14 tháng 6, 2018


NGUYỄN ĐÌNH BIN (NHÀ NGOẠI GIAO) ĐỒNG TÌNH VỚI NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN QUANG DY:"3 ĐẶC KHU KINH TẾ-3 CON NGỰA THÀNH TROY"
Nguyễn Đình Bin
11 Tháng 6 lúc 22:22


“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu” (Nguyễn Cơ Thạch, 1990)
Khi đề cập đến câu chuyện đặc khu kinh tế, người ta dễ sa vào tiểu tiết nên “thấy cây mà không thấy rừng”. Chỉ tranh cãi và điều chỉnh “99 năm hay 70 năm” là vô nghĩa. Khi quan tâm đến “phần nổi của tảng băng” người ta cũng dễ quên phần chìm (mới là phần cốt lõi). Trong bài này, tôi đề cập đến hai vấn đề cốt lõi. Thứ nhất, câu chuyện đặc khu là một phần của bàn cờ Biển Đông, liên quan đến chiến lược “Một vành đai Một con đường” của Trung Quốc, đến chủ quyền Việt Nam và vấn đề “thoát Trung”. Thứ hai, câu chuyện đặc khu là một phần của vấn đề chống tham nhũng và đổi mới thể chế. Cả hai vấn đề đều liên quan đến yêu cầu kiểm soát quyền lực và dân chủ hóa để thoát khỏi cái vòng kim cô về ý thức hệ đã lỗi thời.
Đục nước béo cò
Nói cách khác, cả hai vấn đề cốt lõi nói trên đều có cùng yêu cầu cấp bách là phải tháo gỡ ách tắc về thể chế để dân chủ hóa và phát triển (cả sức mạnh cứng và sức mạnh mềm). Muốn phát triển phải dân chủ hóa, muốn dân chủ hóa phải phát triển (cả nguồn lực và dân trí). Cả hai vấn đề đều dễ bị nhầm lẫn (vì dân trí), và dễ bị lợi dụng bởi các nhóm lợi ích đang tranh giành quyền lực và thao túng chính sách để “đục nước béo cò”, bất chấp lợi ích cốt lõi của dân tộc. Trong bối cảnh “nội biến” thì dễ bị “ngoại xâm” bởi người láng giềng khổng lồ.


Trong câu chuyện đặc khu chỉ cần xác định “ai là kẻ thủ lợi” (câu La Tinh nổi tiếng: Cui bono?) nếu không phải là các nhóm lợi ích muốn “đục nước béo cò”, và người láng giềng khổng lồ đang quân sự hóa để kiểm soát Biển Đông (như “cái ao riêng”) và bắt nạt các nước láng giềng nhỏ yếu hơn để kiểm soát họ (cả phần hồn lẫn phần xác) như “lợi ích cốt lõi”. Nguy cơ “Hán hóa” không chỉ là câu chuyện lịch sử (trong sách giáo khoa) mà nó đang diễn ra tại nhiều nơi như Formosa và các đặc khu khác, không chỉ đe dọa sự tồn vong của Việt Nam mà cả các quốc gia khác.
Nếu đặt câu chuyện đặc khu kinh tế trong bức tranh lớn về Biển Đông, ngưởi ta rất dễ thấy “yếu tố Trung Quốc” nổi lên rất rõ và rất lớn. Tại sao lại là Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc (và Vũng Áng trước đây) mà không phải là chỗ nào khác? Đơn giản vì đó là những vị trí chiến lược xung yếu nhất. Chỉ có mù lòa về địa chính trị mới không hiểu tại sao. Còn cho thuê 99 năm vì đó là tiền lệ mà Trung Quốc đã áp đặt cho nhiều nước khác bị sập “bẫy nợ”. Đó là “chủ nghĩa thực dân mới kẻ cướp” (predatory neo-colonialism). Trong khi thế giới giật mình tỉnh ngộ và lo sợ, thì Việt Nam vẫn như mê ngủ, hay giả vờ không hiểu (và “không sợ”).
Đến lúc này mà họ vẫn chưa nhìn thấy nguy cơ đó thì có thể bị mù lòa về chính trị hoặc tối mắt vì lợi ích. Nhưng trong lúc đất nước lâm nguy mà chỉ tranh cãi và chống đối nhau thì tai họa càng lớn và đến càng nhanh. Bài học Miến Điện là trước nguy cơ Hán hóa, họ đã biết dẹp mâu thuẫn nội bộ để tìm đồng thuận quốc gia và đổi mới thể chế. Tuy Việt Nam đi trước Miến Điện (về cải cách kinh tế) và đi trước Triều Tiên (về thống nhất đất nước) nhưng Việt Nam đang tụt hậu không chỉ về kinh tế mà còn về thể chế và đồng thuận quốc gia.
Ván đã đóng thuyền
Hãy thử điểm lại vài nét cơ bản về thực trạng hiện nay trong câu chuyện đặc khu để thấy rõ chúng ta đang đi về đâu và đang làm gì trước nguy cơ Hán hóa. Nguy cơ đó không chỉ đến từ bên ngoài (như “ngoại xâm”) mà còn đến từ bên trong (như “nội biến”). Tuy người ta tranh cãi và chém gió đã nhiều, nhưng nếu vẫn chưa tìm được đồng thuận quốc gia thì sẽ là “tai họa quốc gia”. Khi giờ G tới, trước khi “ấn nút” quyết định, các đại biểu Quốc Hội hãy đặt tay lên ngực mình (như nhân viên “Thế giới Di động”) để tự hỏi mình là ai (có còn là đại biểu cho nhân dân nữa không) và mình đang phục vụ lợi ích của ai (người dân hay nhóm lợi ích, Việt Nam hay Trung Quốc). Việc “ấn nút” không chỉ đơn giản là “ván đã đóng thuyền” như bán Sabeco và Vinamilk, mà còn để lại hậu họa khôn lường cho nhiều thế hệ sau.
Theo Vneconomy (16/4/2018), Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh tại phiên thảo luận của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: “Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không thể không ra luật”. Nói cách khác, bà Ngân muốn đẩy trách nhiệm vì “ván đã đóng thuyền” nên Quốc Hội bất lực, và gián tiếp thừa nhận vai trò Quốc Hội chỉ là “ấn nút” để hợp thức hóa quyết định của BCT. Nhưng Quốc Hội và BCT liệu có hình dung được nguy cơ tiềm ẩn và hệ quả khôn lường. Một lần nữa Việt Nam lại sa vào bẫy của Trung Quốc (trong khi Triều Tiên đang “thoát Trung”). Không phải chỉ có “một làn sóng phản đối khủng khiếp” (như Thủ tướng nói) mà nguy cơ phân hóa và bạo loạn có thể lại xảy ra lần nữa như trong vụ dàn khoan HD 981 (5/2014). Tướng Nguyễn Chí Thanh từng nói đúng: “Mất đất chưa phải là mất nước. Mất dân mới là mất hết”. Chẳng lẽ lãnh đạo ngày nay không cần đến dân, và coi người bạn “bốn tốt” và “16 chữ vàng” là “đại cục”.
Phát biểu với báo Tuổi trẻ (4/6/2018) tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng, và giám đốc nghiên cứu của Đại học Fulbright) cũng cho rằng dự luật đặc khu kinh tế chắc sẽ được thông qua vì trên thực tế “ván đã đóng thuyền”. Nhưng nếu được triển khai thì “khả năng thành công của mô hình đặc khu sẽ rất thấp”. Đó là một nhận xét khá khách quan và trung thực (nhưng cũng đầy bất lực). Tương tự như vậy, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng nhận xét, “Tôi rất ngờ rằng luật này sẽ vẫn được thông qua, dù người ta có thể sửa đôi điều để trấn an dư luận. Nhưng về cốt lõi nó vẫn thế, vì người mua kẻ bán đã thỏa thuận với nhau mấy năm nay rồi, giờ họ chỉ chờ luật để hợp thức hóa thôi”...
Theo Dân Trí (1/6/2018), Chủ tịch Quốc Hội cố lý giải những lợi ích mà đặc khu sẽ mang lại: “bỏ ra một đồng để thu lại vài chục, vài trăm đồng” (chắc chỉ có đánh bạc!). Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nói “vừa làm vừa thử nghiệm” và hùng hồn tuyên bố:“Làm đặc khu phải theo nguyên lý dọn tổ đón phượng hoàng”. Chắc ông này không học PR/Marketing, hoặc “nhỡ mồm”(Freudian slip). Không biết ông Lưu muốn nói đến phượng hoàng nào, nhưng câu nói đó của ông đã gây bão dư luận, và đi vào lịch sử như “trạm thu giá BOT” của Bộ trưởng Giao thông. Nếu ông Lưu muốn nói đến phượng hoàng nội (như Vingroup hay Sun Group) thì họ chẳng cẩn đến đặc khu nào cả, vì họ đã chiếm hết đất vàng làm tổ lâu rồi. Nếu ông muốn nói đến phượng hoàng ngoại (như ASEAN hay Mỹ, Nhật, Ấn, Úc…) thì nhầm to. Vậy chỉ còn phượng hoàng Tàu. Nhưng thực ra Trung Quốc không phải là phượng hoàng mà là “chó sói” (đó là từ ngữ mà một cán bộ cao cấp của Trung Quốc đã có lần thừa nhận). Con sói khổng lồ đã thò một chân vào Việt Nam (tại Formosa), nay muốn thò nốt cả ba chân và hợp pháp hóa sự có mặt của nó bằng luật định (cho “đúng quy trình”). Vì vậy, nhiệm vụ chính của Quốc Hội là phải “ấn nút” thông qua luật đặc khu kinh tế như là “đóng giầy theo chân con sói”.
Dọn tổ đón phượng hoàng
Theo báo Tuổi Trẻ (6/6/2018), Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng (bộ chủ quản của dự luật đặc khu) đã khẳng định, “Dự thảo không có một chữ nào về Trung Quốc, chỉ có những người cố tình hiểu theo hướng đó và đẩy vấn đề lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc”. Vậy ông Dũng giải thích thế nào về Điều 55.4 Mục 5 trong dự luật:“Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ… được miễn thị thực ...). Nước láng giềng đó là nước nào? Ông Dũng đã ngụy biện một cách vụng về nên “giấu đầu hở đuôi”, hoặc ông quá coi thường dân nên tưởng có thể dễ dàng “dắt voi qua rào” (như họ đã từng làm trong vụ Formosa). Tuy Formosa chưa phải là đặc khu nhưng họ đã hành xử như “Tô giới”: không cho cơ quan chức năng Việt Nam vào, và còn hỗn xược thách thức “chọn cá hay chọn thép?”. Đó là phượng hoàng nào? do ai?
Thực ra câu chuyện đặc khu kinh tế đã được đề cập từ mấy năm nay. Tuy bộ KH-ĐT chịu trách nhiệm chính (từ thời bộ trưởng Bùi Quang Vinh đến thời bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng), nhưng các tỉnh liên quan cũng có vai trò lớn (chạy dự án). Hà Tĩnh chạy Vũng Áng, Khánh Hòa chạy Bắc Vân Phong, Kiên Giang chạy Phú Quốc, Quảng Ninh chạy Vân Đồn. Theo GS Võ Đại Lược, ông Phạm Minh Chính (nguyên bí thư Quảng Ninh) là tác giả của đề án đặc khu kinh tế Vân Đồn (từ tháng 8/2012). Lúc đó, ông Chính muốn xây dựng hai đặc khu kinh tế (cả Vân Đồn và Móng Cái) và “rất hăng say về chuyện xây dựng đặc khu kinh tế”, theo đó nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất 70 năm (thậm chí có thể đến 120 năm). Trường Đại học Thâm Quyến (Trung Quốc) tham gia hội thảo và chắc đã tài trợ kinh phí tổ chức…
Trong dự thảo luật đặc khu có rất nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, trái với các cam kết trong FTA về việc tạo lập môi trường đầu tư bình đẳng cho các nhà đầu tư khác nhau ở Việt Nam. Không những vậy, dự thảo còn cho phép kinh doanh nhiều lĩnh vực rủi ro cho quốc phòng và an ninh quốc gia, thậm chí cả các dự án điện hạt nhân. Điểm 4, Phụ lục IV cho phép: “Kinh doanh quân trang, quân dụng cho lực lượng vũ trang, vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật, khí tài, phương tiện chuyên dụng quân sự, công an, linh kiện, bộ phận, phụ tùng, vật tư và trang thiết bị đặc chủng, công nghệ chuyên dùng chế tạo chúng… Kinh doanh bất động sản, chất nổ, khai thác và làm giàu quặng kim loại có sử dụng hóa chất độc hại…
Chắc năm nay là thời điểm tốt nhất để Trung Quốc bắt nạt và bắt chẹt Việt Nam trên đất liền (cũng như tại Biển Đông) với chiến thuật “tằm ăn dâu”, biến thành “chuyện đã rồi”. Sau khi đã quân sự hóa và kiểm soát được Biển Đông, tất yếu họ muốn kiểm soát cả trên đất liền, không chỉ tại Campuchia mà còn tại Việt Nam (và các nước khác), theo chiến lược tổng thể “Một Vành đai, Một Con đường”, bằng cách lần lượt thôn tính các nước bằng “ bẫy nợ”. Những cánh tay dài của con bạch tuộc khổng lồ hay quái vật Frankenstein (như lời Richard Nixon) đã vươn tới Châu Phi (cảng Djibouti, $22 triệu/năm), tới Hy Lạp (cảng Piraeus, $436 triệu), tới Australia (cảng Darwin, $388 triệu, 99 năm), tới Sri Lanka (cảng Hambantora, $1.1 tỷ, 99 năm), tới Myanmar (cảng yaukpyu và khu công nghiệp, đầu tư $10 tỷ, 75 năm), tới Campuchea (cảng Sihanoukville & Koh Kong, đầu tư $3.8 tỷ, 99 năm), tới Thailand (siêu kênh đào Kra, đầu tư $20-$30 tỷ) để nối thẳng Vịnh Thailand với Ấn Độ Dương (bỏ qua eo Malacca).
Ba con ngựa thành Troy
Khi nói đến “thoát Trung”, chúng ta đừng nhầm với chống Trung Quốc như một đất nước và một dân tộc vĩ đại (là bạn). Nhưng người dân Việt Nam (cũng như người dân Trung Quốc) cần chống lại chính sách bá quyền nước lớn của họ (là thù). Cũng như trước đây, chúng ta không chống nước Mỹ và người Mỹ (là bạn) mà chỉ chống lại chính sách can thiệp của họ (là thù). Nếu nhầm lẫn, coi bạn là thù (hay coi thù là bạn) thì sẽ là tai họa. Người Việt lúc thắng thường hay ngạo mạn (như không sợ Mỹ), nhưng nay thất thế lại quá sợ Trung Quốc. Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả”, nhưng nếu nhầm lẫn biến bạn thành thù sẽ bị cô lập.
Gần đây, Thủ tướng và Chủ tịch Nước đã liên tiếp đi thăm các nước chủ chốt (như “tứ cường” Mỹ, Nhật, Ấn, Úc). Đó là những hoạt động ngoại giao đúng hướng để Việt Nam “tái cân bằng” quan hệ quốc tế. Nếu sự kiện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh là một thảm họa đối ngoại, làm mất lòng các đối tác chiến lược (Đức và Châu Âu) đe dọa làm trật bánh hiệp định EVFTA, nay luật đặc khu kinh tế chắc sẽ gửi một thông điệp tiêu cực tới các đối tác chiến lược khác (như “tứ cường”) mà Việt Nam đang vận động (dễ làm “xôi hỏng bỏng không”).
Trong bối cảnh cả nước đang sục sôi phẫn nộ, nếu Quốc Hội quyết “ấn nút” để dắt “ba con voi qua rào” (như “ba con ngựa thành Troy”), thì khác gì hành động “tự sát chính trị” (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng). Hành động mạo hiểm đó chắc chắn sẽ bị thiên hạ chê cười và nguyền rủa, như thằng bờm “cố đấm ăn xôi”, định bán chạy ba đặc khu xung yếu nhất cho lão hàng xóm khổng lồ tham lam và độc ác. Không chỉ dư luận trong nước phản đối quyết liệt, mà dư luận quốc tế cũng đang lên tiếng, vì vấn đề ba đặc khu không chỉ liên quan đến Việt Nam, mà còn liên quan đến tầm nhìn Indo-Pacific mà Việt Nam ủng hộ. Đây là thế “tiến thoái lưỡng nan” (như “catch-22”) không ai muốn, nên cần khôn ngoan thoát hiểm.
Sau sự kiện “tái xuất” (lần thứ nhất) tại hội nghị cấp cao APEC (6-12/11/2017), CTN Trần Đại Quang đã “tái xuất” (lần thứ hai) tại TW7 (7-12/5/2018). Sau chuyến thăm chính thức Ấn Độ (2-4/3/2018), ông Quang vừa thăm chính thức Nhật Bản (29/5-2/6/2018). Đó là mấy sự kiện nổi bật, đánh dấu “những đợt sóng ngầm chính trị” (lời Lê Hồng Hiệp) vẫn đang tiếp diễn và chưa ngã ngủ, còn nhiều ẩn số và biến số (cho tới TW8). Chắc CTN Trần Đại Quang và TT Nguyễn Xuân Phúc hiểu rõ nguy cơ và hệ quả của ba đặc khu này, nhưng Thủ tướng buộc phải nói (như thanh minh): “Nếu ai ở địa vị này cũng phải giao, không có cách gì khác”. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã bức xúc kết luận: “Không biết ai đưa ra ý tưởng như vậy, kể cả những người đồng ý, thì đều là những kẻ bán nước”.
Để triển khai “chủ trương lớn” này, BCT đã chỉ đạo Quốc Hội “ấn nút” để thông qua luật đặc khu kinh tế, định biến một chuyện bất khả kháng thành “chuyện đã rồi”, theo một thỏa thuận ngầm nào đó (với nhiều điều kiện đặc biệt). Nó chứng tỏ Việt Nam đang “bí tiền và bí cờ”, trong khi bị Trung Quốc bắt nạt không cho khai thác dầu khí tại mỏ Cá Rồng Đỏ (Bãi Tư Chính) và Cá Voi Xanh (lô 128). Trong khi ngân sách thiếu hụt (thu không đủ chi), nội bộ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc khi “người đốt lò vĩ đại” chống tham nhũng quyết liệt. Trong khi trì hoãn những dự luật khác, Quốc Hội ráo riết chuẩn bị thông qua luật đặc khu kinh tế, được Quốc Hội thảo luận từ cuối năm 2017, nay phải thông qua sớm (dự kiến 15/6/2018)
Kế hoãn binh
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan (Tiếng Dân, 5/6/2018), “dự luật đặc khu rất nên dừng lại. Quốc Hội đừng thông qua vội, để hỏi thêm ý kiến của các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau, không phải chỉ về kinh tế, mà cả về xã hội và chuyên gia về an ninh, quốc phòng, nhìn từ nhiều góc độ để xem xét lại”…Theo bà Chi Lan, “mối nguy của việc ba đặc khu có thể biến thành những vùng lãnh thổ của Trung Quốc ở Việt Nam là rất lớn… Chưa chắc đã cần chờ đến 50 năm, 70 năm hay 99 năm đâu, các đặc khu này có thể rơi vào tay người Trung Quốc ở mức độ rất cao, đến mức họ khống chế hoàn toàn. Đấy là điều tôi thật sự lo lắng”…
Sáng 9/6/2018, Chính phủ thông báo đã đề nghị Quốc Hội lùi thời gian thông qua dự luật đặc khu sang kỳ họp thứ 6 Quốc hội XIV, thay vì kỳ họp thứ 5 như dự kiến (15/6) và giảm thời hạn thuê đất xuỗng dưới 99 năm. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khôn ngoan lắng nghe dân và đưa ra đề xuất kịp thời, hợp lòng dân, để tháo gỡ bế tắc (tuy đó chưa phải là vấn đề cốt lõi). Tuy nhiên, bà Phạm Chi Lan nhận xét: “Đây là một trong những quyết định sáng suốt nhất… là một tiền lệ tốt để sau này Chính phủ, và Quốc hội sẽ biết lắng nghe”…Dư luận chung tuy hoan nghênh Chính phủ, nhưng chưa được thuyết phục. Họ muốn thấy Bộ Chính Trị tập trung vào các chủ trương lớn, không áp đặt quan điểm đối với các cơ quan lập pháp và hành pháp. Họ muốn Quốc Hội hoãn thông qua dự luật an ninh mạng cũng như dự luật đặc khu.
Nhiều người nghi ngờ một số nhóm lợi ích đã câu kết với người Trung Quốc vì lợi ích riêng, làm phương hại cho lợi ích quốc gia. Nếu họ chưa bị vạch mặt để cho vào lò (như Trương Minh Tuấn trong vụ mua bán AVG), thì sớm muộn họ cũng sẽ bị lịch sử lên án và các thế hệ sau nguyền rủa. Nhưng cuối cùng, chắc Quốc Hội sẽ vẫn thông qua dự luật đặc khu, sau khi đã hoãn binh và điều chỉnh vài chi tiết cụ thể (để mị dân). Một số người khác lo ngại đó sẽ là “Thành Đô 2.0”, là bước nối tiếp của Hội Nghị Thành Đô đầy ô nhục, tuy đã diễn ra cách đây 28 năm (9/1990), nhưng cái bóng đen của nó vẫn đang ám ảnh đất nước này.
Theo nhà báo Vũ Kim Hạnh (Facebook, 9/6/2018) an ninh tiền tệ của Việt Nam đang bị Trung Quốc tấn công và đe dọa cũng như an ninh mạng (cyber security). Ngoài an ninh Biển Đông đang bị đe dọa, người Việt coi “đặc khu kinh tế là một cuộc tấn công từ Trung Quốc” (Bennett Murray, SCMP, 7/6/2018). Trong khi Việt Nam bất lực không đối phó được với các mối đe dọa của Trung Quốc, thì Quốc Hội vẫn định thông qua dự luật an ninh mạng và dự luật đặc khu kinh tế, mở toang cửa cho Trung Quốc xâm nhập, và làm thiệt hại cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Bà Kim Hạnh cho rằng các cơ quan quản lý của Việt Nam đã phản ứng quá chậm. Đã gần hai năm sau khi Alipay công bố chính thức đã đặt đại lý thanh toán tại Việt Nam, các cơ quan chức năng của Việt Nam vẫn chưa có giải pháp để đối phó. Theo bà Kim Hạnh, không ở đâu luật pháp lại lỏng lẻo và các cơ quan quản lý lại lúng túng như ở Việt Nam.
Lời cuối
Nếu ai đã từng tìm hiểu về mô hình “đặc khu kinh tế” (special economic zone) chắc thấy “luật đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” là một dự luật bất bình thường, từ cái tên dài lủng củng đến các điều khoản khó lý giải được nhồi nhét luộm thuộm trong văn bản luật và phụ lục. Có thể nói đó là hệ quả của sự kết hợp (cố ý) giữa nhận thức mơ hồ và ngộ nhận (do quan trí thấp) với sự đánh tráo khái niệm (bị thao túng bởi các nhóm lợi ích), giữa lợi ích nhóm trong và ngoài nước (có động cơ trục lợi) với thế lực ngoại bang (có ý đồ thôn tính Việt Nam). Chỉ có lý giải như vậy mới có thể hiểu được tại sao người ta lại ghép ba vị trí chiến lược xung yếu (Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc) vào một văn bản luật. Tuy người ta có thể thỏa hiệp về thời hạn thuê đất (dưới 99 năm) nhưng chắc không thỏa hiệp về ba vị trí đặc khu, đánh đổi lấy các vị trí mới như khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) và Quang Trung (Sài Gòn) để phát triển “công nghệ 4.0” như chính phủ kiến tạo vẫn đề cập.

NQD. 10/6/2018
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 10-6-18

11 tháng 6, 2018


KHÔNG 99 NĂM! KHÔNG 70 NĂM! KHÔNG ĐẶC KHU! ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP!



Phạm Lưu Vũ

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Chu tiếp tục có bài viết hay quá. Giờ mới hiểu con "Tì Hưu" của bọn Tàu là con gì. Nó hiện đang bày la liệt trên bàn làm việc của các quan chức từ bé đến to.
Cám ơn bác Nguyễn Ngọc Chu. Mời mọi người đọc. Rất đáng một đời chủ nhật.
KHÔNG 99 NĂM. KHÔNG 70 NĂM. KHÔNG ĐẶC KHU. ĐỪNG TẠO CƠ HỘI CHO KẺ THÙ XÂM CHIẾM ĐẤT ĐAI CỦA TỔ TIÊN MỘT CÁCH HỢP PHÁP
I. ÁT CHỦ BÀI ĐÃ BỊ LẬT TẨY
Đến bây giờ thì át chủ bài đã bị lật tẩy. Không chỉ những người quan tâm đến luật đặc khu, mà cả đất nước đều rõ tỏ, là đặc khu Vân Đồn nhắm vào Trung Quốc.
Dự thảo luật đặc khu, Điều 54, khoản 4, đã được cộng đồng mạng “phổ cập”:
“Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với mục đích du lịch được miễn thị thực với thời hạn xác định; trường hợp có nhu cầu đến các địa điểm khác của tỉnh Quảng Ninh để du lịch thì làm thủ tục thông qua doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam”.
Người Trung Quốc được ưu ái đặc biệt ở đặc khu Vân Đồn, được ghi rõ rành rành trong luật đầu tư. Vân Đồn là dành đặc biệt cho người Trung Quốc.
Với điều khoản này, 1 tỷ 414 triệu 688 ngàn 453 người Trung Quốc, (theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc ngày 07/06/2018), chỉ cần chứng minh thư mà không cần hộ chiếu, sẽ được tự do ra vào Vân Đồn tùy thích!
Thế còn 96 triệu 429 ngàn 667 người Việt Nam (cũng thống kê của Liên Hợp Quốc ngày 07/06/2018) có được tự do ra vào Thâm Quyến bằng chứng minh thư không? Không!
Mở đặc khu để thêm bị thấp hèn thì mở làm gì!
II. KHÔNG CHÍNH DANH
Đường đường là luật đầu tư của một quốc gia sao còn giấu giếm sự thật. Rõ ràng người dự thảo luật đã cố tình giấu hai từ Trung Quốc để che mắt nhân dân. Nhưng sao cả gần 500 vị Đại biểu Quốc hội đã thảo luận Luật Đặc khu hôm 23/5/2018 mà không thấy ai chỉ thẳng ra điều này? Cầm quyền mà giấu dân là không chính danh.

Bới thế, Quốc hội phải trừng trị những kẻ đã cố ý đẩy Quốc hội vào tình cảnh không chính danh.
III. THÂM QUYẾN, ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀ CON TÌ HƯU
Thâm Quyến là một đặc khu cũ rích không đáng để học. Nếu muốn học thì gần có Singapore, xa hơn là Nhật, xa nữa là Đức, Mỹ. Trên thế gian này thiếu gì nơi học mà phải học Thâm Quyến.
Nhưng Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại lấy tiền thuế của dân để đưa đoàn nhà báo đi tham quan Thâm Quyến, nhằm cổ súy cho mở đặc khu kiểu Thâm Quyến, đi ngược lại lòng dân, làm một điều lãng phí có tội, nên phải nói đôi điều.
1. Về tính thời sự, đặc khu Thâm Quyến mở ra khi Trung Quốc còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, vào thập niên 1980, nhưng Việt Nam cũng đã mở cửa hơn 30 năm, từ cuối thập niên 1980, đã tiếp xúc với các nền kinh tế tiên tiến nhất như như Nhật, Mỹ, châu Âu, hơn hẳn Thâm Quyến rồi, nên Thâm Quyến không có gì mới lạ với Việt Nam nữa. Tính thời sự của Thâm Quyến đối với Việt Nam bằng 0.
2. Đặng Tiểu Bình không đặt đặc khu ở Thượng Hải, Đại Liên hay một nơi nào khác mà ở Thâm Quyến vì Thâm Quyến cạnh Hồng Kông, để đón lõng dòng đầu tư từ Hồng Kông, do các nhà tư bản Hồng Kông đối phó với việc Hồng Kông sẽ nhập vào Trung Quốc năm 1997. Thâm Quyến phát triển là nhờ chủ yếu từ đầu tư của người Hoa Hồng Kông.
3. Cho nên sau Thâm Quyến, đặc khu Chu Hải ở gần đó không thành công. Vì dòng đầu tư chính từ Hồng Kông đã đổ vào Thâm Quyến.
4. Tại sao lại Thâm Quyến? Là vì con Tì Hưu.
Tì Hưu là con vật ăn vào mà không ỉa đái ra. Thần thoại Hy lạp có bao nhiêu con quái vật mình người đầu thú hay ngược lại, nhưng không có con nào quái đản như con Tì Hưu.
Con Tì Hưu là lòng tham vô độ, đi ngược với tuần hoàn tự nhiên. Chỉ có lòng tham và tính nghịch tặc vô độ mới nghĩ ra được con Tì Hưu. Con tì Hưu là sản phẩm của người Tàu.
Cũng chỉ có Đặng Tiểu Bình, kẻ có lòng tham vô độ và nghịch tặc tày trời, nên mới mở đặc khu ở Thâm Quyến, đón dòng tiền từ Hồng Kông, không cho chảy ra khỏi Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình là một đại Tì Hưu.
5. Bởi thế, bất cứ ai trong Chính phủ và Quốc hội, trước khi nghĩ rằng mình có tài khống chế được Trung Quốc khi mở ra đặc khu Vân Đồn, thì hãy tự hỏi rằng có đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu quái đản hay không. Nếu không đủ trí tuệ để nghĩ ra được con Tì Hưu, thì đừng mở đặc khu Vân Đồn, vì không cản trở được Trung Quốc thâu tóm.
IV. TRUNG QUỐC SẼ THÂU TÓM ĐẶC KHU VÂN ĐỒN NHƯ THẾ NÀO?
Trung Quốc có muôn ngàn mưu kế để thâu tóm Vân Đồn mà Việt Nam không có cách nào ngăn chặn được. Mở đặc khu Vân Đồn là giúp cho Trung Quốc thâu tóm Vân Đồn một cách hợp pháp. Đơn giản bởi Trung Quốc có rất nhiều tiền, lòng tham không giới hạn, nhẫn tâm, thâm độc.
Trung Quốc không chỉ thâu tóm Vân Đồn mà còn thâu tóm các tập đoàn lớn của Việt Nam khi cổ phần hóa. Đã cổ phần hóa thì không thể cưỡng lại được đấu giá. Mà đấu giá thì kẻ nhiều tiền sẽ thâu tóm. Sabeco là một thí dụ điển hình.
Đừng nghĩ rằng tỷ phú gốc Hoa quốc tịch Thái thâu tóm Sabeco không dính dáng đến Trung quốc. Nếu quả thực chưa dính dáng thì biến thành của Trung Quốc cũng không khó gì.
VTV vào phút chỏt hôm nay đã mua bản quyền world cup từ Infront Sports & Media với giá trên dưới chừng 10 triệu usd. Nhưng ít người nhớ rằng năm 2015 Tập đoàn Đại Liên Vạn Đạt của Trung Quốc đã chi khoảng 1,1 tỉ USD để sở hữu Infront Sports & Media. Sống động hơn, hãy nhớ lại hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc.
Hàng không mẫu hạm Varyag của Liên Xô vì không có tiền và do Liên Xô tan rã mà nằm phơi sương gió ở cảng Ôdexa. Một tỷ phú Hồng Kông thấy “lãng phí”nên xin được mua về làm sàn nhảy trên cảng với giá 2 triệu USD. Điều kiện là động cơ cùng các thiết bị điện tử, kỹ thuật quân sự trên tàu phải được dỡ bỏ thì mới được bán. Nhưng đồng tiền đã đưa đường chỉ lối để cuối cùng hàng không mẫu hạm Varyag được chia gói chuyển về Hồng Kông nguyên vẹn. Ít năm sau thì tự nhiên nó“tàng hình thành Liêu Ninh”.
Trung Quốc đã có một thương vụ xiếc ngoạn mục, tốn dăm triệu USD mà có được chiếc hàng không mẫu hạm đáng giá nhiều trăm triệu đô la. Hơn cả là sở hữu công nghệ hàng không mẫu hạm. Rút ngắn cả chục năm trong cuộc chạy đua hàng không mẫu hạm với Nga và Mỹ.
Trung Quốc sẽ thâu tóm Vân Đồn trực tiếp, hay qua bàn tay người khác, lúc này hay dăm mười năm sau. Dưới vỏ bọc của các nhà đầu tư phương Tây, Hoa Kiều các nước, và mua lại các đại gia Việt Nam đang hối hả đầu tư tại Vân Đồn để kiếm lời. Vì mục tiêu quân sự, lãnh thổ và bành trướng, Trung Quốc không đếm xỉa đến giá cả. Còn kẻ đã đi làm giàu thì không thể cưỡng lại những núi tiền.
Khi trở thành đặc khu, chuyện thâu tóm Vân Đồn đối với Trung Quốc “dễ như trở bàn tay”. Đừng mơ hồ là chúng ta có chủ quyền.
Chúng ta có chủ quyền, thế mà ở Đà Nẵng người Trung Quốc xây phố Tàu, người Trung Quốc mua đất rầm rầm, nhưng ông Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường trả lời trước Quốc hội là không thấy, và còn ngồi chờ người đến báo!
Chúng ta có chủ quyền, không có từ nào nói đến Trung Quốc, mà Trung Quốc thắng thầu khắp mọi nơi.
Chúng ta có chủ quyền, nhưng đến ông bộ trưởng “thét ra lửa” Đinh La Thăng cũng phải ngậm đắng nuốt cay, không đuổi được nhà thầu Trung Quốc.
Huống hồ chi là mở đặc khu, với chỉ định mở cửa đích danh cho người Trung Quốc, thì chủ quyền đặc khu chỉ còn là cái bóng bóng.
Có người phản bác tại sao lại chia rẽ với Trung Quốc. Chúng ta không chia rẽ với nhân dân Trung Quốc, mà là chống lại kẻ cầm quyền độc tài ở Trung Quốc có dã tâm thôn tính nước ta, đang ăn cướp biển đảo của ta, ngày đêm xua đuổi đâm chìm thuyền đánh cá của ngư dân nước ta, không cho chúng ta khai thác đầu khí ngay chính trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
V. VÂN ĐỒN HỨNG CÁI GÌ?
Những người cổ súy cho đặc khu đang vẽ ra những nguồn thu khổng lồ nhiều chục tỷ đô la. Trong lúc đó thì ngân sách đang thâm hụt phải đảo nợ, nên Chính phủ và Quốc hội khó mà cưỡng lại chiếc bánh vẽ lợi nhuận đặc khu.
Trên thực tế thì sẽ rất khác xa. Nguồn thu sẽ không như bản vẽ. Ở Vân Đồn sẽ không có hy vọng đón dòng đầu tư công nghệ cao. Thay vào đó là cơn sốt bất động sản. Tiếp đến là sòng bạc và phố đèn đỏ. Cùng với dòng khách du lịch là những tệ nạn xã hội.
Trung Quốc có nhiều điều kinh khủng. Nhưng không phải ở nền công nghiệp 4.0 mà một số lãnh đạo Việt Nam hay dùng, cũng như những kẻ sính từ khác là cửa miệng. Những người bảo vệ Trung Quốc vì đặc khu, hãy chỉ ra những sáng chế cách mạng bước ngoặt nào của Trung Quốc đi trước Mỹ, Nga, Đức, Nhật? Chưa bao giờ. Hiện thời Trung Quốc còn đi sau. Trung Quốc chỉ là kẻ nhái công nghệ siêu hạng.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu “thầy nào trò nấy”. Chẳng hạn như trong bóng đá, có những ông thầy không dạy về kỹ thuật, mà chỉ dạy tiểu xảo chèn kéo đánh nguội đối thủ. Đi theo Trung Quốc là học làm hàng nhái, là làm đồ giả, là học tiểu xảo.
Cho nên nếu ai đó nghĩ rằng, mở đặc khu Vân Đồn để học công nghệ tân tiến của Trung Quốc thì thật nhầm to. Đừng cao giọng về “phượng hoàng”.
Sau những nguy hiểm về quân sự và lãnh thổ, điều đáng lo ngại mà Vân Đồn phải hứng chịu là những băng nhóm tội phạm từ Trung Quốc tràn sang tìm nơi trú ẩn, hành nghề, lừa đảo. Một cơ chế vào ra tự do cho người Trung Quốc là tấm thẻ xanh cho những kẻ tội phạm trốn tránh. Trung Quốc là nước ngầm khuyến khích tội phạm di cư ra nước ngoài.
Có người mong rằng mở đặc khu thì có các cường quốc đến làm rào cản Trung Quốc. Lại là một giấc mơ tự sướng. Quan hệ với các cường quốc nằm ở tầng khác. Không phải ở những mưu nhỏ này. Hơn thế nữa Trung Quốc là cáo già của phép “nhân kế nó dùng kế mình”.
VI. DỨT KHOÁT KHÔNG CẦN ĐẶC KHU
Chìa khoá không nằm ở đặc khu. Thí điểm thể chế đặc khu không giải quyết được vấn đề cốt lõi. Muốn giải quyết vấn đề cốt lõi thì cả nước phải là một đặc khu với một cơ chế mới.
Cả chục khu công nghiệp, trong đó có Dung Quất, Chu Lai , đã thất bại thảm hại. Khu công nghệ cao Láng - Hoà Lạc chưa thành công sau đã hai chục năm. Số phận ba đặc khu mới rồi cũng sẽ như vậy.
Mở đặc khu là lợi ích nhóm. Những kẻ bảo vệ lợi ích nhóm đang thúc đẩy thông qua luật đặc khu bằng mọi giá. Vì đồng tiền chúng bất chấp an nguy của Tổ Quốc.
Con đại bàng đã nhìn thấy mồi ở khoảng cách 3 km từ trời xanh, mà con thỏ thì chỉ đang nhìn thấy bụi cỏ trước mắt. Không phải vẽ ra tai hoạ, mà phải nhìn thấy trước được tại hoạ.
Sự khác biệt mang tính nguyên tắc giữa Thâm Quyến và Vân Đồn nằm ở chỗ, Thâm Quyến là Trung Quốc mở đặc khu cho người Trung Quốc, còn Vân Đồn là Việt Nam mở đặc khu cho người Tàu.
Nạn kiều năm 1976-1978 đã là một trong những nguyên do cơ bản để tên giặc già Đặng Tiểu Bình xua quân đánh chiếm nước ta ròng rã 10 năm trời. Nạn kiều cũng là nguyên do mà nhân dân Ucraina hiện đang hứng chịu cuộc nội chiến đau thương phân chia đất nước.
Dân tộc Việt Nam không cần đặc khu. Không phải đầu tư nước ngoài, mà con người và cơ chế mới quyết định sức bật của đất nước. An nguy của Tổ Quốc là tối thượng. Lợi ích nhóm không có nghĩa gì trước vận mệnh của Dân Tộc.
Không 99 năm. Không 70 năm. Không đặc khu. Hãy ngừng luật đặc khu. Đừng tạo cơ hội cho kẻ thù xâm chiếm đất đai của Tổ Tiên một cách hợp pháp.
Đừng nghĩ rằng bỏ đặc khu là phải chịu thua dân. Một chính quyền mà cố thắng chính nhân dân của nước mình thì tất sẽ sụp đổ.

TS. Nguyễn Ngọc Chu

7 tháng 6, 2018

19 Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII. Đồ họa: Tuấn Dũng. Nguồn: Zing.

Quyết định của Bộ Chính trị 
Luân Lê
7-6-2018

Trong thể chế chính trị hiện tại, Hiến pháp đã quy định Đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nhà nước và xã hội. Trong đó, Bộ Chính trị là cơ quan đầu não với sức mạnh quyền bính vô song, nhưng dường như vô hình trước luật pháp, bởi không có bất cứ cơ chế nào để có thể thực hiện việc khởi kiện tổ chức này (cũng như Đảng) ra toà án. Trong khi đó Hiến pháp quy định các cơ quan nhà nước và toàn thể nhân dân đều phải thực hiện bảo vệ hiến pháp và cơ chế bảo vệ hiến pháp thực hiện theo pháp luật. 

Nhưng trong toàn bộ cách thức vận hành và kiểm soát quyền lực hiện tại, lại không có bất cứ cơ chế nào để khởi kiện văn bản để bảo vệ hiến pháp và cũng có những tổ chức, vị trí chính trị không bao giờ bị kiện ra toà án (dưới dạng văn bản), bao gồm Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ hay đảng cộng sản và kể cả luật của quốc hội. Vậy thì chúng ta bảo vệ Hiến pháp bằng cách nào? Và tại sao nhiều cơ quan cũng như tổ chức nằm ngoài sự điều phối của luật pháp như thế, nhưng lại nắm quyền lực với vị thế lãnh đạo toàn bộ nhà nước và xã hội?

Trong mô hình chính thể kiểu này, quả là bất lực một khi có văn bản luật nào đó hoặc một tổ chức nào đó ban hành hoặc đưa ra chính sách có dấu hiệu vi hiến, vì chúng ta không có cơ chế để ngăn chặn và vô hiệu hoá nó, mà chúng ta lại chỉ có cách thức là phải gửi kiến nghị đến chính cơ quan đã ban hành để đề nghị thay thế, sửa đổi hoặc đình chỉ. Vậy là họ là người cầm bút và họ cũng là người xé giấy. Đâu có ý nghĩa gì về mặt kiểm soát quyền lực và tính hữu hiệu thực lý của nó.

Văn bản dưới đây là của Bộ Chính trị, một văn bản không hề mật, nhưng ở mục 5 này đã ghi rõ, thiết chế này giao cho quốc hội để bàn thảo và thông qua luật đặc khu. Và như vậy, quốc hội đại diện cao nhất cho nhân dân nhưng lại nằm dưới sự tầm soát của Bộ Chính trị, và đó là cơ quan đầu não quyết định đến đường hướng và chương trình thuộc về chức trách của quốc hội. Hơn thế là 96% số đại biểu là đảng viên, lại cũng nằm dưới sự quản lý và điều hành từ tổ chức đảng. Vậy nên quốc hội bị chi phối và ảnh hưởng bởi thiết chế siêu quyền lực này là điều dễ hiểu.

Trong cuốn Dân trị và Chính quyền, tôi đã phân tích về cách thức phân bố quyền lực kiểu này là một dạng chuyển giao quyền lực bất truy hồi và theo kết cấu ngược, tức quyền lực mà nhân dân (đáng lẽ ra) chỉ giao cho chính quyền (nhà nước), lại một lần nữa được thuyên chuyển vào tay một tổ chức khác mà không có cách gì để khởi kiện hay kiểm soát những hoạt động của tổ chức này. Đây chính là tình trạng một thiết chế trở nên vô song trước quyền lực nhưng vô hình trước luật pháp.

Luật đặc khu đã ra đời và sớm được đưa lên bàn thảo tại nghị trường là xuất phát từ đây. Và như bà chủ tịch quốc hội đã nói, Bộ chính trị đã quyết rồi nên phải ra luật bằng được chứ không thể bàn lùi.

.






Bài bị gỡ: Nguyên Bộ trưởng Đặng Hữu gửi Quốc hội 4 khuyến nghị về luật An ninh mạng


Dự thảo luật An ninh mạng đang gây ra những ý kiến khác nhau - Ảnh minh họa
Bức thư gửi ngày 2.6 được ký bởi giáo sư Đặng Hữu, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ, thay mặt nhóm chuyên gia từng được Chính phủ giao đánh giá và chuẩn bị đưa internet vào Việt Nam những năm 1990, gồm giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ, ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông và Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an.

Trong bức thư, nhóm chuyên gia cho rằng rủi ro tấn công mạng đang ngày càng gia tăng, đồng thời chia sẻ những lo lắng của Quốc hội và Chính phủ về việc mạng internet nói chung, mạng xã hội nói riêng bị sử dụng để truyền bá các thông tin không chính xác, quá khích.

Tuy nhiên, theo nhóm chuyên gia, các điều luật đề xuất trong dự thảo luật An ninh mạng không giải quyết được vấn đề tấn công mạng, không giúp bảo vệ được an toàn internet của nhà nước và người dân mà ngược lại có thể kéo lùi sự phát triển của internet, của kinh tế số và xã hội thông tin.

“Kinh nghiệm mà chúng tôi tham khảo cũng cho thấy rằng, an ninh mạng là cuộc chiến kỹ thuật, các giải pháp bằng công cụ pháp lý hình sự hay hành chính không phải là lựa chọn tối ưu” – bức thư nêu.

Rủi ro xâm phạm quyền riêng tư

Theo nhóm chuyên gia, các giải pháp pháp lý được đề xuất, cụ thể ở điều 5 (dự thảo) không giúp giảm thiểu rủi ro tấn công mạng. Ngược lại, còn đưa các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ viễn thông, internet, tổ chức cung cấp dịch vụ mạng và cả người dùng thành đối tượng điều chỉnh có thể gây tác dụng ngược, thu hẹp quyền tiếp cận và cơ hội sử dụng internet cho việc học tập, nghiên cứu kinh doanh, trao đổi thông tin của người dân.

Bên cạnh đó, tại điều 26 (dự thảo) về đảm bảo an ninh thông tin trên không gian mạng, nhóm chuyên gia cho rằng, điều này ảnh hưởng đến quyền dân sự, chính trị của công dân, đồng thời có thể đặt doanh nghiệp vào rủi ro pháp lý trong quá trình kinh doanh.

Theo nhóm chuyên gia, các điểm a, b, c khoản 2, điều 26 yêu cầu cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên không gian mạng hoặc sở hữu hệ thống thông tin phải xác thực được thông tin người dùng đăng ký tài khoản và cung cấp cho lực lượng chuyên trách an ninh mạng khi có yêu cầu; phải xóa bỏ thông tin, ngăn chặn việc chia sẻ thông tin; không cung cấp, ngừng cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ internet và các dịch vụ gia tăng cho tổ chức cá nhân nếu thông tin bị xác định là “xấu, độc” (theo Điều 15).

Tại quy định này, đối tượng thực thi là tổ chức cung cấp dịch vụ trên không gian mạng, hoặc sở hữu hệ thống thông tin – hàm nghĩa là toàn bộ tổ chức có sử dụng internet trên toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Trong khi đó, các thông tin “xấu, độc” như quy định tại điều 15 của dự thảo – buộc phải gỡ, chặn; và thậm chí ngừng cung cấp dịch vụ lại quá rộng và không rõ ràng. Như vậy, chỉ cần cơ quan quản lý cho rằng, một tổ chức, cá nhân đăng tải thông tin bị cho là “xấu, độc” – thì đã có thể yêu cầu bên cung cấp cắt dịch vụ internet, điện thoại, tài khoản email...

“Điều luật này rõ ràng hạn chế tự do internet, đi ngược lại tiến bộ; đặt công dân trước rủi ro vi phạm pháp luật và bị thanh tra, kiểm tra, nhũng nhiễu bởi lực lượng chuyên trách an ninh mạng”, bức thư nêu.

Việc yêu cầu tổ chức, doanh nghiệp phải cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách về an ninh mạng cho dù là có yêu cầu bằng văn bản đi nữa trong khi không kèm với điều kiện cung cấp; thủ tục thực hiện tạo ra rủi ro lớn xâm phạm vào quyền riêng tư của cá nhân, bí mật an toàn thư tín, vốn được bảo vệ bởi Hiến pháp (điều 21).

“Chúng tôi cho rằng, chỉ có lệnh từ tòa án mới có thể đưa ra yêu cầu này” – bức thư bày tỏ.

Lo lắng lạm quyền đe dọa tổ chức, doanh nghiệp

Về quy định “lưu trữ tại Việt Nam thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam và các dữ liệu quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia”, các chuyên gia cho rằng, dữ liệu thế nào là quan trọng đến an ninh quốc gia không hề được xác định trong luật này cũng như luật An ninh quốc gia, hoặc các văn bản pháp luật đã ban hành.

Bên cạnh đó, yêu cầu “lưu trữ tại Việt Nam” đối với thông tin cá nhân của người sử dụng tại Việt Nam đồng nghĩa với việc cô lập không gian mạng trong phạm vi nước ta. Xét trên góc độ kỹ thuật, chưa bàn đến phạm vi “thông tin cá nhân”, yêu cầu này có thể sẽ khó khả thi trên thực tế vì các chuẩn công nghệ của các chủ sở hữu mạng khác nhau với mức độ bảo mật khác nhau.

Các máy chủ cũng có chức năng khác nhau, việc yêu cầu doanh nghiệp dành riêng một số máy chủ để lưu trữ dữ liệu người dùng để phục vụ cơ quan quản lý sẽ là một giải pháp thiếu hiệu quả với nền kinh tế. Thêm vào đó, cơ quan quản lý cũng không dễ càng để biết được rằng doanh nghiệp thực thi nghiêm túc hay chỉ mang tính chất đối phó.

Điều này tạo ra sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp có tính tuân thủ cao với các doanh nghiệp không tuân thủ.

Thứ 3, các chuyên gia bày tỏ lo ngại việc dự thảo luật trao quá nhiều quyền hạn cho lực lượng chuyên trách an ninh mạng. “Trong dự thảo luật, có tới 18 điểm dẫn chiếu và trao quyền lực cho lực lượng này, từ thẩm định, thanh kiểm tra, đánh giá đến xử lý vi phạm, an ninh mạng. Đáng nói, nội dung và thủ tục thực thi không được quy định rõ ràng” – bức thư nêu và cho rằng, rủi ro lạm quyền đe dọa tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân xuất phát từ lực lượng này là rất cao.

4 kiến nghị

Từ đó, các chuyên gia kiến nghị, dự thảo luật chỉ nên thông qua khi thu hẹp phạm vi điều chỉnh của luật hiện nay, tập trung vào đảm bảo an ninh mạng trong các cơ quan nhà nước. Vấn đề liên quan tới khu vực ngoài nhà nước thực hiện theo khuôn khổ pháp lý hiện hành, gồm luật Dân sự, luật Hình sự, luật An toàn thông tin mạng và các luật chuyên ngành.

Từ cách tiếp cận này, các chuyên gia đề xuất bỏ các điều 24 (Kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức), 26 (Bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng), 38 (Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng), 39 (Trách nhiệm của chủ thể cung cấp thiết bị số, dịch vụ mạng, ứng dụng mạng) và 40 (Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet) của dự thảo.

Thứ ba, các chuyên gia cho rằng, cuộc chiến an ninh mạng là cuộc chiến thông minh, đòi hỏi am hiểu cả vấn đề chuyên môn kỹ thuật và pháp lý. Do đó, nhóm chuyên gia kiến nghị Quốc hội giao Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường thẩm tra dự thảo thay vì giao cho Ủy ban Quốc phòng an ninh.

Thứ tư, đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu người dùng, nhóm chuyên gia kiến nghị Quốc hội và Chính phủ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này và đề xuất xây dựng bổ sung luật về dữ liệu người dùng trong thời gian sắp tới.

Giáo sư Đặng Hữu, nguyên ủy viên T.Ư Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ. Ông được xem là một trong những người có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của công nghệ thông tin và khoa học công nghệ tại Việt Nam.

Ông Mai Liêm Trực, tiến sĩ kỹ thuật thông tin liên lạc Việt Nam. Ông từng giữ chức Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông, được coi là người mở đường cho bùng nổ Internet tại Việt Nam và từng được bình chọn là người có ảnh hưởng nhất tới sự phát triển của internet tại Việt Nam trong mười năm gần đây.

Ông Chu Hảo, giữ chức Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ từ 1996 đến 2005. Ông hiện là giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức và phó hiệu trưởng Đại học Phan Châu Trinh

Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an, Phó Bí thư Đảng ủy Công an T.Ư, Đại biểu Quốc hội khóa XI.

Lê Hiệp

(Thanh Niên)

3 tháng 6, 2018




Nguyễn Quang Dy - Nghịch lý về Đặc khu Kinh tế

Gần đây, dư luận quan tâm và tranh cãi nhiều về dự luật “đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt” (gọi tắt là “đặc khu kinh tế”) sắp được Quốc Hội “bấm nút” thông qua. Dự kiến ba đặc khu kinh tế đầu tiên là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ (tính đến năm 2030). Tuy không phản đối khái niệm “đặc khu kinh tế” (special economic zone) và chưa biết họ lấy tiền từ đâu để đầu tư nhưng tôi không ủng hộ ba đặc khu kinh tế nói trên, vì các lý do sau.


Bối cảnh

Tuy đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi (như Việt Nam), đặc khu kinh tế vẫn là một mô hình phát triển hấp dẫn, nhưng dường như đã lỗi thời và có nhiều bài học thất bại. Nó đòi hỏi những điều kiện nhất định, vì vấn đề không phải là làm cái gì (what) mà là làm thế nào (how). Mọi chuyện đều có thể, nhưng “sai một ly đi một dặm”. Nếu đủ điều kiện và phát triển đúng hướng/đúng cách, nó có thể là đòn bẩy kinh tế và đầu tàu phát triển (như Thâm Quyến). Dubai là một bài học thành công mà nhiều nước khác muốn bắt chước. Nhiều người Việt đã từng mơ ước biến Chu Lai thành Dubai của Việt Nam, hay biến Phú Quốc thành Singapore của Việt Nam. Singapore thành công vì có Lý Quang Diệu (Việt Nam không có). Dubai thành công vì không có yếu tố Trung Quốc (Việt Nam có quá nhiều). Tuy ý tưởng về đặc khu kinh tế không mới, nhưng người ta đã chóng quên bài học xấu về các dự án lớn như “đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng”, khai thác bauxite Tân Rai & Nhân Cơ (Tây Nguyên), cũng như kinh nghiệm xấu tại Chu Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Chân Mây (Thừa Thiên, 2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú Yên (Phú Yên, 2008). Tại sao các nơi đó thất bại? Cái gì đảm bảo ba đặc khu mới này sẽ thành công? Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và tham nhũng, thì các mô hình phát triển tương tự sẽ lặp lại bài học “lợi bất cập hại”.

Khi tài nguyên ngày càng cạn kiệt và quỹ đất ngày càng khan hiếm, các nhóm lợi ích tất nhiên sẽ đua nhau tận thu bằng nhiều cách, như tăng thuế (VAT, thu nhập, tài sản), tăng giá (xăng dầu, điện, nước), tăng phí (như BOT). Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ sẽ vận động để có phần. Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, không cho người Việt khai thác dầu khí và đánh cá trong vùng biển của mình, chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ thèm muốn. Các nhóm lợi ích Việt Nam có thể câu kết với các tập đoàn Trung Quốc (vì song trùng lợi ích) để thao túng chính sách và dự án.

Tuy năng lực quản trị-điều hành của các cấp chính phủ (nhất là địa phương) còn yếu kém, nhưng lòng tham vô đáy, nên họ dễ bị các nhóm lợi ích thao túng. Trong khi bài học đau đớn về Formosa và bauxite Tây Nguyên còn chưa quên, thì bê bối về các dự án đầu tư công tại Ninh Bình đang làm dư luận giật mình kinh hoàng. Dù Ninh Bình không phải là đặc khu kinh tế, nhưng đã là “vương quốc” riêng. Các nhóm lợi ích không chỉ “ăn của dân không từ một cái gì” (như bà Nguyễn Thị Doan nói) mà họ còn “ăn tàn phá hại” và để lại những hệ quả khôn lường, không chỉ về kinh tế và xã hội, mà còn về an ninh quốc gia.

Bức tranh kinh tế

Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc “đặt lợi ích nhóm lên hàng đầu”. Các quy định trong dự luật về đặc khu chủ yếu nhằm vào thị trường địa ốc (property) và đánh bạc (casino) chứ không nhằm thu hút đầu tư công nghệ cao. Trong khi đó, cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và giáo dục để tăng năng suất lao động, phát triển công nghiệp và kinh tế trí thức, chứ không phải là phát triển địa ốc và casino. Ông Việt cho biết trong giai đoan 2011-2016, năng suất lao động trong khu vực công nghiệp tại Việt Nam tăng (hàng năm) rất thấp (chỉ đạt 2.9%), trong khi triển vọng tăng GDP (bình quân hàng năm) không thể cao hơn 5.0%, nếu năng suất lao động không tăng cao hơn 4.0%. Đó là một “hiện tượng kinh tế kỳ lạ”, và là một nghịch lý phát triển tại một đất nước mà năng suất lao động vào loại thấp nhất thế giới (thấp hơn Singapore 15 lần).

Do không có cuộc tranh luận (debate) để đánh giá nghiêm túc và định lượng cụ thể các mặt lợi & hại về kinh tế-xã hội cũng như về địa chính trị, nên dễ dẫn đến tình trạng ngộ nhận (do chủ quan duy ý chí) hoặc bị động làm liều (do các nhóm lợi ích thao túng) nên dễ mắc sai lầm (như trước đây). Có mấy kịch bản có thể xẩy ra: Thứ nhất, chắc sẽ có một cơn “sốt đất mới” (new land rush) trong một thị trường địa ốc vốn đã quá nóng do giá đất đã bị giới đầu cơ địa ốc đẩy lên khá cao (thậm chí từ khi mới đồn đại về đặc khu). Thứ hai, dễ xuất hiện “bong bóng địa ốc” (property bubble) có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng cung-cầu (over supply) làm bức tranh kinh tế càng thêm méo mó và hỗn loạn. Thứ ba, do hệ quả của 2 hiện tượng nói trên, các đặc khu này sẽ không hấp dẫn đối với giới đầu tư công nghệ cao, vì họ cần một môi trường đầu tư sạch và một hệ sinh thái kinh doanh lành mạnh hơn.

Trong khi kêu gọi đầu tư cho công nghệ 4.0 thì những gì đang diễn ra tại các đặc khu này chỉ là tư duy kinh tế 1.0. Nếu định dùng ưu đãi cho thuê đất 99 năm để hấp dẫn đầu tư công nghệ cao thì không thực sự cần thiết, vì giới đầu tư công nghệ 4.0 không cần quyền sử dụng đất lâu dài. Để kinh doanh theo chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu, nhà đầu tư luôn cần kết nối với hệ thống hạ tầng và hệ sinh thái kinh doanh, mạng lưới đối tác và các tổ chức trung gian về tài chính, các dịch vụ chuyên nghiệp và nguồn lao động tay nghề cao, là những thứ mà các đặc khu kinh tế này không có. Điều duy nhất mà nó có chỉ đơn giản là thiết lập một không gian tự do kinh doanh trong một môi trường kinh doanh không tự do. Những ưu đãi đặc biệt thực ra chẳng có gì đặc biệt. Vậy mục đích thực sự của đặc khu kinh tế là gì (ngoài bất động sản)? Câu trả lời nhãn tiền là “casino và redlight” vì đây là nơi duy nhất (tại Việt Nam) họ được phép hành nghề tự do. Nhưng còn một lý do nữa mà nhiều người nghĩ đến nhưng ngại nói ra (vì sợ nhạy cảm) là yếu tố Trung Quốc. Ngoài ra không có gì khác.

Bức tranh chính trị-xã hội

Hành lang pháp lý của đặc khu quy định nhiều quyền hạn cho “chủ tịch đặc khu” như lãnh chúa (hay “vua con”) có quyền cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê đất 70 năm đến 99 năm (nếu được Thủ tướng đồng ý), và có quyền chọn thầu, ký hợp đồng lao động, tuyển công chức…Các nhà đầu tư được miễn thuế thuê đất 30 năm, có thể bán lại tài sản và thừa kế tài sản. Một số chuyên gia cho rằng cho thuê đất tối đa 99 năm chỉ có lợi cho các đại gia bất động sản, trong khi đó 85% các nhà đầu tư khẳng định chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết (theo World Bank). Người nước ngoài được phép làm việc 180 ngày/năm (mà không cần giấy phép lao động). Họ chỉ cần đầu tư 110 tỷ VNĐ ($5 triệu) là được cấp thẻ tạm trú 10 năm. Người Việt được phép vào chơi casino, và được miễn thuế thu nhập cá nhân trong vòng 5 năm (và giảm tiếp 50% sau đó). Những ưu đãi này sẽ dẫn đến một làn sóng di dân mới, đặc biệt là lao động giản đơn từ Trung Quốc và các nước láng giềng khác, làm đảo lộn cơ cấu dân số (demographic structure) và có thể làm gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm như tình trạng “miền Tây Hoang dã” (Wild West). Đồng thời, đặc khu kinh tế còn là “cái nôi đặc biệt” (special cubator) cho chủ nghĩa tư bản thân hữu (hay “tư bản đỏ”).

Theo giáo sư Minxin Pei, sự cấu kết của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism) làm cho quá trình dân chủ hóa sẽ gặp khó khăn, rắc rối. Kịch bản dân chủ hóa do tầng lớp trung lưu dẫn dắt rất khó xảy ra dưới chế độ tư bản thân hữu (tại Trung Quốc). Các di sản của chủ nghĩa tư bản thân hữu (như tình trạng bất bình đẳng về tài sản, chính quyền địa phương mafia, cấu kết với các đại gia có đặc quyền) sẽ tạo điều kiện cho những kẻ chiếm đoạt được nhiều tài sản lớn sử dụng quyền lực chính trị để trấn áp các nhân tố dân chủ mới làm cho họ không thể phát triển. Chế độ thối nát (regime decay) sẽ hủy hoại thanh danh chế độ Đảng/Nhà nước bằng ba cách. Thứ nhất, khi các nhóm lợi ích hình thành và xâm nhập vào mọi ngõ ngách của chế độ, chúng sẽ thao túng quyền lực chính trị, biến quyền lực của chế độ thành công cụ quyền lực riêng. Thay vì phục vụ lợi ích của chế độ, chúng chỉ mưu cầu lợi ích riêng. Thứ hai, mạng lưới tham nhũng sẽ tranh giành quyền lực và lợi ích nhóm, làm suy yếu sự thống nhất của Đảng. Thanh trừng nội bộ gia tăng sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn cá nhân của lãnh đạo cấp cao. Thứ ba, khi tham nhũng cấu kết và lan rộng trong bộ máy an ninh của Đảng/Nhà nước, chắc chắn nó sẽ hủy hoại sự trung thành và hiệu quả của các thể chế trụ cột mà Đảng/Nhà nước đang dựa vào để tồn tại. (China’s Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016).

Trong khi một số người cho rằng Phú Quốc có thể phát triển như Singapore (theo nghĩa tốt), một số người khác cho rằng Vân Đồn có thể trở thành Cremea (theo nghĩa xấu). Nhưng câu chuyện thành công của Singapore (the Singapore Story) dựa trên những tiền đề hoàn toàn khác. Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “người khổng lồ ở châu Á”. Nhưng đáng tiếc ngày nay năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore (hay 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thailand). Ông khẳng định sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố chính là: (1) điều kiện tự nhiên (như vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), (2) con người, và (3) thời cơ, nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người… Vì vậy Ông Lý Quang Diệu rất tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. (Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014).

Bức tranh an ninh quốc gia

Giả sử các đặc khu kinh tế đó có thành công nhất định (trước mắt) về du lịch, địa ốc và casino, thì sẽ phải trả giá về vị thế địa chính trị và an ninh quốc gia. Nói cách khác là “lợi bất cập hại”. Nếu điều 62 về Luật Đất đai là một lỗ hổng chính sách, bị các nhóm lợi ích thao túng, thì điều 69 là cánh cửa mở rộng cho Trung Quốc xâm nhập Việt Nam…Tại dự án thép Formosa (Hà Tĩnh) và dự án giấy Lee & Man (Hậu Giang) tràn ngập người Trung Quốc. Gần đây, dư luận phản ứng chính quyền Quảng Ngãi định di dời đồn Biên phòng Bình Hải để giao đất cho tập đoàn FLC làm dự án “quần thể du lịch nghỉ dưỡng và đô thị Bình Châu-Lý Sơn”. Không phải chỉ có Quảng Ngãi mà trước đó Đà Nẵng cũng đã di dời đồn biên phòng để lấy đất giao cho dự án tư nhân. Thượng tướng Võ Tiến Trung (nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng) khẳng định, “việc bố trí đồn biên phòng ở đâu đã được nghiên cứu rất kỹ. Bởi lẽ đồn nằm trong thế trận phòng ngự, bảo vệ địa phương” (Zing, 22/4).

Điều 62 còn tiềm ẩn lợi ích nhóm, quy định chính quyền địa phương có quyền thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp làm dự án. Các doanh nghiệp Việt Nam có quyền giao lại đất cho doanh nghiệp nước ngoài (như Trung Quốc). Trong một cuộc hội thảo tại Nhật (7/9/2017), ông Trịnh Văn Quyết (chủ tịch FLC) tuyên bố ngoài việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước ngoài”. Theo tin báo chí, UBND tỉnh Quảng Trị đang chuẩn bị giao cho FLC 1000 ha tại bãi biển Cửa Việt, dự kiến để làm resort, sân golf, và xây dựng một sân bay. Ngoài Vũng Áng (đã nằm trong tay Trung Quốc), Vân Phong và Cửa Việt là hai vị trí chiến lược hiểm yếu đang bị Trung Quốc nhòm ngó. Từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược đã và đang được giao cho doanh nghiệp làm dự án mà không tính đến yếu tố an ninh quốc gia. Tại Đà Nẵng và Nha Trang, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm.

Trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, việc mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an ninh quốc gia. Với năng lực quản trị yếu kém nhưng tiềm năng tham nhũng vượt trội, các khu vực đó sẽ trở thành các “đặc khu tham nhũng” của các nhóm lợi ích “tư bản đỏ” không bị kiểm soát, và là “cái nôi đặc biệt” cho “tư bản thân hữu”. Nếu trước đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, thì không có lý gì các đặc khu kinh tế đó lại không rơi vào tay họ và biến thành các “tô giới của Trung Quốc”. Các tập đoàn “tư bản thân hữu” Trung Quốc được nhà nước chống lưng có thừa nguồn vốn và động cơ để thôn tính các đặc khu kinh tế này như một cuộc “xâm lược mềm”, không cần đánh vẫn thắng (như binh pháp Tôn Tử hay “Cờ Vây”). Những vị trí hiểm yếu trên đất liền mà Trung Quốc không chiếm được bằng vũ lực (như họ đã từng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa) thì họ sẽ cưỡng chiếm bằng được qua đầu tư và “sức mạnh sắc bén” (sharp power). Vì vậy, “chủ tương lớn” về ba đặc khu kinh tế với những ưu đãi đặc biệt (như cho thuê đất 99 năm), chẳng khác gì “gửi trứng cho ác” hay “nối giáo cho giặc”.

Bức tranh địa chiến lược

Trong lịch sử, Vân Đồn vốn là một tiền đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc, để ngăn chặn thủy quân Trung Quốc xâm nhập bằng đường biển, như thời Ngô Quyền chống quân Nam Hán (tại Trận Bạch Đằng năm 938), thời Lý Thương Kiệt chống quân Tống, (1075-1077), thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông (1287-1288). Khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu, thì Vân Đồn và Móng Cái là địa điểm tập kết quân nhà Lý. Khi Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến Sông Cầu để chống quân Tống, Vân Đồn là căn cứ của thủy quân nhà Lý để ngăn chặn thủy quân Tống, không cho ngược sông để hội quân với bộ binh địch, nên quân Tống đã bại trận…

Nếu Vân Đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc nhìn ra Vịnh Bắc Bộ, thì Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương, trong khi Vân Phong có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ Miền Trung nhìn ra Biển Đông. Tại Miền Trung, ngoài cảng Sơn Dương (Vũng Áng) mà Trung Quốc đã nắm, nay chỉ còn Vân Phong và Cửa Việt là hai cảng trung chuyển lớn (nước sâu) có tầm quan trọng chiến lược, nhưng Trung Quốc chưa nắm được. Phú Quốc có vị trí đặc biệt trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific (cách Sihanoukville và Bokor có mấy chục km). Trung Quốc đã thuê được (lâu dài) hai vị trí chiến lược đó của Campuchea, nên họ rất thèm có Phú Quốc, để hình thành một tam giác chiến lược. Một khi Trung Quốc thỏa thuận được với Thailand để làm kênh đào Kra thì vị trí chiến lược của Phú Quốc còn quan trọng hơn cả Singapore.

Theo James Holmes (một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến lược hải quân), một cuộc xung đột vũ trang tại Biển Đông là có thể, và Trung Quốc có thể thắng Mỹ trong một cuộc chiến tại Biển Đông bằng “chiến tranh nhân dân trên biển” (people’s war at sea). Các chính khách và chuyên gia tại Washington và Hà Nội không nên coi phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Trung quốc Thường Vạn Toàn (tướng Chang Wanquan) chỉ là “dọa dẫm” (bluster). Trung Quốc có thể thắng dù họ vẫn yếu hơn Mỹ, bằng cách tập trung binh lực áp đảo Mỹ tại địa điểm và thời điểm quan trọng nhất. Tư tưởng “phòng ngự tích cực” (active defense) là tấn công chiến thuật để phòng ngự chiến lược. Hiện nay, các tư lệnh Trung Quốc có thể hợp đồng tác chiến bằng các lực lượng cả nhỏ lẫn lớn để đương đầu với Mỹ và đồng minh. Vì vậy các tư lệnh Mỹ và đồng minh phải nghiên cứu binh pháp của Trung Quốc để hiểu rõ tư tưởng phòng ngự tích cực ngoài khơi (offshore active defence) tại Biển Đông sẽ diễn ra thế nào. (China Could Win a War Against America in the South China Sea, James Holmes, National Interest, May 30, 2018).

Nếu xung đột tại Biển Đông xảy ra thì ba đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, và Phú Quốc có ý nghĩa chiến lược hiểm yếu đối với mục tiêu ngăn chặn địch tiếp cận (A2/AD). Nếu ba vị trí chiến lược đó bị đối phương (Trung Quốc) chiếm thì coi như hết cờ (và “xong phim”), không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả ASEAN và các cường quốc khác có lợi ích sát sườn tại Biển Đông như Mỹ-Nhật-Ấn-Úc, và EU (hoặc Nga). Nếu Biển Đông có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với ASEAN và các cường quốc khác, thì câu chuyện đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc cũng có ý nghĩa tương tự. Ý nghĩa quan trọng nhất của ba đặc khu kinh tế này là chiến lược (chứ không chỉ kinh tế).

Thay lời kết

Ba đặc khu kinh tế mới là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ. (Riêng Vân Đồn là 270.000 tỉ, Bắc Vân Phong là 400.000 tỉ, Phú Quốc là 900.000 tỉ). Tuy chưa biết họ có định “đội vốn” lên như “hội chứng Ninh Bình” hay không, nhưng với con số 1.570.000 tỉ VNĐ, ngân sách nhà nước hay doanh nghiệp Việt đào đâu ra tiền (nếu không từ “phương bắc”). Điều này tiềm ẩn những rủi ro lớn và nguy cơ lâu dài về địa chính trị và an ninh quốc gia. Nếu đặt câu chuyện ba đặc khu kinh tế này trong bối cảnh xung đột lợi ích Biển Đông và tầm nhìn Indo-Pacific hiện nay, thì yếu tố Trung Quốc trong bức tranh địa chiến lược hiện lên rất rõ.

Bản chất của các đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc, Vân Phong, chủ yếu là sân chơi địa ốc và cờ bạc. Ngay khi vừa mới bàn đến triển vọng thành lập đặc khu thì người ta đã đổ xô đến chiếm đất để đầu cơ và đẩy giá lên rồi, vậy cần thành lập đặc khu làm gì nữa. Muốn Vân Phong trở thành một cảng trung chuyển thì không nhất thiết phải lập đặc khu. Đầu tư địa ốc thực chất cũng chỉ là đầu cơ để để trục lợi ngắn hạn. Yếu tố chính để thu hút đầu tư là một số ưu đãi để lách luật, trốn thuế, hay rửa tiền. Nhưng nếu thu hút đầu tư bằng mọi giá, thì cái giá phải trả cũng sẽ rất lớn. Muốn phát triển bền vững, phải cải tổ thể chế để hội nhập quốc tế theo các tiêu chuẩn chung đã cam kết thông qua các hiệp định như WTO, BTA, FTA (và CPTPP).

Tuy Đảng lãnh đạo “toàn diện và triệt để”, nhưng Quốc Hội cũng phải gánh một phần trách nhiệm. Đây là lúc đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét kỹ và quyết định nên chọn cái gì (như nên “chọn cá hay thép”). Nếu quyết định đúng họ sẽ được hậu thế hàm ơn. Nếu quyết định sai họ sẽ bị hậu thế nguyền rủa (dù có cao chạy xa bay). Nhiều chuyên gia cho rằng để được thông qua, dự luật này cần phải bổ xung, sửa đổi rất nhiều, để đảm bảo lợi ích quốc gia, và tránh những sai lầm đáng tiếc. Hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội, thể chế, môi trường, và an ninh quốc gia, do các đặc khu để lại có thể khôn lường. Vì vậy, các đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét xem ai được lợi từ đặc khu, và quyết định “bấm nút” vì lợi ích quốc gia, chứ không vì lợi ích nhóm (hay ngoại bang).

Nguyễn Quang Dy

Thành lập 3 đặc khu để bán nước nhanh hơn

Đối phó với dư luận về dự trù ra luật đặc khu để cho thuê đất 99 năm, Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc Hội khoá 14 phát biểu: “Tại sao cứ sợ ảnh hưởng của Trung Quốc tại các đặc khu. Tại sao ở Úc, Pháp, Mỹ… đều có Chinatown. Ở California mình có Little Saigon. Ở đó toàn người Việt, nói bằng tiếng Việt, thì bang California có lo ngại vấn đề an ninh quốc phòng hay không?”


Một người giữ tới chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc Hội mà nói như vậy thì nên cấp tốc thay 2 chữ quốc hội thành "cuốc hụi", như kiểu thu phí thành "thu giá" của Bộ trưởng GTVT hay học phí trở thành "giá dịch vụ đào tạo" của Bộ trưởng GD&ĐT... cho hợp với văn vẻ văn hóa XHCN!

Đã có rất nhiều người dạy ông Kiên như dạy con trẻ bắt đầu học chữ... o tròn như quả trứng gà, ô thời đội nón, ơ già có râu... nên ở đây xin miễn bàn tiếp.

Nếu Bộ Chính trị “đã quyết” Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là 3 đặc khu và sẽ được cho thuê 99 năm như kiểu cựu Thủ Tướng Dũng huỵch toẹt “bô xít Tây nguyên là chủ trương lớn của đảng” thì bày đặt thảo luận làm gì cho phí thời gian?

Mới nhất là phát biểu của Uông Chu Lưu (cái tên rặt Tàu), Phó Chủ tịch cuốc hụi thì đã rõ là cuốc hụi đang tìm cách luật hóa quyết định của Bộ Chính trị. Như vậy chỉ còn bấm nút nữa là xong! Và nhắc cho ai bấm nút “nhất trí” thì hãy biến ngôi nhà đang ở của gia đình giòng họ thành “đặc khu” ngay. Xây thành lô cốt cho nó an toàn thêm được ngày nào hay ngày đó trước sự phẫn nộ của toàn dân! Và cũng nên nhớ là giữa thời buổi bây giờ đừng nghĩ dại là chỉ bí mật bấm nút “nhất trí” nên không một ai hay biết!

“Chủ trương lớn của đảng” về boxit Tây nguyên thì hậu quả đang nhãn tiền! Bao nhiêu tâm huyết phản biện của dân còn sờ sờ đó. Nhưng vụ “3 đặc khu” đang xảy ra sẽ khủng khiếp vô cùng. Có thể đây sẽ là biến cố cuối cùng, mà thời gian chẳng phải chờ đợi đến những 99 năm, thì Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Tàu cộng rồi.

Vì, nếu có biến động quân sự, thì vị trí của 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc được coi như 3 mũi tiến công trực tiếp từ biển vào đất liền để hỗ trợ cho lực lượng Tàu cộng đang ẩn mình sẵn trên khắp VN, nội công ngoại kích!

Còn, nếu diễn biến tằm ăn dâu, là chủ trương Đại Hán hóa thời Tập Cận Bình, thì hàng ngày đang xảy ra trên toàn cõi VN. Cứ xem những phố Tàu nhan nhãn, đặc biệt là dọc bờ biển họ mua tất cả các nơi xung yếu để kín đáo xây dựng cơ sở, bất khả xâm phạm. Hay “khách du lịch” Tàu đang nườm nượp, thái độ ngông nghênh, trịch thượng với vô số tệ nạn, lại thêm kiểu mặc áo hình lưỡi bò vừa mới xảy ra. Bây giờ, có thêm 3 đặc khu nữa, sẽ là 3 đại trung tâm văn hóa Tàu. Giới trẻ thì đã và đang bị chế độ đầu độc để họ chỉ biết lấy ăn chơi trác táng làm lẽ sống, chắc chắn họ sẽ sớm thông thạo tiếng Tàu, sống văn hóa Tàu để được... “tự hào” là “văn minh”!

Vấn đề còn lại, không cần phải dài dòng với các ông/bà cuốc hụi nữa, mà là với 90 triệu người VN. Phải làm gì trước hiểm họa bị mất nước đang trở thành công khai hơn bao giờ hết?

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên không lẽ đến lúc nầy hoàn toàn bị tê liệt? Liều thuốc an thần mang tên cộng sản, dù mạnh đến cỡ nào, và đã được tiêm vào mạch máu người dân ròng rã những hơn nửa thế kỷ cũng không thể gây hôn mê bất tận tại rất nhiều nước cộng sản trên thế giới. Người dân các nước đó đã tỉnh thức, đã làm cách mạng từ những năm 1989, 1990... còn người VN thì sao?

02.06.2018

Kông Kông