Kiệt tác thế giới: Cao Sơn Lưu Thuỷ – Tuyệt phẩm được NASA gửi vào không gian vũ trụ
Trần gian lỡ đọa ta không tiếc, chỉ tiếc trên trần thiếu tri âm..
Chuyên mục Kiệt Tác Thế Giới là chuyên mục thời báo Đại Kỷ Nguyên trân trọng giới thiệu tới độc giả những đỉnh cao của nền văn hóa nhân loại, đã được minh chứng qua dòng chảy thời gian, với các tác phẩm hội họa, âm nhạc, văn học, kiến trúc…kiệt xuất. Có thể nói đó là những dấu ấn lịch sử đã đặt định nên chuẩn mực giá trị nghệ thuật và nhân sinh vô cùng quý báu cho toàn thể nhân loại.
Vào một ngày đẹp trời năm 1977, có một kiệt tác âm nhạc đã được Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) gửi phát vào không gian vũ trụ qua các con tàu thám hiểm vũ trụ là Voyager 1 và Voyager 2.
Năm 1977, tàu thám hiểm Voyager 1 và Voyager 2 đã gửi một tuyệt p vào không gian vũ trụ, đó là tuyệt phẩm nào vậy?Năm 1977, tàu thám hiểm Voyager 1 và Voyager 2 đã gửi một tuyệt phẩm vào không gian vũ trụ, đó là tuyệt phẩm nào vậy?
Đó là tuyệt phẩm nào vậy?
Mời các bạn cùng chúng tôi thực hiện một chuyến du ngoạn về một vùng đất thanh khiết nhất, một nơi trong trẻo nhất không vướng chút bụi trần. Đó là tinh hoa của trời đất, của tình người tri cố, của những tâm hồn cô độc tìm thấy nhau giữa cuộc đời nhiều oan trái. Để rồi mỗi sáng thức dậy sẽ lại thấy lòng mình thanh thản và nhẹ tênh. Và lại thấy như có tiếng đàn vẫn réo rắt, du dương ngay trong chính tâm hồn mình…
Trần gian lỡ đọa ta không tiếc, chỉ tiếc trên trần thiếu tri âm…
Trần gian lỡ đọa ta không tiếc, chỉ tiếc trên trần thiếu tri âm
Dường như trong sâu thẳm nội tâm mỗi con người, chúng ta ít nhiều có lúc cảm thấy đột nhiên rất cô độc trong cõi hồng trần này. Chúng ta có thể có nhiều bạn bè, đồng nghiệp, người thân nhưng ngoài tình yêu thương của người thân và chia sẻ thông thường của bạn bè thì dường như trong sâu thẳm nội tâm của con người đều có một “vùng đất thiêng” của riêng mình mà không phải ai cũng có thể đặt chân tới được.
Đó là vùng đất cất giữ bí mật riêng tư của phẩm giá, đức hạnh và cao quý, bản chất nhất của linh hồn, nhưng cũng chính vì vậy nên nó không tùy tiện được bộc lộ trong sự hỗn độn của thế gian. Chúng ta khao khát được chia sẻ nó nhưng tuyệt đối không phải vì sự ràng buộc tầm thường của cuộc sống, mà nó đòi hỏi một sự đồng điệu thiêng liêng trong tâm hồn.
Chẳng thế mà có nhà văn từng nói “Trần gian lỡ đọa ta không tiếc, chỉ tiếc trên trần thiếu tri âm”. Một người bạn tri âm chính là người hiểu được phẩm chất tốt đẹp nhất trong ta, đánh thức được nó dậy và ở cạnh họ khiến ta thấy mình là chính mình nhất.
Tìm về với Kiệt Tác Thế Giới, ngày hôm nay Đại Kỷ Nguyên dành tặng quý độc giả một kiệt tác âm nhạc, một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử khắc họa chân thực, sâu sắc cho chúng ta hiểu thế nào là tri âm.
Đó chính là “Cao sơn lưu thủy”, tuyệt phẩm được diễn tấu bởi nghệ nhân Thất huyền cầm nổi tiếng – Quan Bình Hồ, kiệt tác mà vào năm 1977, NASA(Cơ quan hàng không và vũ trụ Hoa Kỳ) đã gửi phát vào không gian vũ trụ thông qua các tàu thám hiểm Voyager 1 và Voyager 2, như một ước vọng thiết tha của loài người gửi lên Thượng Đế…
Tuyệt phẩm được gửi vào không gian vũ trụ, như một ước vọng thiết tha của loài người gửi lên Thượng đế…
Thế nào là tri âm? Câu chuyện về sự ra đời của tuyệt tác
Từ trước đến nay, ai trong chúng ta cũng nghĩ mình hiểu được tri âm là gì…Là người có thể hiểu được ta, đồng điệu với tâm hồn ta một cách sâu sắc nhất và đi mãi cùng ta trong suốt cuộc đời…
Tuy nhiên, đi sâu hơn, Tri âm – trong tiếng Hán, “tri”- hiểu biết, “âm”- âm nhạc, tức là người hiểu được âm nhạc của mình. Và khái niệm đó lại xuất phát từ chính câu chuyện lịch sử kinh điển của Kiệt tác Cao Sơn Lưu Thủy này về mối tri âm thiêng liêng giữa Bá Nha – Tử Kỳ.
Theo sách Lã thị xuân thu: “Bá Nha cổ cầm, Chung Tử Kỳ tại ngoại thiết tính chi viết: nguy nguy hồ như thái sơn, dương dương hồ như lưu thủy” (Bá Nha gảy đàn, Chung Tử Kỳ ở ngoài nghe trộm, khen rằng: ngun ngút như núi Thái Sơn, cuồn cuộn như dòng nước chảy.) Vào lúc Tấn, Sở đang giao hảo nhau. Bá Nha là người nước Sở, nhưng lại làm quan đến chức Thượng đại phu của nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời; ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thiết thân của mình.
Ngày liền đêm, Bá Nha không bao giờ rời cây Dao cầm thân thiết của mình…
Năm ấy, trên đường từ Sở về lại Tấn sau sau chuyến công cán, Bá Nha cho thuyền đỗ lại bến Hàm Dương vào một đêm trăng thanh gió mát. Bá Nha cho đồng tử đốt lư trầm trước thuyền, rồi lấy Dao cầm ra so phím thử dây. Dưới ánh trăng trong, tiếng đàn quyện lấy hương trầm đang cất vút lên cao giữa đêm thu thanh vắng, bỗng một tiếng ” bựt ” khô khan, dây tơ đồng đứt. Bá Nha nghĩ dây đàn đứt ắt có quân tử nào nghe lén đây, bèn sang sảng cất tiếng: – Có cao nhân nào trên bờ lắng nghe tiếng đàn của tại hạ, xin vui lòng ra mặt.
Từ trên vách núị có tiếng vọng xuống: – Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành.
Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành…
Bá Nha cười lớn:
– Tiều phu nào mà lại dám nói chuyện nghe đàn với ta?
Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại:
– Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: “Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín” (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến…
Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, ông tiến sát đến mũi thuyền nói lớn: – Nếu thật là người trên bờ biết nghe đàn, thì xin cho biết lúc nãy tại hạ đã đàn khúc gì?.
Giọng trên bờ bình thản vọng xuống: – Đó là Khổng Vọng Vi, Đức Khổng Tử khóc trò Nhan Hồi. Phổ vào tiếng đàn, lời rằng:
Khả liên Nhan Hồi mệnh tảo vong
Giáo nhân tư tưởng mấn như sương
Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc
Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là:
Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương.
Tạm dịch thơ:
Nhan Hồi mất sớm thật đau thương,
Tư tưởng dạy người tóc bạc sương.
Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm
Ta như thấy lại hình ảnh Bá Nha năm nào đang đưa người theo điệu nhạc, đôi mắt nhắm lại và mơ về một nơi xa nào đó. Chỉ có đôi tay người nghệ sĩ lướt nhẹ trên phím đàn khi trầm khi bổng, dặt dìu, êm ái. Xung quanh là con sông chảy hiền hòa ôm vào lòng nó những dãy núi mù sương…
Rồi bỗng nhiên, nhịp đàn nhanh dần, réo rắt những dịp dồn dập nhau. Tưởng chừng như cả trái tim người nghệ sĩ cũng rung lên với nhịp thở gấp gáp. Ta lại như thấy mình giữa một khung cảnh sơn thủy hữu tình, một ngọn núi xa xa, một dòng thác chảy mạnh mẽ. Dòng nước cuộn sóng tung bọt trắng xóa.
Con nước chảy từ trên cao hòa mình vào dòng nước lớn. Khung cảnh ấy có thể hình dung là “lưu thủy”. Kết lại bản nhạc vẫn là những điệu âm réo rắt rồi nhỏ dần nhỏ dần như dòng chảy đang dần về một nơi xa lắm. Bản nhạc không chỉ đẹp ở giai điệu mà còn đẹp như một bức tranh hữu tình. Đôi khi giữa dòng đời hối hả, dành ra một khoảng lặng để lắng nghe “Cao sơn lưu thủy“, ta lại thấy tiếng đàn như rót vào tim những thanh âm trong trẻo nhất.
Nghe xong, Bá Nha thấy lòng phơi phới lạ, vội sai tùy tùng lên bờ rước người tiều phu xuống thuyền. Bá Nha trân trọng đón tiếp: – Quý hữu biết nghe đàn, vậy chắc cũng rõ được xuất xứ của cây Dao cầm?
Tiều phu không ngập ngừng: – Nghe nói, thuở xưa vua Phục Hy tình cờ trông thấy có năm sắc sao rơi xuống cụm ngô đồng và chim phượng hoàng đến đó đậu. Vua biêt cây ngô đồng là thứ gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất, có thể dùng để làm nhạc khí được, liền cho người hạ cây, cắt làm ba đoạn Đoạn ngọn, tiếng quá trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được.
Nhà vua cho ngâm đoạn giữa thân cây giữa dòng nước, đúng bảy mươi hai ngày đêm, vớt lên phơi trong mát cho thật khô rồi gọi người thợ giỏi Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây Dao cầm. Dao cầm dài ba thước sáu tấc, một phần án theo ba trăm sáu mươi mốt độ chu thiên, mặt trước rộng tám tấc, án theo tám tiết, mặt sau rộng bốn tấc án theo bốn mùa, bề dày hai tấc án theo lưỡng nghị Đàn gồm mười hai phím, tượng trưng cho mười hai tháng trong năm , lại có thêm một phím phụ tượng trưng cho tháng nhuận.
Đàn có năm dây án theo ngũ hành tượng trưng cho năm âm: cung, thương, giốc, thủy, vũ. Xưa, vua Thuấn gảy đàn Ngũ huyền, thiên hạ thái bình. Khi vua Văn Vương bị ngồi tù nơi Dũ Lý, Bá Ấp Khảo thêm một dây oán, gọi là văn huyền (dây văn). Về sau, khi Vũ Vương đánh nước Trụ, thêm môt dây nữa gia tăng kích động gọi là vũ huyền (dây vũ). Do đó, Dao cầm lúc đầu có năm dây, sau có bảy dây.
Dao cầm có bốn điều kỵ là: rét lớn, nắng lớn, gió lớn và tuyết lớn; và bảy điều không nên là: không đàn ở đám tang, không đàn lúc lòng rối loạn, không đàn lúc lòng không thanh bạch, không đàn lúc bận rộn nhiều việc, không đàn lúc y trang không chỉnh tề, không đàn lúc không có trầm hương và không đàn lúc không có bạn tri âm
Không đàn lúc không có tri âm…
Bá Nha nghe nói, biết tiều phu là bậc kỳ tài, đem lòng kính thương:
– Hiền hữu quả là người tinh thông nhạc lý. Xưa kia, Khổng Tử đang gảy đàn, Nhan Hồi bước vào, nghe thanh âm sao mà u trầm, biết là trong tâm Khổng Tử đang dao động. Hỏi ra, mới hay là trong khi Khổng Tử đàn, thấy con mèo đang bắt chuột, nên tâm tư đã chùng tiếng tơ đồng. Trước kia, Nhan Hồi nghe tiếng đàn mà biết được lòng người thầy, còn ngày nay, nghe tiếng đàn Bá Nha này, hiền hữu có biết lòng ta đang tư lự gì không?
– Xin đại nhân cho nghe một vài khúc nhạc nữa.
Bá Nha thay dây đàn, gảy khúc Ý tại non cao.
Tiều phu ngẩng mặt mỉm cười: – Tuyệt thay, ý chí cao vút. Ý tại non cao.
Tuyệt thay! Ý chí cao vút. Ý tại non cao
Bá Nha giật mình ngưng đàn. Một lúc sau gảy thêm khúc Ý tại lưu thủy.
Tiều phu khua tay xuống dòng nước:
– Trời nước bao lạ. Ý tại lưu thủy.
Bá Nha thất kinh, nhìn người tiều phu không ngớt mắt, sao lại có người cảm thấu được tiếng đàn của mình như vậỵ Ông sai người hầu dẹp trà, bày tiệc rượu. Xong, ông đứng lên trước mặt người tiều phu, kính cẩn hỏi: – Dám hỏi tiên sinh quý danh và quê quán. Tiều phu vội đứng lên, chắp tay thi lễ:
– Tiện dân họ Chung, tên Tử Kỳ, người thôn Tập Hiền gần núi Mã Yên này. Còn đại nhân, chẳng hay cao danh quý tánh là gì, hiện đi trấn nhậm nơi đâu mà ghé thuyền lại đây vãng cảnh.
– Tại hạ họ Du tên Thụy, là Đại phu nuớc Tấn, nhân đi sứ nước Sở về, thấy cảnh Hàm Dương trăng thanh gió mát, nên ghé thuyền thưởng lãm. Tại hạ chỉ là một kẻ tài hèn đức bạc mà thôi, còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này?
…Còn như tiên sinh đây học thức uyên bác cớ sao không xuất thân lập công danh, phò vua giúp nước, mà lại sống ẩn dật chốn núi non hẻo lánh này?
– Tôi còn cha mẹ già, không có anh em, phận làm con phải lo tròn chữ hiếu, dẫu cho công hầu khanh tướng cũng không thể đổi được một ngày báo hiếu của tại hạ.
Tử Kỳ hai mươi bảy tuổi, Bá Nha trân trọng nói:
– Tiện chức hơn tiên sinh những mười tuổi. Nếu tiên sinh không chê tôi đức mọn tài hèn thì xin kết làm anh em để khỏi phụ duyên tri âm.
Chung Tử Kỳ khiêm nhường đáp:
– Đại nhân là bậc công khanh nơi triều đình, tại hạ là kẻ áo vải chốn sơn lâm thì làm sao kết bạn với nhau được, xin đại nhân miễn cho.
– Giá trị con người đâu ở chỗ giàu sang phú quý, mà ở đức hạnh tài năng. Nay nếu tiện sinh chịu nhận làm anh em thì thật là vạn hạnh cho tiện chức.
Bá Nha đã có thành tâm, Tử Kỳ không từ chối nữa. Bá Nhà sai người hầu đốt lò hương mới, lập hương án trước thuyền, cùng Tử Kỳ lạy trời đất tám lạy, nhận nhau làm anh em khác họ, rồi hai bạn cùng đối ẩm chuyện trò với nhau rất chi là tương đắc.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đôi bạn đành phải chia taỵ Bá Nha giọng run run, nhìn Tử Kỳ:
– Lòng huynh quá cảm mộ, chưa nỡ rời hiền đệ, hiền đệ có thể cùng huynh đi thêm một đoạn đường để thêm đước một khúc chuyện trò cho thỏa mối tâm tình.
Chung Tử Kỳ cũng không giấu được xúc động:
– Theo lễ, tiểu đệ phải tiễn hiền huynh vài dặm đường mới phải, ngặt vì song thân của tiểu đệ đang trông ngóng ở nhà, xin hiền huynh thứ lỗi.
– Vậy thì hiền đệ về nhà xin với song đường qua nước Tấn thăm chơi, chắc là sẽ được nhận lời.
– “Phụ mẫu tồn, bất khả viễn du”, làm sao Tử Kỳ có thể rời cha mẹ để vui chơi cùng bạn được.
Cuối cùng, Bá Nha nắm tay Tử kỳ, giọng khẩn thiết:
– Sang năm, cũng vào giờ này, xin hẹn hiền đệ tại đây.
Đến lúc ánh trăng nhạt nhòa, tiếng gà eo óc gọi ánh nắng mai, đôi bạn đành phải chia taỵ….
Rồi lấy ra hai nén vàng, hai tay dâng cao lên trước mặt:
– Đây là món lễ vật mọn của ngu huynh làm quà cho bá phụ, bá mẫu, đã xem nhau là cốt nhục xin hiền đệ chớ từ chối.
Cảm tình tri ngộ, Tử Kỳ không từ chốị Lưu luyến chia tay, đôi bạn bịn rịn không thốt lên nỗi lời tạm biệt.
Thấm thoắt một năm qua, ngọn gió heo may từ phương Bắc về đem mùa thu đến. Bá Nha vào triều kiến vua Tấn xin được phép về Sở thăm quê nhà. Thuyền đến bến Hàm Dương, Bá Nha cho dừng lại dưới núi Mã Yên. Lòng bồn chồn trông ngóng. Vừng kim ô đã ngả bóng xuống lòng sông, khói sóng dâng lên nghi ngút, sao mãi vẫn không thấy bạn tri âm.
Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng. Bá Nha thất kinh, ngừng tay đàn, tâm thần rối bời; cung thương bỗng nghe sầu thảm như thế này thì chắc là Chung Tử Kỳ gặp nạn lớn rồi.
Cả đêm, Bá Nha trăn trở, nhớ thương và âu lo cho bạn. Trời chưa sáng, Bá Nha đã khoác cây Dao cầm lên lưng, bỏ vào túi mười nén vàng ròng rồi cùng vài tên hầu tìm đến chân núi Mã Yên. Dọc đường gặp một ông lão, tay xách giỏ mây, tay cầm gậy trúc. Bá Nha lễ phép thưa: – Xin lão trượng chỉ đường đi đến Tập Hiền thôn.
– Có Tập Hiền thông thượng, Tập Hiền thôn hạ. Tiên sinh cần đến thôn nào ?
– Thưa lão trượng, người Tử Kỳ họ Chung ở thôn nào?
Vừa nghe nhắc đến tên Chung Tử Kỳ, lão ông sa sầm nét mặt, đôi mắt trũng sâu chảy dài hai hàng lệ. Lão ông sụt sùi, giọng ngắt đoạn: – Chung Tử Kỳ là con lão. Năm ngoái cũng vào ngày này, nó đi củi về, gặp một vị quan nước Tấn tên là Bá Nha và kết nghĩa huynh đệ vì chỗ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Lúc chia tay, vị quan có tặng cho vợ chồng lão hai nén vàng. Ở nơi núi non heo hút thế này, vợ chồng lão chưa cần đến số vàng đó, nên con lão đã dùng đổi lấy sách, đọc bất kể ngày đêm, giờ giấc , ngoài việc đốn củi mưu sinh. Có thể vì quá lao nhọc, con lão đã lâm bệnh mà qua đời… Chưa kịp nghe hết lời, Bá Nha đã bật òa khóc, ôm chầm lấy ông lão, hậu sinh này chính là người bạn kết giao của Chung Tử Kỳ đây. Ông lão thảng thốt, trời ơi!
Bá Nha cho đồng tử đốt lò hương, rồi lấy Dao cầm đàn một khúc. Trong cơn gió nhẹ đầu thu, Bá Nha bỗng nghe tiếng đàn của mình sao mà ai oán, não nùng…
– Mang ơn đại nhân không chê trách cảnh bần cùng, đã cùng con lão kết nghĩa tâm giao. Lúc lâm chung, con lão đã trối trăn lại: ” Sống không trọn đạo làm con, chết xin được chôn dưới chân núi Mã Yên để trọn đạo nghĩa với bạn, nằm bên triền dốc chờ đúng lời hẹn mùa thu này” Con đường mà đại nhân vừa đi quạ phía bên phải có nấm đất nhỏ là ngôi mộ của Tử Kỳ. Hôm nay đúng một trăm ngày mất, lão vừa đi viếng mộ con về thì gặp đại nhân.
Trước mộ Tử Kỳ, Bá Nha vừa lạy bạn xong, truyền đem đàn đến, ngồi trên tảng đá tấu khúc “Thiên thu trương hận“. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Tiếng gió ngàn rít mạnh, bầu trời trở màu tối sẩm và tiếng tiếng chim từ xa vọng về nghe u uất não nùng. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa:
– Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này:
Ức tính khi niên xuân Giang thượng tằng hội quân Kim nhật trùng lai phỏng Bất kiến tri ân nhân Đản kiến nhất phân thổ An nhiên thương ngã tâm Bất giác lệ phân phân Lai hoan khứ hà khổ Giang ban khởi sầu vân. Tử Ky, Tử kỳ hề ! Nhĩ, ngã thiên kim nghĩa Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ Thử khúc chung hề bất phụ đàn Tam xích Dao cầm vị quân tử
Dịch thơ:
Từ nhớ đến muà thu năm trước Bến trường giang gặp bạn cố nhân Năm nay lại đến Giang Tân Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng Ôi thương tâm, ôi thương tâm Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi Mây sầu thấp thoáng chân trời Đêm vui đổi lấy một đời khổ đaụ Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can Thôi từ nay, thôi phím đàn Ngàn thu thôi hết mơ màng cố nhân…) Lời thơ vừa dứt, Bá Nha nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tung từng mãnh, trụ ngọc, phím đồng rơi lả tả. Lão ông hoảng kinh, sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí. Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt: Thốt đoái Dao cầm phượng vĩ hàn Tử Kỳ bất tại, hướng thùy đàn ? Xuân phong mãn diện giai bằng hữu Dục mịch tri âm, nan thượng nan
Dịch thơ: Dao cầm đập nát đau lòng phượng Đã vắng Tử Kỳ đàn với ai Gió xuân bốn phía bao bè bạn Khó thay tìm được bạn tri âm Bốn câu thơ là bài văn tế cho bạn. Bá Nha quay lại phía lão ông, sụp quỳ xuống:
– Bá Kỳ Tử Nha đã y lời hẹn đến đây rồi. Nay tiểu sinh có đem theo ít nén vàng, xin thành tâm dâng lên bá phụ cùng bá mẫu để cung dưỡng tuổi già và tạo mươi mẫu ruộng làm tự cho Tử Kỳ. Bốn năm nữa hạ quan sẽ dâng biểu từ quan, về đây chung sống với bá phụ bá mẫu, với người bạn tri âm.
Chung lão không từ chối Bá Nha lạy Chung lão, lạy tạ từ bạn rồi quay xuống cho thuyền nhổ sào, trở về nước Tấn.
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng những phút giây quý giá của cuộc gặp gỡ đó đã được lưu lại ngàn năm. Tình bạn của họ đã được khắc họa trong một bản nhạc kinh điển nhất của nhạc cổ Trung Hoa – Cao Sơn Lưu Thủy- bản nhạc mà Bá Nha đã chơi vào ngày gặp Tử Kỳ, được lưu truyền và được hậu nhân những người mến mộ hoàn thiện như bản nhạc đang có hiện nay.
Trong dòng đời như cát bụi, tìm đâu được người tri kỷ???
Câu chuyện của họ đã đi vào lịch sử văn hóa, ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức hệ của xã hội trong những năm dài của lịch sử, đã đi vào lòng người biết bao thế hệ sau này.
Vẻ đẹp vĩnh hằng của kiệt tác Cao Sơn Lưu Thủy
Mời các bạn giữ một tâm hồn tĩnh lặng để lắng nghe những tiếng lòng đồng điệu tri âm trong kiệt tác Cao Sơn Lưu Thủy.
Lắng nghe khúc nhạc, nếu thật sự không nhập tâm và tinh tế thì chúng ta không thể thấy hết cái hay cái đẹp của nó. Khúc nhạc bắt đầu bằng những thanh âm nhẹ nhàng và chậm rãi. Tiếng đàn đưa ta đến một không gian cao, rộng và thoáng đãng và mơ màng.
Ta như thấy lại hình ảnh Bá Nha năm nào đang đưa người theo điệu nhạc, đôi mắt nhắm lại và mơ về một nơi xa nào đó. Chỉ có đôi tay người nghệ sĩ lướt nhẹ trên phím đàn khi trầm khi bổng, dặt dìu, êm ái. Xung quanh là con sông chảy hiền hòa ôm vào lòng nó những dãy núi mù sương… Có lẽ đây là không gian mà ta gọi là “Cao sơn”.
Ta như thấy lại hình ảnh Bá Nha năm nào đang đưa người theo điệu nhạc, đôi mắt nhắm lại và mơ về một nơi xa nào đó. Chỉ có đôi tay người nghệ sĩ lướt nhẹ trên phím đàn khi trầm khi bổng, dặt dìu, êm ái. Xung quanh là con sông chảy hiền hòa ôm vào lòng nó những dãy núi mù sương…
Rồi bỗng nhiên, nhịp đàn nhanh dần, réo rắt những dịp dồn dập nhau. Tưởng chừng như cả trái tim người nghệ sĩ cũng rung lên với nhịp thở gấp gáp. Ta lại như thấy mình giữa một khung cảnh sơn thủy hữu tình, một ngọn núi xa xa, một dòng thác chảy mạnh mẽ. Dòng nước cuộn sóng tung bọt trắng xóa.
Con nước chảy từ trên cao hòa mình vào dòng nước lớn. Khung cảnh ấy có thể hình dung là “lưu thủy”. Kết lại bản nhạc vẫn là những điệu âm réo rắt rồi nhỏ dần nhỏ dần như dòng chảy đang dần về một nơi xa lắm. Bản nhạc không chỉ đẹp ở giai điệu mà còn đẹp như một bức tranh hữu tình. Đôi khi giữa dòng đời hối hả, dành ra một khoảng lặng để lắng nghe “Cao sơn lưu thủy“, ta lại thấy tiếng đàn như rót vào tim những thanh âm trong trẻo nhất.
Rồi bỗng nhiên, nhịp đàn nhanh dần, réo rắt những dịp dồn dập nhau. Tưởng chừng như cả trái tim người nghệ sĩ cũng rung lên với nhịp thở gấp gáp. Ta lại như thấy mình giữa một khung cảnh sơn thủy hữu tình, một ngọn núi xa xa, một dòng thác chảy mạnh mẽ. Dòng nước cuộn sóng tung bọt trắng xóa
Một chút gì đó hoàn toàn thanh khiết không vướng bụi trần. Đó là tinh hoa của trời đất, của tình người tri cố, của những tâm hồn cô độc tìm thấy nhau giữa cuộc đời nhiều oan trái. Để rồi mỗi sáng thức dậy sẽ lại thấy lòng mình thanh thản và nhẹ tênh. Và lại thấy như có tiếng đàn vẫn réo rắt, du dương ngay trong chính tâm hồn mình…
Sau khi bị Nguyễn Xuân Phúc dùng thanh tra chính phủ để thanh tra sai phạm đất đai Hà Nội từ tận năm 2002 lại đây, tập trung thanh tra vào sai phạm thời kỳ Nguyễn Phú Trọng làm bí thư thành uỷ Hà Nội. Người ta thấy Nguyễn Phú Trọng gọi Tô Lâm và Ngô Xuân Lịch cùng hầu hết tướng lĩnh cao cấp của bộ quốc phòng, đi thăm trường bắn quốc gia giữa lúc cái rét đầu mùa đang về, lúc mà thời tiết trở trời rất độc cho người cao tuổi.
Hình minh họa
Tại trường bắn, nói chuyện trước mặt chóp bu của quân đội, Nguyễn Phú Trọng giao nhiệm vụ và trọng trách cho quân đội đảm nhiệm hết cả những việc trước kia chỉ có công an làm. Như chống diễn biến hoà bình, chuyển hoá trong nội bộ và âm mưu dân sự hoá của thế lực thù địch.
Rõ ràng Trọng muốn ám chỉ thế lực thù địch nằm trong hàng ngũ cao cấp của đảng, bởi cả ba khái niệm diễn biến, chuyển hoá, âm mưu dân sự hoá đều phải từ cấp cán bộ cao nhất mới thực hiện được. Nhưng vấn đề ở đây không phải Trọng muốn nói đến các động cơ trên, điều mà Trọng muốn nói là Trọng đang có kẻ thù trong nội bộ đảng và đề nghị quân đội phải bảo vệ Trọng, sẵn sàng tấn công vào những quan chức đối thủ của Trọng.
Cũng trong lúc này, Báo Quân Đội Nhân Dân, tờ báo lớn nhất của quân đội do tổng cục chính trị quân đội, dưới quyền của quân uỷ trung ương nơi Trọng làm chủ, đã đưa liên tiếp nhiều bài viết phê phán rất mạnh hàm ý đối tượng là lãnh đạo cao cấp.
Bài báo mới nhất có tên Diệt Trừ Tệ Báo Cáo Không Trung Thực.
Hãy chú ý đến từ diệt trừ, đó là một từ khá nặng nề và đầy sắt máu. Ai là người báo cáo ? Trước nay chỉ có chính phủ là hay phải báo cáo với trung ương, với quốc hội. Bài báo nhắc nhiều đến tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang ra sức diệt trừ tệ nạn này, những yếu tố nêu trong bài báo về đối tượng báo cáo không trung thực là có yếu tố chuyển hoá, diễn biến...
Nếu đọc những bản tin trước thấy các báo phê phán tổng cục thống kê nghe lệnh của Nguyễn Xuân Phúc, đã đưa ra báo cáo trung ương và quốc hội con số tăng trưởng thần kỳ, ắt sẽ biết kẻ nói đến trong bài báo chính là Nguyễn Xuân Phúc.
Trước đó cũng trên tờ Quân Đội Nhân Dân này, có một bài báo về thói ham danh lợi.
Bài báo ra đúng vào ngày chính phủ công bố thanh tra đất đai ở Hà Nội thời Trọng làm bí thư, như thế dễ thấy quân đội đang đứng sau lưng Trọng sẵn sàng ra tay cứu chủ tịch quân uỷ bằng cách tấn công lại Nguyễn Xuân Phúc. Những gì trong bài báo đề cập khiến người ta không phải suy đoán nhiều, những điều trong bài báo nói về nhân vật nào đó thì ở ngoài từ lâu nay dân chúng đã thẳng thừng nói về Nguyễn Xuân Phúc như vậy. Hãy nghe một đoạn trích trong bài báo đó để dễ hình dung.
Tuy nhiên, thời nay có những người háo danh, ham địa vị đến mức khác thường. Ở mức độ nhẹ, họ khôn khéo lấy lòng người khác, mua chuộc nhân tâm, ra sức ra luồn vào cúi, nịnh nọt, ton hót cấp trên để mong được bổ nhiệm vào vị trí cao hơn. Nặng hơn, có người dù ở đâu, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái ghế mà mình nhắm tới, bằng mọi cách để tiếp cận, leo lên được vị trí ngon, thậm chí không ngại ngần sử dụng đủ thứ mánh khóe, chiêu bài để chiếm đoạt được quyền cao chức trọng. Có người háo danh đến mức bất chấp luân thường đạo lý, quên cả tình bằng hữu, chà đạp lên tình đồng chí, đồng nghiệp, sẵn sàng biến đối tác thành đối thủ, hạ bệ người khác để đạt được tham vọng cá nhân. Dân gian có câu: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Cái danh không bằng tài năng, đức độ, thực lực của bản thân tạo ra, mà càng phải mua đắt bao nhiêu thì giá trị của nó càng bị coi thường, rẻ rúng bấy nhiêu!
Hết trích.
Những điều trên cho thấy Nguyễn Phú Trọng đang giăng lưới và đánh ngấm dần từng đòn, còn Nguyễn Xuân Phúc chỉ có một đòn, nhưng rất độc đó là nắm rõ hồ sơ sai phạm của Nguyễn Phú Trọng lúc làm bí thư Hà Nội, Trọng đã tiếp tay cho doanh nghiệp trục lợi , khiến nhà nước thất thu hàng ngàn tỷ đồng.
Nếu như trong hội nghị trung ương tới đây, hoặc phiên họp của quốc hội tới đây, hoặc có thể là phiên họp của chính phủ. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tung ra bản thanh tra cáo buộc tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng ăn tiền để áp giá đất rẻ đến 10 lần cho doanh nghiệp, thì sự nghiệp của Nguyễn Phú Trọng tiêu tùng theo mây khói, không ai còn tin vào cái gọi là chống tham nhũng, hối lộ, suy thoái của ông ta nữa.
Con người Nguyễn Phú Trọng là kẻ thù dai nhớ lâu, bí thư Hậu Giang Bảy Chắc trước kia đã từng khinh miệt nói Trọng già rồi, về nghỉ đi. Bảy Chắc đã bị Trọng lôi cổ ra kỷ luật mặc dù đã về hưu. Trịnh Xuân Thanh đưa đơn tố cáo bộ chính trị về động cơ không trong sáng của Trọng khi kỷ luật đảng viên, Trọng tuyên bố sẽ bắt bằng mọi giá và y rằng Trọng đã bắt được Thanh dù mất đi quan hệ đối tác chiến lược với Đức và làm ảnh hưởng đến hiệp định thương mại Châu Âu bị trì hoãn.
Như những gì Trọng đã thể hiện, Nguyễn Xuân Phúc hầu như không còn đường lùi hay hoà hoãn được với Trọng. Những phát ngôn trên báo quân đội nhân dân cũng chính là phát ngôn của Trọng, tuyên ngôn rất rõ ràng cần phải xử lý một kẻ phản chủ, luồn lách, nịnh bợ leo lên cao, chà đạp cả tình nghĩa đồng chí, anh em. Trong phát ngôn ấy ban đầu là trị bệnh , vài hôm sau nữa là diệt trừ cho thấy quyết tâm của Trọng sẽ trị Phúc đến cùng.
Nhưng để Trọng hạ được Phúc lúc này không phải dễ dàng, Phúc đã có được sự nhìn nhận của Tập Cận Bình như một người kế nhiệm chức tổng bí thư đảng CSVN cực kỳ dễ bảo. Hơn nữa Phúc cũng đã nhanh chóng gây dựng được quanh mình đội ngũ hùng hậu, trong đó có phần lớn lực lượng công an cùng với những đại gia nhiều tiền của, nắm giữ nhiều bí mật của nhiều lãnh đạo.
Hiện nay hai chiến hữu của Phúc có nhiều sai phạm về quản lý, về tham nhũng cũng như lối sống đồi truỵ là Thân Đức Nam và Huỳnh Đức Thơ đang gây bức xúc trong dư luận, khiến người ta hoài nghi rằng chiến dịch làm trong sạch đảng của Nguyễn Phú Trọng là tránh né những thế lực mạnh, chỉ nhằm dánh các thế lực yếu. Sự hoài nghi này càng có cơ sở hơn khi Huỳnh Đức Thơ mặc dù bị trung ương kỷ luật, nhưng phía chính phủ chần chừ mãi mới đưa ra quyết định cảnh cáo và vẫn để Thơ giữ nguyên chức vụ. Nếu Trọng không phá được sự che đỡ của Phúc với bọn Thân Đức Nam và Huỳnh Đức Thơ, người ta sẽ hiểu rằng thời của Nguyễn Phú Trọng đã cáo chung. Trọng không động được đến đệ tử của Phúc thì chẳng bao giờ động được đến Phúc.
Lúc đó theo thói phù thịnh, mọi sự ủng hộ trong đảng sẽ dồn lại về cho Nguyễn Xuân Phúc.
Thực lòng mà nói, dù luồn cúi, nịnh bợ và phản anh phản em, bộ dạng đón tiếp khách quốc tế như một thằng hề...dù hàng trăm cái tội như thế. Một tổng bí thư như Nguyễn Xuân Phúc chắc chắn sẽ hơn nhiều một lão già thâm hiểm, cuồng lý tưởng CNXH đến cực đoạn như Nguyễn Phú Trọng.
Người Buôn Gió
(Blog Người Buôn Gió)
26 tháng 11, 2017
Nguyễn Đăng Quang
THANH TRA ĐẤT ĐỒNG TÂM: Bài 1: CÓ AI TIN VÀO THANH TRA HÀ NỘI?
Biến cố Đồng Tâm đã để lại nhiều bài học đau xót. Một trong các bài học này chính là công tác thanh tra. Những bức xúc, bất bình và khiếu nại của người dân chất chứa trong nhiều năm về những sai phạm trong việc sử dụng, quản lý đất đai ở xã Đồng Tâm và sân bay Miếu Môn không hề được các cấp chính quyền Hà Nội xem xét, giải quyết! Ngày 20/4/2017, UBND Hà Nội thông báo mới quyết định lập Đoàn thanh tra để tiến hành thanh tra toàn diện vấn đề đất đai ở Đồng Tâm và cam kết sẽ phán xử công minh! Nhưng rồi sau đó, kết luận phũ phàng của Thanh tra Hà Nội làm người dân Đồng Tâm từ chỗ chưa kịp lóe lên niềm HY VỌNG đã sớm tắt ngấm LÒNG TIN vào chính quyền! Đúng như KTS Trần Thanh Vân, trong “Thư gửi ông Chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Đức Chung”, đã thẳng thắn đánh giá bản kết luận của Thanh tra Hà Nội là “coi thường sự thật, thậm chí còn lươn lẹo, dối trá”! Còn nhà báo Nguyễn Đình Ấm viết trong “Thư ngỏ gửi Thanh tra và Công an Hà Nội về vụ Đồng Tâm”, đưa ra nhận định rất xác đáng: Các vị đã cố tình làm “rối trí người đọc” để “phức tạp hóa” tình hình một sự việc vốn rất đơn giản!
Như tất cả mọi người đều đã biết, ngày 22/4/2017, trong bản “Cam kết 3 điểm” với người dân Đồng Tâm, ngay tại điều cam kết đầu tiên, ông Chủ tịch Hà Nội đã viết rất rõ ràng : “Trực tiếp kiểm tra Đoàn thanh tra, chỉ đạo sát sao, làm đúng sự thực khách quan và đúng pháp luật khu vực đất Đồng Sênh rõ ràng đâu là đất quốc phòng, đâu là đất nông nghiệp, không mập mờ, đảm bảo đúng quyền lợi cho nhân dân Đồng Tâm theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, bằng giấy trắng, mực đen (cho dù không đóng dấu, nhưng đã có chữ ký và lăn tay điểm chỉ trước sự chứng kiến và chứng thực của nhiều người có trách nhiệm), Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã mặc nhiên ghi nhận là trên cánh Đồng Sênh của xã Đồng Tâm có 2 loại đất: loại đất thứ nhất là “đất nông nghiệp”, loại đất thứ hai là “đất quốc phòng”! Vấn đề chủ chốt, theo như lời cam kết, chỉ là việc Chủ tịch Thành phố giao nhiệm vụ và chỉ đạo Thanh tra Hà Nội xác định rõ ranh giới cho mọi bên - quân đội cũng như người dân - rạch ròi và rõ ràng đâu là đất nông nghiệp, đâu là đất quốc phòng để các cấp chính quyền “không mập mờ, đảm bảo đúng quyền lợi cho nhân dân Đồng Tâm theo quy định của pháp luật”!
Người dân Đồng Tâm coi cánh Đồng Sênh và Cổng Đồn rộng 106ha là “mảnh đất bờ xôi ruộng mật” do cha ông để lại, và họ đã sử dụng liên tục và ổn định, không tranh chấp với ai trong ít nhất hơn nửa thê kỷ qua (kể từ sau ngày hòa bình lập lại năm 1954)! Năm 1980, Chính phủ có Quyết định 113/TTg thu hồi 208ha đất của huyện Chương Mỹ và Mỹ Đức (trong đó có 47,36ha của xã Đồng Tâm) để giao Bộ Quốc phòng làm sân bay Miếu Môn. Chấp hành quyết định trên, người dân Đồng Tâm đã bàn giao 47,36ha trên cánh đồng Cổng Đồn cho quân đội, và người dân đã nhận 150.312 VNĐ (1980) tiền bồi thường hoa mầu. Người dân Đồng Tâm không thắc mắc, đòi hỏi gì thêm, và luôn tôn trọng 47,36ha đất đã bàn giao cho Bộ Quốc phòng! Đối với số diện tích 59ha còn lại trên cánh Đồng Sênh, người dân vẫn canh tác ổn định từ đó (1980) đến nay. Nhưng bỗng nhiên gần đây, Huyện ủy và UBND Mỹ Đức tuyên bố đây là đất quốc phòng, lệnh cho Đài truyền thanh huyện Mỹ Đức và xã Đồng Tâm ngày đêm ra rả tuyên truyền là toàn bộ cánh Đồng Sênh là đất quốc phòng, đồng thời ép các đảng viên và cán bộ xã Đồng Tâm phải ký xác nhận đấy là đất quốc phòng! Rất nhiều người cực lực phản đối và kiên quyết không ký. Từ đó, việc tranh chấp mảnh đất này bắt đầu, và ngày càng gay gắt! Cụ Lê Đình Kình và rất nhiều đảng viên lão thành khác khẳng khái tuyên bố: “Cho dù có bị chặt đầu, họ vẫn khẳng định 59ha đất trên cánh Đồng Sênh là đất nông nghiệp!”
Việc thanh tra diện tích 59ha đất nông nghiệp tại cánh Đồng Sênh, nếu làm công tâm, đúng pháp luật (như cam kết của Chủ tịch UBND Thành phố hứa với người dân Đồng Tâm hôm 22/4/2017), tôi nghĩ sẽ chẳng có trở ngại hoặc khó khăn gì lớn, vì chỉ cần từ 2 đến 3 ngày làm việc, Thanh tra Hà Nội hoàn toàn có thể chỉ rõ ranh giới phần đất nào là đất nông nghiệp của dân, phần nào là đất quốc phòng của Viettel (nếu có)! Nhưng như một tiếng xét đánh và quá bất ngờ, sau 3 tháng thực thi công vụ, Thanh tra Hà Nội chính thức đưa ra kết luận 59ha đất nói trên là đất quốc phòng, phủ nhận hoàn toàn cánh Đồng Sênh không hề có đất nông nghiệp!? Quả đúng như KTS Trần Thanh Vân nói, bản kết luận của TTHN là “coi thường sự thật, thậm chí còn lươn lẹo, dối trá”!
Đọc bản Kết luận dài 20 trang của Thanh tra Hà Nội, ngay cả luật sư cũng bị rối trí, chứ đừng nói đến người dân bình thường! Đây hẳn là điều chủ ý của Thanh tra Hà Nội, họ cố tình làm rối trí người đọc, bố cục thì tù mù, nội dung thì khó hiểu, câu văn thì lủng củng, diễn giải thì vòng vo, thậm chí còn đưa ra những khái niệm lạ hoắc nhằm mục đích lẩn tránh sự thực khách quan và cốt lõi là Thành phố Hà Nội cũng như Bộ Quốc phòng không hề có quyết định thu hồi đất và quyết định được giao 59ha đất trên cánh Đồng Sênh nói trên! Thanh tra Hà Nội không thể chứng minh bằng văn bản pháp lý đất cánh Đồng Sênh là đất quốc phòng, vì nếu có, thì không những họ đã trưng văn bản đó ngay từ đầu mà họ còn có thể kiến nghị xử lý bằng pháp luật, thậm chí khởi tố hình sự cụ Lê Đình Kình và những người dân Đồng Tâm khác đã dám cản bước họ!
Ngay khi TTHN công bố văn bản Kết luận thanh tra số 2346/KL-TTTP, người dân Đồng Tâm kịch liệt phản đối và đã gửi nhiều văn bản khiếu nại. Nhưng 4 tháng qua, người dân không nhận được một ý kiến phản hồi nào có thể gọi là thỏa đáng của TTHN! Do vậy, thay mặt những người khiếu nại, cụ Lê Đình Kình nói với người viết bài này là người dân Đồng Tâm có nguyện vọng được đối thoại trực tiếp với Lãnh đạo Thành phố và Thanh tra Thành phố. Địa điểm tại trụ sở UBND xã Đồng Tâm, thời gian do TTHN quyết định, song càng sớm càng tốt! Thành phần tham dự: Về phía Đồng Tâm: gồm có cụ Kình, các thành viên Tổ Đồng thuận, 2 luật sư hỗ trợ pháp lý. Về phía TTHN gồm Chánh, 2 Phó và 6-8 chuyên viên cùng các Trưởng, Phó phòng của Thanh tra Thành phố, đồng thời mời đại diện Viettel là bên có quyền lợi và trách nhiệm liên quan. Hình thức: Đây là buổi đối thoại công khai, mời các cơ quan báo chí, đài VOV, đài VTV về đưa tin và truyền hình trực tiếp buổi đối thoại này. Chi phí sẽ chia đều cho các bên! Vì Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung là người viết bản “Cam kết 3 điểm” với người dân trưa hôm 22/4/2017, nên người dân Đồng Tâm sẽ rất vui mừng nếu ông Chủ tịch Thành phố bố trí thời gian về tham dự buổi đối thoại này với bà con Đồng Tâm!
Viết đến đây, tôi vừa nhận được tin của cụ Lê Đình Kình thông báo cho biết: Tối hôm qua, cụ nhận được giấy của TTHN mời cụ 9 giờ sáng hôm nay (24/11/2017) có mặt tại trụ sở TTHN tại 62 phố Trần Quốc Toản, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, để “Làm rõ nội dung công dân không đồng ý với Kết luận của Thanh tra Hà Nội”. Cụ ngao ngán nói: “Thật chẳng khác nào họ làm khó cho tôi! Ngay cả nếu có khỏe mạnh, tôi cũng khó có thể đi kịp! Chắc họ cũng thừa biết tôi không thể đi được, nên đã ghi chú thêm là: “Trong trường hợp ông Lê Đình Kình không đến làm việc được, đề nghị ông cử đại diện đến làm việc với Thanh tra Thành phố.”!
Qua bài viết này, tôi xin được chuyển đến độc giả gần xa những thông tin và diễn biến mới nhất xung quanh kết quả thanh tra và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo của TTHN liên quan đến những bất bình và kêu cứu của bà con nông dân ở một vùng ngoại ô, cách trung tâm Hà Nội 50km sau một sự kiện mang tên biến cố Đồng Tâm hôm 15/4/2017, với mục đích để mọi người biết rõ bản chất sự việc và cũng rộng đường cho dư luận nhận định, đánh giá, đồng thời để các bên thấy được thiện chí của mình cũng như của các bên liên quan./.