24 tháng 6, 2018

Nguyễn Ngọc Chu - Muốn dân tin thì hãy thực hiện theo di chúc cụ Hồ

Khi ông Nguyễn Thiện Nhân chia sẻ với cử tri Thủ Thiêm hôm 20/6/2018 rằng “Tôi nói giọng Bắc, nhưng tôi người Nam, tôi không gạt bà con đâu”, là lúc chính ông đã thừa nhận những sự thật chát đắng.

Ông Nguyễn Thiện Nhân
Chát đắng đầu tiên, là không phải Dân không muốn tin, mà Dân không dám tin chính quyền nữa, vì chính quyền đã gạt dân nhiều lần.

Chát đắng thứ hai là ông Nguyễn Thiện Nhân không thể viện vào quyền lực Ủy viên Bộ chính trị, cũng như không thể dựa vào quyền lực người đứng đầu TP HCM để lấy lòng tin của Dân, mà ông phải dựa vào gốc rễ đồng hương vùng miền. Đó thực sự là điều chát đắng sâu xa của một quyền lực bao trùm mà không thể bao trùm vì còn những quyền lực bao trùm khác đang phản lại.

Chát đắng thứ ba là sự buột miệng của ông đã hé lộ một nhận thức, rằng người Bắc không đáng tin cậy bằng người Nam. Nhận thức này có thể là của chính ông, hoặc ông nghĩ người Nam nhìn nhận người Bắc như vậy, hoặc là cả hai.

Chát đắng thứ tư là ông đã không nhìn ra được sự thật, rằng điều cốt lõi không nằm ở người Bắc hay người Nam, mà là cái cơ chế này đẻ ra quyền lực lừa gạt. Chính qyền TP HCM trước đó là người Nam chứ không phải người Bắc. Chính quyền đó đã lừa gạt Dân nhiều lần rồi. Chính quyền đó đã đánh mất lòng tin của Dân, gây nên những oan ức tày trời mà bây giờ ông đang phải đối mặt.

Ông Nguyễn Thiện Nhân không thể dựa vào quyền lực UV BCT cao vời vợi để lấy lại lòng tin của Dân, mà phải dựa vào gốc rễ đồng hương mong manh. Vậy thực tế thì nên làm như thế nào để lấy lại lòng tin của Dân?

KHÓC CHO MỘT MẶT BẰNG THƯỢNG THƯ, NGHỊ SĨ

Khi ông Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể dùng hai từ THU GIÁ thì cả xã hội sững sờ. Sử dụng hai từ THU GIÁ vô nghĩa và không có trong tiếng Việt, ông Thể đã tự phơi bày mức độ thảm hại của cái bằng tiến sĩ mà ông sở hữu. Nhưng đó chưa phải là điều mấu chốt. Điều mấu chốt nằm ở chỗ, để bảo vệ cho việc tự do điều chỉnh phí BOT của các nhóm lợi ích, mà đến nỗi một ông Thượng thư mang học vị tiến sĩ đã chịu biến thành mù chữ, mù cả luật pháp. Nói mù luật pháp vì nếu thay THU GIÁ cho THU PHÍ mà tránh được pháp luật thì một người TỬ TÙ tự mình gọi mình TẠM TÙ có thoát chết được không? Đó là sự trơ trẽn chỉ có trong thời nay.

Nhưng không chỉ có ông Thể, tiếp ngay sau đó lại đến lượt ông Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ, vin vào Luật, cũng đề xuất GIÁ thay cho PHÍ. Ông Nhạ cũng không chỉ tự làm xấu học vị học hàm của mình, mà còn làm tổn thương đến chức danh Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo của quốc gia.

Không hết, lại đến lượt ông nghị Nguyễn Đức Kiên bảo vệ hai từ THU GIÁ đã làm cho dư luận phẫn nộ và tê tái, vì một người trình độ như ông Kiên mà lại leo lên được đến ghế Phó chủ nhiệm UB Kinh tế Quốc Hội.

Rồi tiếp đến là ông Võ Trọng Việt “dịch chuyển đám mây điện toán, đám mây ảo về Việt Nam” làm cả xã hội nổi da gà. Không phải lo quốc tế chê cười trình độ của Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh Quốc hội Việt Nam, mà là lo cho nền anh ninh quốc phòng của nước nhà đang nằm trong những cánh tay không tương xứng.

Có bao nhiêu ông thượng thư và ông nghị như ông Thể, ông Nhạ, ông Kiên, ông Việt? Rất nhiều. Họ không chỉ là nỗi sợ hãi mà còn là tai vạ. Một mặt bằng thượng thư và nghị sĩ thấp đến mức tủi hổ như vậy thì Đất nước làm sao có cơ hội để đuổi kịp các nước tiên tiến!

THAY ĐỔI PHƯƠNG THỨC LỰA CHỌN ĐBQH

Người dân từ ngàn xưa vốn chỉ muốn bình yên, không ai muốn đối đầu với quan chức và chính quyền. Nhưng khi họ, cực chẳng đã, phải cất lên tiếng nói phản kháng lo lắng, thì đó không chỉ là vì họ bị dồn đến đường cùng, mà còn bởi chính là lúc vận nước đang bị đe dọa.

Một mặt bằng thượng thư và nghị sĩ thấp như hiện nay, chẳng những không thể đưa Đất nước bắt kịp bước đi nhân loại, mà hoàn toàn không thể đối phó được với kẻ thủ thâm hiểm đang ngày một bành trướng lớn mạnh.

Đã đến lúc phải thay đổi phương thức bầu cử ĐBQH. Rằng mọi ứng cử viên muốn tham gia ứng cử để trở thành ĐBQH thì bắt buộc phải thu được một số lượng chữ ký tối thiểu của cử tri, chẳng hạn là 50.000, và tiến hành tranh cử trực tiếp theo khu vực. Chứ không thể là cách Đảng cử và Dân điền phiếu như hiện nay. Lúc đó chất lượng ĐBQH sẽ hoàn toàn khác biệt.

THAY ĐỔI PHƯƠNG THỨC LỰA CHỌN UVTƯ ĐẢNG

Trong Di chúc của mình Cụ Hồ viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”. Thực trạng hàng ngũ lãnh đạo của Đảng mỗi ngày một yếu kém hơn như hiện nay là vì dân chủ trong Đảng chưa được thực hành rộng rãi.

Có bao nhiêu đảng viên từng thốt lên rằng, họ không được trực tiếp bầu ra TBT của mình. Các UVTƯ Đảng cũng không phải do các đảng viên địa phương trực tiếp bầu ra, mà là do Bộ Chính Trị, Ban bí thư, Ban tổ chức Trung ương chọn lựa trước. Bởi thế, không bao giờ là đại diện cho trí tuệ đa số đảng viên cơ sở. Bởi thế không bao giờ chống được chạy chức chạy quyền.

Đã đến lúc phải cách mạng cách thức lựa chọn UVTƯ Đảng, là những người giữ chức bộ trưởng trong chính phủ, là những người đứng đầu các tỉnh, những vị trí vô cùng quan trọng.

Tương tự như trong bầu cử ĐBQH nêu ở trên, mỗi một ứng viên ứng cử vào vị trí UVTƯ Đảng phải thu được một lượng chữ ký tối thiểu, chẳng hạn là của 10.000 đảng viên. Sau đó là tranh cử với các ứng viên khác bằng phổ thông đầu phiếu của toàn bộ đảng viên nơi địa phương mà ứng cử viên muốn tranh chức UVTƯ Đảng. Nếu làm được như vậy thì tức khắc trình độ các UVTƯ Đảng sẽ hoàn toàn vượt xa so với hiện tại.

Từ các UVTƯ Đảng, bằng cách đối đầu loại trực tiếp giữ hai địa phương qua phổ thông đầu phiếu toàn bộ đảng viên của hai địa phương, giống như thể thức bóng đá, mà tìm ra TBT của Đảng. Người chiến thắng tất có trí tuệ vượt trội.

Không phải Bộ chính tri, không phải Ban bí thư, không phải Ban tổ chức Trung ương, cũng không phải Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, mà chỉ có đảng viên toàn quốc trực tiếp bàu cử thì mới chọn ra được TBT xứng đáng.

Hàng ngũ lãnh đạo Đảng mà mạnh thì Đảng tất mạnh. Còn hàng ngũ lãnh đạo của Đảng mà yếu thì Đảng tất yếu. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng thông qua quyền bàu cử trực tiếp của các đảng viên sẽ lựa chọn cho Đảng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi. Lúc đó Đảng sẽ không phải lo sợ mất chính quyền, Đảng không phải sợ mất thể chế.

GIẢI PHÁP QUÁ ĐỘ

Thực tế hiện nay, mọi việc quan trọng đều do Bộ chính trị hay Ban chấp hành Trung ương Đảng quyết định trước, rồi mới chuyển sang Quốc Hội bỏ phiếu. Cho nên Quốc Hội không có thực quyền. Minh chứng gần đây nhất là về Dự thảo luật Đặc khu. Bà Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đã nói thẳng không che dấu rằng “Bộ chính trị đã quyết định rồi, Dự thảo không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”.

Bởi thế, muốn lấy lại lòng tin của Dân thì trước hết Quốc Hội phải thực quyền, đồng thời các ĐBQH phải là đại diện do chính Dân lựa chọn.

Nếu không thể cách mạng triệt để về quyền lực của Quốc Hội thì cũng có thể đi một bước quá độ. Đó là biến Ban chấp hành Trung ương Đảng thành Thượng Viện và Quốc Hội là Hạ viện.

Làm được những điều nêu trên tất sẽ rất có lợi cho Đất nước.

HÃY LÀM THEO DI CHÚC CỤ HỒ

Lịch sử không có chữ nếu. Nên không nhắc lại lịch sử từ Đại hội Tuor. Không nhắc đến những bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Truman. Không nhắc đến những lời Stalin khi gặp Hồ Chủ Tịch. Không nhắc đến Cải cách ruộng đất và Trung Quốc. Chỉ biết một thực tế là vào thời điểm cuối cùng trước khi từ giã cõi đời, trong Di chúc Cụ Hồ hoàn toàn không nói đến xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là:

“Xây đựng một nước Việt Nam, hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, và giàu mạnh”.

Bởi thế, học tập và làm theo Cụ Hồ thì dứt khoát phải bỏ cái đuôi Chủ nghĩa Xã hội.

Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc xâm lược, nhân dân chấp nhận Đảng, không phải vì Đảng quang vinh vĩ đại, mà là vì Đảng hòa mình vào Dân để cùng toàn Dân dành độc lập cho Đất nước. Đó là lúc Đảng không sợ mất quyền lực mà đặt quyền lợi Tổ Quốc lên trên quyền lợi của Đảng. Không phải bây giờ có Đảng mới thắng giặc ngoại xâm, mà từ ngàn xưa các thời Đinh Lý Trần Lê, không có Đảng nhưng Việt Nam đã đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.

Những lời vấn an của ông Nguyễn Thiện Nhân “không gạt bà con đâu” cho thấy Dân không còn tin Đảng thì Đảng phải đặt câu hỏi cho chính mình. Muốn lấy lại lòng tin của Dân thì đừng lo mất quyền lực, mà hãy lo làm sao để Tổ Quốc cường thịnh, nhân dân được ấm no. Khi đặt quyền lợi của Đảng khác với quyền lợi Tổ Quốc thì Đảng không chỉ tách rời khỏi Dân mà còn tự đối đầu với Dân. Dân không ghét bỏ gì Đảng mà đó là Đảng tự xa Dân.

Những tiền bối của Đảng đều ý thức sâu sắc rằng, không thể níu giữ quyền lực bằng cấm đoán, lao tù và súng đạn. Cụ Hồ đã nhìn xa nên không ngừng khuyên nhủ phải thực hành rộng rãi dân chủ trong Đảng. Có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ trong xã hội.

Nếu thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, để 4,5 triệu đảng viên của Đảng được tự do bầu cử lãnh đạo của mình thì Đảng sẽ tất mạnh. Điều lệ Đảng cũng do Đảng lập ra, nên thay đổi Điều lệ Đảng cho phù hợp với thực tế cuộc sống là điều bắt buộc vì sự sống còn của Đảng.

Những đấu sĩ chân chính không áp đặt lợi thế cho mình. Nếu thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, để 4.5 triệu đảng viên của Đảng được tự do bày tỏ ý kiến, thì đa số quá bán sẽ biểu quyết lựa chọn quay lại Hiến Pháp 1946 thời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là điều chắc chắn.

Vào cùng một thời điểm trong vũ trụ bao la, nơi này có mặt trời sinh ra mà nơi khác lại có mặt trời tan biến. Đến vũ trụ không cùng mà còn không ngừng thay đổi, huống chi một chủ thuyết thì sao có giá trị vĩnh cửu mà phải tuyệt đối noi theo. Khư ôm lấy điều cũ không chỉ tự làm dốt mình mà còn làm chậm bước tiến của quê hương đất nước.

Nguyễn Ngọc Chu

(FB Nguyễn Ngọc Chu)
ĐỌC VÀ SUY NGẪM XEM LỜI CẢNH BÁO CỦA CÁC CHUYÊN GIA KINH TẾ CHÍNH TRỊ VỀ 3 ĐẶC KHU KINH TẾ ĐÚNG, HAY QUYẾT TÂM CỦA BỘ CHÍNH TRỊ ĐÚNG !

 TS Vũ Thành Tự Anh

TS Vũ Thành Tự Anh: 
Khả năng thành công của đặc khu là rất thấp

Lê Nguyễn
VNF
04/06/2018

(VNF) – TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, cho rằng dự án Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt chắc chắn sẽ được thông qua nhưng khả năng thành công của mô hình đặc khu theo luật này sẽ là rất thấp. 


Theo TS Tự Anh, có 5 lý do khiến mô hình đặc khu của Việt Nam khó thành công.

Thứ nhất là chính sách nằm sau Luật đặc khu thiếu cơ sở thực tiễn. Một cách chính thống, Luật đặc khu nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối về “xây dựng một số đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế vượt trội để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị”.

Nếu mục tiêu là “tạo cực tăng trưởng” thì với quy mô và tiềm năng của Phú Quốc, Bắc Vân Phong và Vân Đồn thì cả ba địa phương này đều không thể tạo ra đột biến lớn đến mức trở thành một cực tăng trưởng của đất nước trong 10 - 20 năm tới, trừ phi phần còn lại của đất nước dậm chân tại chỗ. Mà nếu phần còn lại của quốc gia quả thực không phát triển thì cũng chẳng có cơ sở để các đặc khu thành công.

Nếu mục tiêu là tạo “thể chế vượt trội” để “thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy” thì bài học từ mô hình khu kinh tế mở (bắt đầu với Chu Lai) từ 2003 cho thấy nếu không có sự thay đổi đồng bộ ở phạm vi quốc gia thì những sáng kiến của địa phương chắn sẽ sẽ bị bóp nghẹt bởi một mạng lưới chằng chịt các thể chế và quy định hiện hành vốn hoàn toàn không tương thích với “thể chế vượt trội”.
Hơn nữa, khả năng nhân rộng các “thử nghiệm đổi mới” này sẽ rất thấp, đơn giản là vì khoảng cách giữa những ưu đãi và thể chế của 3 đặc khu vô cùng “vượt trội” với phần còn lại của đất nước.

“Nếu như sau 15 năm, ngay cả những ưu đãi và thử nghiệm thể chế khiêm tốn hơn nhiều của các khu kinh tế mở vẫn chưa thành hình và tới được phần còn lại của đất nước, thì hy vọng về một sự lan tỏa thể chế và chính sách từ ba đặc khu sẽ chỉ là những ước vọng xa vời”, TS Tự Anh bình luận.

Nguyên nhân thứ hai là trong khi mục tiêu của cả ba đặc khu đều hướng tới thu hút các ngành công nghệ cao 4.0 thì tư duy chính sách chủ yếu vẫn chỉ là 1.0 – tức là cố thu hút thêm FDI bằng lợi thế so sánh tryền thống cùng những ưu đãi kịch trần và vượt khung, thậm chí không ngần ngại mở casino cho cả người Việt Nam vào chơi.

“Những ưu đãi quá mức này một mặt tạo nên một ‘cuộc đua xuống đáy’ ngay giữa ba đặc khu của Việt Nam, mặt khác không đảm bảo sự thành công cho các đặc khu vì theo kinh nghiệm thế giới, ưu đãi không đi cùng với chất lượng thể chế, quản trị, điều hành và cơ sở hạ tầng thì cũng trở nên vô nghĩa”, TS Tự Anh cho biết.

Một nguyên nhân khác là với thiết kế như hiện nay, không có gì đảm bảo các đặc khu sẽ có tính bền vững về kinh tế và giúp tạo ra các ngoại tác tích cực như nâng cấp và chuyển đổi cơ cấu cũng như thúc đẩy cải cách kinh tế trên diện rộng.

TS Tự Anh cho rằng nền kinh tế Việt Nam đã và sẽ tiếp tục phụ thuộc sâu hơn vào khu vực FDI. Trong khi đó, đang tồn tại một sự đứt gẫy, thậm chí là một vực sâu khoảng cách giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước.

***
TOÀN CẢNH CÁC ĐẶC KHU TẠI VIỆT NAM - TRANH CÃI VIỆC CHO THUÊ ĐẤT 99 NĂM

Với thiết kế hiện nay, ba đặc khu này tương đối biệt lập với phần còn lại của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, khi chúng đi vào hoạt động thì sự phụ thuộc vào FDI cũng như khoảng cách giữa FDI và kinh tế trong nước sẽ còn trở nên sâu sắc hơn. Hệ quả là ngoại lực không những không giúp kích thích mà sẽ còn tiếp tục lấn át nội lực. Điều này đi ngược với kinh nghiệm quốc tế, trong đó chìa khóa thành công nằm ở hệ thống thể chế và chính sách giúp phát huy vai trò của các doanh nghiệp địa phương năng động, đóng vai trò làm cầu nối và chất xúc tác cho đầu tư nước ngoài.

TS Tự Anh cũng cho rằng đưa ra một khuôn khổ pháp lý cho đặc khu mới chỉ là một bước khởi đầu. Việc triển khai mô hình đặc khu trên thực tế chắc chắn sẽ còn lắm gian truân. Bên cạnh nguy cơ bị trói chân trói tay bởi một ma trận thể chế và quy định hiện hành, nguy cơ nhìn thấy trước là chính quyền đặc khu bị thiếu nguồn lực, năng lực, và thẩm quyền (cả thẩm quyền theo luật định và thẩm quyền trên thực tế) cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình. Về những phương diện này, ngay cả hai thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Hồ Chí Minh loay hoay mãi mà vẫn chưa thoát ra được thì liệu ba đặc khu có khắc phục được hay không hoàn toàn là một câu hỏi ngỏ.

Cuối cùng là với vị trí xung yếu và nhạy cảm của mình, liệu Phú Quốc, Bắc Vân Phong, và Vân Đồn có phải là những địa điểm thích hợp để thử nghiệm chính sách trong bối cảnh địa kinh tế và địa chính trị hiện nay hay không?

“Lấy đơn cử Vân Đồn chẳng hạn. Một trong những mục tiêu quan trọng của đặc khu Vân Đồn là thu hút các ngành công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao. Thử hỏi ở sát biên giới với Trung Quốc thì những công ty công nghệ cao của các cường quốc khoa học và công nghệ ở châu Á (như Nhật Bản và Hàn Quốc) và phương tây có sẵn sàng và yên tâm đầu tư hay không?”, TS Tự Anh đặt vấn đề.

Vị Giám đốc của Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright nhấn mạnh: sự ra đời của đặc khu kinh tế không thể tách rời bối cảnh kinh tế - chính trị của quốc gia. Từ góc độ lịch sử, mô hình đặc khu chỉ thích hợp trong điều kiện cả nước đang đóng kín bưng và cần một “đột phá khẩu” ra thị trường thế giới. Hơn nữa, sự thành công của các đặc khu phụ thuộc vào mức độ tích hợp của chúng trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế cũng như mức độ kết nối của chúng với phần còn lại của nền quản trị và kinh tế quốc gia.

“Với độ mở thuộc nhóm cao nhất thế giới như hiện nay, mô hình ‘đột phát khẩu’ này không thực sự phù hợp cho Việt Nam. Chìa khóa của cải cách thể chế thành công, vì vậy không phụ thuộc vào ba đặc khu mà nằm ở nỗ lực cải cách toàn diện nền tảng thể chế và chính sác quốc gia”, TS Tự Anh nhận định.

Lê Nguyễn
Tễu Blog

14 tháng 6, 2018


NGUYỄN ĐÌNH BIN (NHÀ NGOẠI GIAO) ĐỒNG TÌNH VỚI NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN QUANG DY:"3 ĐẶC KHU KINH TẾ-3 CON NGỰA THÀNH TROY"
Nguyễn Đình Bin
11 Tháng 6 lúc 22:22


“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu” (Nguyễn Cơ Thạch, 1990)
Khi đề cập đến câu chuyện đặc khu kinh tế, người ta dễ sa vào tiểu tiết nên “thấy cây mà không thấy rừng”. Chỉ tranh cãi và điều chỉnh “99 năm hay 70 năm” là vô nghĩa. Khi quan tâm đến “phần nổi của tảng băng” người ta cũng dễ quên phần chìm (mới là phần cốt lõi). Trong bài này, tôi đề cập đến hai vấn đề cốt lõi. Thứ nhất, câu chuyện đặc khu là một phần của bàn cờ Biển Đông, liên quan đến chiến lược “Một vành đai Một con đường” của Trung Quốc, đến chủ quyền Việt Nam và vấn đề “thoát Trung”. Thứ hai, câu chuyện đặc khu là một phần của vấn đề chống tham nhũng và đổi mới thể chế. Cả hai vấn đề đều liên quan đến yêu cầu kiểm soát quyền lực và dân chủ hóa để thoát khỏi cái vòng kim cô về ý thức hệ đã lỗi thời.
Đục nước béo cò
Nói cách khác, cả hai vấn đề cốt lõi nói trên đều có cùng yêu cầu cấp bách là phải tháo gỡ ách tắc về thể chế để dân chủ hóa và phát triển (cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm). Muốn phát triển phải dân chủ hóa, muốn dân chủ hóa phải phát triển (cả nguồn lực và dân trí). Cả hai vấn đề đều dễ bị nhầm lẫn (vì dân trí), và dễ bị lợi dụng bởi các nhóm lợi ích đang tranh giành quyền lực và thao túng chính sách để “đục nước béo cò”, bất chấp lợi ích cốt lõi của dân tộc. Trong bối cảnh “nội biến” thì dễ bị “ngoại xâm” bởi người láng giềng khổng lồ.


Trong câu chuyện đặc khu chỉ cần xác định “ai là kẻ thủ lợi” (câu La Tinh nổi tiếng: Cui bono?) nếu không phải là các nhóm lợi ích muốn “đục nước béo cò”, và người láng giềng khổng lồ đang quân sự hóa để kiểm soát Biển Đông (như “cái ao riêng”) và bắt nạt các nước láng giềng nhỏ yếu hơn để kiểm soát họ (cả phần hồn lẫn phần xác) như “lợi ích cốt lõi”. Nguy cơ “Hán hóa” không chỉ là câu chuyện lịch sử (trong sách giáo khoa) mà nó đang diễn ra tại nhiều nơi như Formosa và các đặc khu khác, không chỉ đe dọa sự tồn vong của Việt Nam mà cả các quốc gia khác.
Nếu đặt câu chuyện đặc khu kinh tế trong bức tranh lớn về Biển Đông, ngưởi ta rất dễ thấy “yếu tố Trung Quốc” nổi lên rất rõ và rất lớn. Tại sao lại là Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc (và Vũng Áng trước đây) mà không phải là chỗ nào khác? Đơn giản vì đó là những vị trí chiến lược xung yếu nhất. Chỉ có mù lòa về địa chính trị mới không hiểu tại sao. Còn cho thuê 99 năm vì đó là tiền lệ mà Trung Quốc đã áp đặt cho nhiều nước khác bị sập “bẫy nợ”. Đó là “chủ nghĩa thực dân mới kẻ cướp” (predatory neo-colonialism). Trong khi thế giới giật mình tỉnh ngộ và lo sợ, thì Việt Nam vẫn như mê ngủ, hay giả vờ không hiểu (và “không sợ”).
Đến lúc này mà họ vẫn chưa nhìn thấy nguy cơ đó thì có thể bị mù lòa về chính trị hoặc tối mắt vì lợi ích. Nhưng trong lúc đất nước lâm nguy mà chỉ tranh cãi và chống đối nhau thì tai họa càng lớn và đến càng nhanh. Bài học Miến Điện là trước nguy cơ Hán hóa, họ đã biết dẹp mâu thuẫn nội bộ để tìm đồng thuận quốc gia và đổi mới thể chế. Tuy Việt Nam đi trước Miến Điện (về cải cách kinh tế) và đi trước Triều Tiên (về thống nhất đất nước) nhưng Việt Nam đang tụt hậu không chỉ về kinh tế mà còn về thể chế và đồng thuận quốc gia.
Ván đã đóng thuyền
Hãy thử điểm lại vài nét cơ bản về thực trạng hiện nay trong câu chuyện đặc khu để thấy rõ chúng ta đang đi về đâu và đang làm gì trước nguy cơ Hán hóa. Nguy cơ đó không chỉ đến từ bên ngoài (như “ngoại xâm”) mà còn đến từ bên trong (như “nội biến”). Tuy người ta tranh cãi và chém gió đã nhiều, nhưng nếu vẫn chưa tìm được đồng thuận quốc gia thì sẽ là “tai họa quốc gia”. Khi giờ G tới, trước khi “ấn nút” quyết định, các đại biểu Quốc Hội hãy đặt tay lên ngực mình (như nhân viên “Thế giới Di động”) để tự hỏi mình là ai (có còn là đại biểu cho nhân dân nữa không) và mình đang phục vụ lợi ích của ai (người dân hay nhóm lợi ích, Việt Nam hay Trung Quốc). Việc “ấn nút” không chỉ đơn giản là “ván đã đóng thuyền” như bán Sabeco và Vinamilk, mà còn để lại hậu họa khôn lường cho nhiều thế hệ sau.
Theo Vneconomy (16/4/2018), Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh tại phiên thảo luận của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: “Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”. Nói cách khác, bà Ngân muốn đẩy trách nhiệm vì “ván đã đóng thuyền” nên Quốc Hội bất lực, và gián tiếp thừa nhận vai trò Quốc Hội chỉ là “ấn nút” để hợp thức hóa quyết định của BCT. Nhưng Quốc Hội và BCT liệu có hình dung được nguy cơ tiềm ẩn và hệ quả khôn lường. Một lần nữa Việt Nam lại sa vào bẫy của Trung Quốc (trong khi Triều Tiên đang “thoát Trung”). Không phải chỉ có “một làn sóng phản đối khủng khiếp” (như Thủ tướng nói) mà nguy cơ phân hóa và bạo loạn có thể lại xảy ra lần nữa như trong vụ dàn khoan HD 981 (5/2014). Tướng Nguyễn Chí Thanh từng nói đúng: “Mất đất chưa phải là mất nước. Mất dân mới là mất hết”. Chẳng lẽ lãnh đạo ngày nay không cần đến dân, và coi người bạn “bốn tốt” và “16 chữ vàng” là “đại cục”.
Phát biểu với báo Tuổi trẻ (4/6/2018) tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, và giám đốc nghiên cứu của Đại học Fulbright) cũng cho rằng dự luật đặc khu kinh tế chắc sẽ được thông qua vì trên thực tế “ván đã đóng thuyền”. Nhưng nếu được triển khai thì “khả năng thành công của mô hình đặc khu sẽ rất thấp”. Đó là một nhận xét khá khách quan và trung thực (nhưng cũng đầy bất lực). Tương tự như vậy, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng nhận xét, “Tôi rất ngờ rằng luật này sẽ vẫn được thông qua, dù người ta có thể sửa đôi điều để trấn an dư luận. Nhưng về cốt lõi nó vẫn thế, vì người mua kẻ bán đã thỏa thuận với nhau mấy năm nay rồi, giờ họ chỉ chờ luật để hợp thức hóa thôi”...
Theo Dân Trí (1/6/2018), Chủ tịch Quốc Hội cố lý giải những lợi ích mà đặc khu sẽ mang lại: “bỏ ra một đồng để thu lại vài chục, vài trăm đồng” (chắc chỉ có đánh bạc!). Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nói “vừa làm vừa thử nghiệm” và hùng hồn tuyên bố:“Làm đặc khu phải theo nguyên lý dọn tổ đón phượng hoàng”. Chắc ông này không học PR/Marketing, hoặc “nhỡ mồm”(Freudian slip). Không biết ông Lưu muốn nói đến phượng hoàng nào, nhưng câu nói đó của ông đã gây bão dư luận, và đi vào lịch sử như “trạm thu giá BOT” của Bộ trưởng Giao thông. Nếu ông Lưu muốn nói đến phượng hoàng nội (như Vingroup hay Sun Group) thì họ chẳng cẩn đến đặc khu nào cả, vì họ đã chiếm hết đất vàng làm tổ lâu rồi. Nếu ông muốn nói đến phượng hoàng ngoại (như ASEAN hay Mỹ, Nhật, Ấn, Úc…) thì nhầm to. Vậy chỉ còn phượng hoàng Tàu. Nhưng thực ra Trung Quốc không phải là phượng hoàng mà là “chó sói” (đó là từ ngữ mà một cán bộ cao cấp của Trung Quốc đã có lần thừa nhận). Con sói khổng lồ đã thò một chân vào Việt Nam (tại Formosa), nay muốn thò nốt cả ba chân và hợp pháp hóa sự có mặt của nó bằng luật định (cho “đúng quy trình”). Vì vậy, nhiệm vụ chính của Quốc Hội là phải “ấn nút” thông qua luật đặc khu kinh tế như là “đóng giầy theo chân con sói”.
Dọn tổ đón phượng hoàng
Theo báo Tuổi Trẻ (6/6/2018), Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng (bộ chủ quản của dự luật đặc khu) đã khẳng định, “Dự thảo không có một chữ nào về Trung Quốc, chỉ có những người cố tình hiểu theo hướng đó và đẩy vấn đề lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc”. Vậy ông Dũng giải thích thế nào về Điều 55.4 Mục 5 trong dự luật:“Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ… được miễn thị thực ...). Nước láng giềng đó là nước nào? Ông Dũng đã ngụy biện một cách vụng về nên “giấu đầu hở đuôi”, hoặc ông quá coi thường dân nên tưởng có thể dễ dàng “dắt voi qua rào” (như họ đã từng làm trong vụ Formosa). Tuy Formosa chưa phải là đặc khu nhưng họ đã hành xử như “Tô giới”: không cho cơ quan chức năng Việt Nam vào, và còn hỗn xược thách thức “chọn cá hay chọn thép?”. Đó là phượng hoàng nào? do ai?
Thực ra câu chuyện đặc khu kinh tế đã được đề cập từ mấy năm nay. Tuy bộ KH-ĐT chịu trách nhiệm chính (từ thời bộ trưởng Bùi Quang Vinh đến thời bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng), nhưng các tỉnh liên quan cũng có vai trò lớn (chạy dự án). Hà Tĩnh chạy Vũng Áng, Khánh Hòa chạy Bắc Vân Phong, Kiên Giang chạy Phú Quốc, Quảng Ninh chạy Vân Đồn. Theo GS Võ Đại Lược, ông Phạm Minh Chính (nguyên bí thư Quảng Ninh) là tác giả của đề án đặc khu kinh tế Vân Đồn (từ tháng 8/2012). Lúc đó, ông Chính muốn xây dựng hai đặc khu kinh tế (cả Vân Đồn và Móng Cái) và “rất hăng say về chuyện xây dựng đặc khu kinh tế”, theo đó nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất 70 năm (thậm chí có thể đến 120 năm). Trường Đại học Thâm Quyến (Trung Quốc) tham gia hội thảo và chắc đã tài trợ kinh phí tổ chức…
Trong dự thảo luật đặc khu có rất nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, trái với các cam kết trong FTA về việc tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng cho các nhà đầu tư khác nhau ở Việt Nam. Không những vậy, dự thảo còn cho phép kinh doanh nhiều lĩnh vực rủi ro cho quốc phòng và an ninh quốc gia, thậm chí cả các dự án điện hạt nhân. Điểm 4, Phụ lục IV cho phép: “Kinh doanh quân trang, quân dụng cho lực lượng vũ trang, vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dụng quân sự, công an, linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng… Kinh doanh bất động sản, chất nổ, khai thác và làm giàu quặng kim loại có sử dụng hóa chất độc hại…
Chắc năm nay là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc bắt nạt và bắt chẹt Việt Nam trên đất liền (cũng như tại Biển Đông) với chiến thuật “tằm ăn dâu”, biến thành “chuyện đã rồi”. Sau khi đã quân sự hóa và kiểm soát được Biển Đông, tất yếu họ muốn kiểm soát cả trên đất liền, không chỉ tại Campuchia mà còn tại Việt Nam (và các nước khác), theo chiến lược tổng thể “Một Vành đai, Một Con đường”, bằng cách lần lượt thôn tính các nước bằng “ bẫy nợ”. Những cánh tay dài của con bạch tuộc khổng lồ hay quái vật Frankenstein (như lời Richard Nixon) đã vươn tới Châu Phi (cảng Djibouti, $22 triệu/năm), tới Hy Lạp (cảng Piraeus, $436 triệu), tới Australia (cảng Darwin, $388 triệu, 99 năm), tới Sri Lanka (cảng Hambantora, $1.1 tỷ, 99 năm), tới Myanmar (cảng yaukpyu và khu công nghiệp, đầu tư $10 tỷ, 75 năm), tới Campuchea (cảng Sihanoukville & Koh Kong, đầu tư $3.8 tỷ, 99 năm), tới Thailand (siêu kênh đào Kra, đầu tư $20-$30 tỷ) để nối thẳng Vịnh Thailand với Ấn Độ Dương (bỏ qua eo Malacca).
Ba con ngựa thành Troy
Khi nói đến “thoát Trung”, chúng ta đừng nhầm với chống Trung Quốc như một đất nước và một dân tộc vĩ đại (là bạn). Nhưng người dân Việt Nam (cũng như người dân Trung Quốc) cần chống lại chính sách bá quyền nước lớn của họ (là thù). Cũng như trước đây, chúng ta không chống nước Mỹ và người Mỹ (là bạn) mà chỉ chống lại chính sách can thiệp của họ (là thù). Nếu nhầm lẫn, coi bạn là thù (hay coi thù là bạn) thì sẽ là tai họa. Người Việt lúc thắng thường hay ngạo mạn (như không sợ Mỹ), nhưng nay thất thế lại quá sợ Trung Quốc. Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả”, nhưng nếu nhầm lẫn biến bạn thành thù sẽ bị cô lập.
Gần đây, Thủ tướng và Chủ tịch Nước đã liên tiếp đi thăm các nước chủ chốt (như “tứ cường” Mỹ, Nhật, Ấn, Úc). Đó là những hoạt động ngoại giao đúng hướng để Việt Nam “tái cân bằng” quan hệ quốc tế. Nếu sự kiện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một thảm họa đối ngoại, làm mất lòng các đối tác chiến lược (Đức và Châu Âu) đe dọa làm trật bánh hiệp định EVFTA, nay luật đặc khu kinh tế chắc sẽ gửi một thông điệp tiêu cực tới các đối tác chiến lược khác (như “tứ cường”) mà Việt Nam đang vận động (dễ làm “xôi hỏng bỏng không”).
Trong bối cảnh cả nước đang sục sôi phẫn nộ, nếu Quốc Hội quyết “ấn nút” để dắt “ba con voi qua rào” (như “ba con ngựa thành Troy”), thì khác gì hành động “tự sát chính trị” (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng). Hành động mạo hiểm đó chắc chắn sẽ bị thiên hạ chê cười và nguyền rủa, như thằng bờm “cố đấm ăn xôi”, định bán chạy ba đặc khu xung yếu nhất cho lão hàng xóm khổng lồ tham lam và độc ác. Không chỉ dư luận trong nước phản đối quyết liệt, mà dư luận quốc tế cũng đang lên tiếng, vì vấn đề ba đặc khu không chỉ liên quan đến Việt Nam, mà còn liên quan đến tầm nhìn Indo-Pacific mà Việt Nam ủng hộ. Đây là thế “tiến thoái lưỡng nan” (như “catch-22”) không ai muốn, nên cần khôn ngoan thoát hiểm.
Sau sự kiện “tái xuất” (lần thứ nhất) tại hội nghị cấp cao APEC (6-12/11/2017), CTN Trần Đại Quang đã “tái xuất” (lần thứ hai) tại TW7 (7-12/5/2018). Sau chuyến thăm chính thức Ấn Độ (2-4/3/2018), ông Quang vừa thăm chính thức Nhật Bản (29/5-2/6/2018). Đó là mấy sự kiện nổi bật, đánh dấu “những đợt sóng ngầm chính trị” (lời Lê Hồng Hiệp) vẫn đang tiếp diễn và chưa ngã ngủ, còn nhiều ẩn số và biến số (cho tới TW8). Chắc CTN Trần Đại Quang và TT Nguyễn Xuân Phúc hiểu rõ nguy cơ và hệ quả của ba đặc khu này, nhưng Thủ tướng buộc phải nói (như thanh minh): “Nếu ai ở địa vị này cũng phải giao, không có cách gì khác”. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã bức xúc kết luận: “Không biết ai đưa ra ý tưởng như vậy, kể cả những người đồng ý, thì đều là những kẻ bán nước”.
Để triển khai “chủ trương lớn” này, BCT đã chỉ đạo Quốc Hội “ấn nút” để thông qua luật đặc khu kinh tế, định biến một chuyện bất khả kháng thành “chuyện đã rồi”, theo một thỏa thuận ngầm nào đó (với nhiều điều kiện đặc biệt). Nó chứng tỏ Việt Nam đang “bí tiền và bí cờ”, trong khi bị Trung Quốc bắt nạt không cho khai thác dầu khí tại mỏ Cá Rồng Đỏ (Bãi Tư Chính) và Cá Voi Xanh (lô 128). Trong khi ngân sách thiếu hụt (thu không đủ chi), nội bộ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc khi “người đốt lò vĩ đại” chống tham nhũng quyết liệt. Trong khi trì hoãn những dự luật khác, Quốc Hội ráo riết chuẩn bị thông qua luật đặc khu kinh tế, được Quốc Hội thảo luận từ cuối năm 2017, nay phải thông qua sớm (dự kiến 15/6/2018)
Kế hoãn binh
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (Tiếng Dân, 5/6/2018), “dự luật đặc khu rất nên dừng lại. Quốc Hội đừng thông qua vội, để hỏi thêm ý kiến của các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, không phải chỉ về kinh tế, mà cả về xã hội và chuyên gia về an ninh, quốc phòng, nhìn từ nhiều góc độ để xem xét lại”…Theo bà Chi Lan, “mối nguy của việc ba đặc khu có thể biến thành những vùng lãnh thổ của Trung Quốc ở Việt Nam là rất lớn… Chưa chắc đã cần chờ đến 50 năm, 70 năm hay 99 năm đâu, các đặc khu này có thể rơi vào tay người Trung Quốc ở mức độ rất cao, đến mức họ khống chế hoàn toàn. Đấy là điều tôi thật sự lo lắng”…
Sáng 9/6/2018, Chính phủ thông báo đã đề nghị Quốc Hội lùi thời gian thông qua dự luật đặc khu sang kỳ họp thứ 6 Quốc hội XIV, thay vì kỳ họp thứ 5 như dự kiến (15/6) và giảm thời hạn thuê đất xuỗng dưới 99 năm. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khôn ngoan lắng nghe dân và đưa ra đề xuất kịp thời, hợp lòng dân, để tháo gỡ bế tắc (tuy đó chưa phải là vấn đề cốt lõi). Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan nhận xét: “Đây là một trong những quyết định sáng suốt nhất… là một tiền lệ tốt để sau này Chính phủ, và Quốc hội sẽ biết lắng nghe”…Dư luận chung tuy hoan nghênh Chính phủ, nhưng chưa được thuyết phục. Họ muốn thấy Bộ Chính Trị tập trung vào các chủ trương lớn, không áp đặt quan điểm đối với các cơ quan lập pháp và hành pháp. Họ muốn Quốc Hội hoãn thông qua dự luật an ninh mạng cũng như dự luật đặc khu.
Nhiều người nghi ngờ một số nhóm lợi ích đã câu kết với người Trung Quốc vì lợi ích riêng, làm phương hại cho lợi ích quốc gia. Nếu họ chưa bị vạch mặt để cho vào lò (như Trương Minh Tuấn trong vụ mua bán AVG), thì sớm muộn họ cũng sẽ bị lịch sử lên án và các thế hệ sau nguyền rủa. Nhưng cuối cùng, chắc Quốc Hội sẽ vẫn thông qua dự luật đặc khu, sau khi đã hoãn binh và điều chỉnh vài chi tiết cụ thể (để mị dân). Một số người khác lo ngại đó sẽ là “Thành Đô 2.0”, là bước nối tiếp của Hội Nghị Thành Đô đầy ô nhục, tuy đã diễn ra cách đây 28 năm (9/1990), nhưng cái bóng đen của nó vẫn đang ám ảnh đất nước này.
Theo nhà báo Vũ Kim Hạnh (Facebook, 9/6/2018) an ninh tiền tệ của Việt Nam đang bị Trung Quốc tấn công và đe dọa cũng như an ninh mạng (cyber security). Ngoài an ninh Biển Đông đang bị đe dọa, người Việt coi “đặc khu kinh tế là một cuộc tấn công từ Trung Quốc” (Bennett Murray, SCMP, 7/6/2018). Trong khi Việt Nam bất lực không đối phó được với các mối đe dọa của Trung Quốc, thì Quốc Hội vẫn định thông qua dự luật an ninh mạng và dự luật đặc khu kinh tế, mở toang cửa cho Trung Quốc xâm nhập, và làm thiệt hại cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Bà Kim Hạnh cho rằng các cơ quan quản lý của Việt Nam đã phản ứng quá chậm. Đã gần hai năm sau khi Alipay công bố chính thức đã đặt đại lý thanh toán tại Việt Nam, các cơ quan chức năng của Việt Nam vẫn chưa có giải pháp để đối phó. Theo bà Kim Hạnh, không ở đâu luật pháp lại lỏng lẻo và các cơ quan quản lý lại lúng túng như ở Việt Nam.
Lời cuối
Nếu ai đã từng tìm hiểu về mô hình “đặc khu kinh tế” (special economic zone) chắc thấy “luật đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” là một dự luật bất bình thường, từ cái tên dài lủng củng đến các điều khoản khó lý giải được nhồi nhét luộm thuộm trong văn bản luật và phụ lục. Có thể nói đó là hệ quả của sự kết hợp (cố ý) giữa nhận thức mơ hồ và ngộ nhận (do quan trí thấp) với sự đánh tráo khái niệm (bị thao túng bởi các nhóm lợi ích), giữa lợi ích nhóm trong và ngoài nước (có động cơ trục lợi) với thế lực ngoại bang (có ý đồ thôn tính Việt Nam). Chỉ có lý giải như vậy mới có thể hiểu được tại sao người ta lại ghép ba vị trí chiến lược xung yếu (Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc) vào một văn bản luật. Tuy người ta có thể thỏa hiệp về thời hạn thuê đất (dưới 99 năm) nhưng chắc không thỏa hiệp về ba vị trí đặc khu, đánh đổi lấy các vị trí mới như khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và Quang Trung (Sài Gòn) để phát triển “công nghệ 4.0” như chính phủ kiến tạo vẫn đề cập.

NQD. 10/6/2018
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 10-6-18

11 tháng 6, 2018


KHÔNG 99 NĂM! KHÔNG 70 NĂM! KHÔNG ĐẶC KHU! ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP!



Phạm Lưu Vũ

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chu tiếp tục có bài viết hay quá. Giờ mới hiểu con "Tì Hưu" của bọn Tàu là con gì. Nó hiện đang bày la liệt trên bàn làm việc của các quan chức từ bé đến to.
Cám ơn bác Nguyễn Ngọc Chu. Mời mọi người đọc. Rất đáng một đời chủ nhật.
KHÔNG 99 NĂM. KHÔNG 70 NĂM. KHÔNG ĐẶC KHU. ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP
I. ÁT CHỦ BÀI ĐÃ BỊ LẬT TẨY
Đến bây giờ thì át chủ bài đã bị lật tẩy. Không chỉ những người quan tâm đến luật đặc khu, mà cả đất nước đều rõ tỏ, là đặc khu Vân Đồn nhắm vào Trung Quốc.
Dự thảo luật đặc khu, Điều 54, khoản 4, đã được cộng đồng mạng “phổ cập”:
“Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với mục đích du lịch được miễn thị thực với thời hạn xác định; trường hợp có nhu cầu đến các địa điểm khác của tỉnh Quảng Ninh để du lịch thì làm thủ tục thông qua doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam”.
Người Trung Quốc được ưu ái đặc biệt ở đặc khu Vân Đồn, được ghi rõ rành rành trong luật đầu tư. Vân Đồn là dành đặc biệt cho người Trung Quốc.
Với điều khoản này, 1 tỷ 414 triệu 688 ngàn 453 người Trung Quốc, (theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc ngày 07/06/2018), chỉ cần chứng minh thư mà không cần hộ chiếu, sẽ được tự do ra vào Vân Đồn tùy thích!
Thế còn 96 triệu 429 ngàn 667 người Việt Nam (cũng thống kê của Liên Hợp Quốc ngày 07/06/2018) có được tự do ra vào Thâm Quyến bằng chứng minh thư không? Không!
Mở đặc khu để thêm bị thấp hèn thì mở làm gì!
II. KHÔNG CHÍNH DANH
Đường đường là luật đầu tư của một quốc gia sao còn giấu giếm sự thật. Rõ ràng người dự thảo luật đã cố tình giấu hai từ Trung Quốc để che mắt nhân dân. Nhưng sao cả gần 500 vị Đại biểu Quốc hội đã thảo luận Luật Đặc khu hôm 23/5/2018 mà không thấy ai chỉ thẳng ra điều này? Cầm quyền mà giấu dân là không chính danh.

Bới thế, Quốc hội phải trừng trị những kẻ đã cố ý đẩy Quốc hội vào tình cảnh không chính danh.
III. THÂM QUYẾN, ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ CON TÌ HƯU
Thâm Quyến là một đặc khu cũ rích không đáng để học. Nếu muốn học thì gần có Singapore, xa hơn là Nhật, xa nữa là Đức, Mỹ. Trên thế gian này thiếu gì nơi học mà phải học Thâm Quyến.
Nhưng Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại lấy tiền thuế của dân để đưa đoàn nhà báo đi tham quan Thâm Quyến, nhằm cổ súy cho mở đặc khu kiểu Thâm Quyến, đi ngược lại lòng dân, làm một điều lãng phí có tội, nên phải nói đôi điều.
1. Về tính thời sự, đặc khu Thâm Quyến mở ra khi Trung Quốc còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, vào thập niên 1980, nhưng Việt Nam cũng đã mở cửa hơn 30 năm, từ cuối thập niên 1980, đã tiếp xúc với các nền kinh tế tiên tiến nhất như như Nhật, Mỹ, châu Âu, hơn hẳn Thâm Quyến rồi, nên Thâm Quyến không có gì mới lạ với Việt Nam nữa. Tính thời sự của Thâm Quyến đối với Việt Nam bằng 0.
2. Đặng Tiểu Bình không đặt đặc khu ở Thượng Hải, Đại Liên hay một nơi nào khác mà ở Thâm Quyến vì Thâm Quyến cạnh Hồng Kông, để đón lõng dòng đầu tư từ Hồng Kông, do các nhà tư bản Hồng Kông đối phó với việc Hồng Kông sẽ nhập vào Trung Quốc năm 1997. Thâm Quyến phát triển là nhờ chủ yếu từ đầu tư của người Hoa Hồng Kông.
3. Cho nên sau Thâm Quyến, đặc khu Chu Hải ở gần đó không thành công. Vì dòng đầu tư chính từ Hồng Kông đã đổ vào Thâm Quyến.
4. Tại sao lại Thâm Quyến? Là vì con Tì Hưu.
Tì Hưu là con vật ăn vào mà không ỉa đái ra. Thần thoại Hy lạp có bao nhiêu con quái vật mình người đầu thú hay ngược lại, nhưng không có con nào quái đản như con Tì Hưu.
Con Tì Hưu là lòng tham vô độ, đi ngược với tuần hoàn tự nhiên. Chỉ có lòng tham và tính nghịch tặc vô độ mới nghĩ ra được con Tì Hưu. Con tì Hưu là sản phẩm của người Tàu.
Cũng chỉ có Đặng Tiểu Bình, kẻ có lòng tham vô độ và nghịch tặc tày trời, nên mới mở đặc khu ở Thâm Quyến, đón dòng tiền từ Hồng Kông, không cho chảy ra khỏi Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình là một đại Tì Hưu.
5. Bởi thế, bất cứ ai trong Chính phủ và Quốc hội, trước khi nghĩ rằng mình có tài khống chế được Trung Quốc khi mở ra đặc khu Vân Đồn, thì hãy tự hỏi rằng có đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu quái đản hay không. Nếu không đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu, thì đừng mở đặc khu Vân Đồn, vì không cản trở được Trung Quốc thâu tóm.
IV. TRUNG QUỐC SẼ THÂU TÓM ĐẶC KHU VÂN ĐỒN NHƯ THẾ NÀO?
Trung Quốc có muôn ngàn mưu kế để thâu tóm Vân Đồn mà Việt Nam không có cách nào ngăn chặn được. Mở đặc khu Vân Đồn là giúp cho Trung Quốc thâu tóm Vân Đồn một cách hợp pháp. Đơn giản bởi Trung Quốc có rất nhiều tiền, lòng tham không giới hạn, nhẫn tâm, thâm độc.
Trung Quốc không chỉ thâu tóm Vân Đồn mà còn thâu tóm các tập đoàn lớn của Việt Nam khi cổ phần hóa. Đã cổ phần hóa thì không thể cưỡng lại được đấu giá. Mà đấu giá thì kẻ nhiều tiền sẽ thâu tóm. Sabeco là một thí dụ điển hình.
Đừng nghĩ rằng tỷ phú gốc Hoa quốc tịch Thái thâu tóm Sabeco không dính dáng đến Trung quốc. Nếu quả thực chưa dính dáng thì biến thành của Trung Quốc cũng không khó gì.
VTV vào phút chỏt hôm nay đã mua bản quyền world cup từ Infront Sports & Media với giá trên dưới chừng 10 triệu usd. Nhưng ít người nhớ rằng năm 2015 Tập đoàn Đại Liên Vạn Đạt của Trung Quốc đã chi khoảng 1,1 tỉ USD để sở hữu Infront Sports & Media. Sống động hơn, hãy nhớ lại hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc.
Hàng không mẫu hạm Varyag của Liên Xô vì không có tiền và do Liên Xô tan rã mà nằm phơi sương gió ở cảng Ôdexa. Một tỷ phú Hồng Kông thấy “lãng phí”nên xin được mua về làm sàn nhảy trên cảng với giá 2 triệu USD. Điều kiện là động cơ cùng các thiết bị điện tử, kỹ thuật quân sự trên tàu phải được dỡ bỏ thì mới được bán. Nhưng đồng tiền đã đưa đường chỉ lối để cuối cùng hàng không mẫu hạm Varyag được chia gói chuyển về Hồng Kông nguyên vẹn. Ít năm sau thì tự nhiên nó“tàng hình thành Liêu Ninh”.
Trung Quốc đã có một thương vụ xiếc ngoạn mục, tốn dăm triệu USD mà có được chiếc hàng không mẫu hạm đáng giá nhiều trăm triệu đô la. Hơn cả là sở hữu công nghệ hàng không mẫu hạm. Rút ngắn cả chục năm trong cuộc chạy đua hàng không mẫu hạm với Nga và Mỹ.
Trung Quốc sẽ thâu tóm Vân Đồn trực tiếp, hay qua bàn tay người khác, lúc này hay dăm mười năm sau. Dưới vỏ bọc của các nhà đầu tư phương Tây, Hoa Kiều các nước, và mua lại các đại gia Việt Nam đang hối hả đầu tư tại Vân Đồn để kiếm lời. Vì mục tiêu quân sự, lãnh thổ và bành trướng, Trung Quốc không đếm xỉa đến giá cả. Còn kẻ đã đi làm giàu thì không thể cưỡng lại những núi tiền.
Khi trở thành đặc khu, chuyện thâu tóm Vân Đồn đối với Trung Quốc “dễ như trở bàn tay”. Đừng mơ hồ là chúng ta có chủ quyền.
Chúng ta có chủ quyền, thế mà ở Đà Nẵng người Trung Quốc xây phố Tàu, người Trung Quốc mua đất rầm rầm, nhưng ông Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường trả lời trước Quốc hội là không thấy, và còn ngồi chờ người đến báo!
Chúng ta có chủ quyền, không có từ nào nói đến Trung Quốc, mà Trung Quốc thắng thầu khắp mọi nơi.
Chúng ta có chủ quyền, nhưng đến ông bộ trưởng “thét ra lửa” Đinh La Thăng cũng phải ngậm đắng nuốt cay, không đuổi được nhà thầu Trung Quốc.
Huống hồ chi là mở đặc khu, với chỉ định mở cửa đích danh cho người Trung Quốc, thì chủ quyền đặc khu chỉ còn là cái bóng bóng.
Có người phản bác tại sao lại chia rẽ với Trung Quốc. Chúng ta không chia rẽ với nhân dân Trung Quốc, mà là chống lại kẻ cầm quyền độc tài ở Trung Quốc có dã tâm thôn tính nước ta, đang ăn cướp biển đảo của ta, ngày đêm xua đuổi đâm chìm thuyền đánh cá của ngư dân nước ta, không cho chúng ta khai thác đầu khí ngay chính trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
V. VÂN ĐỒN HỨNG CÁI GÌ?
Những người cổ súy cho đặc khu đang vẽ ra những nguồn thu khổng lồ nhiều chục tỷ đô la. Trong lúc đó thì ngân sách đang thâm hụt phải đảo nợ, nên Chính phủ và Quốc hội khó mà cưỡng lại chiếc bánh vẽ lợi nhuận đặc khu.
Trên thực tế thì sẽ rất khác xa. Nguồn thu sẽ không như bản vẽ. Ở Vân Đồn sẽ không có hy vọng đón dòng đầu tư công nghệ cao. Thay vào đó là cơn sốt bất động sản. Tiếp đến là sòng bạc và phố đèn đỏ. Cùng với dòng khách du lịch là những tệ nạn xã hội.
Trung Quốc có nhiều điều kinh khủng. Nhưng không phải ở nền công nghiệp 4.0 mà một số lãnh đạo Việt Nam hay dùng, cũng như những kẻ sính từ khác là cửa miệng. Những người bảo vệ Trung Quốc vì đặc khu, hãy chỉ ra những sáng chế cách mạng bước ngoặt nào của Trung Quốc đi trước Mỹ, Nga, Đức, Nhật? Chưa bao giờ. Hiện thời Trung Quốc còn đi sau. Trung Quốc chỉ là kẻ nhái công nghệ siêu hạng.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu “thầy nào trò nấy”. Chẳng hạn như trong bóng đá, có những ông thầy không dạy về kỹ thuật, mà chỉ dạy tiểu xảo chèn kéo đánh nguội đối thủ. Đi theo Trung Quốc là học làm hàng nhái, là làm đồ giả, là học tiểu xảo.
Cho nên nếu ai đó nghĩ rằng, mở đặc khu Vân Đồn để học công nghệ tân tiến của Trung Quốc thì thật nhầm to. Đừng cao giọng về “phượng hoàng”.
Sau những nguy hiểm về quân sự và lãnh thổ, điều đáng lo ngại mà Vân Đồn phải hứng chịu là những băng nhóm tội phạm từ Trung Quốc tràn sang tìm nơi trú ẩn, hành nghề, lừa đảo. Một cơ chế vào ra tự do cho người Trung Quốc là tấm thẻ xanh cho những kẻ tội phạm trốn tránh. Trung Quốc là nước ngầm khuyến khích tội phạm di cư ra nước ngoài.
Có người mong rằng mở đặc khu thì có các cường quốc đến làm rào cản Trung Quốc. Lại là một giấc mơ tự sướng. Quan hệ với các cường quốc nằm ở tầng khác. Không phải ở những mưu nhỏ này. Hơn thế nữa Trung Quốc là cáo già của phép “nhân kế nó dùng kế mình”.
VI. DỨT KHOÁT KHÔNG CẦN ĐẶC KHU
Chìa khoá không nằm ở đặc khu. Thí điểm thể chế đặc khu không giải quyết được vấn đề cốt lõi. Muốn giải quyết vấn đề cốt lõi thì cả nước phải là một đặc khu với một cơ chế mới.
Cả chục khu công nghiệp, trong đó có Dung Quất, Chu Lai , đã thất bại thảm hại. Khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc chưa thành công sau đã hai chục năm. Số phận ba đặc khu mới rồi cũng sẽ như vậy.
Mở đặc khu là lợi ích nhóm. Những kẻ bảo vệ lợi ích nhóm đang thúc đẩy thông qua luật đặc khu bằng mọi giá. Vì đồng tiền chúng bất chấp an nguy của Tổ Quốc.
Con đại bàng đã nhìn thấy mồi ở khoảng cách 3 km từ trời xanh, mà con thỏ thì chỉ đang nhìn thấy bụi cỏ trước mắt. Không phải vẽ ra tai hoạ, mà phải nhìn thấy trước được tại hoạ.
Sự khác biệt mang tính nguyên tắc giữa Thâm Quyến và Vân Đồn nằm ở chỗ, Thâm Quyến là Trung Quốc mở đặc khu cho người Trung Quốc, còn Vân Đồn là Việt Nam mở đặc khu cho người Tàu.
Nạn kiều năm 1976-1978 đã là một trong những nguyên do cơ bản để tên giặc già Đặng Tiểu Bình xua quân đánh chiếm nước ta ròng rã 10 năm trời. Nạn kiều cũng là nguyên do mà nhân dân Ucraina hiện đang hứng chịu cuộc nội chiến đau thương phân chia đất nước.
Dân tộc Việt Nam không cần đặc khu. Không phải đầu tư nước ngoài, mà con người và cơ chế mới quyết định sức bật của đất nước. An nguy của Tổ Quốc là tối thượng. Lợi ích nhóm không có nghĩa gì trước vận mệnh của Dân Tộc.
Không 99 năm. Không 70 năm. Không đặc khu. Hãy ngừng luật đặc khu. Đừng tạo cơ hội cho kẻ thù xâm chiếm đất đai của Tổ Tiên một cách hợp pháp.
Đừng nghĩ rằng bỏ đặc khu là phải chịu thua dân. Một chính quyền mà cố thắng chính nhân dân của nước mình thì tất sẽ sụp đổ.

TS. Nguyễn Ngọc Chu

7 tháng 6, 2018

19 Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII. Đồ họa: Tuấn Dũng. Nguồn: Zing.

Quyết định của Bộ Chính trị 
Luân Lê
7-6-2018

Trong thể chế chính trị hiện tại, Hiến pháp đã quy định Đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nhà nước và xã hội. Trong đó, Bộ Chính trị là cơ quan đầu não với sức mạnh quyền bính vô song, nhưng dường như vô hình trước luật pháp, bởi không có bất cứ cơ chế nào để có thể thực hiện việc khởi kiện tổ chức này (cũng như Đảng) ra toà án. Trong khi đó Hiến pháp quy định các cơ quan nhà nước và toàn thể nhân dân đều phải thực hiện bảo vệ hiến pháp và cơ chế bảo vệ hiến pháp thực hiện theo pháp luật. 

Nhưng trong toàn bộ cách thức vận hành và kiểm soát quyền lực hiện tại, lại không có bất cứ cơ chế nào để khởi kiện văn bản để bảo vệ hiến pháp và cũng có những tổ chức, vị trí chính trị không bao giờ bị kiện ra toà án (dưới dạng văn bản), bao gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ hay đảng cộng sản và kể cả luật của quốc hội. Vậy thì chúng ta bảo vệ Hiến pháp bằng cách nào? Và tại sao nhiều cơ quan cũng như tổ chức nằm ngoài sự điều phối của luật pháp như thế, nhưng lại nắm quyền lực với vị thế lãnh đạo toàn bộ nhà nước và xã hội?

Trong mô hình chính thể kiểu này, quả là bất lực một khi có văn bản luật nào đó hoặc một tổ chức nào đó ban hành hoặc đưa ra chính sách có dấu hiệu vi hiến, vì chúng ta không có cơ chế để ngăn chặn và vô hiệu hoá nó, mà chúng ta lại chỉ có cách thức là phải gửi kiến nghị đến chính cơ quan đã ban hành để đề nghị thay thế, sửa đổi hoặc đình chỉ. Vậy là họ là người cầm bút và họ cũng là người xé giấy. Đâu có ý nghĩa gì về mặt kiểm soát quyền lực và tính hữu hiệu thực lý của nó.

Văn bản dưới đây là của Bộ Chính trị, một văn bản không hề mật, nhưng ở mục 5 này đã ghi rõ, thiết chế này giao cho quốc hội để bàn thảo và thông qua luật đặc khu. Và như vậy, quốc hội đại diện cao nhất cho nhân dân nhưng lại nằm dưới sự tầm soát của Bộ Chính trị, và đó là cơ quan đầu não quyết định đến đường hướng và chương trình thuộc về chức trách của quốc hội. Hơn thế là 96% số đại biểu là đảng viên, lại cũng nằm dưới sự quản lý và điều hành từ tổ chức đảng. Vậy nên quốc hội bị chi phối và ảnh hưởng bởi thiết chế siêu quyền lực này là điều dễ hiểu.

Trong cuốn Dân trị và Chính quyền, tôi đã phân tích về cách thức phân bố quyền lực kiểu này là một dạng chuyển giao quyền lực bất truy hồi và theo kết cấu ngược, tức quyền lực mà nhân dân (đáng lẽ ra) chỉ giao cho chính quyền (nhà nước), lại một lần nữa được thuyên chuyển vào tay một tổ chức khác mà không có cách gì để khởi kiện hay kiểm soát những hoạt động của tổ chức này. Đây chính là tình trạng một thiết chế trở nên vô song trước quyền lực nhưng vô hình trước luật pháp.

Luật đặc khu đã ra đời và sớm được đưa lên bàn thảo tại nghị trường là xuất phát từ đây. Và như bà chủ tịch quốc hội đã nói, Bộ chính trị đã quyết rồi nên phải ra luật bằng được chứ không thể bàn lùi.

.






Bài bị gỡ: Nguyên Bộ trưởng Đặng Hữu gửi Quốc hội 4 khuyến nghị về luật An ninh mạng


Dự thảo luật An ninh mạng đang gây ra những ý kiến khác nhau - Ảnh minh họa
Bức thư gửi ngày 2.6 được ký bởi giáo sư Đặng Hữu, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ, thay mặt nhóm chuyên gia từng được Chính phủ giao đánh giá và chuẩn bị đưa internet vào Việt Nam những năm 1990, gồm giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ, ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông và Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an.

Trong bức thư, nhóm chuyên gia cho rằng rủi ro tấn công mạng đang ngày càng gia tăng, đồng thời chia sẻ những lo lắng của Quốc hội và Chính phủ về việc mạng internet nói chung, mạng xã hội nói riêng bị sử dụng để truyền bá các thông tin không chính xác, quá khích.

Tuy nhiên, theo nhóm chuyên gia, các điều luật đề xuất trong dự thảo luật An ninh mạng không giải quyết được vấn đề tấn công mạng, không giúp bảo vệ được an toàn internet của nhà nước và người dân mà ngược lại có thể kéo lùi sự phát triển của internet, của kinh tế số và xã hội thông tin.

“Kinh nghiệm mà chúng tôi tham khảo cũng cho thấy rằng, an ninh mạng là cuộc chiến kỹ thuật, các giải pháp bằng công cụ pháp lý hình sự hay hành chính không phải là lựa chọn tối ưu” – bức thư nêu.

Rủi ro xâm phạm quyền riêng tư

Theo nhóm chuyên gia, các giải pháp pháp lý được đề xuất, cụ thể ở điều 5 (dự thảo) không giúp giảm thiểu rủi ro tấn công mạng. Ngược lại, còn đưa các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, tổ chức cung cấp dịch vụ mạng và cả người dùng thành đối tượng điều chỉnh có thể gây tác dụng ngược, thu hẹp quyền tiếp cận và cơ hội sử dụng internet cho việc học tập, nghiên cứu kinh doanh, trao đổi thông tin của người dân.

Bên cạnh đó, tại điều 26 (dự thảo) về đảm bảo an ninh thông tin trên không gian mạng, nhóm chuyên gia cho rằng, điều này ảnh hưởng đến quyền dân sự, chính trị của công dân, đồng thời có thể đặt doanh nghiệp vào rủi ro pháp lý trong quá trình kinh doanh.

Theo nhóm chuyên gia, các điểm a, b, c khoản 2, điều 26 yêu cầu cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng hoặc sở hữu hệ thống thông tin phải xác thực được thông tin người dùng đăng ký tài khoản và cung cấp cho lực lượng chuyên trách an ninh mạng khi có yêu cầu; phải xóa bỏ thông tin, ngăn chặn việc chia sẻ thông tin; không cung cấp, ngừng cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ internet và các dịch vụ gia tăng cho tổ chức cá nhân nếu thông tin bị xác định là “xấu, độc” (theo Điều 15).

Tại quy định này, đối tượng thực thi là tổ chức cung cấp dịch vụ trên không gian mạng, hoặc sở hữu hệ thống thông tin – hàm nghĩa là toàn bộ tổ chức có sử dụng internet trên toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Trong khi đó, các thông tin “xấu, độc” như quy định tại điều 15 của dự thảo – buộc phải gỡ, chặn; và thậm chí ngừng cung cấp dịch vụ lại quá rộng và không rõ ràng. Như vậy, chỉ cần cơ quan quản lý cho rằng, một tổ chức, cá nhân đăng tải thông tin bị cho là “xấu, độc” – thì đã có thể yêu cầu bên cung cấp cắt dịch vụ internet, điện thoại, tài khoản email...

“Điều luật này rõ ràng hạn chế tự do internet, đi ngược lại tiến bộ; đặt công dân trước rủi ro vi phạm pháp luật và bị thanh tra, kiểm tra, nhũng nhiễu bởi lực lượng chuyên trách an ninh mạng”, bức thư nêu.

Việc yêu cầu tổ chức, doanh nghiệp phải cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách về an ninh mạng cho dù là có yêu cầu bằng văn bản đi nữa trong khi không kèm với điều kiện cung cấp; thủ tục thực hiện tạo ra rủi ro lớn xâm phạm vào quyền riêng tư của cá nhân, bí mật an toàn thư tín, vốn được bảo vệ bởi Hiến pháp (điều 21).

“Chúng tôi cho rằng, chỉ có lệnh từ tòa án mới có thể đưa ra yêu cầu này” – bức thư bày tỏ.

Lo lắng lạm quyền đe dọa tổ chức, doanh nghiệp

Về quy định “lưu trữ tại Việt Nam thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam và các dữ liệu quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”, các chuyên gia cho rằng, dữ liệu thế nào là quan trọng đến an ninh quốc gia không hề được xác định trong luật này cũng như luật An ninh quốc gia, hoặc các văn bản pháp luật đã ban hành.

Bên cạnh đó, yêu cầu “lưu trữ tại Việt Nam” đối với thông tin cá nhân của người sử dụng tại Việt Nam đồng nghĩa với việc cô lập không gian mạng trong phạm vi nước ta. Xét trên góc độ kỹ thuật, chưa bàn đến phạm vi “thông tin cá nhân”, yêu cầu này có thể sẽ khó khả thi trên thực tế vì các chuẩn công nghệ của các chủ sở hữu mạng khác nhau với mức độ bảo mật khác nhau.

Các máy chủ cũng có chức năng khác nhau, việc yêu cầu doanh nghiệp dành riêng một số máy chủ để lưu trữ dữ liệu người dùng để phục vụ cơ quan quản lý sẽ là một giải pháp thiếu hiệu quả với nền kinh tế. Thêm vào đó, cơ quan quản lý cũng không dễ càng để biết được rằng doanh nghiệp thực thi nghiêm túc hay chỉ mang tính chất đối phó.

Điều này tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp có tính tuân thủ cao với các doanh nghiệp không tuân thủ.

Thứ 3, các chuyên gia bày tỏ lo ngại việc dự thảo luật trao quá nhiều quyền hạn cho lực lượng chuyên trách an ninh mạng. “Trong dự thảo luật, có tới 18 điểm dẫn chiếu và trao quyền lực cho lực lượng này, từ thẩm định, thanh kiểm tra, đánh giá đến xử lý vi phạm, an ninh mạng. Đáng nói, nội dung và thủ tục thực thi không được quy định rõ ràng” – bức thư nêu và cho rằng, rủi ro lạm quyền đe dọa tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân xuất phát từ lực lượng này là rất cao.

4 kiến nghị

Từ đó, các chuyên gia kiến nghị, dự thảo luật chỉ nên thông qua khi thu hẹp phạm vi điều chỉnh của luật hiện nay, tập trung vào đảm bảo an ninh mạng trong các cơ quan nhà nước. Vấn đề liên quan tới khu vực ngoài nhà nước thực hiện theo khuôn khổ pháp lý hiện hành, gồm luật Dân sự, luật Hình sự, luật An toàn thông tin mạng và các luật chuyên ngành.

Từ cách tiếp cận này, các chuyên gia đề xuất bỏ các điều 24 (Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức), 26 (Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng), 38 (Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng), 39 (Trách nhiệm của chủ thể cung cấp thiết bị số, dịch vụ mạng, ứng dụng mạng) và 40 (Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet) của dự thảo.

Thứ ba, các chuyên gia cho rằng, cuộc chiến an ninh mạng là cuộc chiến thông minh, đòi hỏi am hiểu cả vấn đề chuyên môn kỹ thuật và pháp lý. Do đó, nhóm chuyên gia kiến nghị Quốc hội giao Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường thẩm tra dự thảo thay vì giao cho Ủy ban Quốc phòng an ninh.

Thứ tư, đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu người dùng, nhóm chuyên gia kiến nghị Quốc hội và Chính phủ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này và đề xuất xây dựng bổ sung luật về dữ liệu người dùng trong thời gian sắp tới.

Giáo sư Đặng Hữu, nguyên ủy viên T.Ư Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ. Ông được xem là một trong những người có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của công nghệ thông tin và khoa học công nghệ tại Việt Nam.

Ông Mai Liêm Trực, tiến sĩ kỹ thuật thông tin liên lạc Việt Nam. Ông từng giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông, được coi là người mở đường cho bùng nổ Internet tại Việt Nam và từng được bình chọn là người có ảnh hưởng nhất tới sự phát triển của internet tại Việt Nam trong mười năm gần đây.

Ông Chu Hảo, giữ chức Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ từ 1996 đến 2005. Ông hiện là giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức và phó hiệu trưởng Đại học Phan Châu Trinh

Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an, Phó Bí thư Đảng ủy Công an T.Ư, Đại biểu Quốc hội khóa XI.

Lê Hiệp

(Thanh Niên)