16 tháng 10, 2017

Vì sao tôn thờ “thánh thần” trong chính trị lại vô cùng nguy hiểm?


Thomas Carlyle từng viết, như một loại cảm tính chung, “lịch sử thế giới chẳng qua chỉ là các bản hồi ký của những con người vĩ đại”.
Lăng mộ cố Chủ tịch Hồ Chí Minh, nằm trong trung tâm chính trị Ba Đình, Hà Nội. Ảnh: Zing.vn

Tuy thuyết “cá nhân vĩ đại” đã không còn là trào lưu của giới học thuật, nhưng nó vẫn chưa bị xóa khỏi cảm quan chính trị mang đầy tính bản năng của chúng ta. Và khuynh hướng này, không chỉ xuất hiện trong phe bảo thủ.

Đúng thế, thần thánh hóa một ông Churchill hay một ông Reagan sẽ thường trỗi dậy từ lòng hoài niệm về một thời quá khứ mộc mạc xa xôi. Đó là thời mà trẻ con không biết cãi lại bố mẹ, và con người hình như là còn biết phân biệt giữa Thiện và Ác.

Nhưng nỗi ám ảnh phải tìm kiếm và tạo dựng nên các vị “thần tiên” trong chính trị vốn không phân biệt ranh giới giữa các hệ phái tư tưởng. Mà thật ra, mỗi một chúng ta đều đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các câu chuyện tưởng tượng của lịch sử thế giới cận đại.

Nỗi ám ảnh này được thể hiện qua kiểu tư duy vẩn vơ, đại loại như: Nếu Lincoln không bị ám sát chết năm 1865 thì mọi việc sẽ trở nên như thế nào? Nếu Thomas Paine đã chẳng gặp Benjamin Franklin và ở lại Anh Quốc thay vì dọn đến Philadelphia thì sao? Nếu Bernie Sanders là ứng cử viên của đảng Dân chủ năm 206 thì điều gì sẽ xảy ra? v.v. và v.v.

Quan trọng hơn, những mẩu chuyện cá nhân thường kể cho chúng ta nhiều điều về lịch sử hơn là các nghiên cứu vĩ đại mang đầy tính học thuật.

Chẳng có mấy quyển sách có thể làm sáng tỏ những vết thương và các mâu thuẫn của xã hội Hoa Kỳ sắc bén cho bằng Hồi ký của Malcom X. Chúng ta sẽ không thể nào hiểu hết được chính sách Kinh tế Mới của Tổng thống Franklin Roosevelt nếu không đọc về nhà hoạt động – sau trở thành Bộ trưởng Bộ Lao động – Frances Perkins. Và chỉ có cuộc đời của Dolores Huerta mới đủ sức để miêu tả đầy đủ và dữ dội cuộc đấu tranh khắp cả nước Hoa Kỳ của cộng đồng người Mỹ gốc La tinh.

Di sản của những cá nhân luôn được tôn thờ trong tháp ngà nên khó mà bị lãng quên. Khi còn sống, họ đạt được vị trí vững vàng bởi những vinh danh thành tựu trọn đời, các giải thưởng cao quý như giải Nobel. Lúc chết đi, họ được suy tôn bằng tượng đài, thi ca, âm nhạc, và các bộ hồi ký.

Nhưng khuynh hướng này thì có sai không, vì sao?

Câu trả lời ngắn gọn là có, và có lẽ là đối với những người của phe cánh tả, thì có hai lý do.

Trước hết, khi một phong trào chính trị bị cá nhân hóa, thì vai trò của hành động tập thể sẽ bị bỏ qua.

Tinh giản công cuộc đấu tranh cho dân quyền trở thành cuộc cách mạng cá nhân của Martin Luther King hay Rosa Parks – tuy nhìn nhận đúng đắn lòng quả cảm và trí tuệ tột bực của những vị này – sẽ khiến xã hội quên đi hàng nghìn nhà hoạt động đã đấu tranh dai dẳng mỗi ngày, trong suốt thời kỳ mà các đạo luật kỳ thị Jim Crow thống trị nước Mỹ.

Tương tự như thế, Noam Chomsky và Howard Zinn có lẽ là những nhân tố quan trọng để thấu hiểu phong trào phản đối Cuộc chiến Việt Nam. Nhưng chúng ta sẽ không có được bức tranh toàn cảnh nếu bỏ qua những thảo luận về hàng nghìn chiến sĩ của câu chuyện “Quiet Mutiny” đã chống đối lại việc bắt lính ra sao.

Chính cái giây phút mà chúng ta nâng cao các vị anh thư, anh hùng của một phong trào, thì đó cũng là lúc mà chúng ta mất đi phương hướng của hành động tập thể. Mà chỉ những hành động tập thể mới có thể nắn hình các thay đổi xã hội một cách triệt để.

Thứ hai, nếu chúng ta muốn tìm kiếm một vị trí đúng đắn cho những câu chuyện cá nhân trong tư duy chính trị của mình, thì chúng ta cần nhìn những thần tượng – đặc biệt là những kẻ có ảnh hưởng quyền lực – qua lăng kính phản biện. Đó là vì chính trị vốn vô cùng phức tạp, và thành công trong chính trị thông thường đòi hỏi một sự kết hợp không dễ chịu giữa nguyên tắc và mưu mô.

Lãnh đạo bất kỳ phong trào chính trị nào cũng là một công việc vô cùng khó khăn. Nếu mục tiêu là giải phóng dân tộc, một người sẽ có trách nhiệm đoàn kết hàng triệu con người với những mục đích rất thực tế mà cũng rất khác biệt nhau. Nếu đó là một cuộc cách mạng xã hội, thì người lãnh đạo phải tìm cách lật đổ cả một hệ thống giai cấp hiện hành.

Tất cả những bước tiến của các công cuộc đấu tranh đòi hỏi một phạm vi rất rộng lớn cho các kỹ năng chính trị – và không phải chỉ bao gồm những đức tính “cao quý”. Nguyên tắc vững vàng, lòng can đảm, cùng kỹ năng hùng biện không phải lúc nào cũng giúp cho một lãnh đạo tiến được xa, nếu họ không chịu thỏa hiệp một ít, giả dối một chút, và đôi khi là thẳng thừng lừa đảo người khác.

Thế nhưng, cứ mỗi khi một nhà lãnh đạo tươi mới xuất hiện và truyền cho chúng ta cảm hứng, là chúng ta lập tức quên bén đi bài học này.
Người ủng hộ vây quanh Aung San Suu Kyi trong một chiến dịch kêu gọi người dân Myanmar bỏ phiếu cho NLD. Ảnh: EPA
Bà Aung San Suu Kyi của Burma là một ví dụ tốt.

Chỉ như mới là hôm qua, hình ảnh của bà đã ngập tràn trên các áo phông có hàng chữ “Tự do”, là chủ nhân của giải thưởng cao quý, và được cả phổ quang chính trị Tây phương tôn vinh. Thế mà giờ đây, trên tít đầu của các trang xã luận nơi nơi là những tiêu đề về bà theo kiểu “Khôi nguyên nhục nhã” và là kẻ “đồng lõa của các tội ác chống lại nhân loại”.

Việc bà Suu Kyi từ chối lên án các cuộc tàn sát đẫm máu những ngôi làng của người Rohingya của quân đội Burma cộng với việc các tổ chức quốc tế bôi đen hình ảnh của bà bằng các chứng cứ về những hành vi tàn bạo của quân đội – đã chính thức hủy diệt toàn bộ hình ảnh thần thánh của bà ta trên toàn thế giới.

Bà Aung San Suu Kyi có lẽ là một ví dụ cực đoan, nhưng nó lại có tính minh họa vô cùng tốt.

Là một người tin vào chủ nghĩa dân tộc như người cha anh hùng của mình, Suu Kyi trở thành biểu tượng trang nghiêm cho lực lượng đối lập chống lại chế độ độc tài quân đội. Trong 15 năm bị quản chế, bà là một “tù nhân lương tâm” mẫu mực. Sau khi được trả tự do, bà được thăng ngay lên làm lãnh đạo không chính thức của lực lượng dân sự ở Burma, nhưng lập tức phải đối mặt với câu hỏi ngày một cấp bách tại đây: làm sao xây dựng một dân tộc đoàn kết?

Anh bạn Thomas Abbasi của tôi đã viết về bà Suu Kyi như thế này trên Facebook: “Bà ấy có vẻ đã tính toán rất kỹ rồi mới quyết định rằng ‘quăng bỏ’ người Rohinya là xứng đáng, để tiếp tục được quân đội, tăng lữ, và cả đám đông cuồng nhiệt ủng hộ. Chúng ta cảm thấy thất vọng và đau khổ là bởi vì chúng ta đã đặt quá nhiều hy vọng vào một mình bà ta, nhưng lại thiếu hiểu biết đầy đủ về tình hình phức tạp của đất nước Burma”.

Khi luôn phải đối mặt với căn tính phản bội và thói vô sỉ – là hai yếu tố định nghĩa cho “chính trị” ở mỗi quốc gia – thì rất tự nhiên, chúng ta thường tìm kiếm những người như Aung San Suu Kyi.  Những người mà hình như là đã vượt lên trên tất cả các điều tầm thường của con người.

Và rồi điều này đã khiến cho chúng ta quên đi việc phải tự nạp cho bản thân vài liều thuốc hoài nghi mỗi ngày. Từ đó, chúng ta phớt lờ các khiếm khuyết, bao biện cho những hành vi thể hiện quyền lực, và lý giải cho những chiêu trò dơ bẩn.
Tượng đồng cao 22 mét của Kim Il Song (Kim Nhật Thành) ở Pyongyang (Bình Nhưỡng) – Bắc Hành. Ảnh: Alamy Stock.

Rồi khi nhìn vào những nhân vật lịch sử mà bản thân yêu mến, thì bản năng phản biện của chúng ta lại càng suy giảm. Hãy thử nghĩ lại xem, chúng ta có thường xuyên sử dụng thuyết “con người của thời đại” để bao biện cho họ hay không?

Những người ủng hộ tiếp tục vinh danh các tượng đồng của phe Liên minh miền Nam trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã dùng lập luận này để biện hộ cho tướng Robert E. Lee. Ừ, thì ông ấy đã từng dùng roi mà quất vào nô lệ rồi đổ nước muối và vết thương của họ. Nhưng vào thời ấy thì ai mà không hành xử như thế – còn giờ đây chúng tôi chỉ muốn tôn vinh việc ông ta “đã đầu hàng như một quý ông” khi nội chiến sắp kết thúc mà thôi.

Những nỗ lực che dấu những điều xấu xí về các nhân vật lịch sử không phải là lỗi lầm chỉ có phe truyền thông bảo thủ như National Review thường phạm. Trong một vài khía cạnh, thì phe cấp tiến cánh tả lại phạm phải lỗi này còn thường xuyên hơn.

Trên hết, họ thường lẩn trốn sự thật về phong trào cấp tiến của thế kỷ 20 tại Mỹ. Chính cái phong trào ấy đã luôn thỏa hiệp với những kẻ cuồng chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Và ngay cả những người lãnh đạo phong trào cũng luôn dỗ dành các phe nhóm kỳ thị chủng tộc vào bậc nhất trong đảng Dân chủ.

C. Vann Woodwar đã chỉ ra điều này trong cuốn Sự nghiệp kỳ quái của Jim Crow (The Strange Career of Jim Crow) của mình. Chủ nghĩa cấp tiến hiện đại (modern progressive) dựa trên đa nguyên kinh tế và chống lại quyền lực của giới tài phiệt – vốn chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn với các đạo luật kỳ thị người da màu Jim Crow.

Mà nói đúng ra, những người tôn sùng chính sách Kinh tế Mới của Tổng thống Roosevelt vốn là những kẻ tuyệt đối tin vào chế độ phân biệt chủng tộc. Trong số đó có Thống đốc Alabama George Wallace – người đã từng rất nổi bật trong kỳ bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ năm 1972. Một thập niên trước đó, Wallace đã sẵn sàng đọc bài diễn văn nhậm chức thống đốc được chắp bút bởi một thành viên của tổ chức phân biệt chủng tộc khét tiếng, Ku Klux Klan.

Những kẻ như Wallace trong thời gian gần đây đang bị xóa khỏi ký ức tập thể của những người Mỹ cấp tiến. Nhưng Tổng thống Franklin Roosevelt thì vẫn có một vị trí trang trọng trong “ngôi đền các vị thần”, cao hơn tất cả những thánh thần chính trị khác.

Mark Lilla từng kết luận rằng, bài diễn văn năm 1941 – “Bốn thể loại Tự do” – của Roosevelt đã khắc họa đậm nét và nhắc nhở mọi người về “những nền tảng của chủ nghĩa tự do hiện đại Mỹ”. Thomas Frank thì phê phán nghiêm khắc đảng Dân chủ ngày nay đã lìa xa những di sản mà Roosevelt để lại, và đó cũng là quan điểm của Bernie Sanders.

Nhưng đây cũng chính là cùng một ông tổng thống Roosevelt, người đã tống hơn 120.000 người Mỹ gốc Nhật vào các trại tập trung, từ chối ủng hộ các đạo luật nghiêm trị tội treo cổ người da đen bất hợp pháp “lynching” vì e ngại sẽ bị mất phiếu cử tri đoàn. Cũng chính là cùng một vị tổng thống đã dành tặng lời khen – thậm chí là còn ít ỏi hơn cả Adolf Hitler – cho vận động viên người Mỹ gốc Phi châu Jesse Owens khi ông này dành được bốn huy chương vàng ở Thế vận hội Olympics Berlin năm 1936.

Tất cả những chương trình xã hội của chính sách Kinh tế Mới của Roosevelt đã được đo ni đóng giày cho nền chính trị ngập ngụa trong tinh thần kỳ thị chủng tộc của phe đảng Dân chủ miền Nam Hoa Kỳ.

“Những kẻ phân biệt chủng tộc sẵn sàng ủng hộ Cơ quan liên bang TVA – Tennessee Valley Authority – nhưng với điều kiện chỉ có các cộng đồng người Mỹ da trắng là nhận được nguồn điện giá rẻ từ TVA. Tương tự, người Mỹ gốc Phi bị gạt ra khỏi các chính sách lương tối thiểu và phúc lợi dành cho những người lao động ở nông thôn và người giúp việc.”

Từ trái sang phải, ba nhân vật lịch sử gây tranh cãi của thế kỷ 20, Winston Churchill, Franklin Roosevelt, và Joseph Stalin.Ảnh: Biography.com.
Cái giá của sự thật

Sự thật rất quý báu vì nó giúp chúng ta học được nhiều bài học phức tạp hơn từ quá khứ. Một bản đánh giá toàn vẹn về Roosevelt sẽ nói lên được những mối nguy hại khi chỉ cổ xúy công bằng xã hội mà chậm trễ thúc đẩy công bằng chủng tộc.

Một sự hiểu biết sâu sắc hơn về Lincoln sẽ không chỉ bóc trần được hình ảnh của một con người, không phải là hiện thân của Thượng đế, và là một kẻ “Giải phóng vĩ đại” chuyên tâm – mà chính là quá trình làm điều này sẽ mang lại cho nhận thức đang dần thay đổi của chúng ta một bài học vô giá.

Nếu mục đích của chúng ta là học hỏi từ những con người mà bằng một cách nào đó, đã vượt lên trước thời đại của họ, thì chúng ta càng nên đối xử với họ như những con người bình thường.

Nếu họ là những kẻ mang trên mình quyền lực chính trị, thì nếu giả định là họ đã làm ra những hành vi vô đạo đức ở tại một thời điểm nào đó – thì chúng ta cần phán xét là họ có tội cho đến khi họ chứng minh rằng bản thân vô tội. Lòng hoài nghi là cần thiết, và nó hoàn toàn khác với thói đa nghi. Bởi vì chỉ có lòng hoài nghi mới có thể giúp chúng ta thật sự trân trọng những nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại – bằng việc biến họ trở lại thành những con người.

Không cần biết một cá nhân đã đạt được những thành tựu to lớn đến mức nào đi nữa, thì họ vẫn có những khiếm khuyết nhất định. Những thành tựu vĩ đại nhất trong lịch sử không đến từ bất kỳ một người nào, mà đến từ sức mạnh của tập thể – những phong trào công đoàn, nữ quyền, phản chiến, đòi quyền bầu cử.

Cho dù vô cùng tri ân những cá nhân lãnh đạo đã hướng dẫn và trợ giúp người dân trong các cuộc đấu tranh lịch sử, chúng ta không thể để vinh quang hào nhoáng của họ làm lu mờ đi hàng triệu con người khác – những người đã hy sinh mỗi ngày, chiến đấu trong muôn vàn cuộc đối đầu để đạt được rất nhiều thắng lợi.

Tôi nghĩ không có ai có thể nói lên hết ý này hay và sâu sắc cho bằng người đã từng đại diện đảng Xã hội Chủ nghĩa Mỹ đi tranh cử tổng thống năm lần, nhà hoạt động công đoàn Eugene Debs:

“Tôi không muốn bạn đi theo tôi hay đi theo bất kỳ ai khác. Nếu bạn đang tìm kiếm một ông Thánh Moses dẫn dắt bạn rời khỏi vùng đất tư bản hoang dã này, thì bạn hãy cứ ở yên đấy. 

Tôi sẽ không dẫn bạn tiến vào Miền đất hứa ngay cả khi tôi có thể làm điều ấy, vì nếu tôi đưa bạn vào – thì một ngày nào đó – một kẻ khác cũng có thể dắt bạn ra khỏi đó”.

Harry Blain

Quỳnh Vi lược dịch từ The dangers of political sainthood của tác giả Harry Blain, nghiên cứu sinh Khoa học Chính trị tại Đại học New York City. 

(Luật Khoa)

Ông Trọng muốn ‘trở về đảng Lao Động’ hay ‘đổi mới lần 2?’


Những dấu hiệu mới

Liên tiếp trong hai Tháng Tám và Tháng Chín, 2017, đã xuất hiện những dấu hiệu rõ ràng hơn về yêu sách “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động” trong đời sống chính trị ở Việt Nam.

Giáo Sư Tương Lai. (Hình: VOA)
Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện từ ông Tương Lai ở Sài Gòn với lá thư với đại ý “cắt đứt quan hệ với đảng do Nguyễn Phú Trọng thao túng” để quay về “đảng Hồ Chí Minh.”

Trong biên niên sử Cộng Sản Việt Nam, “đảng Hồ Chí Minh” được hiểu là đảng Lao Động.

Dấu hiệu thứ hai xuất hiện từ ông Nguyễn Trung ở Hà Nội với một bản kiến nghị, trong đó có nội dung “trở về tên đảng Lao Động.”

Cả hai ông Tương Lai và Nguyễn Trung đều là đảng viên, cựu quan chức, nhưng quan trọng nhất đã gặp nhau ở ý tưởng “trở về tên đảng Lao Động.”

Giả thử đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động, tên nước cũng vì thế có khả năng đổi: từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhu cầu tập thể

Lá thư của ông Tương Lai và bản kiến nghị của ông Nguyễn Trung xuất hiện trong bối cảnh vừa âm ỉ, vừa râm ran dư luận về khả năng có thể hình thành thể chế “đảng trong đảng” ở Việt Nam.

Từ năm 2016, đã xuất hiện những cuộc trao đổi bán công khai trong giới quan chức cao cấp hưu trí và giới trí thức “phản biện trung thành” về khả năng đổi tên đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động như trong quá khứ xa. Hoặc có thể “tách đảng” thành hai – vừa đảng Cộng Sản vừa đảng Lao Động trong tương lai gần.

Từ trước Tết Nguyên Đán, 2017, lại râm ran dư luận trong giới “phản biện trung thành” về khả năng có thể đề nghị hình thành thể chế “đảng trong đảng,” nhưng với một cái tên mới hoàn toàn cho đảng cầm quyền.

Vào Tháng Năm, 2017, có tin một nhóm cán bộ cao cấp ở miền Nam đã ra Hà Nội gặp Tổng Bí Thư Trọng để đưa ra đề nghị “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động.” Nhưng không nghe ông Trọng trả lời trả vốn gì.

Có thể thấy, yêu cầu “trở về tên đảng Lao Động” từ một số năm qua và đặc biệt gần đây đã không còn là ý tưởng của một ít cá nhân, mà đã trở thành quan điểm mang tính tập thể của một số trí thức, cựu quan chức và có thể cả quan chức.

Vì sao “trở về đảng Lao Động”?

“Bế tắc” đang là từ ngữ không còn lấp ló nơi cửa miệng của giới quan chức, mà đã được một số quan chức can đảm và bạo miệng nhất nói ra hoặc thốt ra.

Nguồn gốc của căn bệnh quá trầm kha, rốt cuộc được cho rằng chủ yếu do cơ chế một đảng gây ra. Cho đến giờ này, chống tham nhũng đã trở nên vô phương ở Việt Nam. Độc đảng chính là nguồn cơn sinh ra quốc nạn tham nhũng.

Chỉ còn cách đa đảng thì may ra mới cứu vãn được dân tộc, người nghèo và đương nhiên cứu cả giới quan chức đương chức lẫn về hưu.

Nhưng không chỉ giới trí thức phản ứng đối với ý thức hệ giáo điều của đảng Cộng Sản, tự thân “khủng hoảng nội bộ” cũng góp phần đẻ ra nhu cầu hướng đến đa đảng.

Sau Đại Hội 12 vào đầu năm 2016, những nhóm quyền lực cũ và mới song song tồn tại và sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều. Nhưng cốt tử hơn, những nhóm này – trong mối kết nối chặt chẽ với các nhóm lợi ích cũ và mới – đang ngày càng nhận ra tương lai hoàn toàn bế tắc nếu cứ cắm đầu tuân theo những bản nghị quyết vô hồn về “chủ nghĩa xã hội” hoặc “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Một trong những lý do đơn giản nhất là ngày càng lo sợ sự bùng nổ phản kháng và hành động trả thù của dân chúng, đặc biệt từ những người dân đã bị biến thành nạn nhân khốn cùng của chế độ. Một bài toán rất thực tế: giới quan chức tìm đâu ra lối thoát chính trị và lối thoát sinh mạng ở Việt Nam và cả trên “trường quốc tế,” trong khi tài sản và thân nhân của họ đã hiện diện ở khắp các nơi – Mỹ, Canada, Úc, Tây Âu…?

Nhưng một người cực kỳ bảo thủ như Nguyễn Phú Trọng liệu có chấp nhận yêu cầu “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động”?

“Đổi mới lần 2?”

Chưa có tín hiệu nào cho thấy ông Trọng đồng ý với yêu cầu “đưa đảng Cộng Sản trở về tên đảng Lao Động.” Bằng chứng là sau khá nhiều thư kiến nghị của “Nhóm 61” – bao gồm các đảng viên lớn tuổi – về nhiều vấn đề cải cách trong đảng và dân chủ hóa đất nước, ông Trọng và toàn bộ Bộ Chính Trị của ông vẫn tuyệt đối không một hồi âm.

Ngược lại là đằng khác, vị tổng bí thư này vẫn khăng khăng lặp lại không biết chán về “chủ nghĩa xã hội” và “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,” dù về sau này ông ta có bổ sung thêm từ “thể chế” trước nền kinh tế chẳng ai biết ra làm sao ấy.

Trên một phương diện khá khác biệt với yêu cầu đổi tên đảng, Tổng Bí Thư Trọng ngày càng bộc lộ rõ quan điểm muốn tiến hành “đổi mới lần 2.”

Tuy đã được dư luận trong nội bộ đảng đề cập không ít, nhưng từ “đổi mới” chỉ xuất hiện vào những ngày gần đây, tuy không hoặc chưa thấy phụ từ “lần 2” gắn kèm. Không phải là cựu tổng bí thư Đỗ Mười, cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh hay “Lão Răng Chắc” Nông Đức Mạnh, mà vào lần này người ta thấy cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu xuất hiện với tần suất khá dày trên mặt báo chí nhà nước với tinh thần “không còn đường lùi” và ủng hộ nhiệt thành chủ trương chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng.

Có vẻ đã hình thành “trục” Nguyễn Phú Trọng – Lê Khả Phiêu.

Cũng đang dần đầy đặn những dấu hiệu cho thấy Nguyễn Phú Trọng đang đi theo lộ trình “đổi mới lần 1” của cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh ba chục năm về trước.

Và không loại trừ tâm thế của ông Trọng muốn trở thành “Nguyễn Văn Linh thứ hai.”

Ba chục năm trước – năm 1986 – Nguyễn Văn linh đã khởi sự “đổi mới lần 2” bằng loạt bài viết trên báo đảng Nhân Dân về “Những việc cần làm ngay.” Ba chục năm sau – năm 2016 – Nguyễn Phú Trọng cũng lặp lại “Việc cần làm ngay” mà mốc khởi điểm của việc này là nhắm vào vụ việc Trịnh Xuân Thanh – kẻ mà về sau này đã gây ra bao nỗi khó nhọc lẫn chua xót cho đương kim tổng bí thư.

Nhưng “việc cần làm ngay” và “đổi mới lần 2’ của ông Nguyễn Phú Trọng sẽ đi đến đâu?

Tương lai thất bại

Quá khó để hình dung ra đoạn đường, những trạm dừng chân và cái đích cuối cùng mà ông Trọng sẽ đạt được. Khác quá nhiều với thời Nguyễn Văn Linh vẫn chủ yếu mang tư tưởng “lợi ích cào bằng” và tham nhũng chủ yếu thể hiện bởi thói tham ô vặt, giờ đây Nguyễn Phú Trọng phải đối mặt với một bức tường khổng lồ của giới quan chức tham nhũng, cùng mức độ tham nhũng gấp ngàn vạn lần thời “những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn Linh.

Vẫn chẳng có dấu hiệu rõ nét nào cho thấy ông Trọng đã nhận ra độc đảng là nguồn cơn chính yếu dẫn đến tham nhũng và biến tham nhũng thành vô phương cứu chữa, biến chiến dịch “chống tham nhũng” của ông thành một cuộc tỉa ngọn mãi mãi rồi đâu lại vào đó.

Có nhiều bằng chứng về sự thất bại đã đến, đang đến và sẽ đến của Tổng Bí Thư Trọng.

Sau Đại Hội 12 khi ông Trọng đã trở thành “một mình một ngựa” trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương, cho tới nay các cơ quan đảng và cơ quan tư pháp vẫn chỉ đều đặn báo cáo “chỉ phát hiện 5 trường hợp kê khai không trung thực trong số 1 triệu công chức viên chức tiến hành kê khai tài sản.” Người dân nào cũng biết đó là một dối trá vĩ đại, nhưng càng vĩ đại hơn với những quan chức biết chấp nhận sự dối trá đó!

Vào Tháng Năm, 2017, Tổng Bí Thư Trọng lần đầu tiên dám phát động chủ trương “kiểm tra tài sản 1000 cán bộ” và được báo đảng hò reo. Thế nhưng cho tới nay, hầu như không còn ai nhắc đến chủ trương này, và cũng chẳng có dấu hiệu nào cho thấy chủ trương này còn tồn tại hay ít nhất sẽ đạt được một kết quả “diệt ruồi” nào đó. Chỉ một biệt phủ của Giám Đốc Sở Tài Nguyên Môi Trường Yên Bái Phạm Sỹ Quý mà ông Trọng còn không “xử” được, chẳng ai tin là ông có thể làm được hơn thế.

Không thể “kiểm tra tài sản 1000 cán bộ,” chiến dịch “chống tham nhũng” của Nguyễn Phú Trọng cũng chẳng còn ý nghĩa gì, dẫn đến “đổi mới lần 2” của ông sẽ trở nên vô vọng. 

Phạm Chí Dũng

13 tháng 10, 2017

VUA SÁM HỐI,’ BỨC DỊ TƯỢNG ĐỘC NHẤT VIỆT NAM
 
 
 
(LocDP sưu tầm)
Bức tượng được sơn son thiếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
Tượng “Phật cưỡi vua” độc nhất vô nhị
 
Một chiều thu lang thang trên những con phố ở Hà Nội, đi ngang qua con phố Hàng Than, thấy chùa Hòe Nhai ngày nào giờ sửa sang lại khang trang quá, cửa chùa để ngỏ, tôi chợt dừng bước ghé chân vào thăm để tìm một chút tĩnh lặng giữa những mớ bộn bề của cuộc sống.
 
buddhism_3
Mặt tiền của chùa Hòe Nhai ở Hà Nội.
 
Từng ngọn gió thu mát rười rượi thổi dọc theo dãy hàng lang đi quanh chùa, lại thêm cảnh vật yên tĩnh, trong lành khiến tâm hồn thư thái đến lạ thường. Đi dạo một vòng quanh chùa, bất ngờ tôi phát hiện ở gian phòng thờ bên trái thượng điện có một bức tượng hết sức kỳ dị thật mà không một ngôi chùa nào khác có được.
Đó là một bức tượng to, được sơn son thếp vàng, tượng tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen đè lên lưng nhà vua.
Đem sự tò mò đến hỏi trụ trì của chùa là hòa thượng Thích Tâm Hoan, tôi mới được hay biết đằng sau bức tượng này là cả một truyền kì dài gắn với tên tuổi của một vị vua trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Trụ trì Thích Tâm Hoan cho biết: “Bức tượng này là độc nhất vô nhị, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, có bao nhiêu người được chiêm ngưỡng là bấy nhiêu sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên khi được nghe về huyền tích sự ra đời của tượng “vua sám hối”.
 
buddhism_4
 
Nhiều người khi nhìn bức tượng này cho rằng đây là một sự trừng phạt nhưng trái lại, “Dáng quỳ gối phủ phục sát mặt đất của tượng vua thể hiện một sự quy phục tuyệt đối. Đó là sự hối lỗi chân thành, một sự thay đổi xuất phát từ sâu sắc trong tim chứ không gượng ép và do đó đây là một sự nhận lỗi, sửa sai chứ không phải là một sự trừng phạt”, nhà sư Thích Tâm Hoan nói.
“Pho tượng không chỉ là một sự hoài cổ, mà nó là một bài học lưu truyền cho muôn đời sau học tập. Làm người ai cũng phải sửa bỏ thói hư tật xấu thì mới đạt được kết quả tốt. Ai sống trên đời cũng đều mắc sai lầm, nhưng điều quan trọng là phải biết nhìn nhận và sửa sai, để được tha thứ. Khi biết nhận lỗi, những người khác sẽ không đánh giá và quy tội nữa.
Sự ra đời của pho tượng sám hối kỳ lạ
Theo lời của trụ trì Thích Tâm Hoan, thì vào khoảng năm 1670, lúc này Phật giáo đang trong thời kỳ suy sụp, các nhà sư đều điêu đứng vì bị cho rằng sự tồn tại của họ là không có lợi cho xã hội, các tăng ni và phật tử trong chùa đều là những người lười nhác và sống ỉ lại vào sự hảo tâm của mọi người, lãng phí của cải.
Khi vua Lê Hy Tông lên nắm quyền năm 1675 đã ra sắc lệnh đuổi hết sư sãi ở các chùa lên rừng, ai ngoan cố không đi sẽ bị khép vào trọng tội đem ra xử trảm, khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh hơn bao giờ hết trong lịch sử. Chùa triền bỏ hoang, kẻ cắp vào tàn phá, các nhà sư phải bỏ lên rừng, nhiều người không chịu được đói rét lại cởi áo cà sa quay về kiếp phàm trần.
Cùng thời gian này có một vị thiền sư đắc đạo tên Tông Diễn, ông thuộc thế hệ thứ hai của phái Tào Động. Ông được mọi người thời bấy giờ gọi là “tổ cua” vì tương truyền có một lần Tông Diễn mua được một mớ cua mẹ sau đó liền thả hết chúng trở về mương vì khi nhìn thấy chúng sùi bọt ông cho rằng chúng đang than khóc cho số phận của mình.
Nhìn thấy sự đi xuống của Phật giáo và sự khốn khổ của các vị sư, Tông Diễn đã quyết tâm tìm cách trở về kinh thành Thăng Long nơi có vua Lê Hy Tông ngự để ngộ giác tư tưởng nhà Vua, cứu lại niềm tin Phật pháp vô biên.
Vì khi đó vua Lê Hy Tông đang rất kì thị và căm ghét nhà sư nên Tông Diễn phải cải trang sau đó giả vờ dâng tặng nhà vua một viên ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ được viết bằng tâm huyết của Tông Diễn, giúp vua Hy Tông ngộ ra được chân lý của Phật giáo.
Điều mà bức sớ của Tông Diễn muốn nói với vua Hy Tông là ở đời Trần, đời Lý, các vua hết sức coi trọng đạo Phật và rồi quốc gia thịnh trị, đạo Phật khiến người ta biết ăn uống đúng mực, không sân si, không giết người cướp của, nó như một viên ngọc quý của quốc gia, vậy tại sao cho đến giờ đạo Phật lại bị cho rằng không mang lại lợi ích gì cho xã hội…
Khi truyền đến tay, vua Hy Tông sau khi đọc hết bức sớ chứa đầy những suy nghĩ đúng đắn của vị thiền sư trong giây lát như bừng tỉnh, thoát khỏi cơn mộng mị. Nhà vua liền lập tức cho triệu ngay Tông Diễn vào triều, cúi mình tạ lỗi trước nhà sư, sau đó thu hồi sắc lệnh cấm Phật giáo và hứa sẽ sửa mình với Tông Diễn.
Để thể hiện lòng thành, vua cho người tạc bức tượng lớn mà trong đó có hình nhà vua lấy theo mẫu vua Hy Tông đang phủ phục dưới đất cõng trên lưng tượng đức phật Thích Ca Mâu Ni đang ngồi thiền trên đài sen và đặt tên đó là bức tượng “vua sám hối”.
 
buddhism_2
Tượng “vua sám hối” độc nhất vô nhị đã được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
 
Bức tượng do vua Hy Tông sai tạc ngoài việc để sám hối với đức Phật vì hành động “phá đạo” của mình, ông còn muốn tất cả mọi người hãy tự biết tu thân sửa mình để sống tốt hơn, nhất là những quan lại nắm chức, cầm quyền trong tay cũng phải xem lại chính mình. Sự ngự trị trong cõi này còn có một cõi ngự trị siêu hùng ưu việt hơn, đó là lực lượng của trí tuệ, một sự tự thân, của bản thể duy nhất.
 
buddhism
Bức tượng kỳ lạ bí ẩn ở chùa Hòe Nhai, Hà Nội.
 
Như vua Lê Hy Tông, người mang quyền lực tối cao trong một nhà nước đã biết nhận lỗi, sửa lỗi. Sự sám hối này không chỉ cho mình ông, mà còn để răn dạy bao thế hệ về sau nữa”, nhà sư Thích Tâm Hoan chỉ dạy.
Năm 2006, nhân dịp UNESCO công nhận lễ Phật đản là lễ hội tôn giáo thế giới, nhiều công trình văn hóa Phật giáo đặc sắc khắp châu Á được nhắc đến, trong đó có pho tượng Vua sám hối độc nhất ở Việt Nam, với tạo hình độc đáo. Hiện tượng “vua sám hối” cũng được ghi vào sách kỷ lục Guinness.
Kinh Vân
(Nguồn: Zing News)

12 tháng 10, 2017

 BẮT BUỘC PHẢI TIN:
Chị Hoàng Thị Thiêm chứng minh cho thế giới thấy rằng Việt Nam có người sở hữu con mắt thứ 3


Từ một cô gái Việt Nam vô danh, chị đã trở thành nhân vật chính của các buổi tọa đàm ở Hà Nội, các chương trình “Chuyện lạ Việt Nam” trên Đài Truyền hình Việt Nam; là đối tượng nghiên cứu khoa học được các tổ chức quốc tế và Đài Truyền hình Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức… mời ra nước ngoài khảo nghiệm, được truyền hình trực tiếp về khả năng đặc biệt của “Người ba mắt”…
Trở thành hiện tượng “không muốn tin cũng phải tin”


Chị Hoàng Thị Thiêm với khả năng đọc được khi bị bịt kín mắt (Ảnh dẫn qua nguoilaodong.com)
Cho đến nay, trường hợp chị Hoàng Thị Thiêm đã trở thành một hiện tượng “không muốn tin cũng phải tin” dù khoa học hiện đại chưa thể lý giải được.
Không một ai có thể tưởng tượng được một người phụ nữ giản dị, dịu dàng, khiêm tốn, sống trong một ngôi nhà đơn sơ nép dưới mảng xanh cây trái của đồi núi tỉnh Hòa Bình, lại có năng lực bí ẩn, vượt xa khả năng của những “người trần mắt thịt” khiến cho nhiều nhà khoa học và truyền thông thế giới phải thực sự quan tâm, thán phục.
Đối với khoa học hiện đại, đó là một màn sương mù dày đặc. Khoa học hiện đại không thể tìm đâu ra căn nguyên cho bí ẩn đó, mà chỉ có thể lý giải đó là hiện tượng siêu nhiên.
Nhưng khoa học cổ đại lại nhìn nhận điều đó một cách dễ dàng.
Sự xuất hiện của chị ra công chúng tạo ra một thay đổi nhận thức lớn trong xã hội và trong cách người Việt Nam nhìn nhận thế giới sau cái chết qua cách ứng xử trân trọng tâm linh và quan tâm thật sự đến luật nhân quả.
Mấy ai có thể nhìn được nếu bị bịt kín hai mắt, nhưng chị Hoàng Thị Thiêm, sau rất nhiều kiểm chứng, đã được kênh truyền hình NHK, Nippon TV của Nhật Bản gọi là “Siêu nhân 3 mắt”. NHK, Nippon TV đã cử một đoàn làm phim đi khắp thế giới để khảo nghiệm những con người có khả năng đặc biệt, và họ kết luận: “Một số người trên hành tinh này có khả năng kết nối, nói chuyện với những linh hồn – trong đó có chị Hoàng Thị Thiêm”.


Chị Hoàng Thị Thiêm trong buổi phát sóng trực tiếp tại đài truyền hình NHK Nhật Bản (Ảnh chụp màn hình youtube)
Gọi là 3 mắt, nhưng thực ra chị Thiêm cũng có thể đọc sách bằng cả trán, mũi và thái dương…
Năm 2006, một cuộc khảo nghiệm khoa học được tiến hành với chị trước sự chứng kiến của khoảng 20 cơ quan báo đài, truyền hình Việt Nam. Chị Thiêm được bịt kín mắt nhưng vẫn đi lại trong tòa soạn bình thường mà không bị vấp ngã. Chị quay số điện của chính các phóng viên ghi ra mẩu giấy đưa cho, dù không nhìn bằng mắt nhưng chị vẫn bấm đúng số. Liên tục các năm sau đó, chị sang các nước Đức, Pháp, Hàn khảo nghiệm về khả năng “con mắt thứ 3” và đều khiến mọi người kinh ngạc.
    

Chị Hoàng Thị Thiêm trước hàng chục phóng viên các báo đài, truyền hình khảo cứu, phỏng vấn, ghi hình…(Ảnh dẫn qua doisongphapluat.com)


Đài truyền hình Nippon TV và NHK đã bay qua Việt Nam khảo nghiệm Hoàng Thị Thiêm suốt 2 năm và mời Hoàng Thị Thiêm qua Nhật nghiên cứu và lên sóng truyền hình để thể hiện khả năng nhìn bằng con mắt thứ ba trước hàng chục triệu khán giả truyền hình Nhật Bản. (Ảnh dẫn qua giaoducthoidai.vn)
Dưới đây là video ghi lại quá trình truyền hình NHK và Nippon TV của Nhật Bản tìm về Việt Nam, từ Hà Nội lên xe về Lương Sơn, Hòa Bình tìm đến nơi chị Thiêm sinh sống, rồi thực hiện các phương pháp kiểm nghiệm khác nhau để kiểm chứng năng lực của chị Thiêm, mời chị sang tận Nhật Bản để phát sóng trực tiếp.
Trong thời hiện đại, cũng có một cuốn sách có thể đưa ra lời giải rõ ràng minh bạch về cơ chế hoạt động của con mắt thứ ba này, đó là cuốn sách có tên “Chuyển Pháp Luân”
Mới đây, chị Hoàng Thị Thiêm cho ra mắt tự truyện: Trò chuyện với cõi vô hình.


Ngày 09/05/2017 vừa qua, nhà xuất bản First New đã cho ra mắt cuốn tự truyện: Trò chuyện với cõi vô hình của chị Hoàng Thị Thiêm và buổi giao lưu với tác giả cuốn sách. (Ảnh dẫn qua giaoducthoidai.vn)
Đại diện nhà xuất bản First News cho biết, cuốn sách có quá trình thực hiện 5 năm, là tập hợp những câu chuyện về người phụ nữ huyền bí có con mắt thứ ba, có nhiều khả năng kỳ lạ, kết nối với các linh hồn.


PGS TS.Nguyễn Thị Ngọc Quyên – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng tiềm năng con người chia sẻ về sự phát hiện và quá trình theo dõi thẩm định của Viện đối với nhà ngoại cảm Hoàng Thị Thiêm (Ảnh dẫn qua giaoducthoidai.vn)


Đại diện Tập đoàn xuất bản Dahhsin (Đài Loan) và Sanshin (Nhật Bản) đã có mặt ký hợp đồng bản quyền ấn phẩm trực tiếp tại buổi ra mắt. (Ảnh dẫn qua giaoducthoidai.vn)
Trò chuyện với cõi vô hình” chứa đựng những sự thật mà dường như ít ai có thế tin nổi, của một người đặc biệt. Đóng góp rất nhiều trong sự thay đổi đời sống tâm linh của người Việt Nam đầu thế kỷ 21.


Bìa cuốn sách Trò chuyện với cõi vô hình (Ảnh dẫn qua giaoducthoidai.vn)
Ông Nguyễn Văn Phước – Giám đốc First News chia sẻ:
“First News đã thực hiện cuốn sách này trong hơn 5 năm, không chỉ vì tôn trọng tính nhân văn và sự thật, mà còn mong muốn lan truyền thông điệp quý giá từ tác phẩm: “Vũ trụ luôn có trước có sau – có nhân có quả – không có bất cứ điều gì tự nhiên sinh ra hay tự nhiên mất đi. Đức phước – nghiệp quả và cõi vô hình là có thật – Để mọi người – nhất là ở Việt Nam hiện nay – sống trung thực, đối xử tốt và biết thực sự quan tâm, chia sẻ yêu thương nhau nhiều hơn”. Bởi lẽ vũ trụ còn rất nhiều những điều huyền bí mà không phải ai cũng có đủ duyên tiếp cận và khoa học hiện đại cũng chưa tìm được lời giải đáp thấu đáo với rất nhiều hiện tượng siêu nhiên có thật tồn tại song hành khách quan cùng chúng ta.”
Một điều nữa, là luật nhân quả vô cùng coi trọng chữ Đức, nếu một người có năng lực đặc biệt, nhưng nếu dùng năng lực ấy để cầu lợi, cầu danh, thì những khả năng đặc biệt đến một ngày sẽ mất đi, vì Vũ trụ không cho phép lợi dụng năng lực đặc biệt để tìm kiếm Danh và Lợi…
Nếu các bạn muốn hiểu tường tận về cơ chế hoạt động cụ thể của con mắt thứ ba này, các bạn có thể tìm đọc cuốn Chuyển Pháp Luân.

Hà Phương Linh

Nguyễn Thông - Sự kiêu ngạo cộng sản (phần 3 - cuối)


Tiếp theo  phần 1 và phần 2

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, bên bờ huyệt, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới theo chim én về, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

Đảng CSVN quang vinh muôn năm nhưng chỗ nằm thì không có. Ảnh: internet
Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.

Trước hết, có thể thấy rõ sự kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt…, tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. Đi đâu cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lê nin bách chiến cách thắng vô địch muôn năm, đảng lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ lao động bằng chữ cộng sản), đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững, tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… Hồi mấy chục năm trước, tôi ra bắc vào nam đi xe lửa qua chỗ nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau nó mất đi lúc nào không biết. Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc họ Hòa còn bị mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược.

Bộ máy tuyên truyền cộng sản là nơi thể hiện sự kiêu ngạo rõ nhất. Quanh năm suốt tháng, đặc biệt vào các dịp lễ tết, băng rôn khẩu hiệu tung hô đỏ rực rợp đường, từ thành thị tới nông thôn, mừng đảng mừng xuân hoặc tụng ca muôn năm này nọ. Số tiền chi cho việc này cực lớn. Nói không ngoa, những nước cộng sản là những siêu cường quốc về khẩu hiệu tự tán tụng mình. Các chế độ, nhà nước phong kiến ngày xưa chuyên về “vạn tuế” phải gọi bằng cụ.

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì châu ngọc, gấm thêu. Những Lênin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ (mà họ tô vẽ chứ bản thân cụ không thế), đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả phật, cả chúa. Không ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh…, tới dịp kỷ niệm ngày sinh ngày mất là cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là thánh chứ không phải người.

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Chắc nhiều người còn nhớ, sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm, người cộng sản giành phần thắng. Thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự Thật (nhà xuất bản riêng của đảng), xuất bản tháng 8.1975 (tôi đang có cuốn sách này). Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế khi ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được tươi đẹp thế này chăng”, “Quảng Trị đẹp nhất từ xưa đến nay”, “Dân chủ đến thế là cùng”… Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo cuộc sống.

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Nhưng dần thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Chắc nhiều người còn nhớ nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, đại loại “dân chủ của ta còn dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này.

Nguyễn Thông

(FB Nguyễn Thông)