lớp xã hội đoàn kết xung quanh Đảng và coi đó là tiền đề của mọi thành công trong bối cảnh đất nước hiện nay (8) … Nếu quần chúng không còn gắn bó với Đảng thì họ trở thành những người dân không đáng yêu, tức là một xã hội không đáng yêu (240)…Việc TBT Nguyễn Phú Trọng tự tin nói về nhân quyền trên đất nước Mỹ làm người dân VN vô cùng tự hào (30)… (Tổng thống Phi lip pin) Duterte làm sao ứng xử giỏi bằng các nhà lãnh đạo VN… làm sao so được với các nhà chính trị buộc phải xử lý vấn đề Trung quốc cho hàng nghìn năm sau (268)…Quyết đoán về lý luận thì chúng ta đã có những nhà chính trị quyết đoán, kiên nhẫn (384).
Nguyễn Trần Bạt chắc có nhận thấy sự mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ của đa số người dân nên tỏ ra lo ngại. Ông viết: “Thách thức lớn nhất là sự mất mát ý chí chính trị, và cần phải lấy lại ngay (31)…Tôi xin chúc những nhà lãnh đạo của chúng ta giữ vững ý chí chính trị (34)…
Người VN đã trưởng thành và khôn ngoan đến mức độ, anh là ai, không quan trọng, miễn là anh ủng hộ VN 2 thứ: phát triển và ổn định chính trị, tức là không động chạm đến địa vị cầm quyền của ĐCS VN (271)… Chúng ta không thừa nhận ĐCSVN là người cầm quyền chính trị và là chủ sở hữu nhà nước của nó thì chúng ta không còn chuyện gì để nói (283)… Tuyệt đối không đùa với sinh mệnh chính trị của Đảng (222)…Đảng này mà sụp đổ thì mọi lẽ phải lặt vặt không có xu nhỏ giá trị nào (224)…”
Ông Bạt nhận là người không phải đối lập, viết sách vì trăn trở với tương lai đất nước, một cách phi chính trị (287). Tôi tôn trọng sự không đối lập, nhưng cho rằng đối lập hay không đối lập không quyết định phẩm chất và giá trị con người. Điều quan trọng hơn là tuệ giác và trung thực. Tôi cảm phục khi ông Bạt cho rằng cần phi chính trị hóa nền giáo dục. Tôi tán thành ý kiến rằng ĐCS VN đang tạm giữ được ổn định chính trị. Họ cho rằng đó là điều kiện vô cùng quan trọng để phát triển. Nhưng tôi nghĩ hơi khác, cho rằng ổn định chính trị là một phần cần thiết để ổn định xã hội và để phát triển thì ổn định xã hội là quan trọng hơn nhiều. Thế mà dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN xã hội đang mất ổn định nhiều mặt.
Tôi đồng ý rằng giữ được ổn định chính trị là tốt, nhưng để có sự ổn định tạm thời đó ở VN người ta đã gây ra bao tai họa. Có một câu sau, tưởng là nghịch lý, nhưng lại là chân lý “Tốt là kẻ thù của cái tốt hơn”. Ông Bạt nghĩ đến cái tốt tạm thời cho dân tộc, sao không nghĩ đến cái tốt hơn. Phải chăng như thế là trăn trở với tương lai đất nước?
Chắc rằng ông Bạt cũng thấy không thể kéo dài mãi thể chế toàn trị của đảng, nhưng ông dự đoán (hoặc mong ước) nó còn kéo dài. Ông viết: “Tôi cho rằng…để ra khỏi những khó khăn về chính trị phải mất một thế ký (276)… Hai trăm năm nữa người Việt mới có đủ điều kiện để ý thức được về các giá trị ấy (254)…” (các giá trị nhân bản).
Tôi nhận thấy ông Bạt khá bằng lòng và có phần ca ngợi chế độ hiện hành và thế lực lãnh đạo. Tôi nghĩ, để làm người đối lập, phản biện thì nhất thiết phải có ý kiến phản bác lại một cái gì đó của chính quyền. Còn làm người không đối lập, chỉ cần không phản bác là đủ, liệu có cần ca ngợi những điều mập mờ?
Nguyễn Đình Cống
3-7-2018
Tiếp theo Phần 1
4- Về trí thức
Bàn về trí thức VN, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, khen chê đủ cả. Văn bản chính thức có NQ 27-NQTƯ tháng 8 năm 2008 về xây dựng đội ngũ trí thức. Trong năm 2018 nhiều tổ chức của Đảng mở hội thảo đánh giá 10 năm thực hiện NQ 27. Tôi có một số ý kiến phản biện NQ này, nhưng ở đây chỉ xin bàn đến vài ý kiến trong sách của Nguyễn Trần Bạt.
Ông Bạt cho rằng quan trọng phải có tiêu chuẩn để nhận diện trí thức, vì nếu tiêu chuẩn không rõ ràng thì: “tức là cổ vũ cho một bộ phận trí thức nhạy cảm và đủ năng lực để biến hình, biến màu, trở thành kẻ cơ hội sớm nhất và giỏi nhất. Những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh nghiệm sẽ rất dễ nhầm lẫn những kẻ đội lốt trí thức với trí thức chân chính (350)”.
Trong đoạn vừa trích có 3 loại trí thức: Trí thức chân chính, trí thức nhạy cảm (thiếu chân chính) và kẻ đội lốt trí thức (trí thức dỏm hoặc kém chất lượng). Ông Bạt đưa ra tiêu chuẩn để nhận diện trí thức là “Tính độc lập” (351), thể hiện trên 4 khía cạnh. Độc lập đối với nhau tạo nên sáng tạo, tranh luận. Độc lập với nhà cầm quyền tạo nên phản biện. Đối lập với văn hóa ngoại lai tạo nên sự lựa chọn. Độc lập, đối diện với quá khứ tạo ra động lực của sự phát triển và năng lực phỏng đoán tương lai.
Tôi không phản bác những ý kiến trên, chỉ bổ sung vài ý. Ông Bạt cho rằng những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn…, tôi lại thấy hiện nay lắm kẻ cầm quyền thừa ranh ma, lắm thủ đoạn tạo ra và sử dụng bọn trí thức dỏm. Ông Bạt cho rằng cần dựa vào tính độc lập…, tôi thấy đó chỉ mới là một phần của điều kiện đủ, trong ấy còn cần thêm sự trung thực. Ngoài ra còn điều kiện cần mà chủ yếu là khả năng trí tuệ. Chỉ dựa vào tính độc lập là chưa đủ để đánh giá trí thức chân chính.
Nguyễn Trần Bạt

Ông Bạt viết: “Trí thức là những người chịu trách nhiệm lớn nhất đối với sự phát triển, đối với vận mệnh của dân tộc (354)… Việc tạo ra cuộc cách mạng là của giới chính trị, nhưng hàn gắn vết nứt của CM để tạo ra sự đồng thuận xã hội là việc của giới trí thức (13)… Phát triển gắn liền với việc tìm kiếm ra phương thức thay đổi một cách từ tốn tất cả các nhược điểm của một nền chính trị. Đấy là công việc của giới trí thức (20)…”. Việc giới trí thức có và cần đóng góp vào các công việc vừa kể là đúng, nhưng cho rằng đó là trách nhiệm chính của họ là không chuẩn. Nếu trí thức phải gánh phần trách nhiệm chính thì phải chăng chính quyền, lãnh đạo chỉ chịu trách nhiệm phụ hoặc phối hợp mà thôi. Không phải! Trách nhiệm chính phải là của chính quyền, của lãnh đạo.
Ông Bạt có nhận xét: “làm giàu kho trí tuệ của dân tộc là nhiệm vụ của giới trí thức, còn lựa chọn cái gì trong đó để đưa ra dùng là nhiệm vụ của giới chính trị (359). Đúng ra, lựa chọn cái gì là nhiệm vụ của giới chính trị cầm quyền. Giới này mới chịu trách nhiệm chính. Khi cho rằng trách nhiệm chính thuộc về trí thức là đã làm nghiêng lệch vai trò của họ.
Khi đưa ra khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, có người đã bình luận: Thế chính quyền và lãnh đạo làm gì, phải chăng là ngồi chơi, xơi nước.
5- Vài lời bình luận
Trong quyển sách Sức mạnh của cái đúng, ngoài các điều đã trình bày ở các mục trên, tôi còn phát hiện một số chi tiết bất đồng khác, chưa viết ra đây. Ngoài ra tôi cũng biết có vài người phản biện ông Bạt. Phạm Hồng Sơn nhận xét: Đọc Nguyễn Trần Bạt, xen kẽ những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay. Ví dụ quan điểm của ông về Nhà nước toàn trị, về nhân quyền, về chỗ đứng của NCKH XH. (Bài: Hơn hai sai lầm nguy hiểm của ông Nguyễn Trần Bạt – Pro & Contra ngày 4/9/2012). Trung Nguyễn viết bài “Phản hồi Nguyễn Trần Bạt về hòa giải và hòa hợp”, đăng báo Tiếng Dân ngày 15/5/2018.
Nguyễn Trần Bạt, ngoài doanh nhân thành đạt còn là một học giả nổi tiếng, có rất nhiều người hâm mộ, đặc biệt là các bạn trẻ. Phương châm của ông khi viết là trong sáng, tốt đẹp, đáng phục. Thế nhưng sao lại có những phản biện không mong muốn. Tôi chép lại nhận xét của Phạm Hồng Sơn: “Đọc Nguyễn Trần Bạt, xen kẽ những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay”. Xin bổ sung rằng về số lượng câu, chữ, phần tích cực có lợi chiếm trên 95%, phần nguy hiểm chỉ là số ít và rải rác, nhưng gây tác dụng không nhỏ. Trong rất đông người hâm mộ ông Bạt liệu đã có mấy ai phát hiện ra các quan điểm mà phản biện cho là không đúng, nguy hiểm. Phản biện cho là không đúng, nhưng bản thân ông Bạt thì sao. Ông có thực sự tin những điều viết ra là hoàn toàn đúng, là kết quả của sự chiêm nghiệm sâu sắc, là xuất phát từ trái tim, hay là ông viết như vậy vì một áp lực nào đấy về tâm lý?
Nếu như ông Bạt từ trong sâu thẳm của tâm hồn, từ nhận thức chính xác, chặt chẽ, đã qua thử thách mà cho rằng Mác đúng, rằng con đường mà ĐCS VN đang dẫn dắt dân tộc là không thể khác, rằng lãnh đạo ĐCS thực sự có tài năng… thì đó là quyền cá nhân của ông, xin được tôn trọng. Chỉ muốn cảnh báo để ông biết, có những phản biện không đồng tình, cho rằng nó nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Những điều đó nếu do tuyên giáo của Đảng phổ biến thì người ta cho là chuyện bình thường, nhưng khi do học giả nổi tiếng Nguyễn Trần Bạt nói ra thì tác dụng sẽ khác. Nó vừa tác động trực tiếp đến người nghe, người đọc, vừa được dư luận viên lợi dụng làm luận cứ để tuyên truyền cho Đảng.
Về áp lực tâm lý. Tôi không phải nhà kinh doanh nên không dám nói đã hiểu hết những áp lực từ phía chính quyền mà nhà kinh doanh phải chịu, đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh lớn, trong phạm vi rộng như ông Bạt. Tôi chỉ liên hệ cá nhân mình đã chịu áp lực như thế nào. Tôi đang giảng dạy rất thành công các môn Phương pháp luận NCKH và sáng tạo, Kết cấu công trình cho các lớp đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, dạy môn Phong thủy và Các kỹ năng mềm cho nhiều đối tượng. Tôi được nhiều nơi mời dạy, ký họp đồng làm khoa học. Thế nhưng chỉ vì tôi có vài việc làm Đảng không vừa ý mà mọi lời mời, mọi hợp đồng đều bị đơn phương hủy bỏ do áp lực của Đảng, của an ninh. Thậm chí khi Trường ĐH Xây Dựng kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2016, bảo vệ còn không cho tôi vào trường khi tôi mang vài quyển sách để tặng hoặc bán cho các sinh viên cũ về dự. Đấu tranh mãi họ mới cho tôi vào gặp sinh viên cũ với điều kiện chỉ được đi tay không. Trong suốt buổi tôi ở trường luôn có một bảo vệ theo dõi sát.
Trường hợp ông Bạt chịu áp lực tâm lý mà buộc lòng phải ca ngợi Mác và cộng sản thì vừa đáng trách, vừa đáng thương. Chắc ông nghĩ rằng công việc tư vấn của công ty ông đang làm mang lại nhiều lợi ích cho đất nước, muốn làm được trôi chảy phải có quan hệ tốt với chính quyền VN hiện hành, và như vậy không được có ý gì chống lại Mác và cộng sản.
Từ chỗ không chống lại đến chỗ ca ngợi là khá xa. Thấy điều sai trái, bạn có chống lại được hay không, chống lại đến mức nào là tùy thuộc vào khả năng, hoàn cảnh của bạn. Nếu vì hoàn cảnh mà buộc phải chấp nhận sự sai trái thì cũng đành chấp nhận một cách vui vẻ, im lặng, nhưng đừng ca ngợi.
6- Vài lời cuối
Nhân chuyện ông Bạt, tôi cứ lan man nghĩ về nghề tư vấn. Trong xã hội VN trước đây, ở đâu cũng có một số người làm tư vấn và môi giới về hôn nhân, gọi là Làm Mai (mai mối), một mặt họ được xem như Nguyệt Lão xe tơ hồng, mặt khác bị liệt vảo 1 trong 4 thứ ngu (Thế gian có 4 thứ ngu. Làm Mai, gánh nợ, bẫy cu, cầm chầu). Rồi khi các dịch cụ công và tư phát triển thì sinh ra lắm loại “cò” khắp các nơi, trong mọi lĩnh vực. Cò là dạng tư vấn cấp thấp, bình dân, sống nhờ vào việc khai thác thông tin và quan hệ, nhờ chủ yếu vào khách hàng không nắm được thông tin chính xác, hoặc muốn nhanh chóng. Công ty tư vấn xuyên quốc gia cũng hoạt động dựa vào khai thác thông tin và quan hệ. Khách hàng càng sộp và càng ngu dốt thì tư vấn càng kiếm được nhiều lợi lộc. Mà theo Brzezinski thì lãnh đạo cộng sản có nhược điểm lớn là kém trí tuệ. Không biết những ai đã làm tư vấn cho lãnh đạo ĐCS VN để làm những khu công nghiệp có tác hại phá hủy môi trường, làm các quả đấm thép và nhiều công trình gây thiệt hại nhiều trăm ngàn tỷ.
Ông Bạt là ngôi sao sáng trong hoạt động tư vấn, nhưng ông thu hút được nhiều người hâm mộ chủ yếu là nhờ con người học giả. Ở VN cũng có một vài học giả, về tri thức ngang tầm hoặc trên tầm ông Bạt, nhưng tiếng nói của ông Bạt hơn hẳn họ vì ông có sự thành đạt về kinh tế bảo lãnh. Miệng người sang có gang có thép.
Tôi là một người hâm mộ ông Bạt, xin có vài lời tâm sự với các bạn hâm mộ khác. Trong các bài nói hoặc viết của ông Bạt mà nhiều người thấy “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” thì cũng đã có những phản biện, vạch ra sự nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Vậy khi đọc, khi nghe ông Bạt chúng ta nên để ý, xem xét, đối chiếu để chỉ tiếp thu những điều hay và ngăn ngừa được những độc hại lẫn vào.
Xin chớ vội cho rằng ông Bạt nói, viết cái gì cũng đúng, cũng hay. Xin hãy suy nghĩ và phân tích bằng đầu óc của mình. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tế.
TB: Tôi không có địa chỉ để gửi bài này cho ông Bạt, Tôi xin tỏ lòng biết ơn bạn nào giúp tôi chuyển nó cho ông. Số ĐT của tôi 01689 578 620. Email: ndcong37@gmail.com