3 tháng 6, 2018




Nguyễn Quang Dy - Nghịch lý về Đặc khu Kinh tế

Gần đây, dư luận quan tâm và tranh cãi nhiều về dự luật “đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt” (gọi tắt là “đặc khu kinh tế”) sắp được Quốc Hội “bấm nút” thông qua. Dự kiến ba đặc khu kinh tế đầu tiên là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ (tính đến năm 2030). Tuy không phản đối khái niệm “đặc khu kinh tế” (special economic zone) và chưa biết họ lấy tiền từ đâu để đầu tư nhưng tôi không ủng hộ ba đặc khu kinh tế nói trên, vì các lý do sau.


Bối cảnh

Tuy đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi (như Việt Nam), đặc khu kinh tế vẫn là một mô hình phát triển hấp dẫn, nhưng dường như đã lỗi thời và có nhiều bài học thất bại. Nó đòi hỏi những điều kiện nhất định, vì vấn đề không phải là làm cái gì (what) mà là làm thế nào (how). Mọi chuyện đều có thể, nhưng “sai một ly đi một dặm”. Nếu đủ điều kiện và phát triển đúng hướng/đúng cách, nó có thể là đòn bẩy kinh tế và đầu tàu phát triển (như Thâm Quyến). Dubai là một bài học thành công mà nhiều nước khác muốn bắt chước. Nhiều người Việt đã từng mơ ước biến Chu Lai thành Dubai của Việt Nam, hay biến Phú Quốc thành Singapore của Việt Nam. Singapore thành công vì có Lý Quang Diệu (Việt Nam không có). Dubai thành công vì không có yếu tố Trung Quốc (Việt Nam có quá nhiều). Tuy ý tưởng về đặc khu kinh tế không mới, nhưng người ta đã chóng quên bài học xấu về các dự án lớn như “đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng”, khai thác bauxite Tân Rai & Nhân Cơ (Tây Nguyên), cũng như kinh nghiệm xấu tại Chu Lai (Quảng Nam, 2003), Dung Quất (Quảng Ngãi, 2005), Nhơn Hội (Bình Định, 2005), Chân Mây (Thừa Thiên, 2006), Vân Phong (Khánh Hòa, 2006), Phú Yên (Phú Yên, 2008). Tại sao các nơi đó thất bại? Cái gì đảm bảo ba đặc khu mới này sẽ thành công? Nếu Việt Nam không cải tổ thể chế để kiểm soát quyền lực và tham nhũng, thì các mô hình phát triển tương tự sẽ lặp lại bài học “lợi bất cập hại”.

Khi tài nguyên ngày càng cạn kiệt và quỹ đất ngày càng khan hiếm, các nhóm lợi ích tất nhiên sẽ đua nhau tận thu bằng nhiều cách, như tăng thuế (VAT, thu nhập, tài sản), tăng giá (xăng dầu, điện, nước), tăng phí (như BOT). Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ sẽ vận động để có phần. Trong khi Trung Quốc ráo riết quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông, không cho người Việt khai thác dầu khí và đánh cá trong vùng biển của mình, chắc họ sẽ tăng cường bành trướng thế lực để chiếm các vị trí hiểm yếu trên đất liền. Đặc khu kinh tế là một miếng mồi ngon mà họ thèm muốn. Các nhóm lợi ích Việt Nam có thể câu kết với các tập đoàn Trung Quốc (vì song trùng lợi ích) để thao túng chính sách và dự án.

Tuy năng lực quản trị-điều hành của các cấp chính phủ (nhất là địa phương) còn yếu kém, nhưng lòng tham vô đáy, nên họ dễ bị các nhóm lợi ích thao túng. Trong khi bài học đau đớn về Formosa và bauxite Tây Nguyên còn chưa quên, thì bê bối về các dự án đầu tư công tại Ninh Bình đang làm dư luận giật mình kinh hoàng. Dù Ninh Bình không phải là đặc khu kinh tế, nhưng đã là “vương quốc” riêng. Các nhóm lợi ích không chỉ “ăn của dân không từ một cái gì” (như bà Nguyễn Thị Doan nói) mà họ còn “ăn tàn phá hại” và để lại những hệ quả khôn lường, không chỉ về kinh tế và xã hội, mà còn về an ninh quốc gia.

Bức tranh kinh tế

Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc “đặt lợi ích nhóm lên hàng đầu”. Các quy định trong dự luật về đặc khu chủ yếu nhằm vào thị trường địa ốc (property) và đánh bạc (casino) chứ không nhằm thu hút đầu tư công nghệ cao. Trong khi đó, cái mà Việt Nam cần là công nghệ cao và giáo dục để tăng năng suất lao động, phát triển công nghiệp và kinh tế trí thức, chứ không phải là phát triển địa ốc và casino. Ông Việt cho biết trong giai đoan 2011-2016, năng suất lao động trong khu vực công nghiệp tại Việt Nam tăng (hàng năm) rất thấp (chỉ đạt 2.9%), trong khi triển vọng tăng GDP (bình quân hàng năm) không thể cao hơn 5.0%, nếu năng suất lao động không tăng cao hơn 4.0%. Đó là một “hiện tượng kinh tế kỳ lạ”, và là một nghịch lý phát triển tại một đất nước mà năng suất lao động vào loại thấp nhất thế giới (thấp hơn Singapore 15 lần).

Do không có cuộc tranh luận (debate) để đánh giá nghiêm túc và định lượng cụ thể các mặt lợi & hại về kinh tế-xã hội cũng như về địa chính trị, nên dễ dẫn đến tình trạng ngộ nhận (do chủ quan duy ý chí) hoặc bị động làm liều (do các nhóm lợi ích thao túng) nên dễ mắc sai lầm (như trước đây). Có mấy kịch bản có thể xẩy ra: Thứ nhất, chắc sẽ có một cơn “sốt đất mới” (new land rush) trong một thị trường địa ốc vốn đã quá nóng do giá đất đã bị giới đầu cơ địa ốc đẩy lên khá cao (thậm chí từ khi mới đồn đại về đặc khu). Thứ hai, dễ xuất hiện “bong bóng địa ốc” (property bubble) có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng cung-cầu (over supply) làm bức tranh kinh tế càng thêm méo mó và hỗn loạn. Thứ ba, do hệ quả của 2 hiện tượng nói trên, các đặc khu này sẽ không hấp dẫn đối với giới đầu tư công nghệ cao, vì họ cần một môi trường đầu tư sạch và một hệ sinh thái kinh doanh lành mạnh hơn.

Trong khi kêu gọi đầu tư cho công nghệ 4.0 thì những gì đang diễn ra tại các đặc khu này chỉ là tư duy kinh tế 1.0. Nếu định dùng ưu đãi cho thuê đất 99 năm để hấp dẫn đầu tư công nghệ cao thì không thực sự cần thiết, vì giới đầu tư công nghệ 4.0 không cần quyền sử dụng đất lâu dài. Để kinh doanh theo chuỗi cung ứng và giá trị toàn cầu, nhà đầu tư luôn cần kết nối với hệ thống hạ tầng và hệ sinh thái kinh doanh, mạng lưới đối tác và các tổ chức trung gian về tài chính, các dịch vụ chuyên nghiệp và nguồn lao động tay nghề cao, là những thứ mà các đặc khu kinh tế này không có. Điều duy nhất mà nó có chỉ đơn giản là thiết lập một không gian tự do kinh doanh trong một môi trường kinh doanh không tự do. Những ưu đãi đặc biệt thực ra chẳng có gì đặc biệt. Vậy mục đích thực sự của đặc khu kinh tế là gì (ngoài bất động sản)? Câu trả lời nhãn tiền là “casino và redlight” vì đây là nơi duy nhất (tại Việt Nam) họ được phép hành nghề tự do. Nhưng còn một lý do nữa mà nhiều người nghĩ đến nhưng ngại nói ra (vì sợ nhạy cảm) là yếu tố Trung Quốc. Ngoài ra không có gì khác.

Bức tranh chính trị-xã hội

Hành lang pháp lý của đặc khu quy định nhiều quyền hạn cho “chủ tịch đặc khu” như lãnh chúa (hay “vua con”) có quyền cho phép nhà đầu tư nước ngoài thuê đất 70 năm đến 99 năm (nếu được Thủ tướng đồng ý), và có quyền chọn thầu, ký hợp đồng lao động, tuyển công chức…Các nhà đầu tư được miễn thuế thuê đất 30 năm, có thể bán lại tài sản và thừa kế tài sản. Một số chuyên gia cho rằng cho thuê đất tối đa 99 năm chỉ có lợi cho các đại gia bất động sản, trong khi đó 85% các nhà đầu tư khẳng định chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết (theo World Bank). Người nước ngoài được phép làm việc 180 ngày/năm (mà không cần giấy phép lao động). Họ chỉ cần đầu tư 110 tỷ VNĐ ($5 triệu) là được cấp thẻ tạm trú 10 năm. Người Việt được phép vào chơi casino, và được miễn thuế thu nhập cá nhân trong vòng 5 năm (và giảm tiếp 50% sau đó). Những ưu đãi này sẽ dẫn đến một làn sóng di dân mới, đặc biệt là lao động giản đơn từ Trung Quốc và các nước láng giềng khác, làm đảo lộn cơ cấu dân số (demographic structure) và có thể làm gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm như tình trạng “miền Tây Hoang dã” (Wild West). Đồng thời, đặc khu kinh tế còn là “cái nôi đặc biệt” (special cubator) cho chủ nghĩa tư bản thân hữu (hay “tư bản đỏ”).

Theo giáo sư Minxin Pei, sự cấu kết của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (crony capitalism) làm cho quá trình dân chủ hóa sẽ gặp khó khăn, rắc rối. Kịch bản dân chủ hóa do tầng lớp trung lưu dẫn dắt rất khó xảy ra dưới chế độ tư bản thân hữu (tại Trung Quốc). Các di sản của chủ nghĩa tư bản thân hữu (như tình trạng bất bình đẳng về tài sản, chính quyền địa phương mafia, cấu kết với các đại gia có đặc quyền) sẽ tạo điều kiện cho những kẻ chiếm đoạt được nhiều tài sản lớn sử dụng quyền lực chính trị để trấn áp các nhân tố dân chủ mới làm cho họ không thể phát triển. Chế độ thối nát (regime decay) sẽ hủy hoại thanh danh chế độ Đảng/Nhà nước bằng ba cách. Thứ nhất, khi các nhóm lợi ích hình thành và xâm nhập vào mọi ngõ ngách của chế độ, chúng sẽ thao túng quyền lực chính trị, biến quyền lực của chế độ thành công cụ quyền lực riêng. Thay vì phục vụ lợi ích của chế độ, chúng chỉ mưu cầu lợi ích riêng. Thứ hai, mạng lưới tham nhũng sẽ tranh giành quyền lực và lợi ích nhóm, làm suy yếu sự thống nhất của Đảng. Thanh trừng nội bộ gia tăng sẽ gây nguy hiểm cho sự an toàn cá nhân của lãnh đạo cấp cao. Thứ ba, khi tham nhũng cấu kết và lan rộng trong bộ máy an ninh của Đảng/Nhà nước, chắc chắn nó sẽ hủy hoại sự trung thành và hiệu quả của các thể chế trụ cột mà Đảng/Nhà nước đang dựa vào để tồn tại. (China’s Crony Capitalism, Minxin Pei, Harvard University Press, 2016).

Trong khi một số người cho rằng Phú Quốc có thể phát triển như Singapore (theo nghĩa tốt), một số người khác cho rằng Vân Đồn có thể trở thành Cremea (theo nghĩa xấu). Nhưng câu chuyện thành công của Singapore (the Singapore Story) dựa trên những tiền đề hoàn toàn khác. Ông Lý Quang Diệu từng nói: “Lẽ ra vị trí số một ở châu Á phải là của Việt Nam”. Theo ông, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên thiên nhiên phong phú là hai yếu tố hàng đầu có thể đưa Việt Nam trở thành “người khổng lồ ở châu Á”. Nhưng đáng tiếc ngày nay năng suất lao động của người Việt Nam chỉ bằng 1/15 của người Singapore (hay 1/5 của người Malaysia, 2/5 của người Thailand). Ông khẳng định sự thành công của một quốc gia bao gồm ba yếu tố chính là: (1) điều kiện tự nhiên (như vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên), (2) con người, và (3) thời cơ, nhưng căn bản nhất vẫn là yếu tố con người… Vì vậy Ông Lý Quang Diệu rất tiếc vì Việt Nam không biết trọng dụng nhân tài, và cho rằng nhân tài của Việt Nam đã định cư ở nước ngoài hết rồi. (Việt Nam trong mắt Lý Quang Diệu, Cao Huy Huân, VOA, 14/9/2014).

Bức tranh an ninh quốc gia

Giả sử các đặc khu kinh tế đó có thành công nhất định (trước mắt) về du lịch, địa ốc và casino, thì sẽ phải trả giá về vị thế địa chính trị và an ninh quốc gia. Nói cách khác là “lợi bất cập hại”. Nếu điều 62 về Luật Đất đai là một lỗ hổng chính sách, bị các nhóm lợi ích thao túng, thì điều 69 là cánh cửa mở rộng cho Trung Quốc xâm nhập Việt Nam…Tại dự án thép Formosa (Hà Tĩnh) và dự án giấy Lee & Man (Hậu Giang) tràn ngập người Trung Quốc. Gần đây, dư luận phản ứng chính quyền Quảng Ngãi định di dời đồn Biên phòng Bình Hải để giao đất cho tập đoàn FLC làm dự án “quần thể du lịch nghỉ dưỡng và đô thị Bình Châu-Lý Sơn”. Không phải chỉ có Quảng Ngãi mà trước đó Đà Nẵng cũng đã di dời đồn biên phòng để lấy đất giao cho dự án tư nhân. Thượng tướng Võ Tiến Trung (nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng) khẳng định, “việc bố trí đồn biên phòng ở đâu đã được nghiên cứu rất kỹ. Bởi lẽ đồn nằm trong thế trận phòng ngự, bảo vệ địa phương” (Zing, 22/4).

Điều 62 còn tiềm ẩn lợi ích nhóm, quy định chính quyền địa phương có quyền thu hồi đất của dân giao cho doanh nghiệp làm dự án. Các doanh nghiệp Việt Nam có quyền giao lại đất cho doanh nghiệp nước ngoài (như Trung Quốc). Trong một cuộc hội thảo tại Nhật (7/9/2017), ông Trịnh Văn Quyết (chủ tịch FLC) tuyên bố ngoài việc bán cổ phần, “FLC có thể chuyển nhượng cả dự án cho nhà đầu tư nước ngoài”. Theo tin báo chí, UBND tỉnh Quảng Trị đang chuẩn bị giao cho FLC 1000 ha tại bãi biển Cửa Việt, dự kiến để làm resort, sân golf, và xây dựng một sân bay. Ngoài Vũng Áng (đã nằm trong tay Trung Quốc), Vân Phong và Cửa Việt là hai vị trí chiến lược hiểm yếu đang bị Trung Quốc nhòm ngó. Từ Bắc Trung bộ đến Nam Trung bộ, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược đã và đang được giao cho doanh nghiệp làm dự án mà không tính đến yếu tố an ninh quốc gia. Tại Đà Nẵng và Nha Trang, nhiều vị trí phòng thủ chiến lược dọc bờ biển đã bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm.

Trong bối cảnh lợi ích kinh tế và chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông đang bị Trung Quốc đe dọa nghiêm trọng, việc mở ba đặc khu kinh tế tại các địa điểm hiểm yếu đó vào lúc này không thể biện minh, cả về lý do phát triển kinh tế lẫn lý do an ninh quốc gia. Với năng lực quản trị yếu kém nhưng tiềm năng tham nhũng vượt trội, các khu vực đó sẽ trở thành các “đặc khu tham nhũng” của các nhóm lợi ích “tư bản đỏ” không bị kiểm soát, và là “cái nôi đặc biệt” cho “tư bản thân hữu”. Nếu trước đây hầu hết các dự án lớn tại Việt Nam rơi vào tay các tập đoàn Trung Quốc, thì không có lý gì các đặc khu kinh tế đó lại không rơi vào tay họ và biến thành các “tô giới của Trung Quốc”. Các tập đoàn “tư bản thân hữu” Trung Quốc được nhà nước chống lưng có thừa nguồn vốn và động cơ để thôn tính các đặc khu kinh tế này như một cuộc “xâm lược mềm”, không cần đánh vẫn thắng (như binh pháp Tôn Tử hay “Cờ Vây”). Những vị trí hiểm yếu trên đất liền mà Trung Quốc không chiếm được bằng vũ lực (như họ đã từng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa) thì họ sẽ cưỡng chiếm bằng được qua đầu tư và “sức mạnh sắc bén” (sharp power). Vì vậy, “chủ tương lớn” về ba đặc khu kinh tế với những ưu đãi đặc biệt (như cho thuê đất 99 năm), chẳng khác gì “gửi trứng cho ác” hay “nối giáo cho giặc”.

Bức tranh địa chiến lược

Trong lịch sử, Vân Đồn vốn là một tiền đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc, để ngăn chặn thủy quân Trung Quốc xâm nhập bằng đường biển, như thời Ngô Quyền chống quân Nam Hán (tại Trận Bạch Đằng năm 938), thời Lý Thương Kiệt chống quân Tống, (1075-1077), thời Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên Mông (1287-1288). Khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu, Liêm Châu và Ung Châu, thì Vân Đồn và Móng Cái là địa điểm tập kết quân nhà Lý. Khi Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến Sông Cầu để chống quân Tống, Vân Đồn là căn cứ của thủy quân nhà Lý để ngăn chặn thủy quân Tống, không cho ngược sông để hội quân với bộ binh địch, nên quân Tống đã bại trận…

Nếu Vân Đồn có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía Đông Bắc nhìn ra Vịnh Bắc Bộ, thì Phú Quốc có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ phía cực Nam nhìn ra Ấn Độ Dương, trong khi Vân Phong có vị trí chiến lược án ngữ cửa ngõ Miền Trung nhìn ra Biển Đông. Tại Miền Trung, ngoài cảng Sơn Dương (Vũng Áng) mà Trung Quốc đã nắm, nay chỉ còn Vân Phong và Cửa Việt là hai cảng trung chuyển lớn (nước sâu) có tầm quan trọng chiến lược, nhưng Trung Quốc chưa nắm được. Phú Quốc có vị trí đặc biệt trong tầm nhìn chiến lược Indo-Pacific (cách Sihanoukville và Bokor có mấy chục km). Trung Quốc đã thuê được (lâu dài) hai vị trí chiến lược đó của Campuchea, nên họ rất thèm có Phú Quốc, để hình thành một tam giác chiến lược. Một khi Trung Quốc thỏa thuận được với Thailand để làm kênh đào Kra thì vị trí chiến lược của Phú Quốc còn quan trọng hơn cả Singapore.

Theo James Holmes (một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến lược hải quân), một cuộc xung đột vũ trang tại Biển Đông là có thể, và Trung Quốc có thể thắng Mỹ trong một cuộc chiến tại Biển Đông bằng “chiến tranh nhân dân trên biển” (people’s war at sea). Các chính khách và chuyên gia tại Washington và Hà Nội không nên coi phát biểu của bộ trưởng quốc phòng Trung quốc Thường Vạn Toàn (tướng Chang Wanquan) chỉ là “dọa dẫm” (bluster). Trung Quốc có thể thắng dù họ vẫn yếu hơn Mỹ, bằng cách tập trung binh lực áp đảo Mỹ tại địa điểm và thời điểm quan trọng nhất. Tư tưởng “phòng ngự tích cực” (active defense) là tấn công chiến thuật để phòng ngự chiến lược. Hiện nay, các tư lệnh Trung Quốc có thể hợp đồng tác chiến bằng các lực lượng cả nhỏ lẫn lớn để đương đầu với Mỹ và đồng minh. Vì vậy các tư lệnh Mỹ và đồng minh phải nghiên cứu binh pháp của Trung Quốc để hiểu rõ tư tưởng phòng ngự tích cực ngoài khơi (offshore active defence) tại Biển Đông sẽ diễn ra thế nào. (China Could Win a War Against America in the South China Sea, James Holmes, National Interest, May 30, 2018).

Nếu xung đột tại Biển Đông xảy ra thì ba đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, và Phú Quốc có ý nghĩa chiến lược hiểm yếu đối với mục tiêu ngăn chặn địch tiếp cận (A2/AD). Nếu ba vị trí chiến lược đó bị đối phương (Trung Quốc) chiếm thì coi như hết cờ (và “xong phim”), không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả ASEAN và các cường quốc khác có lợi ích sát sườn tại Biển Đông như Mỹ-Nhật-Ấn-Úc, và EU (hoặc Nga). Nếu Biển Đông có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với ASEAN và các cường quốc khác, thì câu chuyện đặc khu kinh tế Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc cũng có ý nghĩa tương tự. Ý nghĩa quan trọng nhất của ba đặc khu kinh tế này là chiến lược (chứ không chỉ kinh tế).

Thay lời kết

Ba đặc khu kinh tế mới là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) có kinh phí đầu tư là 1.570.000 tỉ VNĐ. (Riêng Vân Đồn là 270.000 tỉ, Bắc Vân Phong là 400.000 tỉ, Phú Quốc là 900.000 tỉ). Tuy chưa biết họ có định “đội vốn” lên như “hội chứng Ninh Bình” hay không, nhưng với con số 1.570.000 tỉ VNĐ, ngân sách nhà nước hay doanh nghiệp Việt đào đâu ra tiền (nếu không từ “phương bắc”). Điều này tiềm ẩn những rủi ro lớn và nguy cơ lâu dài về địa chính trị và an ninh quốc gia. Nếu đặt câu chuyện ba đặc khu kinh tế này trong bối cảnh xung đột lợi ích Biển Đông và tầm nhìn Indo-Pacific hiện nay, thì yếu tố Trung Quốc trong bức tranh địa chiến lược hiện lên rất rõ.

Bản chất của các đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc, Vân Phong, chủ yếu là sân chơi địa ốc và cờ bạc. Ngay khi vừa mới bàn đến triển vọng thành lập đặc khu thì người ta đã đổ xô đến chiếm đất để đầu cơ và đẩy giá lên rồi, vậy cần thành lập đặc khu làm gì nữa. Muốn Vân Phong trở thành một cảng trung chuyển thì không nhất thiết phải lập đặc khu. Đầu tư địa ốc thực chất cũng chỉ là đầu cơ để để trục lợi ngắn hạn. Yếu tố chính để thu hút đầu tư là một số ưu đãi để lách luật, trốn thuế, hay rửa tiền. Nhưng nếu thu hút đầu tư bằng mọi giá, thì cái giá phải trả cũng sẽ rất lớn. Muốn phát triển bền vững, phải cải tổ thể chế để hội nhập quốc tế theo các tiêu chuẩn chung đã cam kết thông qua các hiệp định như WTO, BTA, FTA (và CPTPP).

Tuy Đảng lãnh đạo “toàn diện và triệt để”, nhưng Quốc Hội cũng phải gánh một phần trách nhiệm. Đây là lúc đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét kỹ và quyết định nên chọn cái gì (như nên “chọn cá hay thép”). Nếu quyết định đúng họ sẽ được hậu thế hàm ơn. Nếu quyết định sai họ sẽ bị hậu thế nguyền rủa (dù có cao chạy xa bay). Nhiều chuyên gia cho rằng để được thông qua, dự luật này cần phải bổ xung, sửa đổi rất nhiều, để đảm bảo lợi ích quốc gia, và tránh những sai lầm đáng tiếc. Hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội, thể chế, môi trường, và an ninh quốc gia, do các đặc khu để lại có thể khôn lường. Vì vậy, các đại biểu quốc hội và quan chức chính phủ cần suy xét xem ai được lợi từ đặc khu, và quyết định “bấm nút” vì lợi ích quốc gia, chứ không vì lợi ích nhóm (hay ngoại bang).

Nguyễn Quang Dy

Thành lập 3 đặc khu để bán nước nhanh hơn

Đối phó với dư luận về dự trù ra luật đặc khu để cho thuê đất 99 năm, Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc Hội khoá 14 phát biểu: “Tại sao cứ sợ ảnh hưởng của Trung Quốc tại các đặc khu. Tại sao ở Úc, Pháp, Mỹ… đều có Chinatown. Ở California mình có Little Saigon. Ở đó toàn người Việt, nói bằng tiếng Việt, thì bang California có lo ngại vấn đề an ninh quốc phòng hay không?”


Một người giữ tới chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc Hội mà nói như vậy thì nên cấp tốc thay 2 chữ quốc hội thành "cuốc hụi", như kiểu thu phí thành "thu giá" của Bộ trưởng GTVT hay học phí trở thành "giá dịch vụ đào tạo" của Bộ trưởng GD&ĐT... cho hợp với văn vẻ văn hóa XHCN!

Đã có rất nhiều người dạy ông Kiên như dạy con trẻ bắt đầu học chữ... o tròn như quả trứng gà, ô thời đội nón, ơ già có râu... nên ở đây xin miễn bàn tiếp.

Nếu Bộ Chính trị “đã quyết” Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc sẽ là 3 đặc khu và sẽ được cho thuê 99 năm như kiểu cựu Thủ Tướng Dũng huỵch toẹt “bô xít Tây nguyên là chủ trương lớn của đảng” thì bày đặt thảo luận làm gì cho phí thời gian?

Mới nhất là phát biểu của Uông Chu Lưu (cái tên rặt Tàu), Phó Chủ tịch cuốc hụi thì đã rõ là cuốc hụi đang tìm cách luật hóa quyết định của Bộ Chính trị. Như vậy chỉ còn bấm nút nữa là xong! Và nhắc cho ai bấm nút “nhất trí” thì hãy biến ngôi nhà đang ở của gia đình giòng họ thành “đặc khu” ngay. Xây thành lô cốt cho nó an toàn thêm được ngày nào hay ngày đó trước sự phẫn nộ của toàn dân! Và cũng nên nhớ là giữa thời buổi bây giờ đừng nghĩ dại là chỉ bí mật bấm nút “nhất trí” nên không một ai hay biết!

“Chủ trương lớn của đảng” về boxit Tây nguyên thì hậu quả đang nhãn tiền! Bao nhiêu tâm huyết phản biện của dân còn sờ sờ đó. Nhưng vụ “3 đặc khu” đang xảy ra sẽ khủng khiếp vô cùng. Có thể đây sẽ là biến cố cuối cùng, mà thời gian chẳng phải chờ đợi đến những 99 năm, thì Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Tàu cộng rồi.

Vì, nếu có biến động quân sự, thì vị trí của 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc được coi như 3 mũi tiến công trực tiếp từ biển vào đất liền để hỗ trợ cho lực lượng Tàu cộng đang ẩn mình sẵn trên khắp VN, nội công ngoại kích!

Còn, nếu diễn biến tằm ăn dâu, là chủ trương Đại Hán hóa thời Tập Cận Bình, thì hàng ngày đang xảy ra trên toàn cõi VN. Cứ xem những phố Tàu nhan nhãn, đặc biệt là dọc bờ biển họ mua tất cả các nơi xung yếu để kín đáo xây dựng cơ sở, bất khả xâm phạm. Hay “khách du lịch” Tàu đang nườm nượp, thái độ ngông nghênh, trịch thượng với vô số tệ nạn, lại thêm kiểu mặc áo hình lưỡi bò vừa mới xảy ra. Bây giờ, có thêm 3 đặc khu nữa, sẽ là 3 đại trung tâm văn hóa Tàu. Giới trẻ thì đã và đang bị chế độ đầu độc để họ chỉ biết lấy ăn chơi trác táng làm lẽ sống, chắc chắn họ sẽ sớm thông thạo tiếng Tàu, sống văn hóa Tàu để được... “tự hào” là “văn minh”!

Vấn đề còn lại, không cần phải dài dòng với các ông/bà cuốc hụi nữa, mà là với 90 triệu người VN. Phải làm gì trước hiểm họa bị mất nước đang trở thành công khai hơn bao giờ hết?

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên không lẽ đến lúc nầy hoàn toàn bị tê liệt? Liều thuốc an thần mang tên cộng sản, dù mạnh đến cỡ nào, và đã được tiêm vào mạch máu người dân ròng rã những hơn nửa thế kỷ cũng không thể gây hôn mê bất tận tại rất nhiều nước cộng sản trên thế giới. Người dân các nước đó đã tỉnh thức, đã làm cách mạng từ những năm 1989, 1990... còn người VN thì sao?

02.06.2018

Kông Kông

17 tháng 5, 2018

Thực thi pháp luật không chính danh, não trạng "an ninh nhân dân"


Một vụ dẹp biểu tình tại Hà Nội có sự tham gia của lực lượng dân phòng (trái). 5/2014.
An ninh nhân dân là gì?

Tính chất pháp lý của các tổ chức bán chính thức, hoặc hoàn toàn không chính thức như dân phòng, bảo vệ dân phố, hiệp sĩ đường phố cũng đã được nêu lên từ khá lâu. Vào năm 2010, trên trang mạng Boxit Việt Nam do một số nhân sĩ trí thức chủ trương, có bài viết nhan đề Cơ sở pháp lý nào cho các lực lượng dân phòng trong các đô thị hiện nay? Tác giả Hà Đình Sơn, sau khi tìm hiểu các bộ luật về quốc phòng của Việt Nam đã thấy rằng lực lượng dân phòng không nằm trong bất cứ biên chế của lực lượng vũ trang, lực lượng công an của quốc gia, ngoài ra tác giả còn thấy rằng do thiếu những kiến thức về luật pháp, đã có chuyện lực lượng dân phòng phạm phải những hành động phi pháp đối với dân chúng.

Trả lời chúng tôi từ Bình Dương, một người tên Hải, thuộc đội “hiệp sĩ Bình Dương” nói rằng về mặt pháp luật thì không có biên chế nào cho đội này cả, nhưng đội được sự quan tâm của các cấp chính quyền và cơ sở đảng cộng sản tại địa phương.

Luật sư Lê Công Định giải thích cho chúng tôi nguyên nhân của việc hình thành các lực lượng không chính thức trong lĩnh vực thực thi pháp luật tại Việt Nam dưới chế độ của những người cộng sản:

Đó là do suy nghĩ từ thời xa xưa của họ, cái khái niệm về an ninh nhân dân. Từ rất lâu, kể cả trong thời kỳ mà họ còn kháng chiến chống người Pháp, người Mỹ, thì họ đã xây dựng một mạng lưới gọi là an ninh nhân dân, tức là những người tự nguyện làm những công việc có tính cách bảo vệ trật tự công cộng, hoặc làm theo chỉ thị của chính họ, trong việc bảo vệ sự an toàn của một cơ sở đảng chẳng hạn.”

Theo Luật sư Định, mạng lưới an ninh nhân dân này giúp cho nhà cầm quyền thu thập thông tin trong dân chúng. Cũng như tác giả Hà Đình Sơn, ông Lê Công Định cho rằng những tổ chức không chính thức như vậy thiếu những kiến thức về pháp luật, sẽ dẫn tới việc vi phạm quyền tự do của người khác, và điều quan trọng hơn, theo ông là sẽ làm xã hội đi thụt lùi trên phương diện pháp luật:

Những hiệp sĩ đường phố cũng chỉ là những công dân bình thường, họ hoàn toàn không có tư cách công chức hay viên chức trong bộ máy chính quyền, vậy họ lấy cơ sở nào để cho phép mình được tự vệ theo cái hướng là tấn công những người mà họ đang nhận định là vi phạm pháp luật?

Nếu chúng ta duy trì một cái não trạng như vậy thì có thể kéo xã hội Việt Nam trở lại vào một thời kỳ xa xôi trong lịch sử, trong đó là một xã hội vô chính phủ, vô luật pháp, thì người ta tha hồ trả đũa những hành vi mà người ta cho rằng đang xâm phạm lợi ích cá nhân của mình một cách bất chấp là nhà cầm quyền có tồn tại hay không ?”

Sau khi sự việc hai thành viên của hội “hiệp sĩ đường phố” tại Sài Gòn bị giết chết, đã có rất đông ý kiến phản đối sự tồn tại của những tổ chức phi chính thức này, vì nó không phải là sự thể hiện của một nhà nước pháp quyền.

Trên báo mạng Tuần Việt Nam có bài Xã hội pháp quyền phải quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng nghĩa khí của tác giả Nguyễn Anh Thi. Tác giả có trích lời ông Đinh Thế Hưng của Viện Nhà nước và pháp luật, cho rằng việc cổ vũ các "hiệp sĩ" rồi nhân rộng điển hình thành phong trào, sẽ khiến cho người ta có cảm giác xã hội quay về thời kỳ chưa có nhà nước khi công lý và trật tự trông chờ vào cá nhân xuất chúng và rất gần với cách hành xử theo kiểu tự xử hoang dã.

Nhưng cũng có những ý kiến cho rằng nên giúp đỡ và hỗ trợ cho các nhóm “hiệp sĩ đường phố”, như ý kiến của đại biểu quốc hội Đặng Thành Phong trả lời cho báo mạng Một Thế giới. Trong đó có sự thiết lập điều mà ông gọi là hành lang pháp lý cho các nhóm này. Tương tự như vậy Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh nói với đài RFA rằng cần một thiết chế pháp luật cho những hội nhóm này.

Hai ý kiến tạo nhiều phản ứng nhất là của Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân, và Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong. Ông Nguyễn Thiện Nhân cho rằng cần trang bị áo giáp cho các “hiệp sĩ đường phố”, còn ông Nguyễn Thành Phong cho rằng công an cần đi bảo vệ những “hiệp sĩ” này.

Luật sư Lê Công Định nhận xét:

“Cả hai ông này đều thể hiện một kiến thức tôi tạm gọi rất là thấp, bởi vì họ không hiểu được rằng hiệp sĩ đường phố chỉ là một tổ chức tự phát, duy trì nó có nghĩa là chúng ta đang chống lại nền tảng pháp luật của xã hội này.”

Lạm dụng quyền lực và quan niệm về luật pháp

Ngoài chuyện lạm dụng quyền lực do không hiểu biết, như tác giả Hà Đình Sơn và Luật sư Lê Công Định đã nêu ra, blogger Huỳnh Công Thuận tại Sài Gòn còn cho chúng tôi biết rằng việc gia nhập các đội “hiệp sĩ” đối với nhiều người là để được có quan hệ với lực lượng công an, từ đó có thể có được những ưu đãi, đặc biệt là việc gia nhập hộ khẩu ở các thành phố lớn.

Một số người đã tìm thấy trên mạng xã hội mối liên hệ giữa nhóm “hiệp sĩ đường phố” tại Sài Gòn và nhóm một số người đã hành hung bà Lê Mỹ Hạnh, một người hoạt động xã hội, vào tháng 5/2017. Từ đó đưa đến những lời đồn đoán rằng cơ quan công an, an ninh có thể sử dụng các nhóm “hiệp sĩ đường phố” vào mục đích trấn áp những người bất đồng chính kiến. Chúng tôi đặt vấn đề này với Luật sư Lê Công Định:

Điều đó là quá tệ, nhưng nếu có điều đó thì tôi cũng không ngạc nhiên lắm là bởi vì trước sao gì họ cũng sử dụng đến biện pháp đó thôi, vì chúng ta thấy rằng bây giờ cái việc tấn công vào những người bất đồng chính kiến, tấn công vào nhà thờ, chùa chiền, công an đều sử dụng những tổ chức côn đồ, tất nhiên hiệp sĩ đường phố không phải là côn đồ, nhưng rõ ràng bây giờ công an đang sử dụng côn đồ để tấn công những người bất đồng chính kiến, điều đó đã xảy ra rồi, đang xảy ra và ngày càng gia tăng.”

Hình ảnh những cuộc đàn áp biểu tình chống Trung Quốc, hay vì môi trường trong những năm gần đây cho thấy bên phía lực lượng đàn áp có nhiều sắc phục khác nhau, trong đó có lực lượng dân phòng, bảo vệ khu phố, và cả lực lượng thanh niên xung phong, một tổ chức chủ yếu lo về hoạt động sản xuất. Trong văn liệu của Đảng Cộng sản từ khi bắt đầu nắm chính quyền đến nay, người ta cũng thường thấy cụm từ “lực lượng quần chúng” trong nhũng vụ bắt bớ thời cải cách ruộng đất 1955, hay trong những vụ xung đột với giáo dân Công giáo miền Trung mới đây.

Bình luận về quan điểm luật pháp của Đảng Cộng sản, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, nhà bất đồng chính kiến hiện sống tại Đà Lạt nói với chúng tôi:

Cái suy nghĩ nguyên thủy của người cộng sản xuất phát từ cái lý thuyết đó, cái thể chế đó, mà tôi nghĩ cái câu của ông Phạm Văn Đồng là điển hình nhất. Khi ông Nguyễn Mạnh Tường nói với ông ấy rằng thưa Thủ tướng, chỉ huy cơ quan hành pháp thì điều chính yếu phải nghĩ tới một bộ luật văn minh, thì ông ấy trả lời rằng luật để làm gì, để nó trói tay mình à.”

Ông Phạm Văn Đồng là Thủ tướng của chính quyền cộng sản từ năm 1947 đến 1987. Ông Nguyễn Mạnh Tường là một luật sư tham gia kháng chiến chống Pháp, sau 1954 từng làm hiệu trường Đại học luật Hà Nội, nhưng sau đó bị loại ra khỏi guồng máy nhà nước miền Bắc Việt Nam, sống nghèo khổ cho đến cuối đời.

Hiện nay Bộ Công An Việt Nam đang tiến hành cải cách bộ máy, được cho là để có hiệu quả hơn. Chúng tôi đặt câu hỏi với Luật sư Lê Công Định rằng liệu điều đó sẽ tăng tính chất pháp quyền của việc thi hành pháp luật tại Việt Nam hay không, ông trả lời rằng không chắc điều đó vì việc cải tổ là nhằm mục đích chính trị phe nhóm, và vì ngân sách cạn kiệt.

Trả lời báo chí ngay sau sự việc hai “hiệp sĩ đường phố” bị tử nạn, Giám đốc Sở Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Đại tá Phan Anh Minh nói rằng cơ quan công an không quán xuyến hết việc trấn áp tội phạm và sẽ gặp khó khăn vì bị giảm biên chế tới đây.

(RFA)


SỨ QUÂN LÊ THANH HẢI HAY NGUYÊN MẪU VỤ ÁN CỐC KHAI LAI
Khoảng tối lợi ích liên quan Lê Thanh Hải bị bóc dỡ chắc chắn không dừng lại ở Thủ Thiêm, dấu vết ở mảng địa ốc còn nhiều nơi khác. Trong đó vụ bức tử Tổng giám đốc Công ty Phú Mỹ Hưng sẽ hoàn thiện kịch bản “đốt củi” Lê Thanh Hải tương đồng gần như nguyên mẫu vụ án Cốc Khai Lai – vợ Bạc Hi Lai – giết hại đàn em ở Trung Quốc.”

Sau chiến thuật đưa Đinh La Thăng với suất UV BCT vào ghế Bí thư thành ủy thay Lê Thanh Hải ở thành phố kinh tế lớn nhất nước, ông TBT Nguyễn Phú Trọng đã đi một nước cờ cao tay một nước diệt hai xe. Sau khi đưa Đinh La Thăng vào tù chỉ sau một thời gian ngắn sau đó, giờ đây, Lê Thanh Hải cùng phe nhóm lợi ích nơi đây xem như đã không còn lối rẽ trước cửa lò mà ông Trọng đã mở. Dư luận đang nóng bỏng các bàn luận xung quanh vụ bản đồ qui hoạch Thủ Thiêm – một khu đô thị đình đám, đóng vai trò điều tiết giá cả thị trường địa ốc toàn thành phố Hồ Chí Minh dưới dự bảo kê, dẫn dắt của Lê Thanh Hải – ông Vua sứ quân thành Hồ.


Ông Lê Thanh Hải
Nếu nói việc dành cho Đinh La Thăng một ghế trong Bộ chính trị để phe cánh Nguyễn Tấn Dũng yên tâm trở về “làm người tử tế” giúp ông Trọng rảnh tay củng cố quyền lực, chuẩn bị xây lò chống tham nhũng. Sau khi nắm vũng quyền lực, việc kéo Đinh La Thăng vào lò cho thấy chiến thắng này không chỉ giúp ông Trọng chặt cánh tay dài nhất của phe cánh Nguyễn Tấn Dũng còn để lại về mặt chính trị. Nay với khúc củi Lê Thanh Hải, dù đã buộc phải rời khỏi vị trí chính trị nhưng vẫn là sân kinh tế hùng hậu nhất trong các sân của nhóm lợi ích dưới trướng của cựu Thủ tướng Dũng. Từ đây, sau khi diệt được Lê Thanh Hải, ông Trọng sẽ dễ dàng loại bỏ những nhóm còn lại vốn ảnh hưởng quyền lực nhỏ hơn. Thời gian nắm ghế Bí thư thành ủy của Đinh La Thăng không lâu nhưng rất có thể cũng sẽ cho Đinh La Thăng cơ hội “hối cải” bằng những gì có được liên quan phe nhóm Lê Thanh Hải được trình ra, góp công để đưa Lê Thanh Hải vào lò.

Vụ bản đồ qui hoạch khu đô thị Thủ Thiêm bỗng nhiên mất tích ở tất cả mọi cấp từ trung ương tới địa phương, nhìn qua có vẻ đơn thuần chỉ là vấn đề hành chính. Nhưng nó cho thấy thế lực của các phe nhóm lợi ích không chỉ bành trướng và khống chế trong phạm vi quyền lực địa phương mà còn bao trùm cả nền chính trị cao nhất ở trung ương.

Cựu Bí thư thành ủy Lê Thanh Hải không đơn giản là người đứng đầu một thành phố trực thuộc trung ương – nơi luôn là bước đệm cho những nhân sự được dự kiến qui hoạch vào thứ bậc quyền lực cao nhất là Bộ chính trị. Ngay từ những năm 2005, một sự kiện chìm trong vô vàn các bí mật cung đình của chính trị Việt Nam là việc TW từng cử cựu Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng khi đó vào thay thế Lê Thanh Hải (rút ra Hà Nội) nhưng ông Hùng đành nằm chơi xơi nước suốt, dành nửa tháng trời giao lưu với bạn hữu rồi về lại Hà Nội chỉ vì ông Hải… đi Thái Lan không chịu bàn giao. Dư luận trong giới đỉnh cao thành Hồ khi đó rỉ tai nhau rằng Nguyễn Văn Đua (Ba Đua) lúc này nổi lên cũng là nhằm lăm le cơ hội trong cuộc đổi ngôi. Kết quả là ông Hùng sau đó qua nắm Chủ tịch Quốc hội, Lê Thanh Hải vẫn ung dung tại vị cho đến khi quá tuổi, hết nhiệm kỳ. Bản thân ông Đua sau cuộc đua không thành đã chấp nhận xếp hàng dưới tay của Lê Thanh Hải. Đây cũng là thời điểm bắt đầu mở màn cho “qui hoạch khu đô thị trung tâm Quận 2”, nay là Khu đô thị Thủ Thiêm trong kế hoạch xây dụng chuỗi đô thị Thủ Thiêm-Nhà Bè. Có thể lấy đây là mốc thời điểm liên minh lợi ích giữa Lê Thanh Hải và đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các nhóm tụ lại chính thức tung hoành vượt ra ngoài tầm khống chế của Bộ chính trị. Quyền lực ấy có được phần lớn là nhờ vào núi tiền thu được đã vùi lấp mọi ngõ ngách trong Chính phủ và cả Trung ương Đảng. Dẫn đến câu chuyện “không thể kỷ luật đồng chí X” đang dẫn dắt cả chế độ trong hai nhiệm kỳ của Nguyễn Tấn Dũng.

Những sai phạm hoặc những hệ lụy liên quan khu đô thị Thủ Thiêm đã nhiều người, nhiều thông tin nên không cần nói thêm. Nhưng điều ít ai biết là không chỉ bảo kê cho nhóm lợi ích ở phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Thanh Hải còn phủ bóng lên các tỉnh thành xung quanh khi mà các lãnh đạo các tỉnh thành khác phía nam trong suốt thời gian Lê Thanh Hải đương chức, hầu hết ít nhiều đều phải gõ cửa nhà Lê Thanh Hải để “tham vấn” trong những việc quan trọng, liên quan sinh mệnh trên con đường chính trị hoặc các quyết sách lớn ở địa phương. Lê Thanh Hải thật sự là một sứ quân, là ông Vua mà ngay cả ông Dũng khi tại vị còn khó nói là ai quyền lực hơn ai. Chỉ dấu về “chứng tỏ quyền lực” giữa Lê Thanh Hải và Nguyễn Tấn Dũng là việc Nguyễn Thanh Phượng – con gái cưng đồng thời là tay hòm chìa khóa của cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng – khi bị văng ra khỏi Ngân hàng Bản Việt nhưng ông Hải đã không có bất cứ động thái nào. Khó nói phía sau đó là nước đi tín hiệu trong quan hệ giữa hai nhân vật này, nhưng rõ ràng đã có một chuyển dịch lớn về kinh tế từ Nguyễn Thanh Phượng, đưa Tập đoàn Sun Group nổi lên trong một khoảng thời gian nhanh bất ngờ ở phía Bắc mà dự án cáp treo Phan-Xi-Păng chỉ là một trong vô số kênh đầu tư đình đám của Tập đoàn này.

Đường dây mối chỉ liên quan vụ mất bản đồ qui hoạch Thủ Thiêm sẽ giúp ông Trọng đưa thêm một số quan chức liên quan trong các mắt xích quyền lực mà Lê Thanh Hải thiết lập và nắm giữ trong các Bộ, ngành liên quan. Phù hợp chiến lược “ném chuột giữ bình” mà ông Trọng đang giữ lợi thế lựa chọn.

Khoảng tối lợi ích liên quan Lê Thanh Hải bị bóc dỡ chắc chắn không dừng lại ở Thủ Thiêm, dấu vết ở mảng địa ốc còn nhiều nơi khác. Trong đó vụ bức tử Tổng giám đốc Công ty Phú Mỹ Hưng sẽ hoàn thiện kịch bản “đốt củi” Lê Thanh Hải tương đồng gần như nguyên mẫu vụ án Cốc Khai Lai – vợ Bạc Hi Lai – giết hại đàn em ở Trung Quốc.


THIÊN ĐIỂU

10 tháng 5, 2018

HỒI ÂM VỀ THÔNG TIN NGHI ÁN GS.TS NGUYỄN XUÂN THẮNG ĐẠO VĂN



Từ FB của TS Mai Thanh Sơn

Sáng nay, tôi nhận được e.mail của bạn Nguyễn Mạnh Hùng, Thư ký của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng - Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, kiêm Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương. Mạnh Hùng trước đây cũng ở Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (VASS), được đồng nghiệp đánh giá là người có năng lực, thẳng thắn, trung thực. Mạnh Hùng muốn nhờ tôi chuyển một thông điệp dưới dạng thư ngỏ gửi GS. Trần Hữu Dũng, lên trang của mình. Trong File gửi kèm e.mail, Mạnh Hùng đã giải thích đôi điều về lý do có một số chi tiết trùng lặp gữa các bài báo ký tên GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng với một vài bài viết đã được công bố trước đó.

Để rộng đường dư luận và tránh oan sai, có thể ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của một nhà khoa học, tôi quyết định sẽ đăng trên trang nhà. Dưới đây là toàn văn bài viết của bạn Nguyễn Mạnh Hùng.
____

Kính gửi: GS. Trần Hữu Dũng!

Mấy ngày gần đây, trên mạng xã hội lan truyền một bảng so sánh được dẫn nguồn từ trang Vietstudies của GS Trần Hữu Dũng, đặt ra câu hỏi hoài nghi về khả năng “đạo văn” của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong Blog Xuân Diện Hán Nôm và trên trang Facebook của mình, một số người cũng đặt ra câu hỏi tương tự. Nhận thấy đây là vấn đề nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, chúng tôi viết thư này xin làm rõ mấy điểm sau:

1. Theo quy định từ trước đến nay, những bài diễn văn của Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong các lễ kỷ niệm đều do các nhóm chuyên gia từ những viện chuyên ngành chuẩn bị, dựa trên ý tưởng của Thủ trưởng. Nhân kỷ niệm 148 năm ngày sinh V.I. Lênin, PGS.TS. Nguyễn An Ninh được phân công chấp bút những ý tưởng của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng về việc vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác trong bối cảnh lịch sử cụ thể của nước Nga những năm đầu cách mạng. Là người có nhiều năm nghiên cứu về V.I. Lênin và CNXH, PGS.TS. Nguyễn An Ninh đã từng có bài viết “Chính sách kinh tế mới của Lê nin – một cơ sở lý luận quan trọng của đổi mới ở Việt Nam”, được đăng trên Tạp chí cộng sản số ngày 21/4/2015. Chính vì vậy, trong quá trình hiện thực hóa những ý tưởng của đồng chí Giám đốc Học viện, đã không tránh khỏi một số đoạn trùng lặp hoặc diễn đạt tương đồng. Về nguyên tắc, đây là phát ngôn chính thức của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh mà đồng chí Giám đốc là người đại diện nên dưới bài báo mới ký tên GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng.

2. Bài báo “Giá trị tư tưởng, lý luận và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay” (Báo Xã hội, 5-5-18) trên thực tế cũng được biên tập lại từ phát biểu đề dẫn được GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng trình bày trong lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Karl Marx và bài này cũng được đăng trên báo Nhân dân, sau đó báo Xã hội đã dẫn lại. Trong quá trình chuẩn bị bài phát biểu này, nhóm chuyên gia đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Đây là bài phát biểu đề dẫn, sau do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị lúc bấy giờ, Tổ Thư ký đã gửi gấp sang báo Nhân Dân nhưng chưa rà soát lại kỹ lưỡng về sự trùng lặp cũng như chú thích nguồn.

3. Như vậy, cả hai bài báo trên đây đều bắt nguồn từ những bài phát biểu đề dẫn được nhóm Trợ lý chuyên môn và Tổ Thư ký chuẩn bị cho các lễ kỷ niệm thường niên của Học viện chứ không phải là các bài nghiên cứu để đăng trong các tạp chí chuyên ngành. Dù sao, những sơ suất của nhóm Trợ lý chuyên mônvà Tổ Thư kýlà rất đáng tiếc. Điều đó đã ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, một nhà khoa học có nhiều đóng góp cả về lý luận và thực tiễn. Chúng tôi đã nghiêm túc rút kinh nghiệm và xin lỗi GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng về vấn đề này.

4. Với lá thư này, thông qua trang Blog Xuân Diện Hán Nôm và các trang mạng xã hội khác, chúng tôi muốn gửi tới GS. Trần Hữu Dũng cùng các bạn đọc lời xin lỗi chân thành và mong được thông cảm. Đây cũng là bài học để trong thời gian tới, chúng tôi có thể làm tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.

Thay mặt Tổ Thư ký và nhóm Trợ lý chuyên môn:
Nguyễn Mạnh Hùng.
____

Lời bình của 
Nguyễn Xuân Diện: Lời thư ngỏ và thái độ trung thực, khách quan của Tổ thư ký và nhóm Trợ lý của GS Nguyễn Xuân Thắng là có thể hiểu và thông cảm được. Các bài của GS.Thắng được đem ra so sánh đều là các bài phát biểu miệng, đề dẫn các hội thảo để phục vụ các dịp lễ lạt chứ không phải các báo cáo khoa học. Và mỗi dịp như thế, các báo chí thường rất đông, chực sẵn GS dứt lời thì xin bài để đăng, và nhóm thư ký trợ lý không lường hết chuyện Văn Tế thì khác Văn Bia thế nào. Xin lưu ý nhóm tư vấn, rút kinh nghiệm từ nay, Văn tế và Văn bia để riêng hai túi khác nhau, và sử dụng riêng để tránh oan sai cho thủ trưởng. Và cũng xin khép lại vụ việc này ở đây.

9 tháng 5, 2018

Chủ nghĩa Mác: Soi rọi đến đâu, lụi tàn đến đấy? 

Nguyễn Tường Thụy (VNTB) Nếu không có người nhắc thì chẳng ai còn nhớ Các Mác sinh ngày nào, năm nay là năm thứ bao nhiêu kể từ khi ông sinh ra. Đến khi xuất hiện các bài phát biểu của mấy nhà tuyên giáo nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Các Mác thì người ta mới biết đến. Cũng phải thôi, nếu mấy nhà tuyên giáo này mà còn không nhớ nữa thì các ông biết chuyển sang nghề gì.
 
Các Mác.
Để giữ cái nghề của mình, các ông bất chấp thực tế, bất chấp lý luận để ca ngợi Mác và cái chủ nghĩa Mác đưa ra bằng những ngôn từ tốt đẹp nhất, tưởng như kho từ vựng Tiếng Việt không đủ để diễn tả. Nào là “bộ óc kiệt xuất”, “Học thuyết của Mác là công cụ vạn năng để giải cứu thế giới”, “Tư tưởng của Mác là một nguồn động lực vô biên để động viên, thúc đẩy phong trào cách mạng trên thế giới”, "Những giá trị của chủ nghĩa Mác là không thể xuyên tạc". Thâm chí tư tưởng của Mác còn soi rọi đến cả... cách mạng công nghiệp 4.0, làm cho nhiều người được phen cười nghiêng ngả.

(Trích phát biểu của ông Nguyễn Xuân Thắng, Tạ Ngọc Tấn, chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương).

Vậy Mác đã cống hiến cho loài người những gì? Trước hết cũng nên thừa nhận học thuyết của ông có những luận điểm chấp nhận được về thế giới quan, trong đó có những luận điểm ông thừa hưởng từ Hêghen, Phơ bách. Hoặc ông đưa ra một nguyên lý đúng mang tính đúc kết cao là “quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Tuy nhiên, ông có những luận thuyết chết người cộng thêm với sự vận dụng và phát triển tùy tiện của những nhà mác xít ở các nước cộng sản đã gậy ra tác hại rất lớn ở khu vực chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác. Ở đây xin đề cập hai luận thuyết đấu tranh giai cấp và giá trị thặng dư.

Trong học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã đánh tráo khái niệm, lập lờ đánh lận lao động của nhà tư bản thành bóc lột lao động của công nhân, làm cho người ta tưởng bị bóc lột thật nên cần phải dùng bạo lực để cướp lại. Mác cổ vũ cho sự cướp bóc này, gọi hành động này là “tước đoạt của kẻ tước đoạt”.

Từ nhận xét “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”, Mác đưa ra luận điểm “đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội”

Học thuyết về giá trị thặng dư và đấu tranh giai cấp là hai luận thuyết mà sự ảnh hưởng của nó sâu đậm nhất đối với các quốc gia đi theo chủ nghĩa cộng sản, gây nên bao nhiêu tai ương ở các quốc gia này.

Chủ nghĩa Mác đã từng ảnh hưởng và làm thay đổi chế độ chính trị khoảng 1/3 thế giới. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác “soi rọi” đến đâu thì ở đó có bạo lực và thanh trừng đẫm máu trong nội bộ. Tất nhiên, những cuộc chiến tranh trên thế giới không chỉ sinh ra từ luận điểm đấu tranh giai cấp. Có tài liệu ước tính, nạn nhân của những cuộc tàn sát ở riêng 3 quốc gia: Liên Xô, Trung Quốc, Campuchia lên tới 70 triệu người. Không chỉ là nội chiến hay thanh trừng nội bộ mà còn có cả chiến tranh giữa các nước XHCN với nhau.

Chủ nghĩa Mác “soi rọi” đến đâu thì kinh tế ở đó tụt hậu, sản xuất không phát triển được vì động lực thúc đẩy sản xuất bị triệt tiêu bởi chính sách làm ăn chung, triệt tiêu kinh tế tư bản tư doanh, công hữu hóa tư liệu sản xuất. Nhiều quốc gia lâm vào cảnh đói kém, nhất là các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên. Theo Wikipedia, giai đoạn 1958 - 1962 Trung Quốc có khoảng 15 đến 45 triệu người chết đói. Nạn đói ở Bắc Triều Tiên trong thập niên 1990 đã làm chết khoảng 240.000 tới 3.500.000 người mà đỉnh cao là năm 1997.

Ngoài bạo lực chuyên chính vô sản, kinh tế tụt hậu, việc áp dụng chủ nghĩa Mác còn bộc lộ ra rất nhiều điều bất ổn trong tất cả các mặt của đời sống xã hội.

May thay, chủ nghĩa Mác những tưởng sẽ thắng thế ở phần còn lại của thế giới thì cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, bỗng dưng đồng loạt sụp đổ, từ Liên Xô, “thành trì của cách mạng thế giới” đến Đông Âu, Mông Cổ. Sự sụp đổ này không phải là ngẫu nhiên mà là do mâu thuẫn nội tại trong lòng các nước đi theo chủ nghĩa Mác bùng nổ. Ngày nay chỉ còn 3 đứa con đơn độc của chủ nghĩa Mác là Trung Quốc, Việt Nam và Cu Ba (Triều Tiên trong tình trạng không rõ ràng). Tất cả các quốc gia đã thoát ra khỏi chủ nghĩa Mác không có gì phải nuối tiếc nếu không nói là vẫn còn kinh hoàng. Chủ nghĩa Mác đã kéo nhân loại chậm lại, có lẽ không dưới một trăm năm hoặc hơn, nếu tính đến cả những ảnh hưởng lâu dài của nó.

Sự sụp đổ của hệ thống XHCN vào thập niên cuối của thế kỷ trước là quá ngoạn mục. Sự phá sản của chủ nghĩa Mác là một thực tế trông thấy.

Chủ nghĩa Mác soi rọi đến đâu thì lụi tàn đến đấy. Đó là một sự thật. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN cũng là một sự thật. Thế nhưng, các nhà tuyên giáo ở Việt Nam cố tình không nhìn thấy. Chủ nghĩa Mác là một sai lầm tạm thời của nhân loại, nó đã chết ở quê hương Các Mác, chết ở châu lục mà Mác sinh ra nhưng ở một đất nước nghèo đói xa lạ, người ta cố thổi hồn vào nó, hà hơi cho nó những mong nó sống lại. Đó là một điều không tưởng và . Chết rồi mà vẫn sống mãi, vẫn thúc đẩy được phong trào cách mạng thế giới, vẫn là chìa khóa vạn năng để giải cứu thế giới và còn đòi soi rọi đến cả... cách mạng 4.0. Thật là không còn sự khôi hài nào hơn.


Dám chắc, chẳng còn ai tin vào chủ nghĩa Mác, kể cả những người đang cổ súy cho nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Gần 90 năm đi cùng nó, tuyên truyền, cổ vũ cho nó, từng thất bại ê chề vì nó, chẳng lẽ giờ lại đột nhiên từ bỏ, hóa ra công nhận mình đã từng sai? Đây là tâm lý bảo thủ cố hữu của người cộng sản. Ngoài ra, người ta cố giữ lấy nó còn để làm bình phong lừa mị dân, để kéo dài sự độc quyền thống trị chứ không chịu chia sẻ quyền lãnh đạo đất nước cho người khác, còn đất nước ra sao, đi về đâu thì không cần biết.

Vở diễn đã khép lại


Cuối cùng thì trận chiến "đả hổ diệt ruồi" phiên bản Việt Nam cũng đã kết thúc tốt đẹp như một vở kịch có hậu.

Phải có một con ruồi thật bự nào đó đứng ra chịu chém để lưỡi gươm chống tham nhũng dừng lại đúng chỗ.

Ông Đinh La Thăng làm Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương - Ảnh 1.
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân trao quyết định cho ông Đinh La Thăng

Việc nhanh chóng bổ nhiệm con ruồi bự Đinh La Thăng về phó ban kinh tế của đảng, sau khi bị luận tội nặng nề không khỏi không làm quần chúng khán giả nghĩ rằng có một màn dàn xếp từ trước giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện trong vở kịch chống tham nhũng.

Con ruồi Thăng được dựng lên, được bầu vào BCT, được bổ về làm "phụ mẫu chi dân" một thành phố to lớn nhất nước, rồi sau đó được mang ra luận tội, bắt đầu từ một "sát thủ" lề trái để tạo ra nhiều kịch tính li kỳ, thu hút sự chú ý của khán giả nhân dân (hầu quên đi bao nhiêu chuyện đớn đau thực sự khác của họ)

Sau hơn môt năm huy động toàn lực sức mạnh của đảng và nhà nước, huy động sức mạnh của dư luận kể cả dư luận lề trái, công cuộc chống tham nhũng của ông Trọng đã lần lượt đánh đuổi được Trịnh Xuân Thanh, cách được vài chức "nguyên" của Vũ Huy Hoàng, Võ Kim Cự để cuối cùng đụng đến ruồi bự phản diện Đinh La Thăng, và đạt được thắng lợi rực rỡ là cách được hai cái đương chức vừa mới dựng lên vào năm ngoái của ông ấy.

Khán giả rất hả hê mà quên mất rằng những hàng chục ngàn tỷ đồng thất thoát ở dầu khí, sau chiến thắng chống tham nhũng có thu hồi về được hay cũng bóng chim tăm cá như các hàng chục ngàn tỷ bị mất tiêu ở vô số dự án kinh tế khổng lồ khác.

Chủ trương "diệt chuột nhưng không để vỡ bình" của ông Trọng đã bộc lộ rõ ra qua chuyện dàn xếp cho Đinh La Thăng chức phó ban kinh tế ngay sau khi bị lấy lại hai chức được cho trước đây để y vui vẻ nhận tội, để chuyện chống tham nhũng chỉ dừng ở ruồi mà không dẫn lên đến hổ, để chuôt bị diệt mà không ảnh hưởng đến bình.

Tất cả những thất thoát, thua lỗ, thiệt hại to lớn ở dầu khí, ở vinaline, vinashin, EVN, Than khoáng sản, bô xít Tây Nguyên, thép Thái Nguyên, đạm Hà Bắc, đạm Ninh Bình, formosa thải độc ...đều nằm dưới thời điều hành của ông Nguyễn Tấn Dũng được lãnh đạo toàn diện và sâu sắc bởi các ông Nông Đúc Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Ai chủ trương các quả đấm thép, ai đưa bô xít và formosa vào, ai chủ trương đầu tư dầu khí qua Venezuela?.. Những câu hỏi như vậy sẽ kéo dài dằng dặc.


Những Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng, Vũ Huy Hoàng, Võ Kim cự mắc tội một thì các ông kể trên phải mắc tội mười. Ai ruồi ai hổ, ai chuột ai bình đã hiện ra quá rõ.

Tóm lại vở kịch đả hổ diệt ruồi theo kiểu Tập Cận Bình, phiên bản Nguyễn Phú Trọng đã kết thúc win-win.

Chỉ có nhân dân mãi làm khán giả và bị thất bại thảm hại.

Huỳnh Ngọc Chênh

(FB Huỳnh Ngọc Chênh)