21 tháng 8, 2018


Bí ẩn vẫn chưa có lời giải: 5 khu vực dường như không thuộc về Trái đất

Trái đất này là một tinh cầu cực kỳ huyền diệu bởi luôn có những nơi bí ẩn đến mức khiến loài người kinh ngạc và các nhà khoa học không thể giải thích nổi.
Động không đáy

Nếu bạn đã từng xem Tây Du Ký chắc hẳn sẽ biết đến một hang gọi là động không đáy, tức là nó rất sâu, sâu đến mức không tưởng tượng nổi. Thật kỳ lạ là loại hang động này thực sự tồn tại, nó nằm ở vùng đất huyền thoại Minnesota. Bạn có thể quan sát thấy một thác nước đang chảy xuống suối, thác nước bên cạnh lại chảy vào một hạng động thẳng đứng.

Điều bất thường là người ta chỉ quan sát thấy dòng nước ở ngay trên cửa hang động, sau đó thì nó hoàn toàn biến mất vào khoảng không vô tận. Một giả thuyết được đưa ra là dòng nước được vận chuyển đến một thế giới song song với chúng ta. Tuy nhiên đến nay các nhà khoa học vẫn không thể giải thích hiện tượng này.

Phiến đá ma quỷ
Phiến đá này nằm tại Siberia, nó không giống với bất kỳ loại đá nào ở xung quanh. Cá nhà khoa học xác định, nó được hình thành từ năm 1949. Những người dân gọi đây là nơi của ma quỷ vì bất kỳ sinh vật nào khi tiếp xúc với nó đều có nguy cơ tử vong. Nhiều người không tin điều này nên thường xuyên tới thăm, và sau một thời gian họ nhận ra mình đang dần cạn kiệt năng lượng.

Năm 2005, lãnh đạo của một nhóm nhà thám hiểm đã qua đời vì kiệt sức khi tiếp xúc với phiến đá nhiều lần. Người ta cho răng đây là một thiên thạch hoặc nơi dùng chân của một UFO từ lâu nhưng nó chưa được khẳng định. Đến nay các nhà khoa học vẫn hoàn toàn bối rối trước câu hỏi nó hình thành từ đâu và vì sao lại hấp thụ được năng lượng của sinh vật sống?
Con sông sôi bí ẩn
Dòng sông nước nóng tưởng chừng chỉ có trong truyền thuyết nay lại nằm giữa rừng rậm Amazon. Theo người dân địa phương, dòng sông này từng là phương pháp chữa bệnh thiên liêng của người dân Ashaninka. Nước ở đây luôn sôi sùng sục như đang bị đun trên bếp lửa. Hầu hết các sinh vật đều không thể sống sót khi rơi xuống sông.
Thường thì những con sông nước nóng có liên kết với một ngọn núi lửa nào đó. Tuy nhiên, con sông bí ẩn này lại nằn rất xa những ngọt núi lửa. Điều này thực sự rất khó hiểu, nó sẽ còn tốn rất nhiều giấy mực để bàn luận.

Vòng tròn kỳ bí
Những vòng tròn cổ tích này nằm tại sa mạc của Namibia, một quốc gia ở Nam Phi. Bao năm qua, các nhà khoa học đã cố gắng đi tìm lời giải cho hiện tượng thú vị này nhưng vẫn chưa có một đáp án thỏa đáng. Những người dân lưu truyền nhiều truyền thuyết như đó là dấu vết của các nàng tiên vết chân của các vị Thần hay rồng phun lửa tạo ra.

Theo lý giải gần đây nhất, những vòng tròn khó hiểu này là kết quả của việc thực vật tự định vị nguồn nước để khai thác hiệu quả nguồn nước đó. Tuy nhiên họ vẫn cần nghiên cứ sâu hơn để tìm ra lời giải chính xác cho hiện tượng này.

Vùng đất im lặng
Vùng im lặng Mapimi là tên gọi nổi tiếng của vùng hoang mạc gần Mapimi ở bang Durango, Mexico. Mọi chuyện bắt đầu vào tháng 7 năm 1970, tên lửa thử nghiệm Ahtena của Mỹ rơi xuống khu vực sa mạc Mapimi. Ngay lập tức, một nhóm chuyên gia thuộc không quân Mỹ đã tìm đến điểm rơi của tên lửa và bất ngờ khám phá ra những hiện tượng dị thường.











Tại đây, các tín hiệu vô tuyến bị vô hiệu hóa khi lan truyền trong không khí, biến nó thành một “vùng tối”. Dường như có một sức mạnh vô hình làm cho sóng radio, truyền hình, điện thoại và bất kỳ sóng âm thanh nào khác không thể xâm nhập được vào khu vực này.

Sau công bố về “Vùng im lặng”, cá nhà thiên văn học thời bấy giờ phát hiện một lượng lớn thiên thạch đã rơi xuống đúng khu vực này. Tại đây, phải tồn tại một dạng năng lượng xoáy cực lớn, mới có khả năng hút các thiên thạch và các mảnh vỡ không gian.
Theo người dân khu vực, một đêm nọ họ thấy những vật thể bay thẳng đứng bay lượn trong khu vực này và phát ra một loạt các ánh sáng bí ẩn. Sáng hôm sau, tại nơi phát ra ánh sáng, cây cối thường chết cháy hoặc có vết đen trên nền đất. Đến nay đã gần 90 năm sau ngày phát hiện ra “Vùng im lặng” giới khoa học vẫn không có lý giải chính xác cho hiện tượng dị thường này.

Theo CST

20 tháng 8, 2018

VÌ SAO ĐẢNG CỨ IM LẶNG MÃI, KHÔNG DÁM LÊN TIẾNG


Giang Trạch Dân và Lý Bằng hồ hởi chào đón các lãnh đạo ĐCSVN chiều 3/9/1990. 

Nguồn: Internet

Nguyễn Đăng Quang
20-8-2018

Hội nghị Thành Đô (3-4/9/1990) và các thỏa thuận ký kết giữa lãnh đạo 2 Đảng và Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc đến nay đã đúng 38 năm, song vẫn là một bí mật lạnh lùng! Không chỉ nhân dân thế giới mà ngay cả người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc đều bị lãnh đạo của họ dấu tiệt, không hé lộ một lời về những gì họ đã thỏa thuận với nhau tại Hội nghị này cách đây 38 năm về trước!

Cách đây hơn 4 năm, ngày 28/7/2014, 61 đảng viên tâm huyết của ĐCSVN đã ký “Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên ĐCSVN” (gọi tắt là “Thư ngỏ 61”). “Thư ngỏ 61” đưa kiến nghị ĐCSVN cần thực hiện 2 yêu cầu cấp thiết và trọng yếu của đất nước:

Một: “ĐCSVN cần thay đổi cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa.”

Hai: “Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như Thỏa thuận Thành Đô 1990, các thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…”.

Trong 61 đảng viên ký Thư ngỏ này có 1 quân nhân kỳ cựu, 1 “anh bộ đội cụ Hồ” đích thực, đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật (1927-2015), cựu Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang (1979-1984). Tướng Lê Duy Mật là người rất cương trực, tính khí khẳng khái, là một vị tướng can trường trận mạc, trải khắp các chiến trường A,B,C,K qua 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và Tầu xâm lược! Một chi tiết không phải ai cũng biết, 1 tuần trước khi đấy, ngày 20/7/2014, ông đã gửi TBT Nguyễn Phú Trọng, BCT và BBT một Tâm thư với nội dung rất mạnh mẽ và quyết liệt, đó là yêu cầu Đảng phải công khai hóa Thỏa hiệp Thành Đô, đồng thời phải cho Tổng kết cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược.

Đặc biệt, trong Tâm thư trên, tướng Lê Duy Mật đã trích dẫn nguyên văn một Điều khoản trong Thỏa hiệp Thành Đô do Tân Hoa xã và Hoàn Cầu Thời báo của Trung Quốc tiết lộ: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng CNCS, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa 2 nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa 2 Đảng và nhân dân 2 nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp trong quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… Phía Trung Quốc đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam 30 năm (1990-2020) để ĐCSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa.” (hết trích).

Ông nêu nghi vấn việc này có hay không, thực hư ra sao, Đảng phải làm rõ! Và rồi ông yêu cầu BCT và BBT phải công bố các văn bản đã thỏa thuận ký kết giữa 2 Đảng trong Hội nghị Thành Đô cho toàn Đảng, toàn dân biết để chứng minh hư thực. Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đưa tin, thì rõ ràng đấy là bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước, chẳng khác nào là phản bội Tổ quốc! Tiếp ngay sau đấy, ông kiến nghị Trung ương xem xét ra tuyên bố phản bác bản Thỏa hiệp đó, chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và cả những người thực hiện sau này!

Tôi quen biết Tướng Lê Duy Mật trong những dịp bàn thảo và ký “Thư ngỏ 61”. Tất cả 61 đảng viên ký tên đều nhất trí cao về nội dung, câu chữ và đặc biệt là về 2 vấn đề trọng yếu và cấp thiết của đất nước. Riêng tướng Lê Duy Mật và một vài anh muốn “Thư ngỏ 61” đề cập thêm Điều khoản mà Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã tiết lộ, nhưng khi cân nhắc, ý kiến trên không được chấp thuận, đa số cho rằng cần phải rất thận trọng, để theo dõi thêm, chưa khẳng định vội. Sau này mỗi khi gặp nhau, tướng Mật nói vui, bảo tôi là “Ồ đây rồi, ông bạn hăng hái nhất chặn tớ đây rồi!”.

Khi gửi Tâm thư và ký vào “Thư ngỏ 61”, tướng Mật ở tuổi 87, sức khỏe đã yếu. Không lâu sau ông phải vào Quân y viện 108 điều trị bệnh hiểm nghèo. Mỗi lần vào thăm ông, tôi nhận thấy, dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng ông luôn đau đáu, trăn trở với hiện tình đất nước, nhất là về mối nghi ngờ của ông đối với Hội nghị Thành Đô. Ông hỏi tôi lý do vì sao không đồng tình với ông về Điều khoản mà ông gọi là “bán nước”, tôi đáp: “Thưa anh, tất cả bọn họ đều u mê về ý thức hệ, họ sẵn sàng đặt quyền lợi của họ lên trên lợi ích quốc gia. Song có lẽ họ chưa ngu muội đến mức có thể bán rẻ Tổ quốc!”. Tôi phân tích thêm: “Vả lại, kẻ thù của ta, chắc anh không xa lạ và còn biết rõ hơn em, chúng là bậc thày trong các quỷ kế gây chia rẽ, ly dán và phân hóa nội bộ ta! Do vậy chúng ta cần hết sức tỉnh táo, thận trọng và cảnh giác để khỏi xa vào mưu đồ xấu xa, hiểm độc của chúng!”. Ông im lặng, tay vỗ nhẹ vào vai tôi, không rõ ông đồng tình hay phản đối? Thế rồi hơn một tháng sau, ngày 20/10/2015, tôi lặng người khi nghe tin ông mất, mang sang thế giới bên kia mối nghi ngờ lớn nhất mà ông chưa được Đảng giải đáp! 

Nỗi u buồn và vẻ mặt trầm tư của tướng Lê Duy Mật trước ngày ra đi. Ảnh: Phạm Viết Đào

“Tâm thư” của tướng Mật và “Thư ngỏ 61” của các đảng viên gửi ĐCSVN đã hơn 4 năm rồi mà chẳng có ai trả lời họ cả. Tính đến nay, ngoài tướng Lê Duy Mật, có 4 người khác ký “Thư ngỏ 61” đã ra đi mãi mãi cùng ông! Không rõ Đảng muốn đợi những đảng viên ký “Thư ngỏ 61” ra đi bớt rồi mới trả lời hay là Đảng đợi 2 năm nữa, đúng ngày 4/9/2020, mới chính thức công bố cho toàn dân biết? Những điều họ kiến nghị, hoặc những vấn đề họ yêu cầu đều nằm trong quy định những quyền đảng viên được biết và bổn phận Đảng phải làm (Điều 3 Điều lệ Đảng và Điều 4 Hiến pháp). Hơn nữa, câu hỏi mà tướng Mật yêu cầu Đảng làm rõ đâu có phải là của “thế lực thù địch” bịa đặt ra, mà đây là sự tiết lộ của “các đồng chí 4 tốt” của Đảng! Sự việc ở đây thật đơn giản: Nếu CÓ thì bảo là CÓ. Nếu KHÔNG thì bảo là KHÔNG, uẩn khúc ghê gớm gì đâu mà Đảng không dám trả lời?

Trong bài viết ngày 3/8/2014 với nhan đề: “Phải công bố các thỏa thuận ở Thành Đô cho nhân dân biết”, người viết bài này kiến nghị: “Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô, có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định và thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận… làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ VN – TQ, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô”.

Nhà thơ thế sự nổi tiếng Thái Bá Tân mới đây post lên FB của mình bài thơ Đề nghị Đảng giải thích”, nói về việc tướng Lê Duy Mật gửi Tâm thư chất vẩn Đảng mà không được trả lời. Xin mạn phép trích dẫn 4 khổ trong bài thơ nói trên để chia xẻ cùng bạn đọc:

“Thiếu tướng Lê Duy Mật,
Không phải người hồ đồ,
Vừa tiết lộ một ý
Trong Thỏa hiệp Thành Đô.

“Rằng vì lợi ích đảng,
Đảng ta đã tự mình
Xin làm Khu tự trị
Của chính quyền Bắc Kinh.

“Không thể nào tin nổi.
Nhưng nếu đúng, thì đây
Là tội ác cực lớn,
Loại ngựa xéo, voi dày!

“Tôi là con dân Việt,
Có quyền biết thật hư.
Yêu cầu Đảng giải thích,
Không một phút chần chừ !

Vâng, thưa nhà thơ Thái Bá Tân, nói rõ thật hư, công khai, minh bạch, không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của Đảng cầm quyền đối với 4 triệu đảng viên của mình và 90 triệu con dân đất Việt! Nếu cứ lặng thinh, từ chối trách nhiệm thì Đảng không xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như đã ghi trong Điều 4 Hiến pháp 2013!

____

Ghi chú của người viết:

Bài viết này chắc chắn sẽ không có nếu Đảng không giữ im lặng trong suốt 4 năm qua. Lẽ ra, theo nghi thức thông thường, khi nhận được “Tâm thư” của tướng Lê Duy Mật và “Thư ngỏ” của 61 đảng viên tâm huyết, Đảng nên có hồi âm hoặc đối thoại dưới hình thức nào đó. Nhưng rất tiếc những điều này không diễn ra, mà là những việc làm ngược lại!

Nếu vì lý do gì đó, Đảng không thể công khai cho nhân dân biết về mối quan hệ giữa 2 nước VN-TQ, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô, thì ít ra, Đảng cũng nên lên tiếng phủ nhận và bác bỏ nguồn tin (Điều khoản) do Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo tiết lộ, đồng thời lệnh cho 700 báo đài ở Trung ương và địa phương phản bác, lên án, tố cáo nguồn tin xấu độc trên là bịa đặt! Và, cũng khó hiểu, tại sao Đảng không chỉ thị cho Ban Đối ngoại hoặc BNG hay TTXVN lên tiếng yêu cầu phía Trung Quốc có biện pháp chấm dứt, không để lặp lại những trường hợp tương tự!

Vậy, vì sao Đảng cứ im lặng mãi, không lên tiếng, và cũng chẳng giải thích để yên lòng dân, mà cứ để ai muốn hiểu sao thì hiểu, muốn nghĩ sao thì nghĩ? Đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghi ngờ ngày một lớn trong dư luận người dân, kể cả trong nội bộ Đảng! Lỗi này không phải của ai mà chính là của Lãnh đạo và các cơ quan tham mưu của Đảng!

Còn Đảng, còn… nhiều!
Để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của mình, Đảng CSVN đặt định nhiều tiêu chí nhằm chỉ chọn – sắp đặt – bổ nhiệm những cá nhân là thành viên, đã được giáo dục cẩn thận về “lý luận chính trị”, sẵn sàng phục tùng vô điều kiện. Đó là lý do dẫu quy hoạch, quy trình bộc lộ đủ thứ khiếm khuyết nhưng Đảng vẫn duy trì, không gạt bỏ. Tuy tình thế, nhân tâm đẩy Đảng tới chỗ phải nhóm “lò” nhưng thực tế cho thấy, ngay cả “củi” cũng có… quy hoạch. Đó không phải may rủi, ngẫu nhiên mà được tính toán cẩn thận, thành ra ngày mai, ông Nguyễn Đức Hoàng bị lột sách mọi thứ, ngày mốt, bà nào đó bị bóc trần thì cứ vững tin là còn Đảng thì còn… nhiều những câu chuyện kỳ quái về lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm.
Image result for Nguyễn Đức Hoàng, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ
Chủ tịch tỉnh Bình Định vừa cho biết, ông ta đang chờ kết quả xử lý của Tỉnh ủy Bình Định để quyết định xử lý về mặt chính quyền đối với ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ của tỉnh này (1). Chuyện bổ nhiệm ông Hoàng, sinh năm 1986, làm Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định cách nay bốn năm giờ mới trở thành lùm xùm.

Năm 2010, lúc 24 tuổi, ông Hoàng được Công ty Chứng khoán Dầu khí tuyển vào làm việc tại Chi nhánh TP.HCM. Về nguyên tắc, đảng viên CSVN chỉ có thể giới thiệu người khác vào Đảng khi đã làm việc chung, sinh hoạt chung với đương sự tối thiểu một năm, tuy nhiên Bí thư Chi bộ phía Nam của Công ty Chứng khoán Dầu khí lại làm thủ tục giới thiệu ông Hoàng vào Đảng lúc ông Hoàng mới vào công ty làm việc được… 15 ngày. Về nguyên tắc, phải có tối thiểu ba đảng viên chính thức thì mới thành lập chi bộ, thế nhưng chỉ có một đảng viên chính thức, Chi nhánh TP.HCM của Công ty Chứng khoán Dầu khí vẫn được lập chi bộ để hoàn thiện các thủ tục cần thiết cho Đảng ủy Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam kết nạp ông Hoàng.

Ông Hoàng trở thành đảng viên dự bị vào đầu tháng 9 năm 2011 thì cuối… tháng 9 năm 2011, Viện Kiểm sát Bình Định loan báo tiếp nhận ông Hoàng – có văn bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh – vào làm việc tại Phòng Tổ chức và vài tháng sau bổ nhiệm ông Hoàng làm Phó phòng.

Bởi Cao cấp Lý luận chính trị là điều kiện tiên quyết để được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo cấp tỉnh nên đảng CSVN đặt định rất nhiều yêu cầu về việc lựa chọn – cử đảng viên đi học chương trình này. Chẳng hiểu tại sao ông Hoàng lại được Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bình Định chọn - cử đi học Cao cấp Lý luận chính trị trong khi còn là đảng viên dự bị.

Ông Hoàng trở thành học viên của lớp Cao cấp Lý luận chính trị tại Học viện Hành chính – Chính trị Khu vực 3 hồi tháng 11 năm 2012 thì tháng sau, Viện Kiểm sát Bình Định cho phép ông Hoàng chuyển ngành sang Sở Ngoại vụ Bình Định. Do ông Hoàng từng là Phó Phòng Tổ chức của Viện Kiểm sát Bình Định nên khi tiếp nhận, Sở Ngoại vụ Bình Định giao cho ông Hoàng làm Phó Phòng Hợp tác quốc tế. 15 tháng sau, ông Hoàng được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Hợp tác Quốc tế và tháng sau nữa (tháng 5 năm 2014), ông Hoàng được “phân công” làm Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định…

Thời gian từ lúc ông Hoàng đặt chân vào Đảng cho tới khi trở thành Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Bình Định tính ra chỉ có hai năm bảy tháng. Trong hai năm bảy tháng ấy, ông Hoàng đi qua ba nơi, nơi nào cũng chỉ làm việc theo kiểu… tạm trú, song hàng chục cơ quan, tổ chức Đảng thuộc nhiều ngành, nhiều cấp - từ doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Công Thương (Công ty Chứng khoán Dầu khí, Chi bộ Công ty Chứng khoán Dầu khí, Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam, Đảng ủy Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt Nam), tới cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Bình Định (Viện Kiểm sát Bình Định, Đảng bộ Viện Kiểm sát Bình Định), chính quyền tỉnh Bình Định (Sở Ngoại vụ Bình Định, Đảng bộ Sở Ngoại vụ Bình Định, Sở Nội vụ Bình Định, Đảng bộ Sở Nội vụ Bình Định, Ban Cán sự UBND tỉnh), Tỉnh ủy Bình Định (Ban Tổ chức Tỉnh ủy),… - đều không thấy đó là bất thường. Kể cả khi hồ sơ của đảng viên Nguyễn Đức Hoàng không có Giấy Chứng nhận đã học lớp dành cho đảng viên mới nên không thể có giấy công nhận đảng viên chính thức.

Mãi đến khi cha ông Hoàng là ông Nguyễn Đức Trí, Tỉnh ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh Bình Định đã nghỉ hưu, cả hệ thống mới chuyển từ trạng thái đui, què, câm, điếc, đột nhiên nghe thấy, nhìn ra, chợt nghĩ, chợt nghi, động chân, động tay để kiểm tra, rồi chính thức lên tiếng, thừa nhận cả hệ thống đã “sai sót nghiêm trọng” về đảng tịch của ông Hoàng...

***

Ông Hoàng không phải là trường hợp đầu tiên lâm nạn vì cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền đột nhiên chuyển từ trạng trái tứ chi, ngũ quan đột nhiên tê liệt rất lâu rồi trở thành… bình thường! Trước ông Hoàng đã có ông Lê Phước Hoài Bảo (Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Quảng Nam), bà Trần Vũ Quỳnh Anh (Trưởng phòng Quản lý Nhà và Thị trường bất động sản, đã được qui hoạch làm Phó Giám đốc Sở Xây dựng Thanh Hóa), ông Vũ Minh Hoàng (Vụ phó Vụ Kinh tế của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN), trước nữa là Trịnh Xuân Thanh (Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, đã được qui hoạch làm Thứ trưởng Công Thương),…

Cho đến giờ, cả hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền tại Việt Nam vẫn thất thường như thế trong việc lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm viên chức lãnh đạo. Dân chúng có bất bình, lo âu vì tiến trình vừa kể tước đoạt cơ hội của những thường dân tử tế nhưng thiếu thân thế, không tiền, kém nhan sắc,… thì quy hoạch vẫn là nguyên tắc, qui trình luôn luôn đúng cho đến khi đột nhiên cần xác định là sai đối với một số cá nhân nào đó.

Chẳng hạn giữa năm ngoái, Bộ Nội vụ của chính phủ Việt Nam xác định Hà Giang là 1/11 địa phương “nóng” bởi hiện tượng “bổ nhiệm người nhà” và tuyên bố “đã khắc phục những sai sót, đồng thời đã xem xét, xử lý trách nhiệm những tập thể, cá nhân có liên quan”, song đến giờ, ông Triệu Tài Vinh, Bí thư tỉnh Hà Giang (người có vợ là Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp Phát triển nông thôn. Ba em trai chia nhau các vị trí Bí thư huyện, Phó Chủ tịch huyện, cán bộ lãnh đạo Sở Bưu chính - Viễn thông Hà Giang. Em gái đang chờ trở thành lãnh đạo Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Hà Giang. Em rể chuẩn bị rời vị trí Phó Công an thành phố Hà Giang để bước lên những bậc cao hơn) vẫn yên vị (3)!

Tương tự, ông Nguyễn Nhân Chiến vẫn vững như bàn thạch ở vị trí Bí thư tỉnh Bắc Ninh cho dù tố cáo gia tộc ông Chiến (bao gồm: vợ, hai con trai, hai con dâu, hai em trai, hai em dâu, em gái, em rể, cháu ruột, cháu dâu, anh chị em con chú bác ruột,… tổng cộng 24 người, chia nhau ngồi rải rác ở tất cả các ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh) như bươm bướm trên mạng xã hội (4).

Rõ ràng nỗ lực “chỉnh đốn Đảng” đã biến một số cá nhân, kể cả Ủy viên Bộ Chính trị như ông Đinh La Thăng thành “củi” nhưng khó có thể tin nỗ lực này sẽ biến “tham quan, ô lại” thành “củi” hết. Tại sao ông Thăng thành củi mà ông Phạm Sỹ Quý thì không? Tại sao ông Quý từng khuấy động dư luận vì bị bắt quả tang đánh bạc nhưng không những không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn được đề bạt làm Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Yên Bái? Tại sao ông Quý vi phạm hàng loạt qui định về quản lý - sử dụng đất, kê khai tài sản thiếu trung thực nhưng vẫn chấp nhận khối tài sản vài trăm tỉ ấy là do… bện chổi mà có, không những không truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn lưu dụng, điều động sang làm Phó Văn phòng Hội đồng nhân dân Yên Bái với các khoản đãi ngộ ngang với Phó Giám đốc một Sở (5)?

Để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của mình, Đảng CSVN đặt định nhiều tiêu chí nhằm chỉ chọn – sắp đặt – bổ nhiệm những cá nhân là thành viên, đã được giáo dục cẩn thận về “lý luận chính trị”, sẵn sàng phục tùng vô điều kiện. Đó là lý do dẫu quy hoạch, quy trình bộc lộ đủ thứ khiếm khuyết nhưng Đảng vẫn duy trì, không gạt bỏ. Tuy tình thế, nhân tâm đẩy Đảng tới chỗ phải nhóm “lò” nhưng thực tế cho thấy, ngay cả “củi” cũng có… quy hoạch. Đó không phải may rủi, ngẫu nhiên mà được tính toán cẩn thận, thành ra ngày mai, ông Nguyễn Đức Hoàng bị lột sách mọi thứ, ngày mốt, bà nào đó bị bóc trần thì cứ vững tin là còn Đảng thì còn… nhiều những câu chuyện kỳ quái về lựa chọn – sắp đặt – bổ nhiệm. Nhiều ông, bà khác là con ông này, cháu bà kia sẽ được chọn để lấp những chỗ trống cũng theo qui hoạch, đúng qui trình cho tới khi Đảng thấy cần thêm “củi” khôi phục lại “tin, yêu”.

Trân Văn
Blog VOA

Chú thích

(1) http://plo.vn/thoi-su/cac-ben-noi-ve-vu-pho-giam-doc-so-sieu-toc-787640.html

(2) http://baochinhphu.vn/Nhan-su/Xu-ly-nghiem-cac-vu-bo-nhiem-nguoi-nha-thua-lanh-dao-cap-pho/309792.vgp

(3) https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/bi-thu-ha-giang-trieu-tai-vinh-noi-ve-viec-nguoi-than-lam-lanh-dao-2016091718174122.htm

(4) https://www.facebook.com/lecam.tran.3/posts/1067344836763177

(5) https://nld.com.vn/tin-doc-quyen/chu-tich-yen-bai-noi-ve-viec-dieu-ong-pham-sy-quy-sang-hdnd-20171030180602957.htm

15 tháng 8, 2018

MỘT MẢNH ĐỜI- MỘT GIẤC MƠ
FB Loc Duong 11 Tháng 7 - Nghe cái tên bọn trẻ gọi "Dì Hai khoai lang" tưởng là ghê gớm lắm, nhưng thật ra Dì mới chỉ đi bán khoai khoảng 5 năm nay thôi. Và việc phải chọn gánh khoai làm kế mưu sinh hoàn toàn là do "cái bọn chó đẻ nhà nước này xui khiến", theo như lời Dì nói.

Dì sinh ra trong một gia đình cũng không đến nổi tệ. Mẹ bán khoai lang, cha làm phụ hồ. Là con một trong nhà nên Dì được đi học và Dì học rất giỏi. Các loại giấy khen nhà trường và tổ dân phố cấp dư sức để mẹ Dì tha hồ gói khoai lang. Rồi Dì tốt nghiệp đại học. Đó là năm hạnh phúc nhất trong đời Dì. Cuộc đời như thể màu hồng. Cha Dì đi làm ở đâu cũng đem Dì ra khoe, còn mẹ Dì thì bất cứ ai mua khoai đều được nghe nhóc một lổ tai về sự học giỏi giang của Dì.




Nhưng niềm vui không kéo dài được lâu khi thực tế ập đến. Dì không xin được việc làm. Đi tới đâu người ta cũng nháy mắt đòi thủ tục "đầu tiên", toàn là chục triệu, có nơi còn đòi tới trăm triệu. Đào đâu ra "bác hồ" bây giờ? Thế là Dì phải ở nhà loanh quanh phụ mẹ bán khoai. Cha Dì buồn quay quắt, suốt ngày lôi rượu ra uống và chửi chính phủ từ trên xuống dưới. Mấy người tổ dân phố sợ lắm, dạo trước còn thỉnh thoảng đến thu tiền hoặc nhắc nhở treo cờ, bây giờ cạch không dám đến, thế nào cũng có xô xát. Cả mấy chàng trai theo đuổi Dì cũng không ai dám léo hánh tới vì sợ dính líu tới "phản động".

Dì chỉ lấy được chồng khi cha Dì ít năm sau chết vì uất ức. Chết mắt cứ mở trừng trừng, bao nhiêu người làm đủ mọi cách cũng không làm cho ông nhắm mắt được, cuối cùng phải phủ miếng khăn đỏ lên mặt rồi đem đi thiêu. Dì lấy chồng không phải vì yêu mà vì cảm kích người đàn ông xấu xí, từng có một đời vợ, đã bỏ tiền ra lo cho đám ma cha Dì được phần tươm tất.

Chồng Dì làm tài xế xe hàng. Hai vợ chồng có được 3 đứa con. Cuộc sống hạnh phúc, ít khi nào gây lộn. Dì cảm thấy mãn nguyện. Nhưng cái số Dì là số ăn mày, mới sướng được một chút thì tai họa ập tới liền liền: Mọi lần chạy xe, chồng Dì phải hối lộ, đút tiền cho cảnh sát giao thông là chuyện thường, tự dưng bữa đó chồng Dì trở chứng, không lòi tiền ra, lại còn cự cãi quyết liệt. Thế là bị bắt về tội chống người thi hành công vụ. Cò chạy án tới nhà rần rần, "tội này nhẹ, 50 triệu tại ngoại, 100 triệu bảo đảm miễn tố luôn". Dì đâu có tiền, đi mượn cũng không ai cho. Người ta đưa chồng Dì vào trại tạm giam, ở chưa được ba tháng thì xích mích sao đó, tụi đại bàng, đầu gấu đánh chồng Dì chết trên đường đưa tới bệnh xá.

Còn lại một mình Dì với 3 con và mẹ già phải nuôi, Dì còn không mau nối nghiệp mẹ gánh gánh khoai ra đường kiếm lấy cái ăn? Dẫu rằng Dì chẳng bao giờ được ăn no. Cơm thì nhường cho 3 đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn. Khoai cũng không dám ăn vì sợ cụt vốn. Dì chỉ thấy mình được no khi ăn trong những giấc mơ thôi. Giống như một lời thơ của Trần Mạnh Hảo: " củ khoai không vùi trong bếp, củ khoai vùi trong giấc ta mơ..." Cho nên Dì rất thích ngủ. Cho nên Dì rất thèm ngủ.


Như mới hôm qua thôi, trời nắng nóng, lại đá banh World Cup, không ai mua khoai hết. Dì bèn vào ngồi ngủ ngon lành dưới một mái hiên. Và giấc mơ đẹp lại đến với Dì.

Dì mơ thấy mình đi lạc vào một cung điện, trên sân khấu cao ngất có 3 người đứng uống rượu. Một ông cao lớn thấy gánh khoai của Dì thì thích lắm, ra hiệu sẽ mua mão hết số khoai và đậu phộng ế của Dì. Nhưng cái ông đầu bạc nói " khoai Việt Nam không ngon bằng khoai trung Quốc". còn ông đầu hói mà lại niễng niễng thì nói "đậu phộng Việt Nam cũng không ngon bằng đậu phộng Trung Quốc, xin ngài đừng mua". Rồi ông đầu bạc kêu gia nhân lôi Dì ra ngoài. Ra tới cửa, người gia nhân lén đưa cho Dì một nồi cơm to, Dì ăn loáng cái hết, mà vẫn còn thòm thèm. Dì đang định vét sạch đáy nồi thì có người lay lay vai Dì.



Mở mắt ra, Dì thấy một người công an đang bóp vai Dì đau điếng: " Đi chỗ khác, sao lại ngủ ở đây? Bộ muốn ở tù hả?". Sợ quá, Dì quảy gánh khoai và đậu phộng ế đi một nước. Dì mang phận dân đen nên không biết rằng chỗ Dì ngủ là gần cổng của một quan lớn. Ở trong tòa nhà đó, ngồi trên những bộ bàn ghế tiền tỷ là những ông quan lãnh đạo. Họ đang nói chuyện về những dự án lớn lao của đất nước, họ đang nói toàn những chuyện tầm vĩ mô nhưng tuyệt nhiên không có chuyện nào liên quan đến việc cứu rổi những mảnh đời bất hạnh như mảnh đời của Dì Hai Khoai Lang mà ngày xưa đã từng tốt nghiệp đại học, đã từng mơ sánh vai cùng bạn bè thế giới.../.

Loc Duong

BLOG ttđ

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, mọi người đang đứng

11 tháng 8, 2018

‘Cân nhắc lại’ luật Đặc khu: Sợ dân hay sợ nội bộ đảng?


Hoàn toàn không như những gì mà nhóm lợi ích của luật Đặc khu hình dung quy trình thông qua sẽ thông thống suôn sẻ, bộ luật ác nghiệt này không chỉ phải chịu lời oán thán và lên án từ Bắc chí Nam của nhiều triệu người dân Việt, mà còn có thể trở thành một trong những tâm điểm của cuộc chiến ác liệt giữa các thế lực trong nội bộ đảng vào nửa cuối năm 2018 và kéo sang cả năm 2019.

Cảnh sát và người biểu tình đối mặt nhau trên quốc lộ 1 ở Bình Thuận, 11/6/2018.
Bất ngờ ‘cân nhắc lại’

Vào những ngày đầu tháng Tám năm 2018, nỗi lo sợ và phẫn nộ của người dân Việt về ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà nhân dân đặt cho dự luật Đặc khu) đã một lần nữa tạm dịu xuống khi một bản thông cáo mới nhất về chương trình kỳ họp thứ 26 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội - được phát đi từ Văn phòng Quốc hội - đã bất ngờ biến mất nội dung ‘cho ý kiến về dự án luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (đặc khu)’ như chương trình được lên trước đó.

Dự án luật này “đang được cân nhắc lại” - Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc viện dẫn lý do.

Lần đầu tiên nỗi lo sợ của dân tạm lắng là vào tháng Sáu năm 2018 khi ‘đảng và nhà nước ta’ buộc phải lùi thông qua luật Đặc khu sau cuộc biểu tình khổng lồ lên đến hàng trăm ngàn người ở Sài Gòn và lan ra hơn 50% tỉnh thành trong cả nước, biến thành một sự kiện phản ứng chính trị chưa từng có đối với chế độ cầm quyền kể từ thời đểm năm 1975.

Thân phận của dự luật Đặc khu vào năm 2018 đang ngày càng nhái lại số phận Điều 60 luật Bảo hiểm xã hội ba năm trước.

Bài học Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội

Vào cuối tháng Ba năm 2015, cuộc đình công của gần 90.000 công nhân tại công ty Pou Yuen ở Sài Gòn và công nhân ở một số tỉnh thành khác phản đối Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội quá bất công khi không cho nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần đã mang tính quy mô chưa từng thấy, cũng là lần đầu tiên không phải công nhân phản đối doanh nghiệp mà chính là phản ứng quyết liệt mang tính đối đầu với một chính sách nhà nước.

Tình thế khẩn cấp khi đó là nếu Luật Bảo Hiểm Xã Hội không được sớm sửa đổi và công nhân không thể nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, trong đó đương nhiên phải bỏ quy định phi lý về việc người đóng bảo hiểm xã hội dưới 20 năm mới được nhận trợ cấp một lần, rất nhiều cuộc đình công và biểu tình của lớp người dưới đáy xã hội này sẽ tái bùng phát và còn ghê gớm hơn nhiều ở các địa phương Việt Nam.

Với tinh thần “nước đến chân mới nhảy” bất di bất dịch trong hệ thống chính trị Việt Nam, chỉ đến lúc giới công nhân đồng loạt phản ứng dữ dội thì 500 đại biểu quốc hội và 200 ủy viên trung ương mới giật mình lo sợ “tình hình sẽ diễn biến phức tạp.”

Sau đó, và như một “phép màu, phía chính phủ phát ra kiến nghị Quốc hội xem xét, điều chỉnh Điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội theo hướng trước mắt cho phép người lao động khi chưa đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội để hưởng lương hưu, sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội thì có quyền lựa chọn hưởng bảo hiểm xã hội một lần, hoặc tiếp tục bảo lưu thời gian đóng như quy định của Luật Bảo Hiểm Xã Hội Luật năm 2006.

Phong trào đình công không khoan nhượng của hàng trăm ngàn công nhân đã thắng lợi!

3 năm sau, 2018. Tình trạng còn trầm trọng hơn nhiều. Không chỉ là một điều luật bất cập mà còn mang nguy cơ mất nước trong những nội dung ‘cho thuê như bán’ của dự luật Đặc khu và khiến ‘Mật ước Thành Đô’ trở nên sờ sờ trườc mắt cho tương lai gần Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc, dù cho tới nay chẳng người dân nào được nhìn thấy bản mặt của mật ước này.

Chính - Ngân và Phúc?

Bất chấp phản ứng dữ dội của dư luận xã hội và hàng triệu cử tri về ý đồ nhượng địa trong dự luật Đặc khu và cảnh báo đặc khu có thể bị Trung Quốc lợi dụng để di dân, vào giữa năm 2018 Quốc hội Việt Nam vẫn một lần nữa chứng tỏ cái năng lực nổi bật của nó: không chỉ hùa theo các nhóm lợi ích để tăng vọt thuế và ‘bóc lột dân ta đến tận xương tủy’, ‘cơ quan dân cử’ này còn tiến xa hơn một bước bằng một kỳ họp châu đầu vào ‘luật bán nước’, trong khi hoàn toàn không thèm ngó ngàng gì đến cảnh nạn hàng ngàn người dân ở ‘Khu đô thị mới Thủ Thiêm’ đã bị chính quyền TP.HCM biến thành dân oan, phải tha phương cầu thực và cả những cái chết tự treo cổ do quá phẫn uất khi bị cưỡng chế đẩy đuổi khỏi mảnh đất sinh nhai duy nhất.

Trừ một số rất hiếm hoi dân biểu phát tiếng nói phản biện, tuyệt đại đa số còn lại trong số gần 500 đại biểu quốc hội vẫn tiếp tục thói ‘ngủ ngày’ trong cơn mộng du vong bản và vong dân.

Mạng xã hội đã biến thành một chiến trường gầm vang với vô số chỉ trích, kể cả chửi rủa nhắm vào Bộ Chính trị đảng, đặc biệt xoáy vào những nhân vật có liên quan trực tiếp đến dự luật này là Phạm Minh Chính - Ủy viên bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức trung ương và là bí thư tỉnh Quảng Ninh vào thời lập dự án cho đặc khu Vân Đồn tại tỉnh này; Nguyễn Thị Kim Ngân - Chủ tịch quốc hội và là nhân vật đã ủng hộ tuyệt đối ‘Luật bán nước’, thậm chí còn áp dụng tiểu xảo chính trị với phát ngôn đầy tính áp đặt ‘Bộ Chính trị đã kết luận rồi…’ như một cách nói để không cho ai nói khác với đảng; và cả Nguyễn Phú Trọng - một tổng bí thư mà sau chuỗi hô hào ‘lò nóng lên rồi!’ thì lại gần như mất dạng trước con sóng phẫn nộ của nhân dân đòi hoãn hay hủy bỏ dự luật Đặc khu.

Cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu năm 2018 chống luật Đặc khu đã chứng tỏ cái sức mạnh biển trời của nó trước con thuyền mục nát của chính quyền. Cuộc biểu tình khổng lồ này cũng là đầu tiên xác quyết không chỉ phản đối một chủ trương hay một chính sách của chính quyền, mà còn thể hiện sự phản kháng trực tiếp đối với chính quyền.

Sang tháng Bảy năm 2018, lồng trong bầu không khi căng thẳng và tàn nhẫn khi công an lao vào ‘bắt nguội’ và đưa ra xử án nhiều người dân biểu tình, Thủ tướng Phúc bắt đầu lấp ló ‘sẽ xin ý kiến nhân dân về luật Đặc khu’.

Chính phủ đã quan tâm đến ‘ý kiến nhân dân’ từ khi nào thế?

Còn nhân dân thì làm sao quên được một sự thật quá sức trần trụi: một trong những quyền dân đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1992 là trưng cầu dân ý vẫn chưa hề được luật hóa cho đến tận giờ đây.

‘Luật bán nước’ là một minh chứng hùng hồn về quan điểm quên dân và gạt dân. Dù đã được âm thầm chuẩn bị trong nội bộ đảng cầm quyền từ vài năm trước, nhưng chỉ đến sát kỳ họp quốc hội tháng 5 - 6 năm 2018, ‘luật bán nước’ mới được công bố một cách chính thức như đặt sự đã rồi. Còn trước đó, đã không có bất kỳ một động tác nào, dù là nhỏ nhất hoặc chỉ mang tính mị dân, nhắm đến việc thông báo cho dân hoặc lấy ý kiến của dân về dự luật đặc khu. Và càng tuyệt đối không có bất kỳ ý tưởng nào của chính quyền về ‘trưng cần dân ý’ đối với dự luật gắn liền với cơ thể chủ quyền lãnh thổ này.

Sợ dân và sợ lẫn nhau

Không còn nghi ngờ gì nữa, hiệu ứng của cuộc tổng biểu tình Mười tháng Sáu và phong trào văn thư kiến nghị, phản bác trước đó của giới trí thức đã buộc đảng cầm quyền, chính phủ và một quốc hội ‘đầu sai của đảng’ phải lùi thông qua dự luật Đặc khu để ‘nghiên cứu tiếp’, để cho đến nay phải tìm cách hoãn bàn về ‘luật bán nước’ vì lo sợ sẽ bùng nổ một phong trào biểu tình khổng lồ mới của dân chúng, dù trước đó đã muốn đặt dự luật này vào sự đã rồi mà không thèm quan tâm đến quan điểm, chính kiến và ý kiến của các tầng lớp nhân dân.

Không chỉ sợ dân chúng biểu tình, giới quan chức cao cấp và đặc biệt là những quan chức đã hứa hẹn với đủ điều với Bắc Kinh về một mô hình đặc khu ‘dành cho người Trung Quốc’, những quan chức đã âm thầm gom đất trong các đặc khu để chờ ngày đặc khu được thông qua chính thức thì sẽ ‘xả hàng’ với giá cao ngất trời…, còn sợ hãi lẫn nhau.

Hiện tượng Ủy ban Thường vụ quốc hội của người đàn bà nổi tiếng diêm dúa Nguyễn Thị Kim Ngân bất thần thông báo hoãn bàn về ‘Luật bán nước’ đã hé ra một sự thật: trong đảng và trong khối cơ quan chính phủ cùng các tỉnh thành, không phải quan chức nào cũng ‘đồng cam cộng khổ’ về lợi ích đất đai và xu hướng ‘Thiên triều hóa’ với dự luật Đặc khu, không phải quan chức cũng sẵn sàng cúi gật một cách vô não và vô đạo như một nghị trường ‘cương lĩnh đảng quan trọng hơn hiến pháp’.

Từ trước khi dự luật Đặc khu được đưa ra trung ương nghị bàn, một số cựu thần và một bộ phận trong giới cách mạng lão thành đã có những phản ứng nhất định. Nhưng sau khi nổ ra cuộc tổng biểu tình ngày Mười tháng Sáu của dân chúng và khi người ta chứng kiến một Nguyễn Phú Trọng cũng nói nước đôi chứ không thể ủng hộ tuyệt đối ‘luật bán nước’ theo cách mà những Phạm Minh Chính, Nguyễn Thị Kim Ngân có lẽ rất mong muốn, đã có những cựu thần công khai lên tiếng phản đối dự luật Đặc khu trước ông Trọng và trong các cơ quan đảng. Hẳn sự phản ứng này, được tích tụ từ trước tháng Sáu và phát ra mạnh hơn sau tháng Sáu, đã tạo nên một sức ép đủ lớn khiến bộ phận quan thức yêu mến ‘luật bán nước’ phải chùn tay mà chưa dám đặt dự luật này lên bàn nghị luận như một hành vi khiêu khích toàn dân.

Không chỉ có thế, những động thái lạ lùng vừa công khai vừa âm thầm xảy ra xung quanh luật Đặc khu từ tháng Năm năm 2018 đến nay càng cho thấy nếu dự luật này được nhóm lợi ích thúc đẩy theo cách cố đấm ăn xôi, nó có thể trở thành một trong những tâm điểm của cuộc chiến ác liệt giữa các thế lực trong nội bộ đảng vào nửa cuối năm 2018 và kéo sang cả năm 2019, dẫn đến những hậu quả tung tóe mà không một quan chức dây phần nào muốn nhìn thấy.

Phạm Chí Dũng 

10 tháng 8, 2018

Ông Phan Diễn

Sự kiêu ngạo cộng sản

Mở bài: Ai không đọc bài này, bị thiệt thòi ráng chịu (hihi, mình cũng bị nhiễm sự kiêu ngạo của các bác ấy). Rảnh rỗi hãy đọc. Đang bận bịu thì đừng.


Những chữ trên không phải do tôi nghĩ ra, cũng không phải do thế lực thù địch nào vu cáo, mà là chữ dùng của ông Phan Diễn. Ông Diễn người Quảng Nam, con cụ Phan Thanh – một nhân vật nổi tiếng thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Ông Diễn từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đóng đến chức Thường trực Ban Bí thư (tức nhân vật số 2 của đảng, chỉ sau Tổng bí thư). Họ hàng ông Diễn còn có những người là yếu nhân của chế độ, chẳng hạn ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), em ông Phan Thanh, ông Bôi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền sau cách mạng tháng 8, Chánh văn phòng chính phủ, người được cụ Hồ hết sức tin cậy; mẹ ông là bà Lê Thị Xuyến từng là Phó chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam… Kể qua như vậy để nói rằng phát ngôn của ông Diễn không phải dạng ai đó nói vu vơ, nói lấy được, mà là rất có trọng lượng. Đó là nhận xét của người trong cuộc, "ở trong chăn..." chứ không phải bị kích động, xúi giục, nhẹ dạ gì (làm sao mà kích động nổi những người như ông Diễn, nay ông vẫn còn sống và mạnh khỏe, sáng suốt, ai không tin thì cứ hỏi ông).

Trong bài trả lời báo điện tử VnExpress đăng ngày 17.12.2016, ông Diễn chắc thấm nhuần tư tưởng của Lênin, người thầy của cách mạng vô sản thế giới, đưa ra nhận định “Tôi cho rằng, chúng ta ít nhiều đã có sự chủ quan, có thể gọi là “kiêu ngạo cộng sản” sau chiến thắng 1975. Việc này có thể hiểu là xuất phát từ những điều tự hào về lý tưởng và thành công của mình trên con đường cách mạng, nhưng rồi đi quá đà đến xu hướng chủ quan...” (trích nguyên xi câu). Cũng trong bài trả lời này, ông cựu nhân vật số 2 còn cho biết chi tiết rất đáng quan tâm đối với những người chép sử, ông bảo “Trước giải phóng, mỗi năm kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng xấp xỉ như thế”. (trích nguyên xi câu). Nếu đúng như ông Diễn nói thì với 1 tỉ đô như vậy, ở miền Nam ngoài chi cho phương tiện chiến tranh, tiền viện trợ còn được biến thành nền kinh tế “phồn vinh giả tạo”, dân thực sự được nhờ, được sung túc, chứ 1 tỉ ở miền Bắc bị chuyển hóa thành vũ khí đạn dược hết để “giải phóng miền Nam”, nên dân chịu đói khổ thiếu thốn kéo dài suốt mấy chục năm.

Phải nói rằng, trong gầm trời này, từ thời thượng cổ đến nay, nếu nói về sự kiêu ngạo thì có thể nói rằng người cộng sản là số 1, vô địch, “thì treo giải nhất chi nhường cho ai”. Người đời vẫn nhắc với nhau một “tấm gương” điển hình về kiêu ngạo, đố các vị biết là ai, đó là ông Quan Vũ (còn gọi là Quan Công, Quan Vân Trường) thời Tam quốc. Ông đứng đầu ngũ hổ tướng của Lưu Bị, tài giỏi, công lao hãn mã khó ai bì, chỉ có điều ông kiêu ngạo quá lắm. Thiên hạ có thể khen ông nhiều điều, cho qua chuyện ông xem thường Mã Siêu (và cả Hoàng Trung, Triệu Vân nữa, những “đồng chí” của ông, tài giỏi chẳng kém ông, thậm chí còn hơn ông) nhưng chỉ với việc ông khước từ sự cầu hôn của nhà Ngô, họ muốn gả con trai vua Tôn Quyền lừng lẫy đất Giang Nam cho con gái ông để hai nhà liên kết, nhưng bằng thói kiêu ngạo ngấm trong máu, Quan Vũ thẳng thừng “con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho con loài chó à” thì với chính thái độ đó ông đã phết chữ tử vào sự nghiệp của mình cũng như sự tồn tại của nhà Thục. Thói kiêu ngạo đã giết chết ông và nhà nước của ông chứ không phải thứ gì khác. Ở đây cũng phải nói thêm cái “tội” của Khổng Minh, đã biết không thể tin cậy Quan Vũ trong việc giữ Kinh Châu mà vẫn cứ giao, dù thừa hiểu mấy chữ lời khuyên “Đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo” đối với một kẻ kiêu ngạo chả có ý nghĩa gì, chả là cái đinh gì.

Kiêu ngạo là gì? Kiêu là sự ngạo mạn, không chịu phục tùng. Kiêu ngạo là thái độ khoe khoang, ngạo mạn. Kẻ kiêu ngạo thường tự cho mình hơn người, thậm chí mình là nhất. Kiêu căng ngạo mạn, trên đời không ai bằng mình. Từ đó dẫn đến coi thường người khác, coi thường tất cả. Việc gì mình làm cũng hay cũng đúng. Mình chả bao giờ sai. Luôn nhìn đời bằng nửa con mắt. Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta. Nếu có ai phê phán phản đối thì lấy làm khó chịu, nhẹ thì chê bai dè bỉu người ta, nặng thì dùng quyền lực tìm cách vùi dập. Trong mênh mông thế sự, kẻ kiêu ngạo luôn sống cô độc với vòng hào quang mà nó tự tô vẽ.

Nói cho công bằng, không phải ai cũng có thể sinh thói kiêu ngạo. Những hạng ngu đần, an phận, rụt rè, kém bản lĩnh, thiếu tài năng, tầm thường thì không thể là kẻ kiêu ngạo. Những người cả đời không lập công, không thành đạt thì lấy gì để kiêu ngạo. Phải có khí chất nhất định của kẻ anh hùng, phải hơn người mới có thể kiêu ngạo được. 

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản với cốt lõi là tư tưởng Marx - Lênin và học thuyết đấu tranh giai cấp được du nhập vào Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 20, người cộng sản đã dần tìm được chỗ đứng trong đời sống chính trị bởi họ khá khôn ngoan. Họ biết lợi dụng và dựa vào dân nghèo, nhất là nông dân, lực lượng đông nhất ở một xứ thuộc địa. Những ông tổ của cộng sản, khi truyền bá học thuyết đấu tranh giai cấp đã khẳng định “ai nắm được công nông, người ấy sẽ chiến thắng”. Lý luận ấy từng chính xác ở nơi nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng xứ ta trước năm 1945 thì quả đúng như vậy.

Sau khi đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng, người cộng sản VN từng bước giành thắng lợi. Đó là nghệ thuật biết thắng từng bước, dù họ biết phải giá đắt máu và nước mắt. Dấu mốc lịch sử quan trọng vẻ vang nhất là họ khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng, khơi mối căm thù giai cấp bóc lột, hô hào nhân dân đứng lên làm cuộc lật đổ nhà nước thực dân-phong kiến, cướp chính quyền (chữ “cướp” được người cộng sản trước kia hay dùng, sau có lẽ thấy chối quá mới lặng thầm bỏ), thiết lập được bộ máy cầm quyền mới vào tháng 8.1945.

Theo dòng lịch sử, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1945-1954), cuộc nội chiến Bắc Nam để thống nhất đất nước (1954-1975), cuối cùng người cộng sản đã đoạt chiến thắng chung cuộc. Đánh ván cờ xương máu, họ đã thắng. Bao nhiêu đau thương mất mát, biết bao bi kịch ám vào số phận từng cá nhân, từng gia đình, từng vùng đất ròng rã mấy chục năm trời để có ngày toàn thắng. Tiếp theo nữa, gần nửa thế kỷ, suốt từ năm 1975 đến nay, người cộng sản hãnh diện mình đã có công trời biển thu non sông về một mối. Bộ máy tuyên truyền của họ hằng năm bắt mọi người phải nhớ ơn cái công lao được xây bằng núi xương sông máu của mấy triệu con người. Góp thây trăm họ nên công vài người.

Trong chiến tranh, do cần lợi dụng sức dân, người cộng sản đã khéo léo tô vẽ được hình ảnh về chiến sĩ hết lòng vì nước vì dân, hy sinh quyền lợi cá nhân, bình dị gần gũi, chan hòa với quần chúng, không ngại gian khổ không sợ hy sinh… Họ đầy ham muốn, nhưng lúc cần che giấu vẫn biết khôn khéo lui xuống vị trí cần thiết để tạo nên hình ảnh có lợi trong mắt dân. Có lẽ chính vì thế mà trong cộng đồng dân tộc những năm đầy ác liệt, người cộng sản được số đông dân chúng tin cậy, giao phó sứ mệnh chèo lái mà ít mảy may nghi ngờ, lăn tăn. Đội ngũ văn nghệ sĩ “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật” hoặc với tấm lòng ngây thơ, hoặc có dụng ý, đã thỏa sức làm thơ, kẻ nhạc, dựng kịch, đóng phim, viết tiểu thuyết… ca ngợi người cộng sản, nâng họ thành “tên quân cảm tử đi tiên phong”, “như cánh chim trời không biết mỏi, mỗi bước đi biết mấy yêu thương”. Những hình tượng, hình ảnh đẹp nhất, có sức lôi cuốn nhất ở trên đời được ví, được gắn với người cộng sản. Đó là vầng thái dương, đuốc soi đường, nguồn ánh sáng, đỉnh cao chói lọi, người cầm lái vững vàng, ngọn cờ bách chiến bách thắng, chiến sĩ tiên phong…, tất cả được báo chí, đài phát thanh, cán bộ tuyên huấn hằng ngày ra rả phong tặng cho người cộng sản. Nói một cách khách quan, công bằng, không phải toàn bộ đảng cộng sản ở xứ này, không phải tất cả mọi thành viên (đảng viên) của tổ chức chính trị đòi độc quyền lãnh đạo xứ này đều xứng đáng đeo những tấm huân huy chương bốc giời ấy, nhưng thực sự trong đội ngũ họ có những người như vậy, chỉ có điều rất ít, rất hiếm hoi. 

Một trong những sai lầm và định kiến khó chữa nhất của người cộng sản là họ luôn cho mình đúng. Họ xem cộng đồng xã hội như một cơ thể, mà họ là bộ óc. Óc chi phối tất cả, điều khiển mọi hành vi. So với tim gan phèo phổi mắt mũi chân tay thì chỉ óc mới là lý trí. Có sai cũng vẫn lý trí hơn tim gan phèo phổi. Độc quyền nghĩ, độc quyền đúng. Không chịu lắng nghe. Ít phục thiện, ít sửa chữa. Từ đó phát sinh ra những hệ lụy khủng khiếp.

Sinh thời, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, người nổi tiếng với câu nói "Ấy, cái xứ ta nó thế", đã viết rằng những nhà cai trị của chế độ này cần đọc Luận ngữ của Khổng tử. Đừng vội cho rằng tư tưởng, lý luận của ông Tàu hủ nho đó thì đọc làm gì. Bài Trung chống Tàu (cộng) không có nghĩa là sổ toẹt hết. Cái nào đúng, đã được thử thách giá trị qua thời gian thì chả tội gì phải bỏ. Thiển nghĩ rằng, thứ cần bỏ ngay bây giờ không phải những lời răn của Khổng tử hoặc Hàn Phi tử mà chính là học thuyết Marx - Lênin, nhất là sự xúi giục đấu tranh giai cấp và lý luận về một chủ nghĩa xã hội không tưởng của mấy ông tây này, bởi chúng đã quá lỗi thời.

Trở lại cuốn sách nho nói trên. Trong sách đó có thuyết "Tử tứ tuyệt" gồm: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Đáng chú ý, “vô ý” có nghĩa là trong bất kỳ xã hội hoặc thể chế nào, không được dành đặc quyền cho ý kiến quan điểm nào cả, đừng tuyệt đối hóa nó, bởi nếu như thế sẽ khiến ta (nhất là người cầm quyền) không nhìn thấy những ý khác, điều khác có thể còn đúng, còn hay hơn ý của ta, kể cả những ý kiến trái chiều, đối lập. Chỉ một cái “vô” đó thôi, chúng ta đã thấy người xưa tiến bộ như thế nào, cách nay cả hơn 2 nghìn năm.

Vậy mà bây giờ những nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng (cộng sản), luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là ánh sáng (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ. Khi còn quyền lực trong tay thì họ trấn áp, đe dọa, vùi dập, nhưng liệu trong dòng chảy cuộc sống đang biến đổi tích cực từng ngày từng giờ thì liệu có dậm dọa được mãi không. 

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới theo chim én về, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.

Trước hết, có thể thấy rõ sự kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt…, tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. Đi đâu cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng vô địch muôn năm, đảng lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ lao động bằng chữ cộng sản), đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững, tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… Hồi mấy chục năm trước, tôi đi xe lửa qua chỗ nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau nó mất đi lúc nào không biết. Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc họ Hòa còn bị sứt mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược.

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Những Lênin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả phật, cả chúa. Không cho ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa nhơ nhỡ ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh…, tới dịp kỷ niệm ngày sinh ngày mất cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm, tượng đài nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là thánh chứ không phải người.

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Chắc nhiều người còn nhớ, sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm, người cộng sản giành phần thắng. Thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự Thật (nhà xuất bản riêng của đảng), xuất bản tháng 8.1975 (tôi đang có cuốn sách này). Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế nếu ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “Quảng Trị đẹp nhất từ xưa đến nay”, “Dân chủ đến thế là cùng”… Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì đang tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo cuộc sống.

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Nhưng dần thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, khiến họ rất khó coi, trở thành lố lăng, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Chắc nhiều người còn nhớ nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, đại loại “dân chủ của ta còn dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn "sự kiêu ngạo" của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ có quy kết tôi chống này đối nọ thì tôi cũng đành chịu vậy, chả thể cãi họ được.

Nguyễn Thông