19 tháng 10, 2017

Kami - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có thành công trong việc chỉnh đốn đảng?


"Sống với một người bạn thân, phải phòng lúc họ hết thân và biến thành kẻ thù của mình." – Richelien

Đáng tiếc rằng, trong cái đám đông ô hợp đó lại có không ít những người vốn được khoác danh "trí thức tinh hoa" một thời. Cho đến bây giờ họ vẫn không hiểu được rằng, cái gọi là  cái gọi là chống tham nhũng hay chỉnh đốn đảng của Tổng Bí thư Trọng nhân danh đảng CSVN tất cả đều theo đúng quy trình "đánh một bên - không phải phe ta".
Hình minh họa
Phát biểu của ông Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương trong buổi trao quyết định điều động, bổ nhiệm ông Trương Quang Nghĩa về nhậm chức Bí thư Đà Nẵng có nói rằng, "Tôi cũng mong rằng các đồng chí trong Ban chấp hành, trong Ban Thường vụ và nhân dân Đà Nẵng tiếp tục giúp đỡ đồng chí Xuân Anh trở thành người tốt, có những đóng góp cho đất nước, cho Đảng, cho nhân dân trong thời gian tới". Đây có lẽ thực sự là một chuyện bi hài chảy nước mắt, vì nó cho thấy các thành phần ưu tú (đã bị lộ) của cái đội mệnh danh là tiên phong ấy từng được báo chí nhà nước hết lời tung hô lại là những người không tốt.

Song xem ra, phát biểu vừa nêu của Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính không có ý nghĩa bằng việc khi Trưởng Ban Tổ chức Trung ương nói rằng, "Tôi gởi lời chia sẻ đến gia đình đồng chí Nguyễn Xuân Anh, một gia đình có truyền thống cách mạng và đã có đóng góp nhất định cho Đà Nẵng cũng như sự nghiệp cách mạng của Đảng, nhà nước". Nghĩa là ông Phạm Minh Chính đã gửi lời cảm thông tới ông Nguyễn Văn Chi - Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, thân phụ của ông Nguyễn Xuân Anh người mệnh danh là bố già Miền Trung.

Người ta cho rằng, ngoài Kết luận của Ủy ban KTTW về sai phạm của Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh, thì còn có một bí mật động trời, đó là mối thâm thù giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và ông Nguyễn Văn Chi, cha đẻ của ông Nguyễn Xuân Anh. Xin chép ra đây để rộng đường dư luận.

Mối thâm thù đó không chỉ là chuyện ông Nguyễn Xuân Ảnh, con thứ của ông Nguyễn Văn Chi, được bổ nhiệm chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam ở tuổi 33. Trước đó, ông Nguyễn Xuân Ảnh (khi mới 26 tuổi) giữ chức Phó chánh Văn phòng Tập đoàn dầu khí Việt Nam cũng dưới thời ông Đinh La Thăng. Sau đó ông Nguyễn Xuân Ảnh được bổ nhiệm chức phó Tổng giám đốc Tổng công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam năm 2011, sau đó chuyển sang Bộ Giao thông-Vận tải để giữ chức Phó chánh Văn phòng, kiêm thư ký Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng.

Điều đó đã cho thấy giữa Đinh La Thăng và cha đẻ của Nguyễn Xuân Anh là ông Nguyễn Văn Chi có mối quan hệ hết sức đặc biệt. Cho dù giữa ông Nguyễn Văn Chi và cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng có những mối ân oán không thể tha thứ lẫn cho nhau. Đó là việc khi ông Nguyễn Tấn Dũng vướng vào các sai phạm của Vinashin và ông Nguyễn Văn Chi với tư cách Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, là người quyết định các sai phạm này.

Người ta nói rằng trước Đại hội đảng CSVN 11, sự nghiệp chính trị của ông Nguyễn Tấn Dũng rất căng thẳng, vì liên quan đến Đại Án Vinashin. Khi đó, vận mệnh Nguyễn Tấn Dũng nằm trong tay Chủ nhiệm Ủy ban KTTW Nguyễn Văn Chi. Song, tình thế đã thay đổi bởi bàn tay của Thượng tướng Công An Nguyễn Văn Hưởng, đã sử dụng người con nuôi của mình là Hưng Tano hối lộ bà Nguyễn Thị Thủy - vợ ông Nguyễn Văn Chi, Phó Chủ Tịch Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam, rồi chụp ảnh, quay phim, ghi âm làm bằng chứng. Được biết khi ấy, giữa cuộc họp Bộ Chính Trị bàn việc xử lý Vinashin, đồng chí Ba X đã không ngần ngại dúi vào tay Nguyễn Văn Chi bản báo cáo của Bộ Công An về vụ việc. Khi đó mặt Nguyễn Văn Chi tái dại và phải bỏ dở cuộc họp. Thế rồi thế cờ đảo ngược, ông Nguyễn Tấn Dũng thoát hiểm và Nguyễn Văn Chi về vườn.

Ít ai biết rằng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thời còn là Bí thư Thành ủy Hà nội cũng dính vào một scandal tương tự như ông Ba Dũng và người có trách nhiệm xử lý không ai khác là ông Nguyễn Văn Chi.

Đó là những sai phạm 3.000 tỷ đồng, trong dự án Khu đô thị mới Nam Thăng Long (Ciputra Hanoi International City) vào năm 2002. Đây là một dự án bất động sản đầu tư nước ngoài lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ, với số vốn đầu tư đăng ký lên tới 2,11 tỷ USD do tập đoàn Ciputra (Indonesia) làm chủ đầu tư.

Đó là  việc nhằm giúp tập đoàn Ciputra (Indonesia) trốn mức thuế sắp áp dụng từ đầu năm 2005, khi  đó ông Hoàng Văn Nghiên - Nguyên Chủ tịch UBND TP và Bí thư Thành ủy Nguyễn Phú Trọng đã thống nhất  ưu tiên cho tập đoàn Ciputra nộp thuế theo mức “đặc cách” và dĩ nhiên được Bí thư Thành ủy Nguyễn Phú Trọng bật đèn xanh. Quyết định của ông Nghiên, ông Trọng “giúp" Ciputra đã đem lại siêu lợi nhuận cho nhà đầu tư và họ đã cảm ơn cho hai ông với khoản lót tay bằng USD nghe đâu mỗi ông tới 7 con số.

Tuy nhiên, cho đến hơn 1 năm sau, việc xin cấp sổ đỏ của hàng nghìn biệt thự tại khu đô thị Nam Thăng Long (Ciputra) bị gặp trở ngại do cố tình áp sai thuế một cách nghiêm trọng. Việc này khiến Liên ngành Thành phố gồm Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường và Cục thuế Hà Nội buộc phải đi đến quyết định đề nghị UBND TP. Hà Nội sung thu 1.400 tỷ đồng tiền sử dụng đất đối với dự án Ciputra trong số hơn 3.000 tỷ đồng thất thoát.

Tại dự án này, Chủ nhiệm Ủy Ban KTTW Nguyễn Văn Chi đã nắm giữ nhiều bằng chứng sai phạm của chính quyền Hà Nội thời ông Nguyễn Phú Trọng làm Bí thư Thành ủy. Nghe đâu giữa ông Nguyễn Văn Chi và Nguyễn Phú Trọng đã thỏa thuận sẽ bỏ qua và giữ kín chuyện này với các cam kết những ràng buộc. Việc thăng tiến thần tốc của 2 con trai của ông Nguyễn Văn Chi là Nguyễn Xuân Anh và Nguyễn Xuân Ảnh, không thể không có sự tiếp tay của ông Nguyễn Phú Trọng trong 2 nhiệm kỳ liên tiếp giữ chức Tổng Bí thư.

Có lẽ điều đó tương đối phù hợp với luồng dư luận cho rằng, cũng như bọn chuyên tống tiền, tống tình ông Nguyễn Văn Chi không bao giờ dừng lại khi ông Trọng - kẻ bị khống chế trong tay vẫn còn giá trị lợi dụng. Song ông Nguyễn Phú Trọng đã không lú, ông Trọng biết rõ điều này và đã lên kế hoạch để hóa giải đòn khống chế của cha con Nguyễn Văn Chi. Mà đỉnh cao là việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bất ngờ đi thăm chính thức Indonexia từ ngày 22 đến ngày 24/8/2017, mà theo nguồn tin nội dung thẩm định thông tin tập đoàn Ciputra đã khẳng định đã xóa sạch mọi dấu vết liên quan đã được đề cập. Sau khi chắc chắn đã hóa giải việc bị ông Nguyễn Văn Chi không chế, ông Nguyễn Phú Trọng liền lập tức ra tay xử lý ông Nguyễn Xuân Anh để trả hận. Và sắp tới đây số phận của Nguyễn Xuân Ảnh chắc chắn cũng đã có câu trả lời.

Có lẽ thành công lớn nhất trong công cuộc chỉnh đốn đảng dưới chiêu bài chống tham nhũng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đạt được, không phải là việc kỷ luật cách chức Ủy viên Bộ Chính trị đối với Bí thư Thành ủy TP HCM Đinh La Thăng hay Ủy viên Trung ương Đảng đối với Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh. Mà đó là sự tin tưởng của một đám đông dân chúng, vẫn nghĩ rằng ông Nguyễn Phú Trọng đang trừng trị các con sâu dân, mọt nước trong đảng. Thậm chí chủ trương chà đạp luật pháp quốc tế của Tổng Bí thư Trọng "bằng mọi giá bắt bằng được Trịnh Xuân Thanh", kể cả việc cho lực lượng đặc vụ Việt Nam bắt cóc nghi can Trịnh Xuân Thanh giữa thanh thiên bạch nhật tại Berlin cũng được đám đông ô hợp đó tung hô và coi đó là một hành động chính đáng.

Mời xem Video: Tại sao Trần Đại Quang, Hoàng Trung Hải mặc quân phục Đại tướng gặp Tổng TM trưởng QĐ sau HNTW6?


Đáng tiếc rằng, trong cái đám đông ô hợp đó lại có không ít những người vốn được khoác danh "trí thức tinh hoa" một thời. Cho đến bây giờ họ vẫn không hiểu được rằng, cái gọi là  cái gọi là chống tham nhũng hay chỉnh đốn đảng của Tổng Bí thư Trọng nhân danh đảng CSVN tất cả đều theo đúng quy trình "đánh một bên - không phải phe ta".

Bởi những vi phạm của ông Đinh La Thăng cố ý làm trái gây thất thoát hàng chục ngàn tỷ ở Petro Việt Nam, nếu so với các sai phạm của Võ Kim Cự trong vụ việc Formosa Hà tĩnh gây ô nhiễm biển 4 tỉnh Bắc Trung Bộ thì cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Hay các vi phạm của Bí thư Nguyễn Xuân Anh, kể cả việc bằng cấp "giả" cũng không có gì là đáng kể nếu so với hàng ngàn, hàng vạn các vụ sai phạm của giới lãnh đạo đảng ở các cấp từ trung ương đến địa phương trong thời gian qua. Sự tránh né nếu không nói là cố ý bao che đối với các lãnh đạo Bộ Y tế trong vụ VN Pharma, vụ biệt phủ Yên Bái v.v... là những ví dụ khẳng định điều đó.

Đó là chưa kể đến những chuyện khuất tất (có thể có) của ông Tổng Bí thư "đáng kính" như đã nói đến ở trên.

Ngày 18 tháng 10 năm 2017

17 tháng 10, 2017

Tại sao nhà cầm quyền VN muốn cắt đứt quan hệ Đức-Việt?


Theo dõi vụ nhà cầm quyền VN ngang nhiên phạm pháp tại một quốc gia giữ vai trò chủ chốt trong khối Âu Châu, và nhất là cách phạm pháp, thì phải hiểu là nhà cầm quyền VN cố tình gây thế bắt buộc, để Đức phải cắt quan hệ với Việt Nam. Nếu có câu hỏi thì là câu hỏi tại sao những người đang cầm quyền tại Việt Nam lại muốn cắt con đường sống hiếm hoi còn lại của đất nước, như thể đẩy chính mình xuống vực thẳm? Và tại sao lại vương vãi vết tích vào tận toà đại sứ VN, trả xe thuê mà cố tình không chùi rửa vết máu, không vứt lọ thuốc xịt gây mê v.v...?

Chỉ có một giải đáp duy nhất là nhà cầm quyền VN hiện nay có thể gồm những người mang quốc tịch Việt Nam nhưng thực ra là những người Trung quốc.

Xin kính mời tất cả những người Việt Nam có suy nghĩ hãy tạm dừng sự mổ xẻ chi tiết cả ngàn vấn nạn lớn nhỏ hiện nay hay trong qúa khứ tại Việt Nam, để đầu óc bớt rồi bời, để có thể chú tâm trực diện hai hiện tượng quan trọng đã nổi lên bề mặt:

1/ Trung cộng đã nắm vững ảnh hưởng kinh tế tại Việt Nam và không dấu diếm quyền hạn định hướng những quyết định của nhà cầm quyền VN. Với sự ra đi của Mỹ và Âu Châu, thì họ sẽ đạt được tình trạng "một mình một chợ"

2/ Quan hệ Đức-Việt đã bị đóng băng. Cùng với Đức là khối Âu Châu. 

Sau khi Mỹ rơi vào tình trạng thu mình trong những vấn đề nội bộ, và tiếp tục mất sức vì Bắc Hàn (với Trung Cộng sau lưng) và Syria (dưới ảnh hưởng của Nga, Iran, Trung Cộng). Đừng nhầm một vài động thái của Mỹ tại Biển Đông với quan tâm của Mỹ về vận mạng đất nước và dân tộc Việt nam.

Tại sao cả dân tộc Việt Nam không chống cự?

Vì không nhìn thấy mình đã bị giặc ngoại xâm chiếm đóng!

Nếu nhìn những lực lượng cả chục, trăm ngàn dân chúng tham dự những cuộc biểu tình các nơi trên thế giới khi xã hội, quốc gia họ có vấn đề, thì phải coi như đại đa số dân Việt không hiểu những gì đang và tiếp tục sẽ đến với chính bản thân mình cùng gia đình mình, nên không phản ứng.

Nhà cầm quyền VN không phải là nhà cầm quyền độc tài, tham nhũng, hại dân hại nước duy nhất trên thế giới, không phải là nhà cầm quyền duy nhất đàn áp biểu tình, bắt bớ những người tranh đấu cho nhân quyền và dân quyền, và ngay cả bằng chứng là khi con số người dân có hiểu biết và dám ra mặt chống lại những tệ nạn chỉ cần lên tới vài trăm, vài ngàn, ngay tại VN, thì giới cầm quyền cũng không thể thẳng thừng đàn áp. Do đó cái cớ sợ bị đàn áp, sợ bị bỏ tù, không phải là lý do chính tại sao dân Việt không nghĩ tới cần tự bảo vệ.

Tự vệ bằng cách chạy trốn hoặc đánh lại

Không tự vệ không phải vì hèn. Ù lì, cầu an, là bản tính bình thường của con người không phân biệt màu da, giới tính, tuổi tác. Ù lì và cầu an có thể cho con người sức chịu đựng bền bỉ vô hạn. Phản ứng tự vệ chỉ có, khi con người phải trực tiếp đối phó sự hiểm nguy có thể đưa tới cái chết. Tự vệ bằng cách chạy trốn hoặc đánh lại. Chỉ có cái chết trước mắt mới làm cho con người không tính toán lời lỗ, không có thì giờ để sợ sệt, không còn ước lượng mình có đủ sức hay không, mà phải cấp tốc hành động. 

Mặc dù mọi hành động đều cần phải có sự hiểu biết, đánh giá tình hình, tổ chức v.v... để đưa tới thành công, nhưng điều kiện phải có và đầu tiên là quyết định của mỗi người dân, "cần phải hành động", và "hành động là giải pháp duy nhất". 

Làm sao để mỗi người Việt trực tiếp nhìn thấy hiểm nguy?

Đã có và sẽ có những nhà tranh đấu trả lời "nâng cao dân trí". Câu trả lời đúng vô cùng và cũng mơ hồ không kém. 

Dân trí phải cao bao nhiêu để dân Việt Nam nhìn thấy ngoại bang đã nắm vận mệnh dân tộc mình và đang hủy hoại nòi giống Việt? Tại sao cách đây cả trăm năm, dân tộc Việt đã biết phải liều chết đánh đuổi thực dân Pháp, mà ngày hôm nay với bao văn minh tiến bộ, lại không có hành động thực tiễn gì để trừ khử giặc ngoại xâm đại Hán? Dân Việt ngày nay giỏi vô cùng về mặt cắt nghĩa: tại, bởi, vì, rằng, do... đó là những chữ được nhanh nhẹn xử dụng nhất để cắt nghĩa loanh quanh, và thủ phạm thì chỉ có duy nhất nhà cầm quyền cộng sản VN hiện tại. Nhưng chẳng lẽ nhà cầm quyền thời Pháp thuộc lại còn ít độc tài và ít tàn ác hơn nhà cầm quyền VN hiện nay? Do đó dám chống nhà cầm quyền Pháp mà không dám chống nhà cầm quyền VN đương thời? Hay tại nhìn người Pháp thì biết là ngoại quốc còn nhìn người da vàng mũi tẹt thì chắc mẩm là Việt Nam? Không nhìn thấy hiểm nguy sát bên mình nên không cần, không thể phản ứng?

Như vậy điều người dân cần là tin tức ngắn gọn và chính xác?

Giấc mơ của những quốc gia muốn giúp Việt Nam xây dựng Dân chủ-Tự do

Không những người dân VN mà cả những chính phủ các quốc gia bạn thật tình muốn Việt Nam vững mạnh (để sự trao đổi mang lợi ích đến người dân cả đôi bên) đều cần tin tức chính xác.

Những quốc gia bạn cứ phải đóng vai những ông quan Toà không thực lực để những người VN chạy đến kêu khóc, "mách" những khi bị đàn áp, mà cũng không cần biết có hiệu quả gì hay không. Đôi khi theo dõi cách phía "kêu cứu"chạy lăng xăng khi xảy chuyện, hay đọc những bài báo cáo về những vụ đàn áp do nhà nước cộng sản VN, không đầu không đuôi không đủ chi tiết, mới hiểu cái không thực lực của quốc gia bạn bắt đầu từ chỗ họ không có tin tức chính xác và không được hỗ trợ thường trực bằng những tin tức chính xác. Và họ cũng không rõ người kêu cứu chờ đợi điều gì, có nằm trong khả năng của họ hay không? (1)

Đổ lỗi cho các báo "lề phải" do nhà cầm quyền định hướng, nhưng tình trạng hiện nay của các báo "lề trái" là có qúa nhiều những bài bình luận những việc ít quan trọng hoặc ảo, và "bình luận của bình luận", trong khi những bài đăng tin về cuộc sống thật, lại quá ít hay không có. Người viết bình luận thì viết theo sự suy nghĩ của mình, có thể bớt được sự ấm ức của mình mà không cần để ý ai đọc và ai hiểu. Người đưa tin thì phải mô tả những gì xảy ra trong cuộc sống thực, phải rõ ràng mạch lạc, phải lưu tâm đến khả năng hiểu của người nhận tin và làm sao để tin đến tay người nhận. Thí dụ mong đưa tin đến người bình dân mà chỉ luẩn quẩn trong giới trí thức, mong đưa tin đến quốc tế mà chỉ viết bằng tiếng Việt, thì mục đích không thể đạt được.

Lẽ dĩ nhiên không phải muốn đi tới cực Bắc là tới liền, nhưng trước hết là phải đi đúng hướng. Hành động "nhộn nhịp" mà không rõ mục tiêu từng bước, nhất định không đưa tới đâu hết.


Cho tới hôm nay, không có một danh sách đứng đắn nào, dù không hoàn hảo, về những vùng đất Việt Nam nằm trong tay Trung Cộng, không có một danh sách đứng đắn nào về những trung tâm thương mại, nhà máy của Trung Cộng tại Việt Nam, không có một danh sách những tỉnh, huyện, làng, xã, số nạn nhân và gia đình bị nạn ô nhiễm môi sinh do Formosa gây ra.

Chính phủ Đức đang mong đợi nhận được danh sách những vụ tham nhũng đang xảy ra tại VN, đang làm dân thêm kiệt quệ, trong khi chương trình bài trừ tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng chỉ rắp tâm nhắm tới ông Trịnh xuân Thanh và đồng bọn, bắt cóc người tại thủ đô của nước Đức rồi kêu rêu Đức không ủng hộ họ bài trừ tham nhũng.

Xin người Việt hãy giúp chính phủ Đức giúp VN bài trừ tham nhũng thiết thực ngay trong hiện tại. Luôn tiện vạch mặt âm mưu của những tên đại Hán mang quốc tịch Việt Nam.

Thục Quyên

HN
Works at Làm tự do
Ông Các Mác nói :Một nhạc sỹ vĩ cầm có thể độc tấu, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng .Nhân Dân như một cánh đồng cỏ khô, nhưng không có người bật que diêm để châm lửa thì mãi vẫn là đồng cỏ khô.Hiện nay ở ta chỉ có người nói, người lý luận, nhưng chưa có người biết tổ chức tập hợp quần chúng. Tất cả các cuộc cách mạng ( thay cũ đổi mới ) đều phải cần một thủ lĩnh và bộ tham mưu của họ. Tầng lớp thống trị không bao giờ tự nguyện từ bỏ quyền thống trị của nó. Những bài báo mạng như thế này cũng chỉ tác động được đến số rất ít người đọc, vì đa số Nhân Dân không tiếp cận được bằng vi tính và điện thoại di động.
LikeReplyJust now

16 tháng 10, 2017

Vì sao tôn thờ “thánh thần” trong chính trị lại vô cùng nguy hiểm?


Thomas Carlyle từng viết, như một loại cảm tính chung, “lịch sử thế giới chẳng qua chỉ là các bản hồi ký của những con người vĩ đại”.
Lăng mộ cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, nằm trong trung tâm chính trị Ba Đình, Hà Nội. Ảnh: Zing.vn

Tuy thuyết “cá nhân vĩ đại” đã không còn là trào lưu của giới học thuật, nhưng nó vẫn chưa bị xóa khỏi cảm quan chính trị mang đầy tính bản năng của chúng ta. Và khuynh hướng này, không chỉ xuất hiện trong phe bảo thủ.

Đúng thế, thần thánh hóa một ông Churchill hay một ông Reagan sẽ thường trỗi dậy từ lòng hoài niệm về một thời quá khứ mộc mạc xa xôi. Đó là thời mà trẻ con không biết cãi lại bố mẹ, và con người hình như là còn biết phân biệt giữa Thiện và Ác.

Nhưng nỗi ám ảnh phải tìm kiếm và tạo dựng nên các vị “thần tiên” trong chính trị vốn không phân biệt ranh giới giữa các hệ phái tư tưởng. Mà thật ra, mỗi một chúng ta đều đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các câu chuyện tưởng tượng của lịch sử thế giới cận đại.

Nỗi ám ảnh này được thể hiện qua kiểu tư duy vẩn vơ, đại loại như: Nếu Lincoln không bị ám sát chết năm 1865 thì mọi việc sẽ trở nên như thế nào? Nếu Thomas Paine đã chẳng gặp Benjamin Franklin và ở lại Anh Quốc thay vì dọn đến Philadelphia thì sao? Nếu Bernie Sanders là ứng cử viên của đảng Dân chủ năm 206 thì điều gì sẽ xảy ra? v.v. và v.v.

Quan trọng hơn, những mẩu chuyện cá nhân thường kể cho chúng ta nhiều điều về lịch sử hơn là các nghiên cứu vĩ đại mang đầy tính học thuật.

Chẳng có mấy quyển sách có thể làm sáng tỏ những vết thương và các mâu thuẫn của xã hội Hoa Kỳ sắc bén cho bằng Hồi ký của Malcom X. Chúng ta sẽ không thể nào hiểu hết được chính sách Kinh tế Mới của Tổng thống Franklin Roosevelt nếu không đọc về nhà hoạt động – sau trở thành Bộ trưởng Bộ Lao động – Frances Perkins. Và chỉ có cuộc đời của Dolores Huerta mới đủ sức để miêu tả đầy đủ và dữ dội cuộc đấu tranh khắp cả nước Hoa Kỳ của cộng đồng người Mỹ gốc La tinh.

Di sản của những cá nhân luôn được tôn thờ trong tháp ngà nên khó mà bị lãng quên. Khi còn sống, họ đạt được vị trí vững vàng bởi những vinh danh thành tựu trọn đời, các giải thưởng cao quý như giải Nobel. Lúc chết đi, họ được suy tôn bằng tượng đài, thi ca, âm nhạc, và các bộ hồi ký.

Nhưng khuynh hướng này thì có sai không, vì sao?

Câu trả lời ngắn gọn là có, và có lẽ là đối với những người của phe cánh tả, thì có hai lý do.

Trước hết, khi một phong trào chính trị bị cá nhân hóa, thì vai trò của hành động tập thể sẽ bị bỏ qua.

Tinh giản công cuộc đấu tranh cho dân quyền trở thành cuộc cách mạng cá nhân của Martin Luther King hay Rosa Parks – tuy nhìn nhận đúng đắn lòng quả cảm và trí tuệ tột bực của những vị này – sẽ khiến xã hội quên đi hàng nghìn nhà hoạt động đã đấu tranh dai dẳng mỗi ngày, trong suốt thời kỳ mà các đạo luật kỳ thị Jim Crow thống trị nước Mỹ.

Tương tự như thế, Noam Chomsky và Howard Zinn có lẽ là những nhân tố quan trọng để thấu hiểu phong trào phản đối Cuộc chiến Việt Nam. Nhưng chúng ta sẽ không có được bức tranh toàn cảnh nếu bỏ qua những thảo luận về hàng nghìn chiến sĩ của câu chuyện “Quiet Mutiny” đã chống đối lại việc bắt lính ra sao.

Chính cái giây phút mà chúng ta nâng cao các vị anh thư, anh hùng của một phong trào, thì đó cũng là lúc mà chúng ta mất đi phương hướng của hành động tập thể. Mà chỉ những hành động tập thể mới có thể nắn hình các thay đổi xã hội một cách triệt để.

Thứ hai, nếu chúng ta muốn tìm kiếm một vị trí đúng đắn cho những câu chuyện cá nhân trong tư duy chính trị của mình, thì chúng ta cần nhìn những thần tượng – đặc biệt là những kẻ có ảnh hưởng quyền lực – qua lăng kính phản biện. Đó là vì chính trị vốn vô cùng phức tạp, và thành công trong chính trị thông thường đòi hỏi một sự kết hợp không dễ chịu giữa nguyên tắc và mưu mô.

Lãnh đạo bất kỳ phong trào chính trị nào cũng là một công việc vô cùng khó khăn. Nếu mục tiêu là giải phóng dân tộc, một người sẽ có trách nhiệm đoàn kết hàng triệu con người với những mục đích rất thực tế mà cũng rất khác biệt nhau. Nếu đó là một cuộc cách mạng xã hội, thì người lãnh đạo phải tìm cách lật đổ cả một hệ thống giai cấp hiện hành.

Tất cả những bước tiến của các công cuộc đấu tranh đòi hỏi một phạm vi rất rộng lớn cho các kỹ năng chính trị – và không phải chỉ bao gồm những đức tính “cao quý”. Nguyên tắc vững vàng, lòng can đảm, cùng kỹ năng hùng biện không phải lúc nào cũng giúp cho một lãnh đạo tiến được xa, nếu họ không chịu thỏa hiệp một ít, giả dối một chút, và đôi khi là thẳng thừng lừa đảo người khác.

Thế nhưng, cứ mỗi khi một nhà lãnh đạo tươi mới xuất hiện và truyền cho chúng ta cảm hứng, là chúng ta lập tức quên bén đi bài học này.
Người ủng hộ vây quanh Aung San Suu Kyi trong một chiến dịch kêu gọi người dân Myanmar bỏ phiếu cho NLD. Ảnh: EPA
Bà Aung San Suu Kyi của Burma là một ví dụ tốt.

Chỉ như mới là hôm qua, hình ảnh của bà đã ngập tràn trên các áo phông có hàng chữ “Tự do”, là chủ nhân của giải thưởng cao quý, và được cả phổ quang chính trị Tây phương tôn vinh. Thế mà giờ đây, trên tít đầu của các trang xã luận nơi nơi là những tiêu đề về bà theo kiểu “Khôi nguyên nhục nhã” và là kẻ “đồng lõa của các tội ác chống lại nhân loại”.

Việc bà Suu Kyi từ chối lên án các cuộc tàn sát đẫm máu những ngôi làng của người Rohingya của quân đội Burma cộng với việc các tổ chức quốc tế bôi đen hình ảnh của bà bằng các chứng cứ về những hành vi tàn bạo của quân đội – đã chính thức hủy diệt toàn bộ hình ảnh thần thánh của bà ta trên toàn thế giới.

Bà Aung San Suu Kyi có lẽ là một ví dụ cực đoan, nhưng nó lại có tính minh họa vô cùng tốt.

Là một người tin vào chủ nghĩa dân tộc như người cha anh hùng của mình, Suu Kyi trở thành biểu tượng trang nghiêm cho lực lượng đối lập chống lại chế độ độc tài quân đội. Trong 15 năm bị quản chế, bà là một “tù nhân lương tâm” mẫu mực. Sau khi được trả tự do, bà được thăng ngay lên làm lãnh đạo không chính thức của lực lượng dân sự ở Burma, nhưng lập tức phải đối mặt với câu hỏi ngày một cấp bách tại đây: làm sao xây dựng một dân tộc đoàn kết?

Anh bạn Thomas Abbasi của tôi đã viết về bà Suu Kyi như thế này trên Facebook: “Bà ấy có vẻ đã tính toán rất kỹ rồi mới quyết định rằng ‘quăng bỏ’ người Rohinya là xứng đáng, để tiếp tục được quân đội, tăng lữ, và cả đám đông cuồng nhiệt ủng hộ. Chúng ta cảm thấy thất vọng và đau khổ là bởi vì chúng ta đã đặt quá nhiều hy vọng vào một mình bà ta, nhưng lại thiếu hiểu biết đầy đủ về tình hình phức tạp của đất nước Burma”.

Khi luôn phải đối mặt với căn tính phản bội và thói vô sỉ – là hai yếu tố định nghĩa cho “chính trị” ở mỗi quốc gia – thì rất tự nhiên, chúng ta thường tìm kiếm những người như Aung San Suu Kyi.  Những người mà hình như là đã vượt lên trên tất cả các điều tầm thường của con người.

Và rồi điều này đã khiến cho chúng ta quên đi việc phải tự nạp cho bản thân vài liều thuốc hoài nghi mỗi ngày. Từ đó, chúng ta phớt lờ các khiếm khuyết, bao biện cho những hành vi thể hiện quyền lực, và lý giải cho những chiêu trò dơ bẩn.
Tượng đồng cao 22 mét của Kim Il Song (Kim Nhật Thành) ở Pyongyang (Bình Nhưỡng) – Bắc Hành. Ảnh: Alamy Stock.

Rồi khi nhìn vào những nhân vật lịch sử mà bản thân yêu mến, thì bản năng phản biện của chúng ta lại càng suy giảm. Hãy thử nghĩ lại xem, chúng ta có thường xuyên sử dụng thuyết “con người của thời đại” để bao biện cho họ hay không?

Những người ủng hộ tiếp tục vinh danh các tượng đồng của phe Liên minh miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã dùng lập luận này để biện hộ cho tướng Robert E. Lee. Ừ, thì ông ấy đã từng dùng roi mà quất vào nô lệ rồi đổ nước muối và vết thương của họ. Nhưng vào thời ấy thì ai mà không hành xử như thế – còn giờ đây chúng tôi chỉ muốn tôn vinh việc ông ta “đã đầu hàng như một quý ông” khi nội chiến sắp kết thúc mà thôi.

Những nỗ lực che dấu những điều xấu xí về các nhân vật lịch sử không phải là lỗi lầm chỉ có phe truyền thông bảo thủ như National Review thường phạm. Trong một vài khía cạnh, thì phe cấp tiến cánh tả lại phạm phải lỗi này còn thường xuyên hơn.

Trên hết, họ thường lẩn trốn sự thật về phong trào cấp tiến của thế kỷ 20 tại Mỹ. Chính cái phong trào ấy đã luôn thỏa hiệp với những kẻ cuồng chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Và ngay cả những người lãnh đạo phong trào cũng luôn dỗ dành các phe nhóm kỳ thị chủng tộc vào bậc nhất trong đảng Dân chủ.

C. Vann Woodwar đã chỉ ra điều này trong cuốn Sự nghiệp kỳ quái của Jim Crow (The Strange Career of Jim Crow) của mình. Chủ nghĩa cấp tiến hiện đại (modern progressive) dựa trên đa nguyên kinh tế và chống lại quyền lực của giới tài phiệt – vốn chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn với các đạo luật kỳ thị người da màu Jim Crow.

Mà nói đúng ra, những người tôn sùng chính sách Kinh tế Mới của Tổng thống Roosevelt vốn là những kẻ tuyệt đối tin vào chế độ phân biệt chủng tộc. Trong số đó có Thống đốc Alabama George Wallace – người đã từng rất nổi bật trong kỳ bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ năm 1972. Một thập niên trước đó, Wallace đã sẵn sàng đọc bài diễn văn nhậm chức thống đốc được chắp bút bởi một thành viên của tổ chức phân biệt chủng tộc khét tiếng, Ku Klux Klan.

Những kẻ như Wallace trong thời gian gần đây đang bị xóa khỏi ký ức tập thể của những người Mỹ cấp tiến. Nhưng Tổng thống Franklin Roosevelt thì vẫn có một vị trí trang trọng trong “ngôi đền các vị thần”, cao hơn tất cả những thánh thần chính trị khác.

Mark Lilla từng kết luận rằng, bài diễn văn năm 1941 – “Bốn thể loại Tự do” – của Roosevelt đã khắc họa đậm nét và nhắc nhở mọi người về “những nền tảng của chủ nghĩa tự do hiện đại Mỹ”. Thomas Frank thì phê phán nghiêm khắc đảng Dân chủ ngày nay đã lìa xa những di sản mà Roosevelt để lại, và đó cũng là quan điểm của Bernie Sanders.

Nhưng đây cũng chính là cùng một ông tổng thống Roosevelt, người đã tống hơn 120.000 người Mỹ gốc Nhật vào các trại tập trung, từ chối ủng hộ các đạo luật nghiêm trị tội treo cổ người da đen bất hợp pháp “lynching” vì e ngại sẽ bị mất phiếu cử tri đoàn. Cũng chính là cùng một vị tổng thống đã dành tặng lời khen – thậm chí là còn ít ỏi hơn cả Adolf Hitler – cho vận động viên người Mỹ gốc Phi châu Jesse Owens khi ông này dành được bốn huy chương vàng ở Thế vận hội Olympics Berlin năm 1936.

Tất cả những chương trình xã hội của chính sách Kinh tế Mới của Roosevelt đã được đo ni đóng giày cho nền chính trị ngập ngụa trong tinh thần kỳ thị chủng tộc của phe đảng Dân chủ miền Nam Hoa Kỳ.

“Những kẻ phân biệt chủng tộc sẵn sàng ủng hộ Cơ quan liên bang TVA – Tennessee Valley Authority – nhưng với điều kiện chỉ có các cộng đồng người Mỹ da trắng là nhận được nguồn điện giá rẻ từ TVA. Tương tự, người Mỹ gốc Phi bị gạt ra khỏi các chính sách lương tối thiểu và phúc lợi dành cho những người lao động ở nông thôn và người giúp việc.”

Từ trái sang phải, ba nhân vật lịch sử gây tranh cãi của thế kỷ 20, Winston Churchill, Franklin Roosevelt, và Joseph Stalin.Ảnh: Biography.com.
Cái giá của sự thật

Sự thật rất quý báu vì nó giúp chúng ta học được nhiều bài học phức tạp hơn từ quá khứ. Một bản đánh giá toàn vẹn về Roosevelt sẽ nói lên được những mối nguy hại khi chỉ cổ xúy công bằng xã hội mà chậm trễ thúc đẩy công bằng chủng tộc.

Một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Lincoln sẽ không chỉ bóc trần được hình ảnh của một con người, không phải là hiện thân của Thượng đế, và là một kẻ “Giải phóng vĩ đại” chuyên tâm – mà chính là quá trình làm điều này sẽ mang lại cho nhận thức đang dần thay đổi của chúng ta một bài học vô giá.

Nếu mục đích của chúng ta là học hỏi từ những con người mà bằng một cách nào đó, đã vượt lên trước thời đại của họ, thì chúng ta càng nên đối xử với họ như những con người bình thường.

Nếu họ là những kẻ mang trên mình quyền lực chính trị, thì nếu giả định là họ đã làm ra những hành vi vô đạo đức ở tại một thời điểm nào đó – thì chúng ta cần phán xét là họ có tội cho đến khi họ chứng minh rằng bản thân vô tội. Lòng hoài nghi là cần thiết, và nó hoàn toàn khác với thói đa nghi. Bởi vì chỉ có lòng hoài nghi mới có thể giúp chúng ta thật sự trân trọng những nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại – bằng việc biến họ trở lại thành những con người.

Không cần biết một cá nhân đã đạt được những thành tựu to lớn đến mức nào đi nữa, thì họ vẫn có những khiếm khuyết nhất định. Những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử không đến từ bất kỳ một người nào, mà đến từ sức mạnh của tập thể – những phong trào công đoàn, nữ quyền, phản chiến, đòi quyền bầu cử.

Cho dù vô cùng tri ân những cá nhân lãnh đạo đã hướng dẫn và trợ giúp người dân trong các cuộc đấu tranh lịch sử, chúng ta không thể để vinh quang hào nhoáng của họ làm lu mờ đi hàng triệu con người khác – những người đã hy sinh mỗi ngày, chiến đấu trong muôn vàn cuộc đối đầu để đạt được rất nhiều thắng lợi.

Tôi nghĩ không có ai có thể nói lên hết ý này hay và sâu sắc cho bằng người đã từng đại diện đảng Xã hội Chủ nghĩa Mỹ đi tranh cử tổng thống năm lần, nhà hoạt động công đoàn Eugene Debs:

“Tôi không muốn bạn đi theo tôi hay đi theo bất kỳ ai khác. Nếu bạn đang tìm kiếm một ông Thánh Moses dẫn dắt bạn rời khỏi vùng đất tư bản hoang dã này, thì bạn hãy cứ ở yên đấy. 

Tôi sẽ không dẫn bạn tiến vào Miền đất hứa ngay cả khi tôi có thể làm điều ấy, vì nếu tôi đưa bạn vào – thì một ngày nào đó – một kẻ khác cũng có thể dắt bạn ra khỏi đó”.

Harry Blain

Quỳnh Vi lược dịch từ The dangers of political sainthood của tác giả Harry Blain, nghiên cứu sinh Khoa học Chính trị tại Đại học New York City. 

(Luật Khoa)

Ông Trọng muốn ‘trở về đảng Lao Động’ hay ‘đổi mới lần 2?’


Những dấu hiệu mới

Liên tiếp trong hai Tháng Tám và Tháng Chín, 2017, đã xuất hiện những dấu hiệu rõ ràng hơn về yêu sách “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động” trong đời sống chính trị ở Việt Nam.

Giáo Sư Tương Lai. (Hình: VOA)
Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện từ ông Tương Lai ở Sài Gòn với lá thư với đại ý “cắt đứt quan hệ với đảng do Nguyễn Phú Trọng thao túng” để quay về “đảng Hồ Chí Minh.”

Trong biên niên sử Cộng Sản Việt Nam, “đảng Hồ Chí Minh” được hiểu là đảng Lao Động.

Dấu hiệu thứ hai xuất hiện từ ông Nguyễn Trung ở Hà Nội với một bản kiến nghị, trong đó có nội dung “trở về tên đảng Lao Động.”

Cả hai ông Tương Lai và Nguyễn Trung đều là đảng viên, cựu quan chức, nhưng quan trọng nhất đã gặp nhau ở ý tưởng “trở về tên đảng Lao Động.”

Giả thử đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động, tên nước cũng vì thế có khả năng đổi: từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhu cầu tập thể

Lá thư của ông Tương Lai và bản kiến nghị của ông Nguyễn Trung xuất hiện trong bối cảnh vừa âm ỉ, vừa râm ran dư luận về khả năng có thể hình thành thể chế “đảng trong đảng” ở Việt Nam.

Từ năm 2016, đã xuất hiện những cuộc trao đổi bán công khai trong giới quan chức cao cấp hưu trí và giới trí thức “phản biện trung thành” về khả năng đổi tên đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động như trong quá khứ xa. Hoặc có thể “tách đảng” thành hai – vừa đảng Cộng Sản vừa đảng Lao Động trong tương lai gần.

Từ trước Tết Nguyên Đán, 2017, lại râm ran dư luận trong giới “phản biện trung thành” về khả năng có thể đề nghị hình thành thể chế “đảng trong đảng,” nhưng với một cái tên mới hoàn toàn cho đảng cầm quyền.

Vào Tháng Năm, 2017, có tin một nhóm cán bộ cao cấp ở miền Nam đã ra Hà Nội gặp Tổng Bí Thư Trọng để đưa ra đề nghị “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động.” Nhưng không nghe ông Trọng trả lời trả vốn gì.

Có thể thấy, yêu cầu “trở về tên đảng Lao Động” từ một số năm qua và đặc biệt gần đây đã không còn là ý tưởng của một ít cá nhân, mà đã trở thành quan điểm mang tính tập thể của một số trí thức, cựu quan chức và có thể cả quan chức.

Vì sao “trở về đảng Lao Động”?

“Bế tắc” đang là từ ngữ không còn lấp ló nơi cửa miệng của giới quan chức, mà đã được một số quan chức can đảm và bạo miệng nhất nói ra hoặc thốt ra.

Nguồn gốc của căn bệnh quá trầm kha, rốt cuộc được cho rằng chủ yếu do cơ chế một đảng gây ra. Cho đến giờ này, chống tham nhũng đã trở nên vô phương ở Việt Nam. Độc đảng chính là nguồn cơn sinh ra quốc nạn tham nhũng.

Chỉ còn cách đa đảng thì may ra mới cứu vãn được dân tộc, người nghèo và đương nhiên cứu cả giới quan chức đương chức lẫn về hưu.

Nhưng không chỉ giới trí thức phản ứng đối với ý thức hệ giáo điều của đảng Cộng Sản, tự thân “khủng hoảng nội bộ” cũng góp phần đẻ ra nhu cầu hướng đến đa đảng.

Sau Đại Hội 12 vào đầu năm 2016, những nhóm quyền lực cũ và mới song song tồn tại và sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều. Nhưng cốt tử hơn, những nhóm này – trong mối kết nối chặt chẽ với các nhóm lợi ích cũ và mới – đang ngày càng nhận ra tương lai hoàn toàn bế tắc nếu cứ cắm đầu tuân theo những bản nghị quyết vô hồn về “chủ nghĩa xã hội” hoặc “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Một trong những lý do đơn giản nhất là ngày càng lo sợ sự bùng nổ phản kháng và hành động trả thù của dân chúng, đặc biệt từ những người dân đã bị biến thành nạn nhân khốn cùng của chế độ. Một bài toán rất thực tế: giới quan chức tìm đâu ra lối thoát chính trị và lối thoát sinh mạng ở Việt Nam và cả trên “trường quốc tế,” trong khi tài sản và thân nhân của họ đã hiện diện ở khắp các nơi – Mỹ, Canada, Úc, Tây Âu…?

Nhưng một người cực kỳ bảo thủ như Nguyễn Phú Trọng liệu có chấp nhận yêu cầu “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động”?

“Đổi mới lần 2?”

Chưa có tín hiệu nào cho thấy ông Trọng đồng ý với yêu cầu “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động.” Bằng chứng là sau khá nhiều thư kiến nghị của “Nhóm 61” – bao gồm các đảng viên lớn tuổi – về nhiều vấn đề cải cách trong đảng và dân chủ hóa đất nước, ông Trọng và toàn bộ Bộ Chính Trị của ông vẫn tuyệt đối không một hồi âm.

Ngược lại là đằng khác, vị tổng bí thư này vẫn khăng khăng lặp lại không biết chán về “chủ nghĩa xã hội” và “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,” dù về sau này ông ta có bổ sung thêm từ “thể chế” trước nền kinh tế chẳng ai biết ra làm sao ấy.

Trên một phương diện khá khác biệt với yêu cầu đổi tên đảng, Tổng Bí Thư Trọng ngày càng bộc lộ rõ quan điểm muốn tiến hành “đổi mới lần 2.”

Tuy đã được dư luận trong nội bộ đảng đề cập không ít, nhưng từ “đổi mới” chỉ xuất hiện vào những ngày gần đây, tuy không hoặc chưa thấy phụ từ “lần 2” gắn kèm. Không phải là cựu tổng bí thư Đỗ Mười, cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh hay “Lão Răng Chắc” Nông Đức Mạnh, mà vào lần này người ta thấy cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu xuất hiện với tần suất khá dày trên mặt báo chí nhà nước với tinh thần “không còn đường lùi” và ủng hộ nhiệt thành chủ trương chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng.

Có vẻ đã hình thành “trục” Nguyễn Phú Trọng – Lê Khả Phiêu.

Cũng đang dần đầy đặn những dấu hiệu cho thấy Nguyễn Phú Trọng đang đi theo lộ trình “đổi mới lần 1” của cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh ba chục năm về trước.

Và không loại trừ tâm thế của ông Trọng muốn trở thành “Nguyễn Văn Linh thứ hai.”

Ba chục năm trước – năm 1986 – Nguyễn Văn linh đã khởi sự “đổi mới lần 2” bằng loạt bài viết trên báo đảng Nhân Dân về “Những việc cần làm ngay.” Ba chục năm sau – năm 2016 – Nguyễn Phú Trọng cũng lặp lại “Việc cần làm ngay” mà mốc khởi điểm của việc này là nhắm vào vụ việc Trịnh Xuân Thanh – kẻ mà về sau này đã gây ra bao nỗi khó nhọc lẫn chua xót cho đương kim tổng bí thư.

Nhưng “việc cần làm ngay” và “đổi mới lần 2’ của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ đi đến đâu?

Tương lai thất bại

Quá khó để hình dung ra đoạn đường, những trạm dừng chân và cái đích cuối cùng mà ông Trọng sẽ đạt được. Khác quá nhiều với thời Nguyễn Văn Linh vẫn chủ yếu mang tư tưởng “lợi ích cào bằng” và tham nhũng chủ yếu thể hiện bởi thói tham ô vặt, giờ đây Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một bức tường khổng lồ của giới quan chức tham nhũng, cùng mức độ tham nhũng gấp ngàn vạn lần thời “những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn Linh.

Vẫn chẳng có dấu hiệu rõ nét nào cho thấy ông Trọng đã nhận ra độc đảng là nguồn cơn chính yếu dẫn đến tham nhũng và biến tham nhũng thành vô phương cứu chữa, biến chiến dịch “chống tham nhũng” của ông thành một cuộc tỉa ngọn mãi mãi rồi đâu lại vào đó.

Có nhiều bằng chứng về sự thất bại đã đến, đang đến và sẽ đến của Tổng Bí Thư Trọng.

Sau Đại Hội 12 khi ông Trọng đã trở thành “một mình một ngựa” trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương, cho tới nay các cơ quan đảng và cơ quan tư pháp vẫn chỉ đều đặn báo cáo “chỉ phát hiện 5 trường hợp kê khai không trung thực trong số 1 triệu công chức viên chức tiến hành kê khai tài sản.” Người dân nào cũng biết đó là một dối trá vĩ đại, nhưng càng vĩ đại hơn với những quan chức biết chấp nhận sự dối trá đó!

Vào Tháng Năm, 2017, Tổng Bí Thư Trọng lần đầu tiên dám phát động chủ trương “kiểm tra tài sản 1000 cán bộ” và được báo đảng hò reo. Thế nhưng cho tới nay, hầu như không còn ai nhắc đến chủ trương này, và cũng chẳng có dấu hiệu nào cho thấy chủ trương này còn tồn tại hay ít nhất sẽ đạt được một kết quả “diệt ruồi” nào đó. Chỉ một biệt phủ của Giám Đốc Sở Tài Nguyên Môi Trường Yên Bái Phạm Sỹ Quý mà ông Trọng còn không “xử” được, chẳng ai tin là ông có thể làm được hơn thế.

Không thể “kiểm tra tài sản 1000 cán bộ,” chiến dịch “chống tham nhũng” của Nguyễn Phú Trọng cũng chẳng còn ý nghĩa gì, dẫn đến “đổi mới lần 2” của ông sẽ trở nên vô vọng. 

Phạm Chí Dũng

13 tháng 10, 2017

VUA SÁM HỐI,’ BỨC DỊ TƯỢNG ĐỘC NHẤT VIỆT NAM
 
 
 
(LocDP sưu tầm)
Bức tượng được sơn son thiếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
Tượng “Phật cưỡi vua” độc nhất vô nhị
 
Một chiều thu lang thang trên những con phố ở Hà Nội, đi ngang qua con phố Hàng Than, thấy chùa Hòe Nhai ngày nào giờ sửa sang lại khang trang quá, cửa chùa để ngỏ, tôi chợt dừng bước ghé chân vào thăm để tìm một chút tĩnh lặng giữa những mớ bộn bề của cuộc sống.
 
buddhism_3
Mặt tiền của chùa Hòe Nhai ở Hà Nội.
 
Từng ngọn gió thu mát rười rượi thổi dọc theo dãy hàng lang đi quanh chùa, lại thêm cảnh vật yên tĩnh, trong lành khiến tâm hồn thư thái đến lạ thường. Đi dạo một vòng quanh chùa, bất ngờ tôi phát hiện ở gian phòng thờ bên trái thượng điện có một bức tượng hết sức kỳ dị thật mà không một ngôi chùa nào khác có được.
Đó là một bức tượng to, được sơn son thếp vàng, tượng tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen đè lên lưng nhà vua.
Đem sự tò mò đến hỏi trụ trì của chùa là hòa thượng Thích Tâm Hoan, tôi mới được hay biết đằng sau bức tượng này là cả một truyền kì dài gắn với tên tuổi của một vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trụ trì Thích Tâm Hoan cho biết: “Bức tượng này là độc nhất vô nhị, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, có bao nhiêu người được chiêm ngưỡng là bấy nhiêu sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên khi được nghe về huyền tích sự ra đời của tượng “vua sám hối”.
 
buddhism_4
 
Nhiều người khi nhìn bức tượng này cho rằng đây là một sự trừng phạt nhưng trái lại, “Dáng quỳ gối phủ phục sát mặt đất của tượng vua thể hiện một sự quy phục tuyệt đối. Đó là sự hối lỗi chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượng ép và do đó đây là một sự nhận lỗi, sửa sai chứ không phải là một sự trừng phạt”, nhà sư Thích Tâm Hoan nói.
“Pho tượng không chỉ là một sự hoài cổ, mà nó là một bài học lưu truyền cho muôn đời sau học tập. Làm người ai cũng phải sửa bỏ thói hư tật xấu thì mới đạt được kết quả tốt. Ai sống trên đời cũng đều mắc sai lầm, nhưng điều quan trọng là phải biết nhìn nhận và sửa sai, để được tha thứ. Khi biết nhận lỗi, những người khác sẽ không đánh giá và quy tội nữa.
Sự ra đời của pho tượng sám hối kỳ lạ
Theo lời của trụ trì Thích Tâm Hoan, thì vào khoảng năm 1670, lúc này Phật giáo đang trong thời kỳ suy sụp, các nhà sư đều điêu đứng vì bị cho rằng sự tồn tại của họ là không có lợi cho xã hội, các tăng ni và phật tử trong chùa đều là những người lười nhác và sống ỉ lại vào sự hảo tâm của mọi người, lãng phí của cải.
Khi vua Lê Hy Tông lên nắm quyền năm 1675 đã ra sắc lệnh đuổi hết sư sãi ở các chùa lên rừng, ai ngoan cố không đi sẽ bị khép vào trọng tội đem ra xử trảm, khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh hơn bao giờ hết trong lịch sử. Chùa triền bỏ hoang, kẻ cắp vào tàn phá, các nhà sư phải bỏ lên rừng, nhiều người không chịu được đói rét lại cởi áo cà sa quay về kiếp phàm trần.
Cùng thời gian này có một vị thiền sư đắc đạo tên Tông Diễn, ông thuộc thế hệ thứ hai của phái Tào Động. Ông được mọi người thời bấy giờ gọi là “tổ cua” vì tương truyền có một lần Tông Diễn mua được một mớ cua mẹ sau đó liền thả hết chúng trở về mương vì khi nhìn thấy chúng sùi bọt ông cho rằng chúng đang than khóc cho số phận của mình.
Nhìn thấy sự đi xuống của Phật giáo và sự khốn khổ của các vị sư, Tông Diễn đã quyết tâm tìm cách trở về kinh thành Thăng Long nơi có vua Lê Hy Tông ngự để ngộ giác tư tưởng nhà Vua, cứu lại niềm tin Phật pháp vô biên.
Vì khi đó vua Lê Hy Tông đang rất kì thị và căm ghét nhà sư nên Tông Diễn phải cải trang sau đó giả vờ dâng tặng nhà vua một viên ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ được viết bằng tâm huyết của Tông Diễn, giúp vua Hy Tông ngộ ra được chân lý của Phật giáo.
Điều mà bức sớ của Tông Diễn muốn nói với vua Hy Tông là ở đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội…
Khi truyền đến tay, vua Hy Tông sau khi đọc hết bức sớ chứa đầy những suy nghĩ đúng đắn của vị thiền sư trong giây lát như bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mộng mị. Nhà vua liền lập tức cho triệu ngay Tông Diễn vào triều, cúi mình tạ lỗi trước nhà sư, sau đó thu hồi sắc lệnh cấm Phật giáo và hứa sẽ sửa mình với Tông Diễn.
Để thể hiện lòng thành, vua cho người tạc bức tượng lớn mà trong đó có hình nhà vua lấy theo mẫu vua Hy Tông đang phủ phục dưới đất cõng trên lưng tượng đức phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi thiền trên đài sen và đặt tên đó là bức tượng “vua sám hối”.
 
buddhism_2
Tượng “vua sám hối” độc nhất vô nhị đã được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
 
Bức tượng do vua Hy Tông sai tạc ngoài việc để sám hối với đức Phật vì hành động “phá đạo” của mình, ông còn muốn tất cả mọi người hãy tự biết tu thân sửa mình để sống tốt hơn, nhất là những quan lại nắm chức, cầm quyền trong tay cũng phải xem lại chính mình. Sự ngự trị trong cõi này còn có một cõi ngự trị siêu hùng ưu việt hơn, đó là lực lượng của trí tuệ, một sự tự thân, của bản thể duy nhất.
 
buddhism
Bức tượng kỳ lạ bí ẩn ở chùa Hòe Nhai, Hà Nội.
 
Như vua Lê Hy Tông, người mang quyền lực tối cao trong một nhà nước đã biết nhận lỗi, sửa lỗi. Sự sám hối này không chỉ cho mình ông, mà còn để răn dạy bao thế hệ về sau nữa”, nhà sư Thích Tâm Hoan chỉ dạy.
Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo. Hiện tượng “vua sám hối” cũng được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
Kinh Vân
(Nguồn: Zing News)