30 tháng 6, 2018

Vương Đình Huệ đi Mỹ tiền trạm cho ai?


Tròn một quý sau chuyến công du chẳng ra kết quả gì ở Pháp của Tổng bí thư Trọng, ‘người học trò nghèo hiếu học’ của ông Trọng - Phó Thủ tướng và cũng là nhân vật được bổ sung vào Bộ Chính trị khóa 12 sau khi đã thất bại trong ý đồ trở thành ủy viên bộ chính trị vào năm 2013 - Vương Đình Huệ - đã chợt có một chuyến đi đến Hoa Kỳ từ ngày 25-27/6/2018, nhưng không được thông báo trước trên các phương tiện thông tin đại chúng - một chuyến đi mà nhiều khả năng không chỉ liên quan đến chức trách của ông Huệ mà còn có thể mang nhiều hàm ý và ẩn ý về ‘không ngừng nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế’, tiền trạm cho một ‘đoàn cấp cao’ và cả… xin viện trợ.

Phó Thủ tướng Việt Nam Vương Đình Huệ (bìa phải) chứng kiến thỏa thuân Bamboo Airways mua 20 máy may Boeing của Mỹ hôm 25/6/2018 tại Washington. Photo VietnamNews
Vương Đình Huệ ‘bao sân’

Tại thủ đô Washington D.C., quan chức Vương Đình Huệ đã lần lượt có các cuộc gặp, làm việc với Ngoại trưởng Mike Pompeo và Thứ trưởng Ngoại giao John Sullivan; Bộ trưởng Tài chính Steven Mnuchin; Phó Cố vấn an ninh quốc gia Mira Ricardel và Thượng nghị sĩ Mazie Hirono - thành viên cao cấp Tiểu ban Biển, Ủy ban Quân vụ Thượng viện.

Chức trách hiện thời của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ là phụ trách về kinh tế. Tuy nhiên lịch làm việc trên cho thấy ông Huệ đã ‘bao sân’ cả chức trách của hai người đồng chí của ông trong Bộ Chính trị là Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh và Phó thủ tướng phụ trách nội chính Trương Hòa Bình.

Có thể cho rằng đây là lần thứ hai kể từ năm 2015, Tổng bí thư Trọng ủy quyền cho một quan chức cao cấp để ‘bao sân’ nhiều lĩnh vực trong một chuyến công du đối ngoại như thế. Quan chức cao cấp trước đây được ông Trọng ủy quyền đi Mỹ là Trần Đại Quang, khi đó chỉ là bộ trưởng bộ công an nhưng đã làm việc không chỉ với các cơ quan CIA, FBI mà cả với các đại diện của Bộ Ngoại giao, Quốc hội Mỹ.

Đã rõ là sau chuyến đi Mỹ của Trưởng ban đối ngoại trung ương Hoàng Bình Quân vào năm 2017, chuyến đi Mỹ tiếp theo của Phó thủ tướng Vương Đình Huệ được xác định là ‘tiền trạm cho một đoàn cấp cao’ của giới chóp bu Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời gian tới.

Cho ai?

Ai trong số ‘tứ trụ triều đình’?

Nếu loại trừ Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân là nhân vật mà từ trước tới nay chỉ chủ yếu quan hệ đối ngoại theo ‘kênh gật’, khuôn mặt nào trong số Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Quang và Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn ‘đoàn cấp cao Việt Nam’ sang thăm Hoa Kỳ?

Sau đại hội 12 của đảng cầm quyền vào đầu năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc đã trở thành chóp bu đầu tiên của Việt Nam đặt chân đến Washington vào tháng Năm năm 2017 - một chuyến đi khá vô thưởng vô phạt và chẳng mang lại lợi lộc gì về các bản hiệp định thương mại song phương.

Phúc đã đi Mỹ, đã không thể thuyết phục Trump và từ đó đến nay cũng chẳng thấy hy vọng nào sẽ thuyết phục được Trump gỡ bỏ Việt Nam khỏi danh sách các nước ‘gây hại cho Mỹ’ và bị Mỹ áp dụng nguyên tắc ‘công bằng và đối ứng’. Do vậy Phúc sẽ khó đi Mỹ thêm lần nữa.

Còn Trần Đại Quang?

Có một mối duyên định giữa Trần Đại Quang và Nguyễn Phú Trọng.

Vào tháng Ba năm 2015, khi còn là Bộ trưởng công an, Trần Đại Quang có một chuyến công du khá hoành tráng đến Hoa Kỳ, đặt dấu tiền trạm cho một chuyến công du sau đó và quan trọng hơn hẳn là của Tổng bí thư Trọng đến Washington vào tháng 7/2015, nơi ông Trọng được phía Mỹ đón tiếp như một nguyên thủ quốc gia.

Hai năm sau đó, Trần Đại Quang đã trở thành chủ tịch nước và đã có một vị thế chính trị khác hẳn, dù cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn hẳn.

Sau một lần ‘biến mất’ cả tháng trời từ cuối tháng Bảy đến cuối tháng Tám năm 2017, trùng với vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’ nổ ra ở Đức và ‘lò đã nóng lên rồi thì củi tươi đưa vào cũng phải cháy’ của Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang đã ‘tái xuất’, để đến tháng Mười Một năm 2017, Quang đã lần đầu tiên được giới quan sát chính trị xem là nhân vật đóng vai trò, ít ra trên danh nghĩa, là chủ tịch nước trong một sự kiện đối ngoại đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam: Hội nghị thượng đỉnh kinh tế châu Á - Thái bình Dương (APEC) được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng. Khi đó, chính là Trần Đại Quang, chứ không phải là Nguyễn Phú Trọng, đã có cơ hội được đón tiếp và trao đổi với hàng loạt thủ lĩnh quốc tế như Donald Trump, Tập Cận Bình, Putin…

Nhưng chỉ vài ngày sau khi APEC kết thúc tại Đà Nẵng mà được hệ thống báo đảng tự ca ngợi hết lời, Nhân Dân - “cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam” - đã đăng bản tin với tựa đề kỳ quặc: “Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp; Chủ tịch nước Trần Đại Quang đón, hội đàm; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hội kiến Tổng thống Hoa Kỳ Đ. Trăm”.

Tựa đề trên có thể khiến người đọc cảm thấy ngay đã có một sự phân chia “quyền lực” rất có chủ ý và cũng rất tỉ mẩn, lục đục giữa 3/4 của “tứ trụ” trong việc tiếp “Trăm” (phiên sang tiếng Anh là Trump).

Kể từ lúc đó, báo đảng nói riêng và báo chí nhà nước Việt Nam nói chung khá hiếm hoi đăng hình ảnh của Trần Đại Quang, hoàn toàn tương phản với hình ảnh tràn ngập ‘Người đốt lò vĩ đại’, ‘Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ và ‘Minh quân’ của Nguyễn Phú Trọng.

Vào tháng Tư năm 2018 và ngay trước khi Hội nghị trung ương 7 của đảng cầm quyền diễn ra, Trần Đại Quang lại một lần nữa ‘biến mất’.

Còn sau Hội nghị trung ương 7, người ta chợt chứng kiến một phát ngôn ‘cần luật Biểu tình’ của Trần Đại Quang bị báo chí thẳng tay bóc gỡ. Lần đầu tiên từ khi trở thành chủ tịch nước, Trần Đại Quang bị đảng ‘khóa miệng’. Sự kiện chẳng biết mô tả ra sao ấy càng làm dĩ vãng ‘Trần Đại Quang tiền trạm cho Nguyễn Phú Trọng’ chỉ còn là thời phô diễn mặn nồng xa xưa, trong lúc có quá nhiều nghi ngờ về chuyện ‘cơm không lành canh không ngọt’ giữa hai nhân vật này.

Trần Đại Quang, cũng bởi thế, khó có thể công du Mỹ trong thời gian tới.

Chỉ còn lại Nguyễn Phú Trọng.

Tham vọng gặp Trump

Vào năm 2015, dù chỉ là ‘đảng trưởng’ nhưng Nguyễn Phú Trọng đã được tổng thống Mỹ khi đó là Barak Obama đặc cách tiếp tại Phòng Bầu Dục và tiếp như một nguyên thủ quốc gia. Sự hiện diện lần đầu tiên ở Washington lần đó của Nguyễn Phú Trọng đã chỉ phải đánh đổi bằng việc chính thể độc đảng và chưa bao giờ yêu mến dân chủ ở Việt Nam chấp nhận định chế công đoàn độc lập mà người Mỹ đòi hỏi - như một điều kiện quan trọng trong Hiệp định TPP và một khi Việt Nam muốn tham gia vào hiệp định này.

Chỉ là sau đó, TPP đã gần như tan vỡ và do vậy những cam kết của chính thể Việt Nam về công đoàn độc lập cũng chẳng còn thấy tăm hơi đâu.

Nhưng giờ đây, sự thể còn dễ dàng hơn cho Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ta, khi Donald Trump đã có khá đủ thời gian để trở thành một vị tổng thống chẳng mấy quan tâm đến quá nhiều vi phạm nhân quyền ở Việt Nam và sự cấp thiết phải cải thiện tình trạng này.

Nhưng nỗi khó chịu cũng không vì thế mà giảm đi. Dù bàng quan với nhân quyền, Trump lại là một trong những chính khách thực dụng nhất trong các triều đại tổng thống Hoa Kỳ. Bài toán thương mại song phương ‘công bằng và đối ứng’ mà Trump đang đặt ra đối với Việt Nam xem ra còn khó nhằn hơn nhiều so với những yêu cầu về cả thiện nhân quyền trước đây.

Nhiều khả năng, và trên thực tế tương quan quyền lực nội bộ đảng hiện nay thì cũng chẳng còn khả năng nào khác, chính Nguyễn Phú Trọng sẽ dẫn ‘đoàn cấp cao’ để công du Mỹ, trên cơ sở chuyến đi tiền trạm của Vương Đình Huệ.

Nguyễn Phú Trọng có vẻ đang muốn tái hiện ‘ kỳ tích’ của ông ta ở Mỹ cách đây ba năm, đồng thời ‘phát huy thắng lợi’ từ chuyến công du Pháp của ông ta vào tháng Ba năm 2018.

Nhưng khác hẳn với bối cảnh của chuyến công du Hoa Kỳ năm 2015, vào lần này ông Trọng phải mang trên mình trách nhiệm vô cùng lớn lao: kiếm tiền nuôi đảng.

Sự thật đắng ngắt là trong vài ba năm qua, người Mỹ đã cắt kênh viện trợ ODA và viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam. Khác hẳn thời kỳ Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng với tiền vay quốc tế nhiều như nước và đổ vào túi quan tham cũng chẳng kém gì, thời của cặp đôi Trọng - Phúc đã sinh ra nỗi bĩ cực khi muốn vay cũng chẳng được.

Nhiều khả năng sẽ diễn ra cuộc gặp Trump - Trọng tại Washington mà đã không xảy ra tại Hội nghị APEC Đà Nẵng vào tháng Mười Một năm 2017. Dự trù cho cái tương lai cận cảnh và khá phiêu lưu ấy, dường như Nguyễn Phú Trọng còn chuẩn bị lá bài ‘không ngừng nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế’: tiến trình bình thường hóa có tốc độ tên lửa giữa Kim Jong Un - người đồng chí Bắc Triều Tiên của Việt Nam - với Hàn Quốc và với Mỹ có thể đã khiến ông Trọng không muốn đứng ngoài cuộc. Phải có một hành động gì đó, dù chỉ thuần túy ‘làm màu’, để cho thấy ‘Minh quân’ Nguyễn Phú Trọng và chính thể cộng sản của ông vẫn tạo ra được một ảnh hưởng nào đấy - như một cầu nối nhanh chóng hơn cho công cuộc hòa bình trên bán đảo Triều Tiên và sán lạn trong mắt người Mỹ.

Phạm Chí Dũng 

29 tháng 6, 2018

CẢNH BÁO MỐI NGUY DIỆT VONG: Tập đoàn FLC, luật đất đai và nguy cơ mất nước vào tay Trung Quốc 


Nhà báo Hoàng Hải Vân – nguyên Tổng thư ký báo Thanh Niên đã có những cảnh báo đáng chú ý về khả năng phòng thủ của nước ta trước nguy cơ chiến tranh với Trung Quốc. Chúng tôi xin đăng nguyên văn bài báo này.
“Quốc Hội Mỹ đã từng chặn một thương vụ Trung Quốc thâu tóm một cảng biển của Mỹ. Trong hồi ký của mình, cựu Chủ tịch FED Greenspan không tán thành việc ngăn cản trên, ông cho rằng làm như vậy là không cần thiết và có thể hạn chế tự do thương mại. Giữa Trung Quốc với Mỹ không có tranh chấp lãnh thổ, dù cho điều gì xảy ra thì Trung Quốc cũng không thể sử dụng phương tiện của họ trên đất Mỹ để gây hại cho an ninh quốc gia của Mỹ, nên có lẽ các chính trị gia Mỹ đã lo quá xa. Nhưng sự lo xa của họ không phải là không có lý do khi nhìn thấy Trung Quốc thâu tóm đất đai khắp nơi trên thế giới.


Nước Mỹ còn lo xa như thế, còn nước ta thì sao ? Việt Nam và Trung Quốc đang tranh chấp lãnh thổ, nói trắng ra là Trung Quốc đang chiếm Hoàng Sa, một phần Trường Sa của Việt Nam và đang tiếp tục đe dọa chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Vì vậy, nước ta không những phải lo xa mà còn lo gần, vì nguy cơ mất đất mất biển đang hiện hữu.

Nỗi lo đó không phải thể hiện ở việc “vô cùng quan ngại” hay “cực lực lên án”, mà ở chiến lược phòng thủ và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Đa phương hóa vấn đề Biển Đông, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để kiềm chế tham vọng của Trung Quốc là một chuyện, nhưng chuyện quan trọng nhất là khả năng tự vệ, không những đối với thế hệ này mà phải bảo đảm khả năng tự vệ dài lâu cho con cháu, đến khi nào thế giới đại đồng thành một ngôi nhà hòa bình mới không còn nỗi lo đó nữa, nhưng chẳng bao giờ có một thế giới như vậy đâu.
Tôi không biết các nhà lãnh đạo đất nước và các nhà lãnh đạo quân sự chiến lược nước ta nghĩ gì khi nhìn thấy đất đai khu vực dọc bờ biển từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ, cả những vị trí phòng thủ chiến lược trọng yếu, đã và đang đẩy dân đi để giao cho doanh nghiệp làm dự án kinh tế mà không hề có một động thái gì cho thấy việc triển khai các dự án kia nằm ngoài vành đai phòng thủ chiến lược bờ biển quốc gia. Những địa điểm phòng thủ quan trọng nhất trên bờ biển Đà Nẵng thực sự đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm giữ. Còn các nơi khác thì như thế nào ?
Xin dẫn trường hợp của FLC. Người ta không thể nào hình dung nổi tập đoàn bất động sản mới nổi này lấy tiền đâu mà chỉ trong một thời gian cực ngắn đã thâu tóm một diện tích đất đai khổng lồ dọc bờ biển từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ (chưa kể đất đai ở Quảng Ninh, Hải Phòng và các tỉnh khác). Thâu tóm thần tốc, thi công thần tốc, đó là những gì người ta nhìn thấy, kéo theo đó là những “công văn hỏa tốc” của chính quyền địa phương (như trường hợp của Quảng Ngãi) phục vụ cho sự “thần tốc” này. Tôi chưa nói đến những vi phạm pháp luật, chưa nói đến tình trạng dân oan ca thán khắp nơi xung quanh việc thu hồi đất, bài này chỉ giả định mọi thứ họ làm là hợp pháp.

Bạn hãy hình dung : FLC là một công ty đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán. Dù công ty này chưa nằm trong số các công ty được mở room 100% cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng tại một cuộc hội thảo diễn ra ở Nhật vào năm ngoái, Chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết tuyên bố, ngoài việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước ngoài” (tinnhanhchungkhoan.vn, 7-9-2017). Nếu như các dự án của FLC được chuyển nhượng cho các nhà đầu tư Trung Quốc thì điều gì sẽ xảy ra ? Trung Quốc, thông qua các doanh nghiệp của họ, sẽ khống chế toàn bộ bờ biển Việt Nam. Họ có thể ém quân, đưa vũ khí khí tài, tổ chức các hoạt động thu thập thông tin tình báo và bí mật huấn luyện quân sự tại những cơ sở của họ dọc theo bờ biển của ta, nếu như họ có ý đồ. Và nếu như Trung Quốc ngang nhiên sử dụng vũ lực để uy hiếp chủ quyền của ta trên Biển Đông, đương nhiên chúng ta phải dùng vũ lực để đáp trả nhằm bảo vệ chủ quyền, khi ấy chiến tranh có thể lan rộng, Trung Quốc có thể đem hải quân tấn công vào bờ biển của ta với sự tiếp ứng của lực lượng tại chỗ trên bờ biển của ta mà họ chuẩn bị sẵn. Chúng ta sẽ dựa vào đâu để phòng thủ ?
Khi ấy, nước sẽ mất. Chúng ta sẽ rút lên rừng, mà rừng thì nhiều nơi Trung Quốc cũng chiếm giữ theo một cách tương tự. Chúng ta sẽ sống trong nô lệ và sẽ âm thầm truy ra nguyên nhân sâu xa của tình trạng mất nước chính là Điều 62 của Luật Đất đai cho phép chính quyền địa phương thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp để doanh nghiệp giao lại cho doanh nghiệp Trung Quốc khi ấy đã thành giặc. Và khi ấy, những người xây dựng và duy trì điều luật này, có thể sẽ tiếp tục làm quan cho Trung Quốc hoặc đã đủ tiền để chạy ra nước ngoài.


Kịch bản trên có thể xảy ra không ? Không gì là không thể.
Cách đây mấy ngày, cả Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực UBND tỉnh Quảng Trị cùng ông Trịnh Văn Quyết đi khảo sát để chuẩn bị giao cho FLC 1000 ha khu vực bãi biển Cửa Việt của tỉnh này. Đây là thông tin mới nhất của quá trình thâu tóm thần tốc. Tại đây FLC dự kiến ngoài khu resort, sân golf, còn xây dựng một sân bay. Có khả năng Tập đoàn này sẽ lấp kín các bờ biển mà doanh nghiệp khác chưa chiếm cứ.
Điều 62 Luật Đất đai với quy định cho phép chính quyền địa phương lấy đất của dân giao cho các doanh nghiệp làm dự án, ngoài những tác hại như tôi đã nói ở các bài trước, còn có thể dẫn đến nguy cơ mất nước. Trước mắt, điều khoản này đang biến một số chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp huyện từ công cụ phục vụ lợi ích của nhân dân thành công cụ của doanh nghiệp. Và không chỉ có mỗi một FLC.
Điều nguy hiểm là, đã là luật rồi thì chính quyền địa phương cứ thế thi hành, không ai cản được. Cho dù Tổng Bí thư hay Thủ tướng có nhìn thấy nguy cơ cũng bó tay, nếu điều luật này không được sửa.
Hoàng Hải Vân
Blog PVD

28 tháng 6, 2018

Phạm Chí Dũng - Vì sao VN tham gia tập trận hải quân lớn nhất thế giới tại Mỹ?


Vì sao lần đầu tiên từ năm 1975 và cũng là lần đầu tiên từ năm 1995 sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, giới chóp bu Việt Nam lại ‘can đảm’ cho lực lượng hải quân nước này tham gia tập trận hải quân lớn nhất thế giới mang tên Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) tại Hawaii và Nam California - bắt đầu vào cuối tháng Sáu năm 2018?

Cờ công ty Repsol tại Madrid, Tây Ban Nha.
‘Can đảm’ sau 5 năm

Theo não trạng và cũng là thói quen cố hữu của đảng Cộng sản, tin tức chưa có tiền lệ trên hoàn toàn không được thông báo bởi Bộ Quốc phòng hay Bộ Ngoại giao của Việt Nam, mà được phát ra bởi trang mạng Stars & Strips dẫn từ thông báo của Hải quân Mỹ. Vào ngày 30/5/2018, Hải quân Mỹ đã công bố danh sách 26 quốc gia tham dự cuộc tập trận hải quân RIMPAC, diễn ra từ ngày 27/6 đến 2/8/2018, trong đó Việt Nam, Sri Lanka, Brazil và Israel là 4 nước lần đầu tiên tham dự cuộc tập trận RIMPAC.

Nếu kế hoạch này diễn ra mà không có sự đổi ý từ Việt Nam, quyết định tham gia RIMPAC là một bước tiến khá dài của Việt Nam kể từ khi chế độ độc đảng này dám đăng ký để trở thành quan sát viên cho cuộc tập trận mang tên Hổ Mang Vàng do quân đội Mỹ chủ xướng vào đầu năm 2016.

Sự kiện Việt Nam dám tham gia RIMPAC diễn ra chỉ 2 tháng sau một sự kiện có mức độ ‘can đảm’ gần như thế: tháng 3/2018, hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ đã cập cảng Đà Nẵng ở miền Trung Việt Nam - theo một thỏa thuận giữa Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis và Bộ trưởng quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch.

Sự trùng hợp giữa hiện tại và quá khứ là cái tên Đà Nẵng. 5 năm trước, có 3 tàu chiến Mỹ đã đến vùng biển Đà Nẵng để tiến hành sứ mệnh “giao lưu hải quân” với quân đội Việt Nam. 2013 cũng là năm mà không khí “chiến tranh lạnh” giữa Mỹ và Việt Nam phần nào được cải thiện bằng một chuyến công du của nhân vật số 2 trong đảng Cộng sản Việt Nam - Chủ tịch nước Trương Tấn Sang - đến Tòa Bạch Ốc để có cuộc hội kiến với Tổng thống Mỹ Barak Obama. Cải hai đều cười tươi và cùng nói về triển vọng của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ muốn chấp nhận cho Việt Nam tham gia.

Còn giờ đây, dưới thời Tổng thống Donald Trump, Washington đã chính thức rút khỏi TPP và khiến Việt Nam hụt hẫng bởi nước này chẳng còn hy vọng trở thành “quốc gia hưởng lợi nhiều nhất trong TPP” nếu TPP có mặt người Mỹ. Nhưng thay vào đó, giờ đây Việt Nam và Mỹ lại có cùng một cái nhìn về an ninh Biển Đông, cùng để bảo vệ lợi ích của của mình.

Phải mất đến 5 năm để quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ nhích thêm một chút và có một nét gì đó thực chất hơn.

Cô đơn giữa khu rừng “đối tác chiến lược”

Khoảng thời gian nửa cuối năm 2017 và đầu năm 2018 đã chứng kiến một chủ trương có thể tạm gọi là “dựa Mỹ đối Trung” của giới chóp bu Việt Nam - như một biện pháp tình thế trong ngổn ngang và hỗn tạp tâm thế “không ưa Mỹ nhưng vẫn cần Mỹ”, vẫn chưa có gì thay đổi tính từ giữa năm 2014 đến nay và đặc biệt trong gần nửa năm qua.

2014 là năm tung tóe vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như chốn không người và như một cú vỗ mặt nảy đom đóm vào Bộ Chính trị Việt Nam. Trong cuộc khủng hoảng mang tên “Hải Dương 981” kéo dài từ tháng Năm đến tháng Bảy năm 2014, hầu hết các “đối tác chiến lược” của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Thế nhưng sau đó, giới chóp bu Việt Nam có vẻ vẫn chưa tỉnh ngộ về thực chất “bạn vàng” là thế nào và vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách “đu dây chính trị” cho tới khi “té lộn đầu” trong hai vụ khủng hoảng Bãi Tư Chính năm 2017 và 2018.

Rất nhiều lần, mặc dù luôn tuyên bố chủ quyền với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng phía Việt Nam đã tìm cách im lặng “cho nó lành” trước Trung Quốc. Ngay cả vụ việc giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm Biển Đông vào giữa năm 2014 cũng không làm cho giới lãnh đạo Việt Nam sôi sục nỗi liêm sỉ. Khi đó, đã không có bất kỳ một văn bản nào của Bộ Chính trị hay nghị quyết nào của Quốc Hội Việt Nam lên án hành vi xâm phạm của Trung Quốc.

Từ đó đến nay, giới chóp bu Việt Nam chưa bao giờ cô đơn đến thế trên trường quốc tế, dù Việt Nam đã thủ đến chẵn một tá “đối tác chiến lược” trong túi, kể cả một “đối tác chiến lược” khác là Đức mà Việt Nam đã bị quốc gia này “tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” ngay sau việc Nhà nước Đức cáo buộc mật vụ Việt Nam bắt cóc một nghi phạm kinh tế là Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin vào tháng Bảy năm 2017.

Chỉ đến đầu năm 2016, sách lược “đu dây” của Việt Nam mới có chút xoay chuyển trước sức ép ngày càng gia tăng của Trung Quốc trên Biển Đông, đặc biệt Bắc Kinh nhòm ngó ngày càng lộ liễu vào việc khai thác dầu khí của Việt Nam ở mỏ Cá Rồng Đỏ thuộc Bãi Tư Chính và và mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Đà Nẵng, cùng lúc tàu Trung Quốc tăng cường khiêu khích và bắn giết ngư dân Việt trên biển.

Từ đầu năm 2016 đến nay, có ít nhất ba lần thể chế một đảng ở Việt Nam đã “ngó lơ” chuyện chiến hạm Mỹ áp sát quần đảo Hoàng Sa như một động tác thách thức Trung Quốc, trong đó có hai lần Bộ Ngoại giao Việt Nam bất thần tỏ ra “can đảm” khi đưa ra tuyên bố hoặc “tàu Mỹ đi qua vô hại” hoặc “tàu Mỹ tự do giao thông ở Biển Đông.”

Hẳn là từ đầu năm 2016, “tập thể Bộ Chính Trị Việt Nam” đã bắt đầu phải tính toán việc dựa dẫm vào sức mạnh của hải quân Mỹ để bảo vệ vùng biển và lợi ích khai thác dầu khí của mình.

Cơn ác mộng mất ăn dầu khí

Một thực trạng trần trụi là mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ và mỏ Cá Voi Xanh là những tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách. Nếu Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với Việt Nam, và hãng Exxonmobil của Mỹ liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam khai thác thành công hai mỏ dầu khí này thì ngân sách của chế độ Việt Nam sẽ được chia phần không ít.

Nhưng vào tháng Bảy năm 2017 và tháng Tư năm 2018 đã xảy ra hai vụ chấn động mà được dư luận xã hội liệt vào loại “nhục quốc thể”: cả hai lần đó chính quyền Việt Nam đều phải “giương cờ trắng” khi yêu cầu ngừng hoạt động thăm dò khí đốt của Repsol ngay tại Bãi Tư Chính mà luôn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng “thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam”. Dù chưa bao giờ giới tuyên giáo hay Bộ Ngoại giao Việt Nam dám nói toạc về cái nguồn cơn sâu xa của vụ “nhục quốc thể” ấy, nhưng vụ “giương cờ trắng” này lại trùng hợp với tin tức quốc tế cho biết sau khi Bắc Kinh đe dọa sẽ tấn công một số căn cứ quân sự của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa nếu Việt Nam cho phép Repsol tiếp tục khoan thăm dò dầu khí.

Chưa hết, sau thất bại ở Bãi Tư Chính, Việt Nam lại có nguy cơ bị Trung Quốc cản trở việc khai thác dầu khí ở mỏ Cá Voi Xanh - dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam, nơi được phát hiện bởi Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ và có thể sẽ đóng góp gần 20 tỷ đô la vào ngân sách Việt Nam.

Trong khi đó, Tập Cận Bình lại cử Vương Nghị - Bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc - đến Việt Nam ngay sau vụ Bãi Tư Chính lần hai, với một “tối hậu thư”: Việt Nam phải “cùng hợp tác khai thác” mỏ Cá Rồng Đỏ với Trung Quốc. Nếu không, “bản lĩnh Việt Nam” sẽ hết cửa kiếm tiền ngay trong vùng lãnh thổ của mình.

Không bao lâu sau ‘tối hậu thư’ của Vương Nghị, Trung Quốc đã tiến thêm một bước xa hơn bằng việc vẽ lại ‘đường lưỡi bò’ quét qua đến 67 lô dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông, chặn toàn bộ cửa ‘làm ăn’ của kẻ vẫn đang mơ màng về ‘Bốn Tốt’ và ‘Mười sáu chữ vàng’.

Vì sao Việt Nam phải trở thành đồng minh gián tiếp của Mỹ?

Vào thời gian này, ngày càng nhiều tàu cá Việt Nam bị tàu hải giám và tàu cá Trung Quốc tấn công, đâm chìm, còn ngư dân Việt bị hành hung và bị hất xuống biển.

Không chỉ đặt tên lửa, Trung Quốc còn tiến thêm một bước dài khi mang cả máy bay quân sự ra đảo Đá Subi ở quần đảo Trường Sa.

Sau bi kịch quân sự là bi kịch xã hội. Phép thử chiến thuật “áo lưỡi bò” của du khách Trung Quốc phô diễn tại sân bay Cam Ranh - mang tính thách thức của giới chuyên gia tâm lý chiến Bắc Kinh - đã khiến cho toàn bộ bộ máy đảng cầm quyền, chính quyền và chính sách “Ba không” của Việt Nam hầu như tê liệt…

Rất có thể, tình trạng cô đơn cùng cực trên trường quốc tế cùng trạng thái mất ngủ lẫn mất ăn dầu khí đã khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam phải tiến tới quyết định ‘bám Mỹ’, với bước đi liều lĩnh hơn hẳn khi tham gia vào cuộc tập trận hải quân lớn nhất ở Hoa Kỳ từ tháng Sáu đến tháng Tám năm 2018. Bằng cách thức này, Việt Nam đã gián tiếp xác nhận bước đi của mình như một đồng minh quân sự của Mỹ, chứ không chỉ là tư cách quan sát viên như hồi 2016.

Vài bước đi gần đây của Bộ Quốc phòng Việt Nam trong mối quan hệ có tính giao hảo với quân đội Ấn Độ, Nhật Bản và Úc càng cho thấy Việt Nam đang dần ngả về khối quân sự đồng minh Đông Bắc Á - với ý đồ mượn tay khối này để đối trọng hay chống trả lại kế hoạch thôn tính toàn bộ biển Đông của Trung Quốc.

Phạm Chí Dũng

27 tháng 6, 2018

Đến khi nào Việt Nam thôi “bắt tay” với doanh nghiệp Trung Quốc?


Bộ Công Thương mới đây có văn bản gửi Thủ tướng, báo cáo phương án hợp tác đầu tư một số dự án nhà máy nhiệt điện. Theo đó, Bộ này kiến nghị Thủ tướng giao liên danh thực hiện dự án Nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lập 1 (Nghệ An) thay cho Tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam (TKV). Lý do là vì TKV không đáp ứng được nhu cầu vốn triển khai dự án đúng tiến độ và gặp khó khăn trong huy động vốn từ 2 nhà đầu tư là Kospo và Samtan (Hàn Quốc).

Dự án nhà máy thép 6000 tỷ liên danh với Trung Quốc đang nằm đắp chiếu
Tuy nhiên, đánh giá năng lực của liên danh Tập đoàn Geleximco – Công ty TNHH Hong Kong United (HUI) cho thấy, phương án tài chính mà Geleximco và liên danh đưa ra lại phần lớn dựa vào vốn vay từ Trung Quốc, với tỷ lệ vốn đối ứng 20% vốn chủ sở hữu và 80% vốn vay. Dự kiến lãi suất vay từ nguồn tín dụng thương mại là 10,86% một năm và quốc tế là 11,77% một năm.

Do đó, dự án này một lần nữa đặt ra nhiều nghi vấn đối với các nhà chuyên môn xung quanh tính khả thi và hiệu quả, sau hàng loạt những tồn tại đã và đang diễn ra tại các dự án do nhà thầu Trung Quốc triển khai. Giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường nói về điều này:

“Sự thực mà nói thì tôi cũng thường xuyên đặt câu hỏi để rồi tự trả lời xem là tại sao? Tất nhiên nó có một cái lý mà nhiều người cho rằng nó mang tính hình thức, đó là các doanh nghiệp Trung Quốc thường chào với cái giá rất rẻ, thế nhưng mà còn có lý do mà tôi vẫn cho rằng logic thực tế hay nằm ở chỗ đó chính là câu chuyện tham nhũng trong quá trình đấu giá đấu thầu."

Trước ý kiến cho rằng, việc doanh nghiệp Trung Quốc có chính sách “lại quả” từ 30% đến thậm chí 50% giá trị dự án chính là nguyên nhân khiến doanh nghiệp Trung Quốc thường trúng thầu tại các siêu dự án tại Việt Nam, GS Võ bày tỏ quan điểm:

Có thể lúc đầu thì chưa thân lắm, nhưng rồi qua công việc, qua những cái “hoa hồng” đấy rồi dẫn cái thân rồi dần dần thành nếp. Đấy là một cái mà tôi cho rằng nhược điểm rất lớn trong hệ thông quản lý ở Việt Nam mà cần phải khắc phục bắt đầu từ việc bài trừ chủ nghĩa thân hữu - GS Đặng Hùng Võ

“Ở Việt Nam hiện nay có một cái tôi cho là điều dở đó là mối quan hệ thân hữu , quen thân rồi thì cứ như thế nó giải quyết công việc nó nhanh, nó tiện thì đó gọi là chủ nghĩa thân hữu trong quản lý ở Việt Nam hiện nay còn chiếm xu thế khá mạnh. Tất nhiên là cái đó nó lại gắn với tham nhũng, có thể lúc đầu thì chưa thân lắm, nhưng rồi qua công việc, qua những cái “hoa hồng” đấy rồi dẫn cái thân rồi dần dần thành nếp. Đấy là một cái mà tôi cho rằng nhược điểm rất lớn trong hệ thông quản lý ở Việt Nam mà cần phải khắc phục bắt đầu từ việc bài trừ chủ nghĩa thân hữu”

Đồng quan điểm với GS Đặng Hùng Võ, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý giá (Bộ Tài chính) giải thích thêm:

“Mình quá coi trọng chỉ tiêu về giá. Nó bỏ với giá thấp xong cuối cùng nó lại dùng chiêu trò để nâng giá lên thì cuối cùng cũng lại bằng vô nghĩa. Bên cạnh đó thì nó lại có điều kiện là cấp cho mình vốn vay tín dụng thì đó là ưu điểm. Một cái nữa cũng phải hết sức thông cảm là cách làm ăn của Việt Nam với anh Trung Quốc là quan hệ lâu rồi thì cái đó nó cũng tác động. Tuy nhiên, phải nói thẳng ra là những dự án mà nhà thầu Trung Quốc thi công triển khai thì đều kém hiệu quả và gây lãng phí thất thoát”

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cũng cho rằng rất nhiều các dự án mà Trung Quốc đã trúng thầu và đang thi công đều gây lãng phí bởi trên thực tế công nghệ của Trung Quốc yêu cầu chi phí đầu tư và duy tu bảo hành cao tuy nhiên lại không mang lại hiệu quả kinh tế như mong đợi. Trong khi đó, GS Đặng Hùng Võ lại lên án những hậu quả đối với môi trường từ các công nghệ của nhà thầu Trung Quốc. Ông nói:

“Tất cả những cái mà Việt Nam đã nhìn thấy rồi như công nghệ xi măng lò đứng, mía đường hay như nhiều thứ công nghệ khác, Việt Nam cũng đã nhập của Trung Quốc, thậm chí là biết rồi nhưng mà vẫn có một loạt các nhà máy xi măng lò đứng vẫn đang làm việc và vẫn đang gây ô nhiễm môi trường, trong khi ở Trung Quốc người ta đã bỏ xi măng lò đứng từ lâu rồi”

Gần đây phải nói rằng bệnh chậm tiến độ, đội vốn kéo dài hay là thất thoát lãng phí trong đầu tư công nó là một bệnh trầm kha, một bệnh cố hữu của Việt Nam. Nói chung là các dự án đầu tư công ở Việt Nam hiện nay có đến 40-50% các dự án phải điều chỉnh do chậm tiến độ, do chi phí đội lên…chi phí rất là lớn - TS. Ngô Trí Long

Thực tế này được minh chứng bằng các dự án như Dự án Tổ hợp Bô xít Tây Nguyên đội vốn hơn 30 nghìn tỷ và chậm tiến độ hơn 6 năm, Dự án nhà máy gang thép Lào Cai và dự án mỏ sắt Quý Xa trị giá 6.000 tỷ nằm đắp chiếu, Dự án nhà máy đạm Ninh Bình – 1 trong 12 dự án đội vốn thua lỗ nghìn tỷ của Bộ Công thương hay gần đây nhất là dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông đội vốn hơn 7000 tỷ đồng và chậm tiến độ 3 năm tính đến thời điểm hiện tại. Bên cạnh đó là hàng trăm dự án xây dựng và giao thông lớn nhỏ trải dài từ Bắc vào Nam cũng đang gặp phải những vấn đề về chi phí đầu tư và tiến độ gây thất thoát lãng phí, làm tăng thêm gánh nặng về lãi suất và gây nên những hiệu quả tiêu cực đối đời sống kinh tế, xã hội của người dân.

Theo TS Ngô Trí Long, mối quan hệ thân hữu giữa các vị lãnh đạo cấp cao của Việt Nam và Trung Quốc trong suốt nhiều thập kỷ qua cùng những khoản “lại quả” giá trị cao, thậm chí bằng tiềng mặt của nhà thầu Trung Quốc là nguyên nhân dẫn tới những bài học đầy “đau thương” hiện nay:

“ Gần đây phải nói rằng bệnh chậm tiến độ, đội vốn kéo dài hay là thất thoát lãng phí trong đầu tư công nó là một bệnh trầm kha, một bệnh cố hữu của Việt Nam. Nói chung là các dự án đầu tư công ở Việt Nam hiện nay có đến 40-50% các dự án phải điều chỉnh do chậm tiến độ, do chi phí đội lên…chi phí rất là lớn”

TS Ngô Trí Long cũng cho rằng mặc dù đã có Luật đầu tư công ban hành từ năm 2014 nhưng do năng lực hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý nên tình trạng trên vẫn không hề được cải thiện. Trong khi đó, GS Đặng Hùng Võ đưa ra khuyến cáo trong việc lựa chọn nhà thầu có thể đảm bảo những yêu cầu kỹ thuật trước hết rồi mới tính đến các phương án giá bỏ thầu khả thi để tránh tình trạng nhà thầu không vượt qua được rào cản kỹ thuật, đình trệ thi công và liên tục đề xuất tăng vốn gây thất thoát ngân sách nghiêm trọng như hiện nay.

(rfa)

24 tháng 6, 2018

Nguyễn Ngọc Chu - Muốn dân tin thì hãy thực hiện theo di chúc cụ Hồ

Khi ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với cử tri Thủ Thiêm hôm 20/6/2018 rằng “Tôi nói giọng Bắc, nhưng tôi người Nam, tôi không gạt bà con đâu”, là lúc chính ông đã thừa nhận những sự thật chát đắng.

Ông Nguyễn Thiện Nhân
Chát đắng đầu tiên, là không phải Dân không muốn tin, mà Dân không dám tin chính quyền nữa, vì chính quyền đã gạt dân nhiều lần.

Chát đắng thứ hai là ông Nguyễn Thiện Nhân không thể viện vào quyền lực Ủy viên Bộ chính trị, cũng như không thể dựa vào quyền lực người đứng đầu TP HCM để lấy lòng tin của Dân, mà ông phải dựa vào gốc rễ đồng hương vùng miền. Đó thực sự là điều chát đắng sâu xa của một quyền lực bao trùm mà không thể bao trùm vì còn những quyền lực bao trùm khác đang phản lại.

Chát đắng thứ ba là sự buột miệng của ông đã hé lộ một nhận thức, rằng người Bắc không đáng tin cậy bằng người Nam. Nhận thức này có thể là của chính ông, hoặc ông nghĩ người Nam nhìn nhận người Bắc như vậy, hoặc là cả hai.

Chát đắng thứ tư là ông đã không nhìn ra được sự thật, rằng điều cốt lõi không nằm ở người Bắc hay người Nam, mà là cái cơ chế này đẻ ra quyền lực lừa gạt. Chính qyền TP HCM trước đó là người Nam chứ không phải người Bắc. Chính quyền đó đã lừa gạt Dân nhiều lần rồi. Chính quyền đó đã đánh mất lòng tin của Dân, gây nên những oan ức tày trời mà bây giờ ông đang phải đối mặt.

Ông Nguyễn Thiện Nhân không thể dựa vào quyền lực UV BCT cao vời vợi để lấy lại lòng tin của Dân, mà phải dựa vào gốc rễ đồng hương mong manh. Vậy thực tế thì nên làm như thế nào để lấy lại lòng tin của Dân?

KHÓC CHO MỘT MẶT BẰNG THƯỢNG THƯ, NGHỊ SĨ

Khi ông Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể dùng hai từ THU GIÁ thì cả xã hội sững sờ. Sử dụng hai từ THU GIÁ vô nghĩa và không có trong tiếng Việt, ông Thể đã tự phơi bày mức độ thảm hại của cái bằng tiến sĩ mà ông sở hữu. Nhưng đó chưa phải là điều mấu chốt. Điều mấu chốt nằm ở chỗ, để bảo vệ cho việc tự do điều chỉnh phí BOT của các nhóm lợi ích, mà đến nỗi một ông Thượng thư mang học vị tiến sĩ đã chịu biến thành mù chữ, mù cả luật pháp. Nói mù luật pháp vì nếu thay THU GIÁ cho THU PHÍ mà tránh được pháp luật thì một người TỬ TÙ tự mình gọi mình TẠM TÙ có thoát chết được không? Đó là sự trơ trẽn chỉ có trong thời nay.

Nhưng không chỉ có ông Thể, tiếp ngay sau đó lại đến lượt ông Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ, vin vào Luật, cũng đề xuất GIÁ thay cho PHÍ. Ông Nhạ cũng không chỉ tự làm xấu học vị học hàm của mình, mà còn làm tổn thương đến chức danh Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo của quốc gia.

Không hết, lại đến lượt ông nghị Nguyễn Đức Kiên bảo vệ hai từ THU GIÁ đã làm cho dư luận phẫn nộ và tê tái, vì một người trình độ như ông Kiên mà lại leo lên được đến ghế Phó chủ nhiệm UB Kinh tế Quốc Hội.

Rồi tiếp đến là ông Võ Trọng Việt “dịch chuyển đám mây điện toán, đám mây ảo về Việt Nam” làm cả xã hội nổi da gà. Không phải lo quốc tế chê cười trình độ của Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội Việt Nam, mà là lo cho nền anh ninh quốc phòng của nước nhà đang nằm trong những cánh tay không tương xứng.

Có bao nhiêu ông thượng thư và ông nghị như ông Thể, ông Nhạ, ông Kiên, ông Việt? Rất nhiều. Họ không chỉ là nỗi sợ hãi mà còn là tai vạ. Một mặt bằng thượng thư và nghị sĩ thấp đến mức tủi hổ như vậy thì Đất nước làm sao có cơ hội để đuổi kịp các nước tiên tiến!

THAY ĐỔI PHƯƠNG THỨC LỰA CHỌN ĐBQH

Người dân từ ngàn xưa vốn chỉ muốn bình yên, không ai muốn đối đầu với quan chức và chính quyền. Nhưng khi họ, cực chẳng đã, phải cất lên tiếng nói phản kháng lo lắng, thì đó không chỉ là vì họ bị dồn đến đường cùng, mà còn bởi chính là lúc vận nước đang bị đe dọa.

Một mặt bằng thượng thư và nghị sĩ thấp như hiện nay, chẳng những không thể đưa Đất nước bắt kịp bước đi nhân loại, mà hoàn toàn không thể đối phó được với kẻ thủ thâm hiểm đang ngày một bành trướng lớn mạnh.

Đã đến lúc phải thay đổi phương thức bầu cử ĐBQH. Rằng mọi ứng cử viên muốn tham gia ứng cử để trở thành ĐBQH thì bắt buộc phải thu được một số lượng chữ ký tối thiểu của cử tri, chẳng hạn là 50.000, và tiến hành tranh cử trực tiếp theo khu vực. Chứ không thể là cách Đảng cử và Dân điền phiếu như hiện nay. Lúc đó chất lượng ĐBQH sẽ hoàn toàn khác biệt.

THAY ĐỔI PHƯƠNG THỨC LỰA CHỌN UVTƯ ĐẢNG

Trong Di chúc của mình Cụ Hồ viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”. Thực trạng hàng ngũ lãnh đạo của Đảng mỗi ngày một yếu kém hơn như hiện nay là vì dân chủ trong Đảng chưa được thực hành rộng rãi.

Có bao nhiêu đảng viên từng thốt lên rằng, họ không được trực tiếp bầu ra TBT của mình. Các UVTƯ Đảng cũng không phải do các đảng viên địa phương trực tiếp bầu ra, mà là do Bộ Chính Trị, Ban bí thư, Ban tổ chức Trung ương chọn lựa trước. Bởi thế, không bao giờ là đại diện cho trí tuệ đa số đảng viên cơ sở. Bởi thế không bao giờ chống được chạy chức chạy quyền.

Đã đến lúc phải cách mạng cách thức lựa chọn UVTƯ Đảng, là những người giữ chức bộ trưởng trong chính phủ, là những người đứng đầu các tỉnh, những vị trí vô cùng quan trọng.

Tương tự như trong bầu cử ĐBQH nêu ở trên, mỗi một ứng viên ứng cử vào vị trí UVTƯ Đảng phải thu được một lượng chữ ký tối thiểu, chẳng hạn là của 10.000 đảng viên. Sau đó là tranh cử với các ứng viên khác bằng phổ thông đầu phiếu của toàn bộ đảng viên nơi địa phương mà ứng cử viên muốn tranh chức UVTƯ Đảng. Nếu làm được như vậy thì tức khắc trình độ các UVTƯ Đảng sẽ hoàn toàn vượt xa so với hiện tại.

Từ các UVTƯ Đảng, bằng cách đối đầu loại trực tiếp giữ hai địa phương qua phổ thông đầu phiếu toàn bộ đảng viên của hai địa phương, giống như thể thức bóng đá, mà tìm ra TBT của Đảng. Người chiến thắng tất có trí tuệ vượt trội.

Không phải Bộ chính tri, không phải Ban bí thư, không phải Ban tổ chức Trung ương, cũng không phải Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, mà chỉ có đảng viên toàn quốc trực tiếp bàu cử thì mới chọn ra được TBT xứng đáng.

Hàng ngũ lãnh đạo Đảng mà mạnh thì Đảng tất mạnh. Còn hàng ngũ lãnh đạo của Đảng mà yếu thì Đảng tất yếu. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng thông qua quyền bàu cử trực tiếp của các đảng viên sẽ lựa chọn cho Đảng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi. Lúc đó Đảng sẽ không phải lo sợ mất chính quyền, Đảng không phải sợ mất thể chế.

GIẢI PHÁP QUÁ ĐỘ

Thực tế hiện nay, mọi việc quan trọng đều do Bộ chính trị hay Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định trước, rồi mới chuyển sang Quốc Hội bỏ phiếu. Cho nên Quốc Hội không có thực quyền. Minh chứng gần đây nhất là về Dự thảo luật Đặc khu. Bà Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đã nói thẳng không che dấu rằng “Bộ chính trị đã quyết định rồi, Dự thảo không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”.

Bởi thế, muốn lấy lại lòng tin của Dân thì trước hết Quốc Hội phải thực quyền, đồng thời các ĐBQH phải là đại diện do chính Dân lựa chọn.

Nếu không thể cách mạng triệt để về quyền lực của Quốc Hội thì cũng có thể đi một bước quá độ. Đó là biến Ban chấp hành Trung ương Đảng thành Thượng Viện và Quốc Hội là Hạ viện.

Làm được những điều nêu trên tất sẽ rất có lợi cho Đất nước.

HÃY LÀM THEO DI CHÚC CỤ HỒ

Lịch sử không có chữ nếu. Nên không nhắc lại lịch sử từ Đại hội Tuor. Không nhắc đến những bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Truman. Không nhắc đến những lời Stalin khi gặp Hồ Chủ Tịch. Không nhắc đến Cải cách ruộng đất và Trung Quốc. Chỉ biết một thực tế là vào thời điểm cuối cùng trước khi từ giã cõi đời, trong Di chúc Cụ Hồ hoàn toàn không nói đến xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là:

“Xây đựng một nước Việt Nam, hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, và giàu mạnh”.

Bởi thế, học tập và làm theo Cụ Hồ thì dứt khoát phải bỏ cái đuôi Chủ nghĩa Xã hội.

Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc xâm lược, nhân dân chấp nhận Đảng, không phải vì Đảng quang vinh vĩ đại, mà là vì Đảng hòa mình vào Dân để cùng toàn Dân dành độc lập cho Đất nước. Đó là lúc Đảng không sợ mất quyền lực mà đặt quyền lợi Tổ Quốc lên trên quyền lợi của Đảng. Không phải bây giờ có Đảng mới thắng giặc ngoại xâm, mà từ ngàn xưa các thời Đinh Lý Trần Lê, không có Đảng nhưng Việt Nam đã đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.

Những lời vấn an của ông Nguyễn Thiện Nhân “không gạt bà con đâu” cho thấy Dân không còn tin Đảng thì Đảng phải đặt câu hỏi cho chính mình. Muốn lấy lại lòng tin của Dân thì đừng lo mất quyền lực, mà hãy lo làm sao để Tổ Quốc cường thịnh, nhân dân được ấm no. Khi đặt quyền lợi của Đảng khác với quyền lợi Tổ Quốc thì Đảng không chỉ tách rời khỏi Dân mà còn tự đối đầu với Dân. Dân không ghét bỏ gì Đảng mà đó là Đảng tự xa Dân.

Những tiền bối của Đảng đều ý thức sâu sắc rằng, không thể níu giữ quyền lực bằng cấm đoán, lao tù và súng đạn. Cụ Hồ đã nhìn xa nên không ngừng khuyên nhủ phải thực hành rộng rãi dân chủ trong Đảng. Có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ trong xã hội.

Nếu thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, để 4,5 triệu đảng viên của Đảng được tự do bầu cử lãnh đạo của mình thì Đảng sẽ tất mạnh. Điều lệ Đảng cũng do Đảng lập ra, nên thay đổi Điều lệ Đảng cho phù hợp với thực tế cuộc sống là điều bắt buộc vì sự sống còn của Đảng.

Những đấu sĩ chân chính không áp đặt lợi thế cho mình. Nếu thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, để 4.5 triệu đảng viên của Đảng được tự do bày tỏ ý kiến, thì đa số quá bán sẽ biểu quyết lựa chọn quay lại Hiến Pháp 1946 thời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là điều chắc chắn.

Vào cùng một thời điểm trong vũ trụ bao la, nơi này có mặt trời sinh ra mà nơi khác lại có mặt trời tan biến. Đến vũ trụ không cùng mà còn không ngừng thay đổi, huống chi một chủ thuyết thì sao có giá trị vĩnh cửu mà phải tuyệt đối noi theo. Khư ôm lấy điều cũ không chỉ tự làm dốt mình mà còn làm chậm bước tiến của quê hương đất nước.

Nguyễn Ngọc Chu

(FB Nguyễn Ngọc Chu)
ĐỌC VÀ SUY NGẪM XEM LỜI CẢNH BÁO CỦA CÁC CHUYÊN GIA KINH TẾ CHÍNH TRỊ VỀ 3 ĐẶC KHU KINH TẾ ĐÚNG, HAY QUYẾT TÂM CỦA BỘ CHÍNH TRỊ ĐÚNG !

 TS Vũ Thành Tự Anh

TS Vũ Thành Tự Anh: 
Khả năng thành công của đặc khu là rất thấp

Lê Nguyễn
VNF
04/06/2018

(VNF) – TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, cho rằng dự án Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt chắc chắn sẽ được thông qua nhưng khả năng thành công của mô hình đặc khu theo luật này sẽ là rất thấp. 


Theo TS Tự Anh, có 5 lý do khiến mô hình đặc khu của Việt Nam khó thành công.

Thứ nhất là chính sách nằm sau Luật đặc khu thiếu cơ sở thực tiễn. Một cách chính thống, Luật đặc khu nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối về “xây dựng một số đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị”.

Nếu mục tiêu là “tạo cực tăng trưởng” thì với quy mô và tiềm năng của Phú Quốc, Bắc Vân Phong và Vân Đồn thì cả ba địa phương này đều không thể tạo ra đột biến lớn đến mức trở thành một cực tăng trưởng của đất nước trong 10 - 20 năm tới, trừ phi phần còn lại của đất nước dậm chân tại chỗ. Mà nếu phần còn lại của quốc gia quả thực không phát triển thì cũng chẳng có cơ sở để các đặc khu thành công.

Nếu mục tiêu là tạo “thể chế vượt trội” để “thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy” thì bài học từ mô hình khu kinh tế mở (bắt đầu với Chu Lai) từ 2003 cho thấy nếu không có sự thay đổi đồng bộ ở phạm vi quốc gia thì những sáng kiến của địa phương chắn sẽ sẽ bị bóp nghẹt bởi một mạng lưới chằng chịt các thể chế và quy định hiện hành vốn hoàn toàn không tương thích với “thể chế vượt trội”.
Hơn nữa, khả năng nhân rộng các “thử nghiệm đổi mới” này sẽ rất thấp, đơn giản là vì khoảng cách giữa những ưu đãi và thể chế của 3 đặc khu vô cùng “vượt trội” với phần còn lại của đất nước.

“Nếu như sau 15 năm, ngay cả những ưu đãi và thử nghiệm thể chế khiêm tốn hơn nhiều của các khu kinh tế mở vẫn chưa thành hình và tới được phần còn lại của đất nước, thì hy vọng về một sự lan tỏa thể chế và chính sách từ ba đặc khu sẽ chỉ là những ước vọng xa vời”, TS Tự Anh bình luận.

Nguyên nhân thứ hai là trong khi mục tiêu của cả ba đặc khu đều hướng tới thu hút các ngành công nghệ cao 4.0 thì tư duy chính sách chủ yếu vẫn chỉ là 1.0 – tức là cố thu hút thêm FDI bằng lợi thế so sánh tryền thống cùng những ưu đãi kịch trần và vượt khung, thậm chí không ngần ngại mở casino cho cả người Việt Nam vào chơi.

“Những ưu đãi quá mức này một mặt tạo nên một ‘cuộc đua xuống đáy’ ngay giữa ba đặc khu của Việt Nam, mặt khác không đảm bảo sự thành công cho các đặc khu vì theo kinh nghiệm thế giới, ưu đãi không đi cùng với chất lượng thể chế, quản trị, điều hành và cơ sở hạ tầng thì cũng trở nên vô nghĩa”, TS Tự Anh cho biết.

Một nguyên nhân khác là với thiết kế như hiện nay, không có gì đảm bảo các đặc khu sẽ có tính bền vững về kinh tế và giúp tạo ra các ngoại tác tích cực như nâng cấp và chuyển đổi cơ cấu cũng như thúc đẩy cải cách kinh tế trên diện rộng.

TS Tự Anh cho rằng nền kinh tế Việt Nam đã và sẽ tiếp tục phụ thuộc sâu hơn vào khu vực FDI. Trong khi đó, đang tồn tại một sự đứt gẫy, thậm chí là một vực sâu khoảng cách giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước.

***
TOÀN CẢNH CÁC ĐẶC KHU TẠI VIỆT NAM - TRANH CÃI VIỆC CHO THUÊ ĐẤT 99 NĂM

Với thiết kế hiện nay, ba đặc khu này tương đối biệt lập với phần còn lại của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, khi chúng đi vào hoạt động thì sự phụ thuộc vào FDI cũng như khoảng cách giữa FDI và kinh tế trong nước sẽ còn trở nên sâu sắc hơn. Hệ quả là ngoại lực không những không giúp kích thích mà sẽ còn tiếp tục lấn át nội lực. Điều này đi ngược với kinh nghiệm quốc tế, trong đó chìa khóa thành công nằm ở hệ thống thể chế và chính sách giúp phát huy vai trò của các doanh nghiệp địa phương năng động, đóng vai trò làm cầu nối và chất xúc tác cho đầu tư nước ngoài.

TS Tự Anh cũng cho rằng đưa ra một khuôn khổ pháp lý cho đặc khu mới chỉ là một bước khởi đầu. Việc triển khai mô hình đặc khu trên thực tế chắc chắn sẽ còn lắm gian truân. Bên cạnh nguy cơ bị trói chân trói tay bởi một ma trận thể chế và quy định hiện hành, nguy cơ nhìn thấy trước là chính quyền đặc khu bị thiếu nguồn lực, năng lực, và thẩm quyền (cả thẩm quyền theo luật định và thẩm quyền trên thực tế) cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình. Về những phương diện này, ngay cả hai thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Hồ Chí Minh loay hoay mãi mà vẫn chưa thoát ra được thì liệu ba đặc khu có khắc phục được hay không hoàn toàn là một câu hỏi ngỏ.

Cuối cùng là với vị trí xung yếu và nhạy cảm của mình, liệu Phú Quốc, Bắc Vân Phong, và Vân Đồn có phải là những địa điểm thích hợp để thử nghiệm chính sách trong bối cảnh địa kinh tế và địa chính trị hiện nay hay không?

“Lấy đơn cử Vân Đồn chẳng hạn. Một trong những mục tiêu quan trọng của đặc khu Vân Đồn là thu hút các ngành công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao. Thử hỏi ở sát biên giới với Trung Quốc thì những công ty công nghệ cao của các cường quốc khoa học và công nghệ ở châu Á (như Nhật Bản và Hàn Quốc) và phương tây có sẵn sàng và yên tâm đầu tư hay không?”, TS Tự Anh đặt vấn đề.

Vị Giám đốc của Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright nhấn mạnh: sự ra đời của đặc khu kinh tế không thể tách rời bối cảnh kinh tế - chính trị của quốc gia. Từ góc độ lịch sử, mô hình đặc khu chỉ thích hợp trong điều kiện cả nước đang đóng kín bưng và cần một “đột phá khẩu” ra thị trường thế giới. Hơn nữa, sự thành công của các đặc khu phụ thuộc vào mức độ tích hợp của chúng trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế cũng như mức độ kết nối của chúng với phần còn lại của nền quản trị và kinh tế quốc gia.

“Với độ mở thuộc nhóm cao nhất thế giới như hiện nay, mô hình ‘đột phát khẩu’ này không thực sự phù hợp cho Việt Nam. Chìa khóa của cải cách thể chế thành công, vì vậy không phụ thuộc vào ba đặc khu mà nằm ở nỗ lực cải cách toàn diện nền tảng thể chế và chính sác quốc gia”, TS Tự Anh nhận định.

Lê Nguyễn
Tễu Blog