10 tháng 8, 2018

Ông Phan Diễn

Sự kiêu ngạo cộng sản

Mở bài: Ai không đọc bài này, bị thiệt thòi ráng chịu (hihi, mình cũng bị nhiễm sự kiêu ngạo của các bác ấy). Rảnh rỗi hãy đọc. Đang bận bịu thì đừng.


Những chữ trên không phải do tôi nghĩ ra, cũng không phải do thế lực thù địch nào vu cáo, mà là chữ dùng của ông Phan Diễn. Ông Diễn người Quảng Nam, con cụ Phan Thanh – một nhân vật nổi tiếng thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Ông Diễn từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đóng đến chức Thường trực Ban Bí thư (tức nhân vật số 2 của đảng, chỉ sau Tổng bí thư). Họ hàng ông Diễn còn có những người là yếu nhân của chế độ, chẳng hạn ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), em ông Phan Thanh, ông Bôi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền sau cách mạng tháng 8, Chánh văn phòng chính phủ, người được cụ Hồ hết sức tin cậy; mẹ ông là bà Lê Thị Xuyến từng là Phó chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam… Kể qua như vậy để nói rằng phát ngôn của ông Diễn không phải dạng ai đó nói vu vơ, nói lấy được, mà là rất có trọng lượng. Đó là nhận xét của người trong cuộc, "ở trong chăn..." chứ không phải bị kích động, xúi giục, nhẹ dạ gì (làm sao mà kích động nổi những người như ông Diễn, nay ông vẫn còn sống và mạnh khỏe, sáng suốt, ai không tin thì cứ hỏi ông).

Trong bài trả lời báo điện tử VnExpress đăng ngày 17.12.2016, ông Diễn chắc thấm nhuần tư tưởng của Lênin, người thầy của cách mạng vô sản thế giới, đưa ra nhận định “Tôi cho rằng, chúng ta ít nhiều đã có sự chủ quan, có thể gọi là “kiêu ngạo cộng sản” sau chiến thắng 1975. Việc này có thể hiểu là xuất phát từ những điều tự hào về lý tưởng và thành công của mình trên con đường cách mạng, nhưng rồi đi quá đà đến xu hướng chủ quan...” (trích nguyên xi câu). Cũng trong bài trả lời này, ông cựu nhân vật số 2 còn cho biết chi tiết rất đáng quan tâm đối với những người chép sử, ông bảo “Trước giải phóng, mỗi năm kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng xấp xỉ như thế”. (trích nguyên xi câu). Nếu đúng như ông Diễn nói thì với 1 tỉ đô như vậy, ở miền Nam ngoài chi cho phương tiện chiến tranh, tiền viện trợ còn được biến thành nền kinh tế “phồn vinh giả tạo”, dân thực sự được nhờ, được sung túc, chứ 1 tỉ ở miền Bắc bị chuyển hóa thành vũ khí đạn dược hết để “giải phóng miền Nam”, nên dân chịu đói khổ thiếu thốn kéo dài suốt mấy chục năm.

Phải nói rằng, trong gầm trời này, từ thời thượng cổ đến nay, nếu nói về sự kiêu ngạo thì có thể nói rằng người cộng sản là số 1, vô địch, “thì treo giải nhất chi nhường cho ai”. Người đời vẫn nhắc với nhau một “tấm gương” điển hình về kiêu ngạo, đố các vị biết là ai, đó là ông Quan Vũ (còn gọi là Quan Công, Quan Vân Trường) thời Tam quốc. Ông đứng đầu ngũ hổ tướng của Lưu Bị, tài giỏi, công lao hãn mã khó ai bì, chỉ có điều ông kiêu ngạo quá lắm. Thiên hạ có thể khen ông nhiều điều, cho qua chuyện ông xem thường Mã Siêu (và cả Hoàng Trung, Triệu Vân nữa, những “đồng chí” của ông, tài giỏi chẳng kém ông, thậm chí còn hơn ông) nhưng chỉ với việc ông khước từ sự cầu hôn của nhà Ngô, họ muốn gả con trai vua Tôn Quyền lừng lẫy đất Giang Nam cho con gái ông để hai nhà liên kết, nhưng bằng thói kiêu ngạo ngấm trong máu, Quan Vũ thẳng thừng “con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho con loài chó à” thì với chính thái độ đó ông đã phết chữ tử vào sự nghiệp của mình cũng như sự tồn tại của nhà Thục. Thói kiêu ngạo đã giết chết ông và nhà nước của ông chứ không phải thứ gì khác. Ở đây cũng phải nói thêm cái “tội” của Khổng Minh, đã biết không thể tin cậy Quan Vũ trong việc giữ Kinh Châu mà vẫn cứ giao, dù thừa hiểu mấy chữ lời khuyên “Đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo” đối với một kẻ kiêu ngạo chả có ý nghĩa gì, chả là cái đinh gì.

Kiêu ngạo là gì? Kiêu là sự ngạo mạn, không chịu phục tùng. Kiêu ngạo là thái độ khoe khoang, ngạo mạn. Kẻ kiêu ngạo thường tự cho mình hơn người, thậm chí mình là nhất. Kiêu căng ngạo mạn, trên đời không ai bằng mình. Từ đó dẫn đến coi thường người khác, coi thường tất cả. Việc gì mình làm cũng hay cũng đúng. Mình chả bao giờ sai. Luôn nhìn đời bằng nửa con mắt. Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta. Nếu có ai phê phán phản đối thì lấy làm khó chịu, nhẹ thì chê bai dè bỉu người ta, nặng thì dùng quyền lực tìm cách vùi dập. Trong mênh mông thế sự, kẻ kiêu ngạo luôn sống cô độc với vòng hào quang mà nó tự tô vẽ.

Nói cho công bằng, không phải ai cũng có thể sinh thói kiêu ngạo. Những hạng ngu đần, an phận, rụt rè, kém bản lĩnh, thiếu tài năng, tầm thường thì không thể là kẻ kiêu ngạo. Những người cả đời không lập công, không thành đạt thì lấy gì để kiêu ngạo. Phải có khí chất nhất định của kẻ anh hùng, phải hơn người mới có thể kiêu ngạo được. 

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản với cốt lõi là tư tưởng Marx - Lênin và học thuyết đấu tranh giai cấp được du nhập vào Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 20, người cộng sản đã dần tìm được chỗ đứng trong đời sống chính trị bởi họ khá khôn ngoan. Họ biết lợi dụng và dựa vào dân nghèo, nhất là nông dân, lực lượng đông nhất ở một xứ thuộc địa. Những ông tổ của cộng sản, khi truyền bá học thuyết đấu tranh giai cấp đã khẳng định “ai nắm được công nông, người ấy sẽ chiến thắng”. Lý luận ấy từng chính xác ở nơi nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng xứ ta trước năm 1945 thì quả đúng như vậy.

Sau khi đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng, người cộng sản VN từng bước giành thắng lợi. Đó là nghệ thuật biết thắng từng bước, dù họ biết phải giá đắt máu và nước mắt. Dấu mốc lịch sử quan trọng vẻ vang nhất là họ khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng, khơi mối căm thù giai cấp bóc lột, hô hào nhân dân đứng lên làm cuộc lật đổ nhà nước thực dân-phong kiến, cướp chính quyền (chữ “cướp” được người cộng sản trước kia hay dùng, sau có lẽ thấy chối quá mới lặng thầm bỏ), thiết lập được bộ máy cầm quyền mới vào tháng 8.1945.

Theo dòng lịch sử, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1945-1954), cuộc nội chiến Bắc Nam để thống nhất đất nước (1954-1975), cuối cùng người cộng sản đã đoạt chiến thắng chung cuộc. Đánh ván cờ xương máu, họ đã thắng. Bao nhiêu đau thương mất mát, biết bao bi kịch ám vào số phận từng cá nhân, từng gia đình, từng vùng đất ròng rã mấy chục năm trời để có ngày toàn thắng. Tiếp theo nữa, gần nửa thế kỷ, suốt từ năm 1975 đến nay, người cộng sản hãnh diện mình đã có công trời biển thu non sông về một mối. Bộ máy tuyên truyền của họ hằng năm bắt mọi người phải nhớ ơn cái công lao được xây bằng núi xương sông máu của mấy triệu con người. Góp thây trăm họ nên công vài người.

Trong chiến tranh, do cần lợi dụng sức dân, người cộng sản đã khéo léo tô vẽ được hình ảnh về chiến sĩ hết lòng vì nước vì dân, hy sinh quyền lợi cá nhân, bình dị gần gũi, chan hòa với quần chúng, không ngại gian khổ không sợ hy sinh… Họ đầy ham muốn, nhưng lúc cần che giấu vẫn biết khôn khéo lui xuống vị trí cần thiết để tạo nên hình ảnh có lợi trong mắt dân. Có lẽ chính vì thế mà trong cộng đồng dân tộc những năm đầy ác liệt, người cộng sản được số đông dân chúng tin cậy, giao phó sứ mệnh chèo lái mà ít mảy may nghi ngờ, lăn tăn. Đội ngũ văn nghệ sĩ “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật” hoặc với tấm lòng ngây thơ, hoặc có dụng ý, đã thỏa sức làm thơ, kẻ nhạc, dựng kịch, đóng phim, viết tiểu thuyết… ca ngợi người cộng sản, nâng họ thành “tên quân cảm tử đi tiên phong”, “như cánh chim trời không biết mỏi, mỗi bước đi biết mấy yêu thương”. Những hình tượng, hình ảnh đẹp nhất, có sức lôi cuốn nhất ở trên đời được ví, được gắn với người cộng sản. Đó là vầng thái dương, đuốc soi đường, nguồn ánh sáng, đỉnh cao chói lọi, người cầm lái vững vàng, ngọn cờ bách chiến bách thắng, chiến sĩ tiên phong…, tất cả được báo chí, đài phát thanh, cán bộ tuyên huấn hằng ngày ra rả phong tặng cho người cộng sản. Nói một cách khách quan, công bằng, không phải toàn bộ đảng cộng sản ở xứ này, không phải tất cả mọi thành viên (đảng viên) của tổ chức chính trị đòi độc quyền lãnh đạo xứ này đều xứng đáng đeo những tấm huân huy chương bốc giời ấy, nhưng thực sự trong đội ngũ họ có những người như vậy, chỉ có điều rất ít, rất hiếm hoi. 

Một trong những sai lầm và định kiến khó chữa nhất của người cộng sản là họ luôn cho mình đúng. Họ xem cộng đồng xã hội như một cơ thể, mà họ là bộ óc. Óc chi phối tất cả, điều khiển mọi hành vi. So với tim gan phèo phổi mắt mũi chân tay thì chỉ óc mới là lý trí. Có sai cũng vẫn lý trí hơn tim gan phèo phổi. Độc quyền nghĩ, độc quyền đúng. Không chịu lắng nghe. Ít phục thiện, ít sửa chữa. Từ đó phát sinh ra những hệ lụy khủng khiếp.

Sinh thời, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, người nổi tiếng với câu nói "Ấy, cái xứ ta nó thế", đã viết rằng những nhà cai trị của chế độ này cần đọc Luận ngữ của Khổng tử. Đừng vội cho rằng tư tưởng, lý luận của ông Tàu hủ nho đó thì đọc làm gì. Bài Trung chống Tàu (cộng) không có nghĩa là sổ toẹt hết. Cái nào đúng, đã được thử thách giá trị qua thời gian thì chả tội gì phải bỏ. Thiển nghĩ rằng, thứ cần bỏ ngay bây giờ không phải những lời răn của Khổng tử hoặc Hàn Phi tử mà chính là học thuyết Marx - Lênin, nhất là sự xúi giục đấu tranh giai cấp và lý luận về một chủ nghĩa xã hội không tưởng của mấy ông tây này, bởi chúng đã quá lỗi thời.

Trở lại cuốn sách nho nói trên. Trong sách đó có thuyết "Tử tứ tuyệt" gồm: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Đáng chú ý, “vô ý” có nghĩa là trong bất kỳ xã hội hoặc thể chế nào, không được dành đặc quyền cho ý kiến quan điểm nào cả, đừng tuyệt đối hóa nó, bởi nếu như thế sẽ khiến ta (nhất là người cầm quyền) không nhìn thấy những ý khác, điều khác có thể còn đúng, còn hay hơn ý của ta, kể cả những ý kiến trái chiều, đối lập. Chỉ một cái “vô” đó thôi, chúng ta đã thấy người xưa tiến bộ như thế nào, cách nay cả hơn 2 nghìn năm.

Vậy mà bây giờ những nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng (cộng sản), luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là ánh sáng (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ. Khi còn quyền lực trong tay thì họ trấn áp, đe dọa, vùi dập, nhưng liệu trong dòng chảy cuộc sống đang biến đổi tích cực từng ngày từng giờ thì liệu có dậm dọa được mãi không. 

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới theo chim én về, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.

Trước hết, có thể thấy rõ sự kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt…, tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. Đi đâu cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng vô địch muôn năm, đảng lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ lao động bằng chữ cộng sản), đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững, tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… Hồi mấy chục năm trước, tôi đi xe lửa qua chỗ nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau nó mất đi lúc nào không biết. Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc họ Hòa còn bị sứt mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược.

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Những Lênin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả phật, cả chúa. Không cho ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa nhơ nhỡ ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh…, tới dịp kỷ niệm ngày sinh ngày mất cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm, tượng đài nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là thánh chứ không phải người.

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Chắc nhiều người còn nhớ, sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm, người cộng sản giành phần thắng. Thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự Thật (nhà xuất bản riêng của đảng), xuất bản tháng 8.1975 (tôi đang có cuốn sách này). Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế nếu ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “Quảng Trị đẹp nhất từ xưa đến nay”, “Dân chủ đến thế là cùng”… Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì đang tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo cuộc sống.

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Nhưng dần thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, khiến họ rất khó coi, trở thành lố lăng, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Chắc nhiều người còn nhớ nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, đại loại “dân chủ của ta còn dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn "sự kiêu ngạo" của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ có quy kết tôi chống này đối nọ thì tôi cũng đành chịu vậy, chả thể cãi họ được.

Nguyễn Thông

8 tháng 8, 2018


Bàn về vài quan điểm của Nguyễn Trần Bạt (Phần 1)
Nguyễn Đình Cống
3-7-2018
1- Giới thiệu
Trong vài chục năm trở lại đây Nguyễn Trần Bạt nổi lên như một trí thức làm kinh doanh rất thành đạt. Ông sinh năm 1946 tại Nghệ An, năm 1963 vào quân đội, năm 1973 tốt nghiệp Đại học Xây dựng. Năm 1984 thôi việc nhà nước, năm 1989 thành lập Công ty tư vấn về đầu tư và chuyển giao công nghệ – InvestConsult Group. Hiện nay Công ty hoạt động trên nhiều nước, có doanh thu nhiều triệu đô la mỗi năm.
Ông Bạt là người nổi tiếng trong các lĩnh vực: doanh nhân, luật sư, nhà tư vấn, học giả. Ngoài thành tích về kinh tế, ông được giới trẻ rất hâm mộ vì những buổi nói chuyện hấp dẫn, những cuộc trả lời phỏng vấn thông minh, và in hơn chục quyển sách về rất nhiều vấn đề nhằm hướng dẫn, động viên thanh niên trên con đường lập nghiệp.
Tôi kính phục kiến thức, ý chí, quan hệ và sự đóng góp của ông Bạt. Tôi đã từng say sưa đọc các sách của ông bàn về văn hóa, con người, tri thức, kinh tế, đạo đức, tự do, dân chủ, khoa học, giáo dục, cải cách v.v… và công nhận rằng sách của ông đã giúp tôi hệ thống hóa một số suy nghĩ còn rời rạc, giúp phát hiện một vài nhận thức mới. Thế nhưng gần đây đọc sách “SỨC MẠNH CỦA CÁI ĐÚNG”, NXB Hội nhà văn – 2018, tôi gặp một vài quan điểm khó chấp nhận, liên quan đến chính trị, thời cuộc. Những vấn đề này không mới, chắc rằng có xuất hiện trong những sách tôi đã đọc, nhưng trước đây tôi không để ý tới.
Ông Bạt luôn nhận mình “không phải là người đối lập”. Khi viết sách ông chủ trương “vì sự tiến bộ, vì trăn trở với tương lai đất nước, làm hết mình để giải độc cho thế hệ trẻ v.v”… Nhưng tôi nhận thấy trong sách ông có vài điểm bất đồng, đó là nhận thức về Mác, về cách mạng, về sự lãnh đạo của ĐCS VN, về vai trò của trí thức và vài điều lẻ tẻ. Tôi xin nêu ra một cách vắn tắt để những ai quan tâm có thể tham khảo và thảo luận. Riêng với ông Bạt, nếu ông vui lòng chấp nhận trao đổi kỹ hơn, tôi xin sẵn sàng gặp trực tiếp để nói chuyện như giữa những người bạn.
Trong các phản biện dưới đây tôi có trích vài câu trong sách “Sức mạnh của cái đúng”, con số đặt trong ngoặc (…) ghi số trang có câu được trích.
2- Về Mác và chủ nghĩa Mác – Lê
Ông Bạt tỏ ra vẫn một lòng tin vào Mác và Chủ nghĩa Mác Lê (CNML). Ông nhận xét “Chủ nghĩa Mác hấp dẫn ở phương pháp luận của nhận thức (386)”. Về vấn đề này ông còn viết: “Tôi có hai hệ thống tín hiệu để suy nghĩ tạo cảm hứng. Một là luận lý…(187)”.

Nguyễn Đình Cống

Rất nhiều người cũng một thời bị hấp dẫn bởi những lập luận rất hay, rất chặt chẽ của Mác, nhưng rồi đã phát hiện ra sự ngụy biện trong đó. Luận lý ông Bạt nói đến, theo cách hiểu thông thường gồm Luận cứ, Luận chứng và Luận đề. Dựa vào luận cứ, dùng luận chứng để chứng minh nhằm rút ra kết luận, là luận đề. Lập luận rất hay, rất chặt chẽ, rất hấp dẫn của Mác nằm ở phần luận chứng. Đó là phần được nhiều người quan tâm và Mác, bằng phép biện chứng đã mê hoặc được nhiều người. Ít người để ý phân tích luận cứ. Có phân tích sâu vào luận cứ mới tìm ra sai lầm và ngụy biện của Mác, từ đó dẫn tới sai cơ bản về luận đề (Tôi đã trình bày trong loạt bài: Một số nhầm lẫn của Mác; Ngụy biện của CNML; Chất đất sét trong các hòn đá tảng của Mác).
Ông Bạt viết: “Mác là nhà triết học xây dựng được hệ thống tư tưởng toàn diện và chắc chắn đến mức những ai trở thành đệ tử của nó đều không ra khỏi nó được (362). Và: “Trần Đức Thảo là người rất mê Marxist… (386)”. Viết như thế phải chăng là chủ quan vì có thể dẫn ra nhiều người nổi tiếng trong nước và trên thế giới đã từng là đệ tử của CN Mác, nhưng rồi đã phản tỉnh khi nhận ra những sai lầm cơ bản của nó. Riêng Trần Đức Thảo, vào cuối đời, ông Thảo đã phản tỉnh và cho rằng Mác là thủ phạm chính của mọi tai họa cho nhân loại do cách mạng vô sản gây nên. (Theo “Trần Đức Thảo – Những lời trăng trối”, chương 14 – Nêu đích danh thủ phạm – Sách của Phan Ngọc Khuê).
Ông Bạt cho rằng ông đã thành công lớn trong việc giải thích Mác khi viết: “Nhiều anh em nói với tôi rằng họ đọc nhiều về Mác, nhưng cũng không hiểu lắm, đến khi họ đọc những phân tích của tôi về Mác là họ hiểu ra ngay.” Ông còn viết: “Chúng ta còn cái vướng là chưa Việt hóa được cả các nguyên lý của CNML…(25)”.
Sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, sau khi Quốc hội Châu Âu kết tội phong trào cộng sản và quan trọng nhất là thực tế nhem nhuốc của xã hội Việt Nam do ĐCS gây ra mà ông Bạt, một trí thức có hiểu biết rất rộng vẫn ca ngợi hết lời CN Mác làm tôi khó hiểu. Tôi đề ra 2 giả thuyết sau
1- Ông Bạt hiểu CN Mác rất kỹ, ông nguyện bảo vệ và phát triển nó. Như vậy thì đáng khâm phục, đáng tôn trọng. Tôi cũng nghiên cứu CN Mác và cho rằng nó phạm sai lầm ngay từ gốc. Tôi ao ước có được dịp trao đổi với một người nào rất giỏi về CN Mác để tham khảo ý kiến của họ, đặng tìm ra chỗ sai của mình. Tôi đã vài lần đề nghị được đối thoại với Hội đồng Lý luận Trung ương, nhưng không được chấp nhận. Nếu ông Bạt vui lòng đối thoại với tôi thì tôi vô cùng biết ơn.
2- Ông Bạt đã phần nào biết được những thiếu sót, sai lầm của CN Mác, nhưng vì một lý do nào đó mà chưa tiện nói ra. Hoặc giả ông cho rằng: “Trong mọi xã hội đều tồn tại tầng lớp dưới thấp kém, nghèo đói, luôn có nguy cơ trở thành giai cấp vô sản, cho nên CN Mác vẫn có giá trị, nó chính là công cụ triết học của tầng lớp dưới (363)”.
Ông Bạt chủ trương viết sách vì sự tiến bộ và giải độc cho thế hệ trẻ. Không rõ ông quan niệm thế hệ trẻ đang bị đầu độc như thế nào. Tôi nghĩ rằng họ đang bị đầu độc nhiều thứ mà nguy hiểm nhất là về chính trị.Trong trường học và sinh hoạt đoàn thể, họ bị tẩy não, bị nhồi sọ, bị đầu độc bằng CNML đã tỏ ra có nhiều sai lầm, có nhiều độc hại. Thế thì việc ca ngợi CNML tiến bộ ở đâu, giải độc ở đâu hay là phản lại những ý tưởng tốt đẹp do ông đề ra.
3- Về thể chế chính trị, sự lãnh đạo của ĐCS
Nhiều nhà hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến ở trong và ngoài nước cho rằng ở VN hiện nay đang tồn tại thể chế độc tài toàn trị của ĐCS. Thể chế này làm phát sinh và nuôi dưỡng tham nhũng, mua quan bán tước, từ đó lại sinh ra rất nhiều tệ nạn nguy hiểm khác. Vì vậy muốn cho xã hội phát triển thì việc cần thiết đầu tiên là cải cách (hoặc đổi mới) thể chế, xây dựng nền dân chủ với tam quyền phân lập. Ông Bạt hình như cũng nhận thấy điều này và thỉnh thoảng có nhắc đến. Ông viết: “Đầu tiên là cải cách kinh tế…, sau đó đến cải cách chính trị (20)”. Ông còn dẫn lời của TBT: “đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế (32)”.
Tuy vậy trong nhiều chỗ ông Bạt tỏ ra bảo vệ thể chế, bảo vệ và ca ngợi sự lãnh đạo của Đảng. Xin đọc những câu sau: “Không có sự thay đổi thể chế mà chỉ có sự cải cách để thay đổi dần dần các mặt tiêu cực của thể chế mà thôi (23)….Dù chúng ta có một xã hội chưa trong sạch lắm, nhưng rõ ràng Đảng ta có một ý chí trong sạch (30)…Ý chí chính trị của Đảng và Nhà nước thống nhất với ý chí chính trị của xã hội, đó là điều quan trọng nhất (31)” … Đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, kêu gọi mọi tầng lớp xã hội đoàn kết xung quanh Đảng và coi đó là tiền đề của mọi thành công trong bối cảnh đất nước hiện nay (8) … Nếu quần chúng không còn gắn bó với Đảng thì họ trở thành những người dân không đáng yêu, tức là một xã hội không đáng yêu (240)…Việc TBT Nguyễn Phú Trọng tự tin nói về nhân quyền trên đất nước Mỹ làm người dân VN vô cùng tự hào (30)… (Tổng thống Phi lip pin) Duterte làm sao ứng xử giỏi bằng các nhà lãnh đạo VN… làm sao so được với các nhà chính trị buộc phải xử lý vấn đề Trung quốc cho hàng nghìn năm sau (268)…Quyết đoán về lý luận thì chúng ta đã có những nhà chính trị quyết đoán, kiên nhẫn (384).
Nguyễn Trần Bạt chắc có nhận thấy sự mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ của đa số người dân nên tỏ ra lo ngại. Ông viết: “Thách thức lớn nhất là sự mất mát ý chí chính trị, và cần phải lấy lại ngay (31)…Tôi xin chúc những nhà lãnh đạo của chúng ta giữ vững ý chí chính trị (34)…
Người VN đã trưởng thành và khôn ngoan đến mức độ, anh là ai, không quan trọng, miễn là anh ủng hộ VN 2 thứ: phát triển và ổn định chính trị, tức là không động chạm đến địa vị cầm quyền của ĐCS VN (271)… Chúng ta không thừa nhận ĐCSVN là người cầm quyền chính trị và là chủ sở hữu nhà nước của nó thì chúng ta không còn chuyện gì để nói (283)… Tuyệt đối không đùa với sinh mệnh chính trị của Đảng (222)…Đảng này mà sụp đổ thì mọi lẽ phải lặt vặt không có xu nhỏ giá trị nào (224)…”
Ông Bạt nhận là người không phải đối lập, viết sách vì trăn trở với tương lai đất nước, một cách phi chính trị (287). Tôi tôn trọng sự không đối lập, nhưng cho rằng đối lập hay không đối lập không quyết định phẩm chất và giá trị con người. Điều quan trọng hơn là tuệ giác và trung thực. Tôi cảm phục khi ông Bạt cho rằng cần phi chính trị hóa nền giáo dục. Tôi tán thành ý kiến rằng ĐCS VN đang tạm giữ được ổn định chính trị. Họ cho rằng đó là điều kiện vô cùng quan trọng để phát triển. Nhưng tôi nghĩ hơi khác, cho rằng ổn định chính trị là một phần cần thiết để ổn định xã hội và để phát triển thì ổn định xã hội là quan trọng hơn nhiều. Thế mà dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN xã hội đang mất ổn định nhiều mặt.
Tôi đồng ý rằng giữ được ổn định chính trị là tốt, nhưng để có sự ổn định tạm thời đó ở VN người ta đã gây ra bao tai họa. Có một câu sau, tưởng là nghịch lý, nhưng lại là chân lý “Tốt là kẻ thù của cái tốt hơn”. Ông Bạt nghĩ đến cái tốt tạm thời cho dân tộc, sao không nghĩ đến cái tốt hơn. Phải chăng như thế là trăn trở với tương lai đất nước?
Chắc rằng ông Bạt cũng thấy không thể kéo dài mãi thể chế toàn trị của đảng, nhưng ông dự đoán (hoặc mong ước) nó còn kéo dài. Ông viết: “Tôi cho rằng…để ra khỏi những khó khăn về chính trị phải mất một thế ký (276)… Hai trăm năm nữa người Việt mới có đủ điều kiện để ý thức được về các giá trị ấy (254)…” (các giá trị nhân bản).
Tôi nhận thấy ông Bạt khá bằng lòng và có phần ca ngợi chế độ hiện hành và thế lực lãnh đạo. Tôi nghĩ, để làm người đối lập, phản biện thì nhất thiết phải có ý kiến phản bác lại một cái gì đó của chính quyền. Còn làm người không đối lập, chỉ cần không phản bác là đủ, liệu có cần ca ngợi những điều mập mờ?
Nguyễn Đình Cống
3-7-2018
Tiếp theo Phần 1
4- Về trí thức
Bàn về trí thức VN, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, khen chê đủ cả. Văn bản chính thức có NQ 27-NQTƯ tháng 8 năm 2008 về xây dựng đội ngũ trí thức. Trong năm 2018 nhiều tổ chức của Đảng mở hội thảo đánh giá 10 năm thực hiện NQ 27. Tôi có một số ý kiến phản biện NQ này, nhưng ở đây chỉ xin bàn đến vài ý kiến trong sách của Nguyễn Trần Bạt.
Ông Bạt cho rằng quan trọng phải có tiêu chuẩn để nhận diện trí thức, vì nếu tiêu chuẩn không rõ ràng thì: “tức là cổ vũ cho một bộ phận trí thức nhạy cảm và đủ năng lực để biến hình, biến màu, trở thành kẻ cơ hội sớm nhất và giỏi nhất. Những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn, không đủ kinh nghiệm sẽ rất dễ nhầm lẫn những kẻ đội lốt trí thức với trí thức chân chính (350)”.
Trong đoạn vừa trích có 3 loại trí thức: Trí thức chân chính, trí thức nhạy cảm (thiếu chân chính) và kẻ đội lốt trí thức (trí thức dỏm hoặc kém chất lượng). Ông Bạt đưa ra tiêu chuẩn để nhận diện trí thức là “Tính độc lập” (351), thể hiện trên 4 khía cạnh. Độc lập đối với nhau tạo nên sáng tạo, tranh luận. Độc lập với nhà cầm quyền tạo nên phản biện. Đối lập với văn hóa ngoại lai tạo nên sự lựa chọn. Độc lập, đối diện với quá khứ tạo ra động lực của sự phát triển và năng lực phỏng đoán tương lai.
Tôi không phản bác những ý kiến trên, chỉ bổ sung vài ý. Ông Bạt cho rằng những người cầm quyền nếu không đủ tinh khôn…, tôi lại thấy hiện nay lắm kẻ cầm quyền thừa ranh ma, lắm thủ đoạn tạo ra và sử dụng bọn trí thức dỏm. Ông Bạt cho rằng cần dựa vào tính độc lập…, tôi thấy đó chỉ mới là một phần của điều kiện đủ, trong ấy còn cần thêm sự trung thực. Ngoài ra còn điều kiện cần mà chủ yếu là khả năng trí tuệ. Chỉ dựa vào tính độc lập là chưa đủ để đánh giá trí thức chân chính.
Nguyễn Trần Bạt

Ông Bạt viết: “Trí thức là những người chịu trách nhiệm lớn nhất đối với sự phát triển, đối với vận mệnh của dân tộc (354)… Việc tạo ra cuộc cách mạng là của giới chính trị, nhưng hàn gắn vết nứt của CM để tạo ra sự đồng thuận xã hội là việc của giới trí thức (13)… Phát triển gắn liền với việc tìm kiếm ra phương thức thay đổi một cách từ tốn tất cả các nhược điểm của một nền chính trị. Đấy là công việc của giới trí thức (20)…”. Việc giới trí thức có và cần đóng góp vào các công việc vừa kể là đúng, nhưng cho rằng đó là trách nhiệm chính của họ là không chuẩn. Nếu trí thức phải gánh phần trách nhiệm chính thì phải chăng chính quyền, lãnh đạo chỉ chịu trách nhiệm phụ hoặc phối hợp mà thôi. Không phải! Trách nhiệm chính phải là của chính quyền, của lãnh đạo.
Ông Bạt có nhận xét: “làm giàu kho trí tuệ của dân tộc là nhiệm vụ của giới trí thức, còn lựa chọn cái gì trong đó để đưa ra dùng là nhiệm vụ của giới chính trị (359). Đúng ra, lựa chọn cái gì là nhiệm vụ của giới chính trị cầm quyền. Giới này mới chịu trách nhiệm chính. Khi cho rằng trách nhiệm chính thuộc về trí thức là đã làm nghiêng lệch vai trò của họ.
Khi đưa ra khẩu hiệu: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, có người đã bình luận: Thế chính quyền và lãnh đạo làm gì, phải chăng là ngồi chơi, xơi nước.
5- Vài lời bình luận
Trong quyển sách Sức mạnh của cái đúng, ngoài các điều đã trình bày ở các mục trên, tôi còn phát hiện một số chi tiết bất đồng khác, chưa viết ra đây. Ngoài ra tôi cũng biết có vài người phản biện ông Bạt. Phạm Hồng Sơn nhận xét: Đọc Nguyễn Trần Bạt, xen kẽ những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay. Ví dụ quan điểm của ông về Nhà nước toàn trị, về nhân quyền, về chỗ đứng của NCKH XH. (Bài: Hơn hai sai lầm nguy hiểm của ông Nguyễn Trần Bạt – Pro & Contra ngày 4/9/2012). Trung Nguyễn viết bài “Phản hồi Nguyễn Trần Bạt về hòa giải và hòa hợp”, đăng báo Tiếng Dân ngày 15/5/2018.
Nguyễn Trần Bạt, ngoài doanh nhân thành đạt còn là một học giả nổi tiếng, có rất nhiều người hâm mộ, đặc biệt là các bạn trẻ. Phương châm của ông khi viết là trong sáng, tốt đẹp, đáng phục. Thế nhưng sao lại có những phản biện không mong muốn. Tôi chép lại nhận xét của Phạm Hồng Sơn: “Đọc Nguyễn Trần Bạt, xen kẽ những điểm tích cực, có lợi cho xã hội và người dân là những ý kiến, quan điểm không đúng, nguy hiểm cho tiến bộ xã hội hiện nay”. Xin bổ sung rằng về số lượng câu, chữ, phần tích cực có lợi chiếm trên 95%, phần nguy hiểm chỉ là số ít và rải rác, nhưng gây tác dụng không nhỏ. Trong rất đông người hâm mộ ông Bạt liệu đã có mấy ai phát hiện ra các quan điểm mà phản biện cho là không đúng, nguy hiểm. Phản biện cho là không đúng, nhưng bản thân ông Bạt thì sao. Ông có thực sự tin những điều viết ra là hoàn toàn đúng, là kết quả của sự chiêm nghiệm sâu sắc, là xuất phát từ trái tim, hay là ông viết như vậy vì một áp lực nào đấy về tâm lý?
Nếu như ông Bạt từ trong sâu thẳm của tâm hồn, từ nhận thức chính xác, chặt chẽ, đã qua thử thách mà cho rằng Mác đúng, rằng con đường mà ĐCS VN đang dẫn dắt dân tộc là không thể khác, rằng lãnh đạo ĐCS thực sự có tài năng… thì đó là quyền cá nhân của ông, xin được tôn trọng. Chỉ muốn cảnh báo để ông biết, có những phản biện không đồng tình, cho rằng nó nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Những điều đó nếu do tuyên giáo của Đảng phổ biến thì người ta cho là chuyện bình thường, nhưng khi do học giả nổi tiếng Nguyễn Trần Bạt nói ra thì tác dụng sẽ khác. Nó vừa tác động trực tiếp đến người nghe, người đọc, vừa được dư luận viên lợi dụng làm luận cứ để tuyên truyền cho Đảng.
Về áp lực tâm lý. Tôi không phải nhà kinh doanh nên không dám nói đã hiểu hết những áp lực từ phía chính quyền mà nhà kinh doanh phải chịu, đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh lớn, trong phạm vi rộng như ông Bạt. Tôi chỉ liên hệ cá nhân mình đã chịu áp lực như thế nào. Tôi đang giảng dạy rất thành công các môn Phương pháp luận NCKH và sáng tạo, Kết cấu công trình cho các lớp đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ, dạy môn Phong thủy và Các kỹ năng mềm cho nhiều đối tượng. Tôi được nhiều nơi mời dạy, ký họp đồng làm khoa học. Thế nhưng chỉ vì tôi có vài việc làm Đảng không vừa ý mà mọi lời mời, mọi hợp đồng đều bị đơn phương hủy bỏ do áp lực của Đảng, của an ninh. Thậm chí khi Trường ĐH Xây Dựng kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2016, bảo vệ còn không cho tôi vào trường khi tôi mang vài quyển sách để tặng hoặc bán cho các sinh viên cũ về dự. Đấu tranh mãi họ mới cho tôi vào gặp sinh viên cũ với điều kiện chỉ được đi tay không. Trong suốt buổi tôi ở trường luôn có một bảo vệ theo dõi sát.
Trường hợp ông Bạt chịu áp lực tâm lý mà buộc lòng phải ca ngợi Mác và cộng sản thì vừa đáng trách, vừa đáng thương. Chắc ông nghĩ rằng công việc tư vấn của công ty ông đang làm mang lại nhiều lợi ích cho đất nước, muốn làm được trôi chảy phải có quan hệ tốt với chính quyền VN hiện hành, và như vậy không được có ý gì chống lại Mác và cộng sản.
Từ chỗ không chống lại đến chỗ ca ngợi là khá xa. Thấy điều sai trái, bạn có chống lại được hay không, chống lại đến mức nào là tùy thuộc vào khả năng, hoàn cảnh của bạn. Nếu vì hoàn cảnh mà buộc phải chấp nhận sự sai trái thì cũng đành chấp nhận một cách vui vẻ, im lặng, nhưng đừng ca ngợi.
6- Vài lời cuối
Nhân chuyện ông Bạt, tôi cứ lan man nghĩ về nghề tư vấn. Trong xã hội VN trước đây, ở đâu cũng có một số người làm tư vấn và môi giới về hôn nhân, gọi là Làm Mai (mai mối), một mặt họ được xem như Nguyệt Lão xe tơ hồng, mặt khác bị liệt vảo 1 trong 4 thứ ngu (Thế gian có 4 thứ ngu. Làm Mai, gánh nợ, bẫy cu, cầm chầu). Rồi khi các dịch cụ công và tư phát triển thì sinh ra lắm loại “cò” khắp các nơi, trong mọi lĩnh vực. Cò là dạng tư vấn cấp thấp, bình dân, sống nhờ vào việc khai thác thông tin và quan hệ, nhờ chủ yếu vào khách hàng không nắm được thông tin chính xác, hoặc muốn nhanh chóng. Công ty tư vấn xuyên quốc gia cũng hoạt động dựa vào khai thác thông tin và quan hệ. Khách hàng càng sộp và càng ngu dốt thì tư vấn càng kiếm được nhiều lợi lộc. Mà theo Brzezinski thì lãnh đạo cộng sản có nhược điểm lớn là kém trí tuệ. Không biết những ai đã làm tư vấn cho lãnh đạo ĐCS VN để làm những khu công nghiệp có tác hại phá hủy môi trường, làm các quả đấm thép và nhiều công trình gây thiệt hại nhiều trăm ngàn tỷ.
Ông Bạt là ngôi sao sáng trong hoạt động tư vấn, nhưng ông thu hút được nhiều người hâm mộ chủ yếu là nhờ con người học giả. Ở VN cũng có một vài học giả, về tri thức ngang tầm hoặc trên tầm ông Bạt, nhưng tiếng nói của ông Bạt hơn hẳn họ vì ông có sự thành đạt về kinh tế bảo lãnh. Miệng người sang có gang có thép.
Tôi là một người hâm mộ ông Bạt, xin có vài lời tâm sự với các bạn hâm mộ khác. Trong các bài nói hoặc viết của ông Bạt mà nhiều người thấy “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” thì cũng đã có những phản biện, vạch ra sự nguy hiểm cho tiến bộ xã hội. Vậy khi đọc, khi nghe ông Bạt chúng ta nên để ý, xem xét, đối chiếu để chỉ tiếp thu những điều hay và ngăn ngừa được những độc hại lẫn vào.
Xin chớ vội cho rằng ông Bạt nói, viết cái gì cũng đúng, cũng hay. Xin hãy suy nghĩ và phân tích bằng đầu óc của mình. Tiêu chuẩn của chân lý là thực tế.
TB: Tôi không có địa chỉ để gửi bài này cho ông Bạt, Tôi xin tỏ lòng biết ơn bạn nào giúp tôi chuyển nó cho ông. Số ĐT của tôi 01689 578 620. Email: ndcong37@gmail.com

28 tháng 7, 2018

Phạm Chí Dũng - Xử kín Vũ ‘Nhôm’ để khỏi lộ quan chức?

Trong toàn bộ vở bi hài kịch mang tên ‘Vũ Đã Về’, thật ra có một cơ sở tạm thuyết phục để Tòa án Hà Nội mà đứng phía sau cơ quan ‘án bỏ túi’ này hẳn là Bộ Công an, xếp vụ Vũ ‘Nhôm’ vào diện điều 25 bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để xử kín: ngay từ thời điểm phát lệnh truy nã Thượng tá tình báo công an Phan Văn Anh Vũ vào cuối tháng Mười Hai năm 2017, tội danh áp cho Vũ ‘Nhôm’ đã được mặc định là ‘Cố ý làm lộ bí mật nhà nước’ - tức đã có một sự tính toán trước để tương hợp với cơ chế xử kín dự kiến sẽ diễn ra vào cuối tháng Bảy năm 2018.

Vũ "Nhôm" (áo trắng) tại Đà Nẵng, tháng Tư, 2016.
Chỉ là cái cớ

Thế nhưng vì sao trước bức xúc của rất nhiều dư luận xã hội và đặc biệt là đòi hỏi phải công khai ‘làm lộ tài liệu bí mật nhà nước là tài liệu gì?’ của giới cựu thần trong nội bộ đảng cầm quyền, cho tới nay Bộ Công an vẫn không công khai bất kỳ chi tiết nào về ‘tài liệu bí mật’ liên quan vụ án Vũ ‘Nhôm’?

Tính chất bí mật tuyệt đối trên của Bộ Công an lại lồng trong cảnh nạn bộ này đang xì tóe quá nhiều vụ bê bối tham nhũng, đấu đá nội bộ và cả vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’, đã khiến dư luận không thể không liên tưởng chế độ bí mật và cơ chế xử kín vụ Vũ ‘Nhôm’ đó là nhằm bưng bít và che giấu cho những bí mật động trời khác thuộc về nội bộ Bộ Công an, còn việc viện dẫn điều 25 bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về ‘trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự’ chẳng qua chỉ là cái cớ quá sức thô thiển.

‘Tài liệu bí mật’ mà Vũ ‘Nhôm’ sở hữu là cái gì mà phải được xử kín? Danh sách tình báo viên, danh sách công ty bình phong của ngành công an, danh mục tài sản của các quan chức hay hình ảnh ăn chơi thác loạn của giới quan chức công an cùng các bộ ngành liên đới?

3 đỉnh của một tam giác

Nếu nhìn lại, có thể nhận ra là chỉ 3 tháng sau khi Vũ ‘Nhôm’ bị bắt, Tổng cục V (tình báo) Bộ Công an đã có một mùa gặt hái thắng lợi chưa từng có: một tướng tình báo cùng họ Phan với Phan Văn Anh Vũ - ông Phan Hữu Tuấn, cựu Phó Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo Bộ Công an, đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an khởi tố và tống giam về hành vi ‘Cố ý làm lộ bí mật nhà nước’ vào ngày 17/4/2018.

Cùng bị bắt với tướng Tuấn trong đợt đó là Nguyễn Hữu Bách, cán bộ Bộ Công an, cũng về hành vi ‘Cố ý làm lộ bí mật nhà nước’. Phan Hữu Tuấn và Nguyễn Hữu Bách là hai cái tên đầu tiên trong danh sách 7 người bị bắt và câu lưu của Bộ Công an.

Cho đến nay và liên quan đến tội danh “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước”, đã xuất hiện ít nhất một tam giác với 3 đỉnh: Phan Hữu Tuấn - Nguyễn Hữu Bách - Phan Văn Anh Vũ.

Tất cả đều là người của Tổng cục Tình báo Bộ Công an!

Nếu quả thực Phan Văn Anh Vũ có tài liệu bí mật và chủ ý làm lộ tài liệu bí mật ấy, tài liệu này có thể được chỉ đạo cung cấp bởi tướng Phan Hữu Tuấn, còn cán bộ Nguyễn Hữu Bách là người trực tiếp chuyển giao tài liệu.

Tài liệu nào?


Vào thời gian Phan Văn Anh Vũ bị truy nã, đã xuất hiện một luồng dư luận cho rằng Vũ có trong tay danh sách màng lưới tình báo viên cùng danh sách các công ty bình phong và công ty sân sau của ngành công an đang hoạt động ở trong và ngoài nước. Nếu bản danh sách này bị lộ ra thì đó sẽ là một chấn động không chỉ đối nội mà còn đối ngoại và mang tầm cỡ quốc tế, khiến không chỉ Tổng cục Tình báo mà cả Bộ Công an cũng “đi đứt”.

Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy có một danh sách như thế được công khai hóa trên mạng xã hội hay được đề cập bởi báo chí quốc tế.

Trong khi đó, thực tế có thể hình dung ngay là trong tay Vũ ‘Nhôm’ rất có thể đã nắm được những tài liệu mà khiến nhiều quan chức đang mất ngủ có thể là những tài liệu mang tính bằng chứng về mối quan hệ ngầm trong giới quan chức lãnh đạo, những phi vụ ‘xămxônai’ (cách gọi loại vali chứa đầy đô la) mà các quan chức “lại quả” cho nhau, hoặc những hình ảnh sống động về giới quan chức đã thác loạn với gái trên giường… Những tài liệu và bằng chứng này chắc hẳn là nhiều hoặc rất nhiều mà Vũ ‘Nhôm’ đã khai báo với cơ quan điều tra kể từ khi bị dẫn độ từ Singapore về Việt Nam vào đầu tháng Giêng năm 2018 đến nay.

Những tài liệu đó có thể liên đới số quan chức nào?

Tướng Thành ‘còn rất nhiều việc phải làm’?

Từ tháng Tư năm 2017, một bàn tay bí ẩn đã tung lên mạng xã hội hàng loạt văn bản đóng dấu ‘MẬT’ và kể cả ‘TUYỆT MẬT’, mang danh nghĩa Bộ Công an liên hệ với nhiều cơ quan và tổ chức, chủ yếu với chính quyền TP.HCM để giới thiệu Công ty Nova 79 của Thượng tá tình báo công an Phan Văn Anh Vũ (tức Vũ ‘Nhôm’) là ‘công ty bình phong’. Dựa vào những văn bản này, Vũ ‘Nhôm’ đã tiến hành các phi vụ làm ăn mua rẻ bán đắt liên quan đến bất động sản ở Đà Nẵng, Sài Gòn và một số tỉnh thành khác. Chỉ trong một thời gian ngắn, Vũ ‘Nhôm’ đã được đồn đoán là một trong những quan chức giàu nhất Việt Nam với tài sản vừa bất động sản vừa cổ phiếu và tiền mặt có thể lên đến 50.000 tỷ đồng Việt (khoảng 2,3 tỷ USD), và đương nhiên phải chịu chung chi cho cấp trên không ít.

Theo các văn bản được công bố trên mạng xã hội, hai quan chức Bộ Công an ký tên nhiều nhất vào các văn bản của bộ này giới thiệu cho Vũ ‘Nhôm’ đi ‘quan hệ’ là Thượng tướng, thứ trưởng Trần Việt Tân (đã nghỉ hưu) và Trung tướng, thứ trưởng Bùi Văn Thành vẫn còn đương chức.

Cho tới nay, Bộ Công an hoàn toàn không có bất kỳ phản ứng (công khai) nào trước những văn bản được cho là của bộ này tung ra trên mạng xã hội.

Vào đầu tháng Bảy năm 2018, tức một tháng trước khi xử kín vụ Vũ ‘Nhôm’, Bộ Công an đã bất ngờ thông báo công khai, chứ không phải thông báo nội bộ như ‘truyền thống bảo mật’ trước đó, về một quyết định điều chỉnh nhiệm vụ hai thứ trường của bộ này, theo đó toàn bộ chức trách nhiệm vụ về phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; hậu cần – kỹ thuật của viên thứ trưởng - Trung tướng Bùi Văn Thành đã được chuyển giao cho hai viên thứ trưởng khác là Thượng tướng Lê Quý Vương và Trung tướng Nguyễn Văn Sơn.

Vào thời gian trên, Thiếu tướng Lương Tam Quang, Chánh văn phòng Bộ Công an và được cử làm người phát ngôn của cơ quan này, vội vã giải thích với báo Giao Thông: “Thứ trưởng Bùi Văn Thành còn rất nhiều việc khác phải làm, tham gia vào rất nhiều công việc khác của Bộ Công an. Có nhiều việc anh Thành hiện nay được giao nhưng liên quan đến bí mật Nhà nước chúng tôi không thể nói được”.

Nhưng lại thật khó hình dung ‘đồng chí Trung tướng Bùi Văn Thành’ còn việc gì để làm khi toàn bộ chức trách nhiệm vụ của ông ta đã bị chuyển giao cho người khác. Cùng lúc rộ lên nhiều đồn đoán về khả năng tướng Thành sắp phải vào ‘lò’.

Chỉ từ đầu năm 2018 đến nay, Thiếu tướng Lương Tam Quang đã bị ‘hố’ nặng hai vụ Phan Văn Anh Vũ và Phan Văn Vĩnh khi toàn phát ngôn ‘chưa có thông tin gì’, nhưng sau đó cả hai nhân vật này đều bị bắt.

Trường hợp giải thích về tướng Bùi Văn Thành có lẽ cũng ‘hố’ như thế. Đúng là tướng Thành còn rất nhiều việc phải làm, nhưng rất có thể phải ‘làm việc’, hay nói cách khác là phải ‘đi cung’ với chính những đồng chí đồng sự trong Bộ Công an.

Một tiết lộ nhỏ

Chỉ ít ngày trước khi phiên tòa xử kín Vũ ‘Nhôm’ diễn ra, lần lượt hai quan chức đầu não của Đà Nẵng đã một lần nữa xuất hiện để giải thích với cử tri thành phố này về tính chất bí mật của phiên tòa Vũ ‘Nhôm’. Trong khi bí thư Đà Nẵng là Trương Quang Nghĩa vẫn chỉ giải thích theo luật mà không nêu được bất kỳ cơ sở đáng thuyết phục nào, chủ tịch Đà Nẵng là Huỳnh Đức Thơ lại tiết lộ ‘nếu cơ quan công an không bắt Vũ thì sự việc phức tạp hơn vì liên quan đến nhiều cán bộ, lãnh đạo’, và khẳng định rằng sau phiên tòa này, tất cả những câu hỏi liên quan đến ‘quân hàm thượng tá’ và ‘nhiệm vụ’ của Vũ ‘Nhôm’ chắc chắn sẽ được giải đáp.

Sau cuộc chiến Huỳnh Đức Thơ - Nguyễn Xuân Anh vào năm 2017, ông Thơ là quan chức đã chỉ nhận hình thức xử lý cảnh cáo đảng và cảnh cáo về mặt chính quyền nhưng vẫn yên vị giữ ghế để cho tới nay nghiễm nhiên trở thành ‘một hổ một rừng’, trong khi Nguyễn Xuân Anh rơi vào thảm trạng ‘bị cách mọi chức vụ’.

Huỳnh Đức Thơ cũng là nhân vật được đồn đoán ‘thân anh Bảy Phúc’ (tức Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc).

Tiết lộ của ông Huỳnh Đức Thơ có thể được hiểu là một trong những nội dung quan trọng nhất trong phiên tòa xử kín Vũ ‘Nhôm’ sẽ là lời khai của Vũ ‘Nhôm’ trước tòa, sau khi đã khai trước cơ quan an ninh điều tra, về quan chức công an cao cấp nào đã ký quyết định quân hàm thượng tá cho Vũ ‘Nhôm’ và ‘tạo mọi điều kiện thuận lợi’ để Vũ làm ăn trong thế giới ngầm.

Quan chức đó là ai?

‘Bèo’ nhất cũng phải là cấp thứ trưởng Bộ Công an.

Hẳn tính chất xử kín Vũ ‘Nhôm’ của Tòa án Hà Nội là nhằm bảo vệ cho ‘uy tín’ không biết còn lại được mấy phần trăm của Bộ Công an.
 
Phạm Chí Dũng

27 tháng 7, 2018

BƠI VÀO ĐI..., VÀNG ƠI 😪😪
Bài trên internet: Mình đã khóc khi đọc bài thơ này. Thương quá con chó thân yêu đã gắn bó với lính đảo. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, người lính trở về đất liền, 2 con chó ở lại đảo để tiếp tục cùng cán bộ chiến sỹ QĐNDVN bảo vệ biển đảo tổ quốc.
Khi anh lên tàu thì 2 con chó thân yêu bơi ra tàu để tạm biệt chủ. Bài thơ của đại úy Hoàng Hải Lý
Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, đại dương và ngoài trời
Bơi vào đi, Vàng ơi, tao về đây
Đừng ra xa, thân thể mày bé lắm
Sóng thì to, nước biển kia rất mặn
Mày cứ bơi ra, sao tao thể cầm lòng...


Bơi vào đi, Vàng ơi, có nghe không
Mày quyến luyến làm lòng tao chợn sóng
Đại dương mênh mông, thân thể mày bé bỏng
Cứ ngước về tàu, sao tao thể cách xa...

Bơi vào đi, Vàng ơi, quay lại nhà
Tao phải về thôi bởi đã xong nghĩa vụ
Và tao biết đêm qua mày mất ngủ
Cứ liếm tay tao, sợ tao trốn mày về

Đừng vậy nữa mà, Vàng ơi, tao thương ghê
Thương những đêm tao và mày đứng gác
Gió bão từng cơn mày vẫn không sai khác
Phủ phục canh me bọn cướp biển chực chờ

Về đi mày, đừng bơi nữa, tao nhờ
Tao xin lỗi, bởi đã xong nghĩa vụ
Và tao biết chừng ấy vẫn chưa đủ
Nhưng phải vào bờ, anh em khác ra thay
Về đi mày,
đừng bơi nữa,
mắt cay...
Blog TTĐ

26 tháng 7, 2018

4 quy tắc tâm linh độc đáo của người Ấn Độ
Trên những đoạn khúc khuỷu của đường đời, chúng ta thường dễ trượt ngã và oán trách số phận: “Sao đời lại bất công như thế?”. Nhưng với người Ấn Độ, họ luôn dùng kim chỉ nam là 4 quy tắc tâm linh đầy sâu sắc dưới đây để đi qua những cơn sóng của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống. Dưới đây là 4 quy tắc tâm linh độc đáo của người Ấn Độ giúp bạn tận hưởng cuộc sống hạnh phúc hơn

1. “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp”
Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó. Tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời đều là những người “thầy” vô giá. Dù họ yêu thương bạn, bỏ rơi bạn, giúp đỡ bạn hay tranh đấu với bạn, tất cả chỉ để dạy bạn cách sống, cách yêu thương, cách bao dung và nhẫn nhường. Số phận luôn sắp đặt đúng người vào đúng thời điểm để tôi luyện ý chí và phẩm cách con người bạn, để bạn nhận ra đâu là giá trị cuộc sống và giá trị của bản thân mình.


Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó (Ảnh: Internet) 

Vậy nên, nếu bạn chỉ biết ơn những người trao cho bạn cơ hội mới, những người tặng bạn những khoảnh khắc ngọt ngào, và thù ghét những người để lại vết thương lòng trong bạn thì bạn mới chỉ hiểu một nửa thông điệp của tạo hóa.

2. “Bất cứ điều gì xảy thì đó chính là điều nên xảy ra”
Có thể bạn sẽ cảm thấy khó chịu khi kẹt cứng trên một tuyến đường vì phương tiện giao thông quá tải, trong khi có một cuộc phỏng vấn đang chờ. Bạn cũng sẽ thấy dằn vặt, đau thương và tiếc nuối ra sao khi mất mát đi một người thương yêu mình. 

Nhưng bạn có thể không ngờ rằng, nếu bạn đi nhanh hơn thì một chiếc ô tô lao vun vút trên con đường khác có thể cướp đi mạng sống của bạn, và một nửa đích thực của bạn sẽ không có cơ hội được tìm thấy nếu bạn cứ ôm giữ hình bóng của quá khứ.

Mỗi chuyện xảy ra đều là một mảnh ghép hoàn hảo. (Ảnh: Internet) 

Không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi và đừng tốn thời gian để hối tiếc về những chuyện đã qua. Mỗi chuyện xảy ra đều là một mảnh ghép hoàn hảo trong một bức tranh to lớn của cuộc đời.

3. “Chuyện gì đến, nó sẽ đến”

Chúng ta không thể ngăn chặn những điều mình không thể đoán trước xảy ra. Việc lo sợ vào một ngày chuyện tồi tệ ập đến sẽ khiến bạn quên đi những giây phút đáng quý của hiện tại. Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách dũng cảm đón nhận nó. 

Bạn không thể kiểm soát thế giới xung quanh. Chuyện gì phải đến cũng sẽ đến vì sống trên đời không phải để thỏa mãn tất cả những nhu cầu của bản thân, mà để học cách bình thản đối diện với những chuyện bất ngờ xảy ra.

Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách 
dũng cảm đón nhận nó. (Ảnh: Internet) 

Đôi khi, chúng ta phải chờ đợi rất lâu và trải qua rất nhiều những “chuyện sẽ đến” chỉ để hiểu hết ý nghĩa của thời điểm. Thời điểm luôn là món quà mà Thượng Đế trao cho những ai biết nhẫn nại, kiên trì và quyết tâm. 

4. “Những gì đã qua, hãy cho qua”

Quy tắc này rất đơn giản: Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã đi hết nhiệm vụ của mình. Mối duyên phận của chúng ta với điều đó đã chấm dứt, để nhường một mối nhân duyên khác hội tụ. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình mà không nên ôm mãi những phiền muộn hay ký ức của quá khứ. 

Với người Ấn Độ, để có được một cuộc đời thanh thản, bình yên và vững chắc, mỗi người đều nên biết sống tùy duyên và thuận theo tự nhiên. Nhà sư Thích Thánh Tuệ cũng từng nói:
“Ta thường gọi nhân duyên tốt là thuận duyên, và nhân duyên xấu là nghịch duyên, tức là những điều kiện có lợi và bất lợi cho ta. Bản chất của nhân duyên thì không có thuận nghịch, tốt xấu. Nó chỉ hội tụ hay tan rã theo sự thích ứng giữa các tần số năng lượng phát ra từ mọi cá thể mà thôi. Ấy vậy mà thói quen của hầu hết chúng ta khi đón nhận thuận duyên thì luôn cảm thấy sung sướng và rất muốn duy trì mãi nhân duyên ấy, còn khi gặp phải nghịch duyên thì luôn cảm thấy khó chịu và tìm cách tránh né hay loại trừ.

Biết sống tùy duyên… (Ảnh: Internet)

Nhưng chưa hẳn thuận duyên sẽ đem lại giá trị hạnh phúc hay nghịch duyên sẽ mang tới khổ đau, bởi có khi nghịch duyên đưa tới sự trưởng thành, còn thuận duyên sẽ khiến ta yếu đuối. Và nhiều khi thuận duyên ban đầu nhưng lại biến thành nghịch duyên sau này, có khi nghịch duyên bây giờ nhưng lại biến thành thuận duyên trong tương lai. Tất cả đều tùy thuộc vào bản lĩnh và thái độ sống của ta”.

Hãy cứ sống như người Ấn Độ, để sinh mệnh mình trôi theo dòng chảy của vũ trụ, hòa cùng với những quy luật, đặc tính thiêng liêng và những mối nhân duyên đầy ý nghĩa. Bạn sẽ nhận ra rằng mỗi phút giây trên cuộc đời đều thật đáng quý tuyệt vời.

Thiện Phong (tổng hợp)
Blog TTĐ

25 tháng 7, 2018

"BÒN NƠI KHỐ RÁCH, ĐÃI NƠI QUẦN HỒNG"
CÔNG TY DU LỊCH PHƯỢNG HOÀNG TẶNG 1 HUYỆN VÀ 1 THỊ TRẤN TRUNG QUỐC 200.000 USD CHO DỰ ÁN GIẢM NGHÈO DỊP 27/7
Viet Daonv Pham
Công ty Việt. trụ sở tại Việt Nam, đem tiền đi tặng cho Trung Quốc mà không dám đề tiếng Việt mà lại viết tiếng Trung?
Coi khinh tiếng mẹ đẻ và khoe giỏi tiếng Tàu và quỵ lụy Trung Quốc quá đáng.
Đúng là nhục như con trùng trục...

Công ty Việt Nam tặng 200.000 USD hỗ trợ giảm nghèo ở Trung Quốc
Hôm 23.7, Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội đã nhận được 200.000 USD từ Công ty du lịch quốc tế Phượng Hoàng (Phoenix) của Việt Nam hỗ trợ cho các dự án giảm nghèo ở huyện Kim Bình và Ma Lật Pha thuộc tỉnh Vân Nam Trung Quốc, theo website của Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam.
Phát biểu trong buổi nhận tiền quyên tặng, Đại biện lâm thời Doãn Hải Hồng bày tỏ lòng biết ơn, khẳng định công cuộc giảm nghèo đói của Trung Quốc rất cần sự hỗ trợ và đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam. Đại biện lâm thời Doãn cũng nhấn mạnh lại truyền thống hữu nghị nhân dân hai nước, xem đây là một hành động vun đắp cho truyền thống đó.
Đáp lại, Giám đốc Công ty du lịch quốc tế Phượng Hoàng Việt Nam Nguyễn Văn Hùng nói ông rất hân hạnh được tham gia vào hoạt động giảm nghèo của Trung Quốc và tuyên bố sẵn sàng đóng góp tích cực hơn nữa.
Được biết, Công ty du lịch quốc tế Phượng Hoàng sẽ tiếp tục quyên tặng 300.000 USD nữa trong năm nay để phục vụ công cuộc giảm nghèo ở Trung Quốc.
Nghĩa trang Ma Lật Pha (Malipo) tỉnh Vân Nam Trung Quốc, thành lập vào năm 1979, hoàn thành năm 1988, diện tích 50 mẫu Anh. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.

Nghía trang Ma lật pha, chôn cất 9000 binh sĩ Trung Quốc trong cuộc chiến xâm lược Vị Xuyên Hà Giang
Địa chỉ của Phượng Hoàng:
CÔNG TY TNHH CÔNG NGHỆ VÀ DU LỊCH PHƯỢNG HOÀNG
EASTERN PHOENIX INTERNATIONAL TRAVEL - 凤凰国际旅行公司 - บริษัททัวร์ต่างประเทศฟีนิกซ์
Địa chỉ: Phòng 1604, Toà nhà Licogi 13, 164 Khuất Duy Tiến - Thanh Xuân - Hà Nội
Điện thoại: 04 35335388 - Fax: (+84)4 buying Viagra online 35335386 - Hotline: 0975699988

24 tháng 7, 2018

Kinh tế VN không phụ thuộc nhiều vào TQ như nhiều người tưởng

Đăng bởi: Tiểu Nhi on Thứ Ba, 24 tháng 7, 2018 | 24.7.18

Những con số thống kê mà Cơ Quan Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund) mới đây vừa phổ biến cho thấy rằng Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất cảng lớn nhất của Việt Nam vào 2017 thay thế vị trí mà Hoa Kỳ đã chiếm giữ trong 15 năm vừa qua. Điều này xác nhận sự tin tưởng của nhiều người rằng Trung Quốc không những ảnh hưởng mạnh mẽ tới ngoại thương của Việt Nam mà còn cả đến nội thương vì Việt Nam là một nước nhỏ so với nước láng giềngTrung Quốc về dân số, diện tích và kinh tế. Nhưng thực tế không phải hoàn toàn đúng như vậy.






Hình minh họa
Thương mại về hàng hóa
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ vào cuối năm 1991 sau cuộc chiến biên giới 1979, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam vào năm 1988 và Hội Nghị Thành Đô 1990. Từ đó buôn bán giữa hai nước đã gia tăng nhanh chóng từ 692 triệu Mỹ Kim vào năm 1995 lên đến 66 tỉ Mỹ kim vào 2015 là năm mà hiện nay có đủ số thống kê nhất. Trong vài năm đầu, trị giá hàng xuất cảng của Việt Nam vượt trị giá hàng nhập cảng từ Trung Quốc trung bình vào khoảng 41 triệu Mỹ kim hàng năm. Tuy nhiên sáu năm sau cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đối với Trung Quốc đã trở nên thiếu hụt, từ 189 triệu Mỹ kim vào 2001 lên tới 32.9 tỉ Mỹ kim vào 2015, tăng 174 lần, không kể số lượng hàng hóa trao đổi bất hợp pháp qua các vùng biên giới đặc biệt là những nơi gần các thành phố Mống Cái và Lạng Sơn.

Việt Nam nhập cảng từ Trung Quốc nguyên liệu cho kỹ nghệ may mặc (sợi và vải), dụng cụ truyền thông và âm thanh, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, máy móc và dụng cụ công nghiệp, sắt và thép, quần áo và phụ tùng, máy điện và dụng cụ trong nhà, máy phát điện, xe cộ và những máy móc chế tạo riêng cho những ngành công nghiệp đặc biệt.

Hàng hóa của Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc gồm than đá, than cốc, than bánh, trái cây, rau, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, nguyên liệu dệt và vải, dụng cụ truyền thông và âm thanh, máy điện và dụng cụ trong nhà, quặng kim loại và kim loại phế thải, bần và gỗ, máy móc văn phòng và điều hành số liệu và giầy dép.

Ở mức độ vi mô, tình trạng Việt Nam buôn bán với Trung Quốc xem ra còn tăm tối hơn. Vào khoảng 70-80% vật liệu cho ngành dệt vải, may quần áo, làm giầy dép, bộ phận cho công nghệ điện tử và kỹ sư nhập cảng từ Trung Quốc. Những công nhiệp này sẽ gặp khó khăn lớn lao trong trường hợp hàng cung cấp bị gián đoạn bất ngờ. Ngoài ra, Việt Nam chỉ có thể hưởng được thuế nhập cảng ưu đãi khi ít nhất 30% vật liệu dùng để chế tạo hàng xuất cảng của Việt Nam phải được sản xuất ở trong nước hoặc tại các nước trong khối theo hiệp định thương mại.

Những con số ở trên cho thấy Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Trung Quốc nhưng không cho thấy toàn bộ tình trạng thương mại giữa hai nước. Nhìn từ góc cạnh toàn cầu, người ta sẽ thấy một bức tranh khác. Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam trị giá tổng số hàng hóa buôn bán của Việt Nam với thế giới là 327.8 tỉ Mỹ kim vào 2015. Trong đó, số lượng hàng hóa buôn bán với Trung Quốc chiếm 20.1%, so với 12.8 % đối với Hiệp Hội Các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN), 12,6% đối với Hoa Kỳ, 12.6% đối với Hiệp Hội Âu Châu (European Union), 11.1% đối với Nam Hàn và 8.6% đối với Nhật. Ô. Lương Hoàng Thái, Vụ Trưởng Vụ Chính Sách Thương Mại Đa Biên thuộc Bộ Công Thương Việt Nam góp ý nhân có tin Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam kể từ 2017 “chúng tôi muốn gia tăng xuất khẩu đến nhiều nước khác, chứ không chỉ Trung Quốc.”

Việt Nam buôn bán hàng hóa nhiều nhất với Trung Quốc vì hai lý do. Thứ nhất, hàng Trung Quốc rẻ vì chất lượng thấp, nhưng lại hợp với túi tiền của người Việt. Thứ hai, hai nước ở sát cạnh nhau. Về thương mại hàng hóa Trung Quốc là một đối tác quan trọng nhưng không ngự trị Việt Nam. Về lãnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng vậy như người ta sẽ thấy sau đây.

Những nguồn tài trợ

Tính đến 31-12-2016, tổng số vốn đầu tư nước ngoài đã được đăng ký và thuộc những dự án đang hoạt động là 293.7 tỉ Mỹ kim. Phần của Trung Quốc chỉ chiếm 3.6%, hơn con số của Hoa Kỳ là 3.5%. Nam Hàn đầu tư đáng kể ở Việt Nam với 50.5 tỉ Mỹ kim (17.2%). Tiếp theo là Nhật với 42.4 tỉ MK (14,4%), Singapore với 38.3 tỉ MK (13%), Đài Loan với 31.9 tỉ MK (10.9%) và Hồng Kông 17 tỉ MK (5.8%). Trung Quốc có 1,562 dự án đầu tư trực tiếp, chiếm 6.9% của tổng số 22,594 dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, Trung Quốc chỉ giữ vai trò rất khiêm nhường trong lãnh vực đầu tư nước ngoài.

Theo số thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Cooperation and Development - OECD), Việt Nam đã nhận được tổng số tiền đã được giải ngân 5.5 tỉ MK trong chương trình Trợ Giúp Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance - ODA) trong khoảng thời gian 2000-2016. Đây là một chương trình tài trợ với lãi suất thấp và điều kiện dễ dãi cho những nước nghèo. Quốc gia đóng góp vốn nhiều nhất là Nhật Bản. Tiếp theo là Nam Hàn, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada, và Hoa Kỳ.

Theo Trung Tâm AidData Phát Triển Chính Sách (AidData for Development Policy), một cơ quan nghiên cứu tại Đại Học William & Mary, Việt Nam chỉ nhận được 4.3 tỉ MK, tiền tài trợ từ Trung Quốc trong những năm 2000-2013 trong đó có 350 triệu MK là tiền ODA. Số tiền còn lại là phần cho vay với lãi xuất và điều kiện bình thường. Do đó, phần của Trung Quốc chỉ chiếm khoảng dưới 5% trong tổng số nợ nước ngoài 91.2 tỉ MK của Việt Nam tính đến 31-12-2016. Trong khi đó, Trung Quốc cho các nước Á Châu khác vay tiền ODA nhiều hơn trong cùng một thời gian: Campuchia 8.7 tỉ MK, Nam Dương 9.3 tỉ MK, Lào 12 tỉ MK và Thái Lan 15 tỉ MK. Miến Điện, một nước bướng bỉnh, chỉ nhận được 2 tỉ MK nhưng vẫn còn lớn hơn phần dành cho Việt Nam.

Ô. Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh của Việt Nam, tường trình với Quốc Hội cách đây ít lâu rằng “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0.33% quy mô giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là những nhà đầu tư dài hạn.”

Đầu tư công cộng

Điều mà Việt Nam phải lo ngại là những công ty của Trung Quốc đã dễ dàng thắng những dự án đầu tư công cộng của Việt Nam qua thủ tục đấu thầu. Những công ty Trung Quốc đã trúng thầu và đã thực hiện 90% hợp đồng về xây cất, kỹ thuật và chương trình thu mua của nhà nước liên quan đến những nhà máy nhiệt điện, dùng nhân công và vật liệu của Trung Quốc. Tương tự như vậy, 23 trong số 24 nhà máy xi măng của Việt Nam do các nhà thầu Trung Quốc xây. Tình trạng này làm cho người Việt tức giận.

Ô. Lê Hồng Hiệp, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á (Institute for Southeast Asian Studies) nói rằng “Có hai lý do chính khiến cho những nhà thầu kỹ thuật Trung Quốc thắng lợi lớn tại Việt Nam. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển.” Tuy nhiên cần phải kể đến lý do thứ ba là giá đấu thầu của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác. Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc.

Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”

Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.

Những giải pháp khả thi

Việt Nam tham dự vào những hiệp định thương mại quốc tế giúp đa phương hóa thị trường và giúp bớt phụ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam đã ký kết Hiệp Định Thương Mại Song Phương với Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement – BTA) vào 2001. Ngoài ra, Việt Nam còn gia nhập hiệp định thương mại song phương với một số quốc gia khác: Nhật (2008), Chile (2012) và Nam Hàn (2015). Về phương diện đa phương, Việt Nam đã gia nhập ASEAN Free Trade Area (AFTA) vào 1992, Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (World Trade Organization – WTO) vào 2007, Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN (ASEAN Economic Community – AEC) vào 2015 và Hiệp Định Thương Mại Tự Do Âu Á (Eurasian Economic Union Free Trade Agreement – EAEU FTA) vào 2017. Việt Nam hi vọng hiệp ước Thương Mai Tự Do đa phương giữa Liên Hiệp Âu Châu - Việt Nam (European Union – Vietnam Free Trade Agreement – EUV-FTA) sẽ sớm được phê chuẩn. Việt Nam cũng đang chờ đợi để hưởng những lợi ích của hiệp ước Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương Toàn Diện và Lũy Tiến (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP).

Trong một nền kinh tế thế giới mở, tất cả những quốc gia đều phụ thuộc lẫn vào nhau. Việt Nam không nên và sẽ không bao giờ trở nên hoàn toàn độc lập với Trung Quốc và ngược lại bởi vì hai nước ở sát cạnh nhau và Trung Quốc có một nền kinh tế lớn thư hai trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể thâu hẹp cán cân thương mại thiếu hụt với Trung Quốc bằng cách cải tổ môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư nước ngoài có chất lượng để phát triển công nghiệp cao. Rất tiếc rằng gần đây Luật An Ninh Mạng được Quốc Hội thông qua và những cuộc biểu tình lớn tại nhiều thành phố từ Bắc vào Nam chống lại luật này và dự luật Đặc Khu Kinh Tế đã làm cho môi trường kinh doanh giao động, không phục vu cho mục tiêu này.

Áp lực của nợ công và ngân sách thiếu hụt gia tăng trong những năm vừa qua, ngoại trừ 2017 có triệu chứng thuyên giảm, chính phủ Việt Nam đã đặc biệt cố gắng thi hành một số biện pháp để cải tổ những công ty quốc doanh thua lỗ hay yếu kém. Nếu việc này thành công sẽ giúp Việt Nam cải thiện khả năng cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Người ta còn nhớ rằng chương trình cải thiện những công ty quốc doanh đã được bắt đầu bàn tới khoảng 20 năm trước đây, nhưng chưa bao giờ được xúc tiến một cách nghiêm chỉnh vì lợi ích của các phe nhóm trong chánh quyền. Cải tổ có nghĩa là một số viên chức sẽ mất việc làm và quyền lợi.

Tới lúc này chánh quyền không còn lựa chọn nào khác. Tư nhân hóa hoặc giải thể những công ty quốc doanh thua lỗ, thu nhỏ bộ máy của Đảng CSVN và bộ máy cai trị cồng kềnh của chính phủ là những điều bắt buộc. Bán đất cho ngoại bang, một giải pháp cứu vãn cấp thời cho ngân sách và nợ công, không phải là một giải pháp có thể lựa chọn bởi vì nó sẽ đổ thêm dầu vào lửa, tạo thêm rối loạn, và “sẽ đốt cháy những người cộng sản ở Hà Nội” như tờ báo The Economist nhận định.


Nguyễn Quốc Khải


----------------
Tham khảo

1. BBC, “Tiền Chính Phủ Trung Quốc Tới Việt Nam Bao Nhiêu?” October 12, 2017.

2. BBC, “Vén Màn Bí Mật ‘Tiền Viện Trợ’ Trung Quốc,” October 11, 2017.

3. IMF, “Vietnam – Selected Issues,” July 2018.

4. IMF, “Vietnam – 2018 Article IV Consultation – Country Report No. 18/215,” July 2018.

5. Nguyen Dieu Tu Uyen, “China Overtakes U.S. as Top Export Market in one More Nation,” Bloomberg News, April 18, 2018.

6. Nguyễn Quốc Khải, “Kinh Tế Việt Nam: Làm Sao Để Giàm Lệ Thuộc Vào Trung Quốc?” 4-7-2014.

7. The Economist, “Vietnam and China: Through a border darkly,” August 16, 2014.

8. Voice of Vietnam, “Trung Quốc Trở Thanh Thị Trường Xuất Khẩu Lớn Nhất Của Việt Nam,” 19-4-2018.

9. Voice of Vietnam, “Economist Warns of Vietnam’s Over Dependence on China, “May 3, 2015.

(VOA)