4 tháng 10, 2017

Toàn văn phát biểu khai mạc hội nghị TƯ 6 của Tổng bí thư

Sáng nay, ngày 04/10/2017 Ban Chấp hành Trung ương khai mạc họp hội nghị lần thứ 6, VietNamNet trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu khai mạc của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XII



Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 6. Ảnh: VGP

Thực hiện Chương trình làm việc toàn khoá, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ 6 để thảo luận, cho ý kiến về: Tình hình kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách năm 2017, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán tài chính - ngân sách năm 2018; Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới; Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; và tiến hành một số công việc quan trọng khác.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, các đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại Hội nghị. Sau đây, tôi xin phát biểu gợi mở, lưu ý, nhấn mạnh thêm một số vấn đề, mong được các đồng chí quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.
Chỉ rõ nguyên nhân vì sao một số việc chưa làm được
1- Về tình hình kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách năm 2017, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán tài chính - ngân sách năm 2018
Đây là công việc thường kỳ hằng năm tại các hội nghị cuối năm của Ban Chấp hành Trung ương nhằm rà soát lại tình hình kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách của đất nước, thấy rõ những ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cả hệ thống chính trị; từ đó phát huy mặt tốt, kịp thời điều chỉnh, uốn nắn những mặt chưa tốt, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm đã đề ra. Do đó, nó có ý nghĩa rất thiết thực.
Đề nghị các đồng chí nghiên cứu kỹ Tờ trình, Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ và xuất phát từ tình hình thực tế trong nước, quốc tế cũng như các ngành, lĩnh vực, địa bàn nơi công tác để thảo luận, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình 9 tháng đầu năm, dự báo đến hết năm. 

Chỉ rõ những kết quả, thành tích nổi bật đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, nhất là những yếu tố tích cực mới xuất hiện, những vấn đề nổi cộm mới phát sinh. Chú ý đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội 12 và các nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững; thực hiện 3 đột phá chiến lược; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế... 
Đặc biệt là, cần chỉ rõ nguyên nhân vì sao một số việc chưa làm được, một số chỉ tiêu đạt thấp hoặc chưa đạt trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, mặc dù tình hình trong nước và quốc tế năm 2017 nhìn chung thuận lợi hơn so với năm 2016.
Trên cơ sở đó, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua, đặc biệt là những khó khăn, thách thức trong việc khắc phục những hạn chế, yếu kém vốn có, tồn đọng từ lâu của nền kinh tế; những rủi ro về tài chính - tiền tệ, nhất là khi nợ công, nợ xấu còn cao, nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ. 
Xác định rõ các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2018; đề ra các chính sách, biện pháp có tính khả thi cao, nhất là các chính sách, biện pháp đột phá để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, kiểm soát nợ công; cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu. 
Đẩy mạnh tái cấu trúc đầu tư công, các DNNN, các đơn vị sự nghiệp công lập. Nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Cần Nghị quyết về chăm sóc sức khỏe nhân dân
2- Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và của toàn xã hội; chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân là công tác đặc biệt quan trọng, liên quan đến mọi người, mọi nhà và được cả xã hội quan tâm, có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta. 
Ngày 14/01/1993, Ban Chấp hành Trung ương khoá 7 đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Năm 2005, Bộ Chính trị khoá 9 cũng ra Nghị quyết về vấn đề này. Từ đó đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 8 chỉ thị, 3 kết luận, 4 thông báo và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện. 
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ thầy thuốc, cán bộ y tế cả nước đã nỗ lực phấn đấu, triển khai thực hiện nhiều chính sách, biện pháp tăng cường bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nước ta được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân cũng bộc lộ không ít yếu kém, khuyết điểm, để xảy ra một số sự việc, sự cố gây bức xúc xã hội. Để phát huy những kết quả, thành tích đã đạt được, làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương cần bàn và ra nghị quyết về vấn đề này. 
Trên cơ sở các Báo cáo, Đề án và Tờ trình của Bộ Chính trị, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế, đề nghị Trung ương thảo luận, đi sâu phân tích, đi đến thống nhất cao nhận định về những kết quả, ưu điểm, thành tích cũng như về những hạn chế, yếu kém và bài học kinh nghiệm trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong thời gian qua; chỉ ra những thời cơ, thuận lợi cần kịp thời nắm bắt và những khó khăn, thách thức cần nỗ lực vượt qua trong thời gian tới. 
Từ đó xác định quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần nắm vững và thực hiện trong giai đoạn mới.
Về thời cơ, thuận lợi, phải chăng đó là những kết quả, thành tích đã đạt được trong lĩnh vực này cũng như những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới; sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ y tế dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế?... 
Về khó khăn, thách thức, phải chăng cần kể đến những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực y tế và các lĩnh vực có liên quan; sự thay đổi nhanh chóng về điều kiện sống, lối sống, môi trường sống và làm việc, các loại dịch bệnh; nguồn lực của Nhà nước còn hạn hẹp trong khi việc huy động các nguồn lực xã hội còn nhiều khó khăn?... 
Về bài học kinh nghiệm, phải chăng cần nhấn mạnh, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự hưởng ứng tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân; vai trò chủ đạo của các bệnh viện, cơ sở y tế công lập; ý nghĩa, tầm quan trọng của việc vận dụng đúng đắn cơ chế thị trường để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân gắn với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa và tính ưu việt của chế độ ta, như chúng ta đã phát triển được hệ thống y tế cơ sở, quản lý, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở từng xã, phường, cơ quan, đơn vị trong những năm tháng đất nước còn khó khăn hơn hiện nay rất nhiều. 
Về quan điểm, định hướng, phải chăng cần nhấn mạnh kết hợp tốt hơn nữa giữa phòng bệnh và chữa bệnh; giữa chăm sóc và bảo vệ; giữa đông y và tây y; giữa y tế cơ sở với y tế các tuyến trên; giữa đầu tư ngân sách nhà nước với tăng cường tự chủ, xã hội hoá; giữa y tế toàn dân với đào tạo các bác sĩ, chuyên gia giỏi, đầu ngành,...?
Nguy cơ "chưa giàu đã già"
3- Về công tác dân số trong tình hình mới
Đây là vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc bảo vệ, phát triển giống nòi, quốc gia, dân tộc. Trong 25 năm qua, cả nước ta đã kiên trì, kiên quyết thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá 7. 
Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém, phát sinh những vấn đề mới cần kịp thời có định hướng xử lý. Ví dụ: Mức sinh giữa các vùng còn có sự chênh lệch đáng kể. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Nước ta đang bước vào thời kỳ "già hoá dân số", đứng trước nguy cơ "chưa giàu đã già", bỏ lỡ cơ hội của "thời kỳ dân số vàng". 
Quản lý dân số, quản lý di cư, nhất là di cư tự do, còn nhiều bất cập. Chất lượng dân số, nhất là chiều cao và thể lực chậm được cải thiện. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn xảy ra ở một số vùng dân tộc ít người; tỉ lệ người bị khuyết tật trong dân số còn cao...
Trên cơ sở thống nhất nhận định về tình hình, xu thế phát triển trong thời gian tới, đề nghị Trung ương đi sâu phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây, rút ra những bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công của công tác dân số ở nước ta và tham khảo kinh nghiệm của thế giới. 
Từ đó, đề ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để nắm bắt thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, làm tốt hơn nữa công tác dân số trong trong tình hình mới. Phải chăng trong thời gian tới nước ta cần chuyển trọng tâm từ chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển? Nội hàm cụ thể của các khái niệm đó là gì? Ý nghĩa thực tiễn của nó ra sao? 
Tập trung phân tích những căn cứ và sự cần thiết, đúng đắn của việc chuyển trọng tâm từ giảm tăng dân số thông qua việc thực hiện triệt để, đồng loạt chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ có hai con sang kiểm soát quy mô, nâng cao chất lượng dân số bằng chính sách duy trì mức sinh thay thế.
Chú ý tính khả thi, phù hợp của mục tiêu lựa chọn và các chính sách, biện pháp đã đề ra. Đặc biệt là phương án lựa chọn về quy mô dân số và các chính sách bảo đảm giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về dân số như: Duy trì mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng tốt nhất điều kiện cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hoá dân số; quản lý tốt di cư, nhất là di cư tự do; nâng cao chất lượng dân số...
Bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc
4- Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Tờ trình và Báo cáo của Bộ Chính trị đã nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cần thiết và phạm vi của Đề án "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả". 
Bộ Chính trị nhận thấy, đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động...
Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. 
Tổ chức Đảng, Nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên, cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; cơ cấu bên trong chưa hợp lý; tổ chức bộ máy của khối MTTQ Việt Nam và các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp công lập chậm được đổi mới; tổ chức và biên chế ngày càng phình to; số lượng cấp phó, số người được hưởng chế độ "hàm" không hợp lý; cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều bất cập; số lao động phục vụ gián tiếp quá nhiều trong khi thiếu nhân lực trực tiếp làm chuyên môn nghiệp vụ. 
Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở các đơn vị sự nghiệp công và người hoạt động không chuyên trách cấp xã ngày càng nhiều.
Đề nghị các đồng chí tập trung nghiên cứu, đánh giá khách quan, toàn diện về tình hình và nguyên nhân, nhất là nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém. Đồng thời, từ kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý nơi công tác; nghiên cứu, vận dụng các bài học được rút ra từ tổng kết lý luận, thực tiễn qua 30 năm đổi mới, tập trung đóng góp nhiều ý kiến xác đáng, bổ sung hoàn thiện quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới. 
Phải chăng cần đặc biệt chú ý bảo đảm tính đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; không nôn nóng từ cực nọ nhảy sang cực kia; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, với tinh giản biên chế và cải cách tiền lương; xử lý hài hoà mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. 
Các nhiệm vụ và giải pháp đề ra phải phù hợp, khả thi, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài, góp phần giải quyết những vấn đề thực tế đang đặt ra đối với tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị cũng như các tổ chức cụ thể của Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là tổ chức bộ máy bên trong từng cơ quan, đơn vị. 
Phải chăng những việc nào đã rõ, đã chín thì kiên quyết làm ngay; việc nào chưa đủ rõ, quá phức tạp, ý kiến còn khác nhau nhiều thì tích cực nghiên cứu, mạnh dạn cho làm thí điểm rồi tổng kết, mở rộng dần?...
Đổi mới hoạt động 58 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập 
5- Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng và tích cực lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. 
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém, gây bức xúc xã hội và không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua, nhất là trong việc tổ chức lại và đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn trí tuệ và sự cống hiến của đông đảo đội ngũ trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học và lao động kỹ thuật chất lượng cao trong lĩnh vực này, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; đồng thời góp phần giải quyết vấn đề tổ chức, biên chế, cải cách chế độ tiền lương của toàn hệ thống chính trị.
Cho đến nay, chưa kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước, cả nước đã có khoảng 58 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập với 2,5 triệu biên chế; giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp công, liên quan đến mọi người, mọi nhà và toàn xã hội như: Dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao... 
Vì vậy, việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Đề nghị Trung ương tập trung phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Chú ý phân tích sâu về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tiếp tục đẩy mạnh đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập cũng như đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cần được tiến hành đồng bộ, quyết liệt nhưng thận trọng, vững chắc và đặt trong tổng thể tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; sự cần thiết phải đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công (xã hội hoá nhưng không thương mại hoá), phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. 
Xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân; vai trò, vị trí của các đơn vị sự nghiệp công lập trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu và định hướng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với bảo đảm ổn định chính trị, xã hội nói chung và từng ngành, lĩnh vực cụ thể nói riêng. 
Chú ý kế thừa, phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt được; căn cứ vào thực tế và trình độ phát triển của nước ta để rà soát, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách, có tính khả thi cao, nhất là các cơ chế, chính sách mới, có tính đột phá.
Thưa các đồng chí,
Nội dung chương trình của Hội nghị Trung ương lần này đề cập nhiều vấn đề rộng lớn, vừa cơ bản vừa cấp bách, liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, đổi mới phát triển xã hội, đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới phát triển kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng. 
Tất cả đều là những vấn đề quan trọng, phức tạp và nhạy cảm, có tác động trực tiếp đến đời sống của nhân dân, đến đông đảo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cả nước, được xã hội đặc biệt quan tâm và kỳ vọng.
Đề nghị các đồng chí phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án, dự thảo các nghị quyết, kết luận của Trung ương và xem xét, quyết định cùng với một số vấn đề quan trọng khác vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 12. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.

Đổi mới chính trị: ly nước chưa tràn của ông Tổng?


Trong những ngày cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2017, có hai sự kiện đặc biệt xảy ra: một là kiến nghị của ông Nguyễn Trung – cựu ĐS Việt Nam tại Thái Lan, Đức đối với cải cách mạnh mẽ chính trị; và thứ hai là quan điểm của cựu TBT Đảng – ông Lê Khả Phiêu với quan điểm không có đường lùi trong đổi mới bộ máy chính trị.


Xét về mặt phương diện nhận thức luận, thì kiến nghị của ông Nguyễn Trung sâu hơn, mang tính chi tiết hóa đòi hỏi đổi mới toàn diện về mặt chính trị hơn, và chính bước đi này nó mới giải quyết nốt những vấn đề liên quan đến tình hình chính trị (tham nhũng, bội chi) mà ông TBT Lê Khả Phiêu chỉ ra. Tuy nhiên, những diễn biến mang tính đồng thời về đòi hỏi đổi mới chính trị là một điều đáng chú ý.

Thực tế cho thấy, nhà nước Việt Nam có quá nhiều điều để làm, trong khi có quá ít tiền và nguồn nhân lực để thực hiện. Dù đặc tả ở mặt bộ máy nhà nước hay không, thì tất cả đều đi về cái gọi là: đặc thù cơ chế chính trị Việt Nam dẫn đến những hiện trạng như vậy.

Nợ công, nâng trần, hay nguồn tiền vay nợ dành để trả nợ là một bài toán nan giải, nhưng nổi trội nhất vẫn là, Việt Nam chưa tạo ra một cơ chế đủ tốt để kiểm soát sự gia tăng các yếu tố nêu trên – liên quan đến đội ngũ cán bộ công chức và cơ chế thiếu rạch ròi trong kiểm soát quyền lực hiện nay. Do vậy, dù ông Nguyễn Phú Trọng – đương kim TBT hiện thời có tỏ rõ quyết tâm là “đốt củi”, thì xét trên bình diện chung, nó vẫn là một cuộc chiến cực kỳ khó khăn, mà ông Trọng chỉ giải quyết giai đoạn đầu, còn giai đoạn 2 thuộc về người kế nhiệm. Nhưng vì mang tính chất lâu dài và kế nhiệm như thế, không ai đảm bảo rằng, cuộc chiến chống tham nhũng đã và đang trở thành một cuộc chiến tranh giành lợi ích, phe nhóm không hơn không kém.

Cuộc chiến chống tham nhũng, hay hạn chế lạm dụng quyền lực nhiều tránh phát sinh những tác hại trực tiếp đến nền kinh tế - chính trị - xã hội quốc gia, như đã đề cập, chỉ và chỉ có thể tiến hành qua công tác đổi mới chính trị.

Có một số quan điểm cho rằng, sự thậm thụt từ câu hỏi về việc liệu ĐH Đảng khi có sự mở ra – đóng vào các vấn đề nóng trên báo chí, kể cả ý kiến của con trai cả TBT Lê Duẩn về đổi mới chính trị trên báo CAND.

Đổi mới này nếu là sâu rộng, thì nó sẽ giúp chính ĐCSVN rất nhiều, như nhiều chuyên gia nhận định [1]. Trong đó: giúp ĐCSVN khẳng định tính hợp pháp (như cách thức mà Đổi Mới I từng mang lại), kết hợp giữa chủ nghĩa thực dụng và trọng dụng nhân tài như cách mà Đảng PAP (Singapore) đang tiến hành. Và bước đi cần thiết của Đổi mới II chính là cuộc chiến chống tham nhũng bằng sự cải cách sâu quy trình pháp luật để loại bỏ các quan chức tham nhũng, tạo sự ổn định chính trị (thay vì gây bất ổn bằng sự đàn áp). Bên cạnh đó là tự do lập hội, trong đó bao hàm cả các hội chức chính trị; loại bỏ các hạn chế ngầm về mặt tự do ngôn luận trên báo chí có thể giúp tiếp tục xác nhận vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua một cuộc thảo luận tự do, khuyến khích đổi mới,…

Vấn đề tiếp theo là liệu “người đốt lò” sẽ ứng xử như thế nào trước yêu cầu về mặt thời cuộc này, nó có quá khó đến mức không tưởng như cách ông TBT ký ban hành quy định của Bộ Chính trị về Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý?

Có, ông TBT Nguyễn Phú Trọng có thể đồng ý ½ đối với yêu cầu thời cuộc, nghĩa là “cách mạng bộ máy” như cách ông cựu TBT Lê Khả Phiêu diễn giải. Vì sao lại như vậy, vậy một người cộng sản gộc như ông Nguyễn Phú Trọng, người từng đặt luận cương lên trên Hiến Pháp nhà nước không dám để đi một bước “liều” như cách cựu Đại sứ Nguyễn Trung đặt ra. Mà ông Trọng sẽ quay lại cái thời điểm tháng 1/2015, theo đó, đổi mới chính trị của ông không phải là “làm thay đổi chính trị, bản chất Đảng”, mà chỉ đơn thuần là đổi mới “cơ chế, chính sách”. Cái cụm từ “đổi mới” lúc này bị bó hẹp vào việc thúc đẩy cải tổ lại bộ máy nhà nước hay chính sách theo hướng tinh giảm, như cách mà Bộ Công thương vừa rồi cắt 675 giấy phép con liên quan đến điều kiện kinh doanh.

Trong quan điểm “không thay đổi về bản chất chính trị”, thì ông Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị có thể chấp nhận thay đổi một phần tên đảng từ ĐCSVN sang Đảng Lao Động Việt Nam. Tuy nhiên, để thả tù nhân chính trị thì lại rất khó – bởi nó mang tính “cách mạng”, tức khi bản chất trong Đảng đã được thay đổi.

Kết quả của “đổi mới chính trị” lần này (nếu xảy ra) sẽ ít nhiều tạo tác động tích cực đến xã hội, như cách cuộc chiến “nhóm lò đốt củi” hiện nay, tuy nhiên, vì nó không phải là bản chất, nên nó sẽ không giải quyết đúng đắn tính cốt lõi mà Việt Nam hiện thời đang gặp phải. Nói cách khác, nó tương tự như việc tinh giảm biên chế trên lý thuyết, và thực tế lại đang phình to ra.

Nói như ông TBT Lê Khả Phiêu thì “cốc nước đã đẩy, không còn đường lùi, lùi là chết”, và tinh thân để giữ “chén uống nước” còn được uống, thì cần phải xem xét lại cái đĩa lót chén (tức chạm vào gốc của bản chất chính trị - bệ đỡ của chén uống nước). Nhưng suy cho cùng, dù “tinh thần” như thế nào, thì ông TBT Lê Khả Phiêu vẫn là một cựu TBT mà thôi, góp ý của ông có thể trôi vào quên lãng như cách ông từng góp ý không cho quân đội làm kinh tế. Còn đối với Đại sứ Nguyễn Trung thì ý kiến của ông dù có hợp lý, thì có thể nó cũng sẽ diễn ra tương tự như phán quyết dành cho những góp ý thời kỳ Hiến pháp 2013, theo đó ông Nguyễn Phú Trọng “lên án” hơn là sự tán dương, vì nhiều góp ý đã chạm vào Điều 4 Hiến pháp.

Quan điểm “Dù có trả giá cũng phải tiến hành đổi mới 2” chưa thực sự được ông Nguyễn Phú Trọng để tâm đến, vì ông tin rằng, ông có thể cứu Đảng bằng “lời khuyên và chỉ đạo”, bằng “đạo đức và văn minh” hơn là một sự cách mạng, hay dưới ngôn từ nhẹ hơn là – đổi mới. Thậm chí, ông Nguyễn Phú Trọng nếu so với ông Nguyễn Văn Linh, thì có phần rụt rè hơn rất nhiều. 

Trong một quan điểm có liên quan, muốn cải cách chính trị về mặt thực chất, thì trước hết, cần phải thành lập Tòa án Hiến pháp tại Việt Nam để đặt cơ quan tư pháp vào luồng dân chủ, nắn lại nội dung Luật trưng cầu dân ý để đi đến một sự phúc quyết về tính Đảng trong nhà nước. Khi thay đổi về mặt câu chữ liên quan đến Hiến pháp và tạo điều kiện cho Luật đảm bảo nhu cầu được lấy ý kiến của người dân, thì tác dụng “cách mạng chính trị” sẽ rất lớn, lớn đến mức vượt xa việc đổi tên Đảng – vốn mang tính chất hình thức, phù phiếm và mị dân.

Mẫn Nhi 

3 tháng 10, 2017

 Học trò giỏi của Tập Cận Bình


Nguyễn Phú Trọng sẽ không về hưu giữa nhiệm kỳ như dự định mà ông ta đã hứa với trung ương đảng. Trước đây ông ta từng hứa làm tiếp tục vì chưa xong công việc bồi dưỡng, chọn lựa người kế nhiệm.

Tờ báo Nikkei mới đây có một bài viết phân tích về những thủ đoạn của Tập Cận Bình nhằm muốn hướng tới nhiệm kỳ tổng bí tư thứ ba vào đại hội 19 của đảng CSTQ. Tập đã tiêu diệt những đối thủ có khả năng là người kế vị chức tổng bí thư như Tôn Chính Tài với một cuộc bắt giữ khẩn cấp với tội danh '' vi phạm kỷ luật đảng''. Thông qua việc bắt giữ Tô Chính Tài, người có khả năng kế nhiệm tổng bí thư thay Tập là Hồ Xuân Hoa cũng nhận được những thông điệp sẽ chung số phận với Tô nếu như có ý định làm người kế nhiệm Tập trong lúc này.

Không có người kế nhiệm đương nhiên Tập sẽ vẫn làm tổng bí thư.

Chiêu trò của Tập được học trò Nguyễn Phú Trọng áp dụng triệt để tại Việt Nam, từ cách thức đẻ ra những tổ, ban trong đảng và cách nắm chặt công an, quân đội và truyền thông, uỷ ban kiểm tra trung ương. Nguyễn Phú Trọng đã học Tập để loại trừ những người có khả năng kế nhiệm Trọng như Đinh Thế Huynh, Trần Đại Quang.

Khi Đinh Thế Huynh chớm ốm, Trọng lập tức cho dư luận rộ lên tin đồn đại để rồi bắt tay vào xử lý. Cách này Trọng đã từng áp dụng với Phùng Quang Thanh khi Thanh trị bệnh tại Pháp. Trước thềm đại hội 12, Phùng Quang Thanh đương nắm quân đội và có ý định không muốn về hưu nếu như trong bộ chính trị có người quá tuổi không về. Việc Thanh cương quyết như thế đã dẫn đến nhiều uỷ viên BCT khác của khoá 11 cũng không có ý định về. Trọng đã cho người tung tin đồn ầm ĩ về Thanh , để rồi trung ương ấy cớ dư luận đồn đại mà đưa thông báo Thanh bị bệnh nặng phải chữa trị  nước ngoài. Rồi nhân cớ để bảo đảm uy tín đảng, Trọng cho quân áp giải Thanh từ sân bay về và giam lỏng cho đến khi Thanh tự làm đơn xin rút khỏi chính trường mới buông tha.

Cách thức lợi dụng truyền thông để tạo dư luận rồi đứng ra giải quyết được Trọng lặp lại nhiều lần, từ những chuyện như xe sang biển công đến vụ Phùng Quang Thanh, tiếp đến mới đây là Đinh Thế Huynh chớm ốm, Trọng đã cho người tung tin trong dư luận dồn đại rồi nại cớ để trấn an dư luận, Trọng cho Trần Quốc Vượng thay thế Huynh. Đến nay Huynh đã khỏi bệnh muốn đi làm lại nhưng Trọng đã lờ đi lời đề nghị của Huynh. Số phận chính trị của Huynh đã chấm dứt bởi y là người có những tố chất làm tổng bí thư mà Trọng đã đề ra  ở quy định 90 vào ngày 22 tháng 8 năm 2017.

Quy định 90 của Trọng nhấn mạnh người làm tổng bí thư phải có lý luận, tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê Nin. Quy định này được ban ra khi Huynh vừa bị rời khỏi ghế thường trực ban bí thư do đi chữa bệnh.

Đối tượng kế nhiệm thứ hai của Trọng là chủ tịch nước Trần Đại Quang, đây là đối thủ mà Trọng tốn nhiều công sức để hạ bệ nhất. Dù dùng nhiều thủ đoạn âm thầm chia rẽ, cô lập Trần Đại Quang nhưng Trọng vẫn chưa làm được gì bởi Quang là người kín kẽ, thận trọng và giữ mình. Phải đợi đến khi Quang bị bệnh cần điều trị, Trọng mới áp dụng biện pháp cũ là tạo dư luận đồn đoán để ra tay. Lần này vẫn con bài Huy Đức được Trọng sử dụng để dẫn dắt dư luận đòi thay thế chủ tịch nước vì lý do vắng mặt đi trị bệnh, một cách đã thành công trước đó với Đinh Thế Huynh.

 Đối tượng còn lại duy nhất bây giờ có thể kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng ở giữa nhiệm kỳ chỉ còn lại Nguyễn Xuân Phúc. Tuy nhiên Phúc có quá nhiều tội lỗi mà Trọng nắm giữ, cho nên Phúc chỉ duy nhất một đường thần phục Trọng không dám nghĩ đến chuyện kế ngôi, hoặc Phúc đã che đậy ý định phản Trọng như đã từng phản Nguyễn Tấn Dũng thật khéo léo để Trọng không biết.

 Sức mạnh của Nguyễn Phú Trọng có được từ quyết định xa rời ảnh hưởng của các nước phương Tây và gắn chặt với Tập Cận Bình, áp dụng xuất sắc nhưng gì Tập Cận Bình đã làm ở Trung Quốc. Trọng nhận được nhiều giúp đỡ của Tập trong chính trị , kinh tế cũng như kiểm soát quyền lực. Chỉ số đầu tư nước ngoài tăng là một thành công mà Trọng đem ra trưng với trung ương rằng không cần tư bản, Việt Nam vẫn có thể thu hút đầu tư. Tính đến tháng 9 năm 2017 con số vốn đầu tư nước ngoài đã tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái.

 Nhưng cục thống kê không nói rõ con số tăng này là do nguồn vốn FDI, nguồn vốn do các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp, nắm quyền quyết định, vốn FDI được ưa thích sử dụng vào những nước có tài nguyên nhiều, nền chính trị dễ mặc cả đi đêm. Trong số vốn đầu tư FDI tăng vọt mà bộ sậu Trọng, Phúc coi là thành công này chủ yếu từ Trung Quốc. Đây là hỗ trợ của Trung Quốc cho bộ sậu Trọng, Phúc có con số thành tích để trưng ra. Sự hỗ trợ này nằm trong thoả thuận hồi đầu năm  Trọng tiếp xúc với các chủ đầu tư Trung Quốc trong lần tiếp kiến Vương Kỳ Sơn, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra trung ương đảng CSTQ để nhận lời bảo đảm sẽ đầu tư cho Việt Nam nếu như Trọng, Phúc thực hiện mô hình mà Trung Quốc muốn Việt Nam làm theo.

 Với sự hỗ trợ về đầu tư FDI của Trung Quốc, Nguyễn Phú Trọng đã có được sức mạnh để cùng thuộc hạ Nguyễn Xuân Phúc làm một cuộc thanh trừng những phần tử thân phương Tây trong đảng, cũng như những kẻ có ý định kế nhiệm chức tổng bí thư của Trọng giữa nhiệm kỳ. Cuộc chiến mà cả Tập và và Trọng hô hào chống tham nhũng thực chất là mượn cớ để thanh trừng đối thủ, kiểm soát quyền lực. Bởi những uỷ viên bộ chính trị cộng sản ở Việt Nam hay Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba có kẻ nào không tham nhũng hay chiếm đoạt tài nguyên đất nước. Cho nên nói rằng vị tổng bí thư này, vì thủ tướng cộng sản kia liêm khiết đánh tham nhũng vì dân vì nước chỉ là luận điệu của những kẻ bồi bút lừa mị dân chúng, để che đậy những âm mưu soán đạt quyền lực và cướp bóc lẫn nhau trong nội bộ đảng cộng sản.

Nếu như Tập Cận Bình tiếp tục kiểm soát quyền lực và tiến tới thêm một nhiệm kỳ nữa, ở Việt Nam chắc chắn Nguyễn Phú Trọng cũng tiếp bước như vậy. Nhưng quy định điều lệ đảng sẽ trở thành những tờ giấy vô nghĩa. Xu hướng của cộng sản và các nước độc tài đã có chiều hướng lãnh tụ nắm ngôi vô hạn như ở Nga, Triều Tiên, Cu Ba ...và Trung Cộng và Việt Cộng đang noi theo.

Việc Tập, Trọng thành công, điều ấy đồng nghĩa Việt Nam thần phục và lệ thuộc Trung Cộng sâu nặng hơn rất nhiều đến mức thành một chư hầu không thể thoát ra. Nền chính trị , đời sống văn hoá, tôn giáo  của người dân Việt Nam sẽ trong cảnh ngột ngạt vì khủng bố và đàn áp.

Trong bối cảnh trung ương đảng CSVN khiếp nhược và sợ hãi trước Trọng như hiện nay, không thể có những ý kiến mạnh đòi hỏi để đảng CSVN tự quyết định người kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng. Chỉ có những lãnh đạo về hưu còn có thể cất tiếng nói đòi hỏi quyền tự chủ  quyết định người lãnh đạo đảng CSVN. Cuộc chiến chính trường Việt Nam sắp tới nếu có khó khăn cho Nguyễn Phú Trọng, chính là những nguyên lão của đảng CSVN.

 Nhưng những nguyên lão CSVN cũng dễ mua chuộc, chỉ cần thăm gặp và khen ngợi với chút quà cùng với một vài bài báo, dăm phút tung hô trên truyền hình, họ sẽ bỏ tất cả những gì mà họ nghĩ là ích lợi cho đất nước, dân tộc như các loại Trần Đình Hương, Nguyễn Trọng Vĩnh để lấy chút trọng thị của những kẻ đang nắm quyền.

 Cùng với sự nắm chắc quyền lực của Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc  đất nước Việt Nam lệ thuộc Trung Cộng là điều đương nhiên, đàn áp dân chủ cao độ cũng là điều đương nhiên. Không có tia sáng nào cho nền dân chủ Việt Nam cả, mọi sự cố gắng của các phong trào dân chủ lúc này đều phải trả giá đắt. Đó là sự thật đang diễn ra và sẽ diễn ra.

Người Buôn Gió

(Blog Người Buôn Gió)

30 tháng 9, 2017

Hữu nghị Trung - Việt, mộng tưởng của những kẻ mị dân

Quan hệ Trung – Việt đã có một lịch sử tới 2.000 năm. Trong 1.000 năm đầu, trừ thời gian ngưng chiến ngắn ngủi và những lúc ở Trung Quốc có nội loạn, còn toàn bộ thời gian có thể nói là Trung Quốc đã trực tiếp thống trị Việt Nam. Trong 1.000 năm sau, tuy Việt Nam không bị Trung Quốc trực tiếp thống trị, nhưng họ chịu đủ mọi thứ đối xử không bình đẳng, như là một thuộc quốc, xen vào đó là thời kỳ cách quãng của những cuộc chinh phục bằng quân sự.


Như Engene Lawson nói: “Điều mà Trung Quốc đắn đo chủ yếu đối với Việt Nam không phải là chuyện cướp đoạt của cải, mà chính là vì an ninh của bản thân Trung Quốc. Điều mong mỏi nhất quán trong chính sách của Trung Quốc là muốn ở khu vực bắc Việt Nam phải do một Chính phủ tương đối hữu nghị thân thiện lãnh đạo. Vì trong giới lãnh đạo của Trung Quốc Cộng sản hiện nay vẫn ghi nhớ một nỗi đau là vào cuối thế kỷ XVIII người Pháp đã thâu tóm khu vực Đông Dương và vùng Tây Nam của Trung Quốc thành phạm vi thế lực của mình. Năm 1940, vì lợi ích quân sự, người Nhật đã nắm lấy quyền lực hành lang Việt Nam – Tokyo”. Kỳ vọng truyền thống của Trung Quốc đối với Việt Nam là Trung Quốc muốn Việt Nam trở thành một quốc gia đệm ở trên vùng biên giới để đối phó với những nguy cơ từ sự xâm lược từ bên ngoài vào. Cho đến ngày hôm nay, khi phải lo lắng ý đồ Liên Xô bao vây Trung Quốc, thì kỳ vọng đó vẫn cứ tồn tại. Chỉ nhìn bối cảnh lịch sử 2.000 năm, chúng ta cũng không thể xem thường Chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc và mưu đồ Hán hóa các quốc gia xung quanh họ. Còn hiện nay Chủ nghĩa bá quyền dân tộc cộng với sức mạnh của hình thái ý thức, thì đó chính là thứ Chủ nghĩa cộng sản dưới sự chỉ đạo của tư tưởng Mao Trạch Đông, Tình cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc tương đối phức tạp, nó là một mối mâu thuẫn chứa đầy hận thù với hữu nghị.

Một mặt, người Việt Nam ca tụng và tôn trọng Trung Quốc như là nơi bắt nguồn cho những quan niệm mới, những tư duy mới của họ: tư tưởng và quan niệm về các mặt chế độ nhân viên hành chính, tư tưởng Nho gia, ngôn ngữ và cả đến chế độ nông nghiệp của Trung Quốc, thế nhưng trên mặt khác, người Việt Nam bao giờ cũng nghi ngờ ý đồ thật của Trung Quốc xâm lược Việt Nam và họ rất căm ghét thái độ ngạo mạn của người Trung Quốc đối với “Nam man”. Thực trạng quá khứ Trung Quốc xâm lược Việt Nam đã làm cho người Việt Nam khiếp sợ sự thống trị của Trung Quốc, thậm chí ngay cả ở trong nước người Việt Nam cũng rất sợ bị các Hoa kiều có thành đạt về mậu dịch và buôn bán khống chế. Đương nhiên có một phần nhân cách con người dân tộc Việt Nam đã bị Trung Quốc hóa, song họ vẫn rất kiên trì bảo vệ giữ gìn tính độc lập về văn hóa và tính cách của chính bản thân mình. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX, có hai sức mạnh làm cho những người cách mạng Trung Quốc và những người cách mạng Việt Nam gắn bó với nhau: Sức mạnh thứ nhất là Chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lật đổ Chính phủ Mãn Thanh, đó là tấm gương cho những người Việt Nam dân tộc chủ nghĩa. Sức mạnh thứ hai là cả hai bên đều có chung mục đích cố gắng đánh đổ Chủ nghĩa đế quốc phương Tây mà đỉnh cao của nó biểu hiện ở việc cách mạng Việt Nam đã đánh đổ được ách thống trị của hai cường quốc Pháp vàMỹ.

Trung Quốc, kẻ thù của Việt Nam
Đối với người dân Việt Nam, Trung Quốc là kẻ thù ngàn năm, là kẻ thù số một.
Alexiou có chỉ ra rằng: chúng ta có thể dễ dàng thấy được liều thuốc kích thích Trung Việt quan hệ với nhau. Đó là vào những năm cuối đời nhà Thanh, tiên sinh Tôn Trung Sơn đã lấy Hà Nội làm một căn cứ để phát động cách mạng Trung Quốc; còn năm 1911 những người cách mạng Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Tôn Trung Sơn đã lấy Quảng Châu làm một căn cứ cách mạng của mình.  Harold Hinton chỉ rõ: “Con đường của Chủ nghĩa dân tộc hiện đại của Trung Quốc và Việt Nam là con đường tiến song song, cũng có khi nó gắn chặt với nhau”.

Mâu thuẫn trong quan hệ Trung – Việt đã biểu hiện cụ thể ở Hội nghị Băng Đung năm 1954. Lawson nói: “Bắc Kinh vô cùng phản đối ý đồ của Hà Nội, họ ép Hà Nội phải biểu thị công khai rằng sẽ không can thiệp vào công việc của Lào”.  Năm 1954, Việt Nam đánh bại Pháp, sau đó tổ chức đàm phán ở Giơ-ne-vơ vào tháng 5, thảo luận về việc quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 để phân chia Nam, Bắc Việt Nam. Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị lần đầu tiên Trung Quốc tham gia với vai trò quyền lực. Đến sau này, quan hệ Trung – Việt bị phá vỡ vào năm 1979, Việt Nam đã công bố “Sách trắng”, trong đó có nêu rõ: “lúc đó họ đã sắp sửa nhanh chóng giành được thắng lợi trên toàn Đông Dương và chỉ trích Trung Quốc trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã ép Việt Nam phải chấp nhận đề nghị phân chia Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thành hai nước”.

“Sách trắng” còn công bố, sau khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chu Ân Lai đã đề nghị với em trai Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Nhu để Miền Nam Việt Nam được công khai đặt Công sứ quán tại Bắc Kinh. Hành động này, theo “Sách trắng” để lộ, chứng tỏ Trung Quốc có ý đồ làm cho Việt Nam vĩnh viễn bị chia cắt.  “Sách trắng” tiếp tục nói rõ, Việt Nam cho rằng mục đích cuối cùng trong chính sách ngoại giao đối với Đông Nam Á của Mao Trạch Đông là duy trì sự chia cắt Việt Nam để Trung Quốc có thể đạt được mưu đồ thống trị toàn Đông Nam Á. Lawson cũng từng nói rằng: “Trung Quốc rất hài lòng với Hiệp định này. Và trên thực tế là trong vòng 10 năm sau, Hiệp định Giơ-ne-vơ đã chi phối cách suy nghĩ của Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề liên quan đến Việt Nam”. Cho đến tận nay, Việt Nam vẫn nói rằng, dưới sức ép của Trung Quốc, nên trong Hiệp định Giơ-ne-vơ, Lào chỉ giành được hai tỉnh của cả nước Lào để có thể làm khu căn cứ xây dựng và chỉnh đốn quân đội, Việt Nam còn tố cáo Trung Quốc khi thừa nhận chính quyền Sihanouk đã không dành cho quân Cộng sản Cămpuchia một vùng đất đai nào cả.

hiệp định Geneva
Với tư cách là “chủ đầu tư” chính cho lực lượng Việt Minh đánh Pháp. Lần đầu tiên, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc được xuất hiện tại Geneva với tư cách là nước lớn và có tiếng nói trên thế giới thông qua chiến thắng Điện Biên Phủ.
Báo Nhân dân của Việt Nam có viết: “Chính sách của họ (Trung Quốc) lúc đó là mong cho nội bộ Việt Nam và Lào bị chia rẽ, đồng thời muốn lợi dụng Miền Bắc Việt Nam cùng với hai tỉnh giải phóng của Bắc Lào làm thành khu vực đệm theo biên giới phía nam của Trung Quốc. Họ đã phớt lờ lợi ích của cách mạng Cămpuchia, trong khi đó cách mạng Cămpuchia đã giải phóng được hai phần ba đất nước”. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1964, giới lãnh đạo của Trung Quốc luôn hy vọng dùng biện pháp đàm phán và biện pháp tiến đánh du kích nhỏ lẻ để giải quyết vấn đề xung đột với Việt Nam, bởi vì trong thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60, chính sách của Trung Quốc là muốn ủng hộ Chính phủ trung lập ở Lào và Cămpuchia, cốt để tránh được việc Việt Nam mở rộng lực lượng trên hai nước này. Sau này, trong một bài bình luận, tờ Kinh tế Viễn Đông (FEER) đã tỏ ra đồng tình với các nhận định này, viết rằng “Theo một số nhân sĩ đã từng có quan hệ thân thiết với cố thủ tướng Chu Ân Lai đã để lộ, trong Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, đúng sự thực là Chu Ân Lai đã chặn ý muốn của Việt Nam thống trị toàn Đông Dương, đồng thời ông đã ép Việt Nam phải chấp nhận Lào, Cămpuchia, Việt Nam là từng nước độc lập với nhau. Nhưng Việt Nam đã phản bác lại cách đặt vấn đề như thế, họ cho rằng, chính Trung Quốc vì muốn mở rộng Chủ nghĩa bá quyền nên mới buộc ba nước Đông Dương phải phân lập với nhau”.

Nhưng để hiểu được tố cáo của “Sách trắng” của Việt Nam, chúng ta cần phải hiểu rõ chính sách cân bằng của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam vào lúc đó. Lawson nói: “Đã từ lâu Việt Nam phát hiện Liên Xô và Trung Quốc đều giống như nhau, cả hai đều muốn ủng hộ có mức độ cho Việt Nam chỉ đủ đạt mức phù hợp với các mục tiêu của họ. Trước năm 1954, Liên Xô ủng hộ Việt Nam vô cùng nhỏ nhoi. Và trong đàm phán ở Hội nghị Giơ-ne-vơ, Liên Xô và Trung Quốc đã cùng nhau ép buộc Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện bất lợi.” Cho nên sau khi kết thúc hội nghị đàm phán Giơ-ne-vơ, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã vun đắp quan hệ tốt đẹp với Liên Xô và Trung Quốc để giành được viện trợ cho xây dựng kinh tế và tiến hành đấu tranh ở Việt Nam.

Huỳnh Tấn Bửu

(Quan Hệ Quốc Tế)

29 tháng 9, 2017

Bầu cử ở Đức, đốt củi ở Việt Nam và cơn lốc Trịnh Xuân Thanh

Sa Huỳnh (Berlin)
Theo Thoibao 
Sáng ngày Chủ Nhật, 24.09.2017, sau buổi điểm tâm, tôi cùng cô bạn đi tham gia bầu Quốc Hội nước Đức. 

Bầu cử ở Đức, đốt củi ở Việt Nam và cơn lốc Trịnh Xuân Thanh
Đương kim Thủ tướng Angela Merkel đã được nhiều công dân Đức gốc Việt bỏ phiếu ủng hộ. 

Đối với tôi, có quốc tịch từ năm 1991, nên chẳng phải là lần đầu. Riêng cô bạn tôi, vẫn còn là công dân Việt, nên chỉ đi theo để... quan sát.

Trên đường đi, nàng bảo: "Lạ thật, không khí bầu cử ở đây im ắng, khác với ở Việt Nam. Ra đường chỉ thấy từng cặp dắt tay nhau, ăn mặc chỉnh tề, chuyện trò vui vẻ đi vào phòng phiếu. Ở Việt Nam ta, vào những dịp như thế thì rất ồn ào. Khẩu hiệu, cờ quạt treo khắp nơi. Đỏ chóe làm chói cả mắt. Chưa kể loa phường thi nhau phát công xuất tẹc ga ngay từ sáng sớm. Nhức hết cả đầu."

Tôi mỉm cười thông cảm: "Ở những nước văn minh, nền dân chủ đã phát triển cao, mọi người dân đều ý thức được tầm quan trọng của lá phiếu, nên không cần ai... hò hét. Ở những nước kém phát triển hầu hết đều khác xa. Không giăng cờ, không khua mõ... chắc ít ai chịu đi bầu. Nước Việt Nam ta cũng không ngoài trường hợp đó. Ngoài việc kém phát triển về dân chủ, nước ta còn bị nạn độc quyền lãnh đạo, theo nguyên tắc 'đảng cử - dân bầu', nên lá phiếu thực ra chẳng có giá trị gì."

Trong kỳ bầu cử này, tại nước Đức có đến 48 đảng phái tham gia. Nhưng thực tế chỉ có 6 đảng: CDU/CSU, SPD, Grüne, Linke, FDP và AfD là có khả năng chia nhau 631 số ghế ngồi trong Quốc hội. Đảng nào, hay liên minh nào, chiếm được từ 316 ghế trở lên, sẽ được phép thành lập chính quyền, bầu Thủ tướng, thành lập nội các, thảo ra chương trình hành động cho nhiệm kỳ 4 năm tới.

Đúng 18 giờ ngày bầu cử, mọi việc đã rõ ràng. Đương kim Thủ tướng Angela Merkel, 63 tuổi, sẽ tiếp tục trong vai trò lãnh đạo. Nhưng rất tiếc, đảng của bà không nắm quyền lực một mình, mà phải chia bớt một phần cho đảng xanh Grüne và đảng vàng FDP, bởi CDU/CSU chỉ được 32,9% tổng số phiếu.

Dù chiếm được 20,6%, nhưng đảng SPD đã tuyên bố rời liên minh cầm quyền, nhận lãnh vai trò dẫn đầu đối lập trong quốc hội, để ngăn việc đảng cực hữu AfD, với 13% số phiếu, là lực lượng mạnh thứ 3, sẽ thao túng nghị trường.

Đối với tôi, kết quả là tạm chấp nhận được. Tôi đã bầu cho đảng Xanh, dù tôi thuộc khuynh hướng CDU và SPD. Việc làm của tôi nhằm mục đích giúp không khí dân chủ trong Quốc hội. Với sự suy nghĩ rằng, dù sao thì CDU/CSU và SPD cũng sẽ thành những lực lượng chính trị mạnh nhất và nhì, họ sẽ không cần thêm phiếu nữa, chúng ta dành cho đảng phái khác, hầu giảm bớt sức mạnh của 2 đảng mà tôi không hài lòng, là đảng cánh tả Linke, và cánh hữu AfD.

Theo thông tin trong những ngày qua, đây là một "chiến lược" không phải của riêng tôi, mà của nhiều cử tri khác trên nước Đức. Vì vậy, việc các chính đảng lớn là CDU/CSU và SPD, bị mất phiếu trầm trọng trong kỳ này, có thêm một lý do vô cùng dễ hiểu. Ít nhất là tôi đã không bầu cho họ, như những lần qua.

Trên đường về, khi nghe tôi kể về suy nghĩ của mình, cô bạn đã thốt lên: "Ước gì ở quê hương Việt Nam của mình, cử tri cũng được cơ hội dân chủ để chọn lựa như thế, có nhiều đảng phái ra tranh cử như ở Đức hiện tại. Lúc ấy nếu người dân vẫn chọn đảng Cộng sản làm lãnh đạo đất nước, và bên cạnh có nhiều đảng đối lập làm nhiệm vụ kiểm tra, thì quyền lực sẽ không còn bị lạm dụng, đỡ khổ cho dân mình biết bao. Và những người 'cộng sản chân chính' có lòng với vận mệnh đất nước, cũng đỡ nhức đầu, với tình hình ngoài tầm kiểm soát như hiện nay."

Tôi gật đầu: "Đúng là như vậy, nhưng vô cùng gian khó. Đảng Cộng sản có tổ chức rất tinh vi, chặt chẽ và chằng chịt từ lâu trong xã hội Việt Nam. Điều đó vô cùng có lợi trong thời kỳ chiến tranh, vì nhờ thế mà đảng đã có thể nắm toàn bộ quyền hành để quyết định và triển khai sức mạnh. Thế nhưng ngày nay, trong thời kỳ xây dựng, cần phát triển mọi mặt khác trong xã hội, đưa đất nước tiến lên, hội nhập vào dòng chảy tiến bộ của toàn thế giới, chúng ta cần một thể chế dân chủ, minh bạch, tự do, trong tinh thần thượng tôn pháp luật."

Dù trong nước, hiện nay có bao người, kể cả những người cộng sản, trăn trở về một hướng đi đúng đắn cho dân tộc, và đặc biệt là thành phần trí thức, dù trong những năm tháng qua họ bị làm thui chột, mất dũng khí, đôi khi phải chịu tiếng ươn hèn. Những người cộng sản muốn thay đổi cũng không dễ, vì chính cái tổ chức chặt chẽ tinh vi, lại trở thành "gậy ông đập lưng ông". Điển hình là chính sách độc đảng, chính sách hộ khẩu, đảng cử / dân bầu, sổ hưu và lý lịch, vân vân.

Đã từ lâu những chính sách này đã giúp đảng ổn định, tồn tại và phát triển. Rất có lợi trong thời kỳ chiến tranh. Thế nhưng hiện nay, chính sách này đã và đang thành trở ngại, bó tay đảng về những tham vọng như quyết tâm đổi mới, chuyển mình tiến bộ, đoàn kết dân tộc, bài trừ tham nhũng, chống nạn bè phái, xây dựng dân chủ, hoà giải và hoà hợp dân tộc.

Thật ra, nạn bè phái và nạn tham nhũng tuy hai mà một. Bởi chính vì cùng có mưu đồ tham nhũng nên các nhóm lợi ích kết lại thành bè phái. Và vì quyền lực không được kiểm soát nên nhóm bè phái càng thêm sức mạnh, sự tham nhũng càng bành trướng to hơn. Đến lúc cần, họ lại thanh toán, triệt hại nhau, đất nước càng điêu linh và nghèo khó.

Điển hình hiện nay là việc ví von "nung lò, đốt củi" của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Dù ông rất quyết tâm bài trừ tham nhũng, thế nhưng đại đa số người dân đều không tin vào sự thành công. Họ càng không tin rằng, nạn tham nhũng và nạn bè phái, cuối cùng sẽ hoàn toàn biến mất trong nhà nước CHXHCN Việt Nam. Bởi khi đốt xong được đám củi này thì đám củi khác lại... hiện ra, đôi khi còn cứng và khó cháy hơn những đám củi khác. Bởi tham nhũng và bè phái càng ngày càng khôn, tinh ma hơn.

Nguyên do của vấn nạn này chính là sự thao túng quyền lực. Mà bản chất con người là tham lam quyền lực để dễ bề thực hiện được lòng tham, chiếm đoạt của cải vật chất, biến của công thành của riêng mình. Không ai tự nhiên từ bỏ quyền lực và từ bỏ lòng tham, trừ khi bị bắt buộc.

Và vũ khí hữu hiệu giúp thực hiện sự bắt buộc đó, chúng ta không phải mất công tìm kiếm hay mò mẫm đâu xa, vì thiên hạ trong thế giới đã tìm ra cả mấy trăm năm nay rồi. Đó là xây dựng một thể chế dân chủ, có khả năng kiểm soát quyền lực, theo hình vòng tròn của tam quyền phân lập: Lập pháp (Quốc hội), Tư pháp (Tòa án) và Hành pháp (Chính quyền).

Ba cơ quan này phải tuyệt đối độc lập với nhau, không quyền nào được đứng trên quyền nào, cùng nhau giúp điều hành sự hoạt động và trật tự xã hội, mang ấm no, hòa bình, hạnh phúc và công bằng đến cho tất cả mọi người.

Trở lại tình hình đất nước ta, ngoài những thiếu sót về một thể chế dân chủ, như đã nói ở trên, dư luận hiện nay cũng nghi ngờ quyết tâm đánh bại tham nhũng của ông Nguyễn Phú Trọng. Họ cho rằng, thực ra đó chỉ là màn đấu đá nội bộ, nhằm tranh giành quyền lực và làm các đối thủ, phe của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yếu đi, để chuẩn bị nhân sự của phía ông, cho kỳ Đại Hội đảng lần thứ 13. Bởi nếu không nắm được quyền lực, đảng sẽ mất khả năng kiểm soát và quyết định, trong bối cảnh một nền kinh tế khó khăn và xám xịt như hiện nay, cùng với sức ép về đòi hỏi quyền con người của quần chúng, đòi hỏi dân chủ của những phong trào đấu tranh dân sự, cũng như đòi hỏi phải cứng rắn hơn với chính quyền Trung Quốc, của tuyệt đa số người dân trong và ngoài nước.

Chính vì những ngờ vực đó, mà lòng tin của dân chúng ở trong nước, vào một đất nước trong sạch với sự phát triển bền vững, không có nền tảng vững chắc.

Còn đối với người Việt ở ngoài nước, hay còn gọi là "khúc ruột ngàn dặm", lòng tin ấy đã ít ỏi từ lúc không mấy ai hài lòng, về thái độ quá mềm yếu của nhà nước, đối với sự hung tàn, xem thường khí phách dân tộc Việt Nam của bành trướng Bắc Kinh. Đến tình trạng đạo đức xã hội và học đường xuống dốc thảm hại. Tiếp theo là vấn nạn tham nhũng tràn lan, ăn sâu vào gốc rễ khắp mọi cơ sở và tổ chức xã hội ở Việt Nam.

Lòng tin ít ỏi đó lại càng ít đi hơn, sau... cơn lốc Trịnh Xuân Thanh (TXT).

Đặc biệt Việt kiều tại Đức, lúc đầu rất hoang mang bởi 2 nguồn dư luận.

Hoặc là ông TXT "đầu thú", theo như thông tin nhà nước, một tuần sau khi TXT mất tích tại Berlin, rồi xuất hiện bơ phờ trên truyền hình Việt Nam.

Hay "bị bắt cóc", theo như nguồn tin từ những trang báo đáng tin cậy trong và ngoài nước, đặc biệt là sự nhạy bén, chuyên nghiệp của tờ Thoibao.de ở Berlin, mà Tổng biên tập là ông Lê Trung Khoa.

Sự hoang mang này lập tức được giải tỏa, sau khi có sự xác nhận của chính quyền Đức. Dựa vào kết quả điều tra, Đức cáo buộc điệp viên Việt Nam, cùng liên quan với Đại Sứ Quán tại Berlin, đã tổ chức bắt cóc người, trên lãnh địa nước Đức. Vi phạm trắng trợn, chưa có tiền lệ, chủ quyền nước Đức và luật pháp quốc tế.

Việt Kiều tại Đức rất tin tưởng vào nguyên tắc làm việc của người Đức. Tin tưởng vào sự chính xác, khoa học, kiên trì với bài bản nghiêm túc của họ. Chẳng khác chi khi nhìn họ chơi đá bóng. Họ chơi nhẫn nại, siêng năng, kỷ luật, không chán nản. Thế trận trông rất chậm chạp từ từ, nhưng sức ép vào khung thành đối phương vô cùng nặng ký và dũng mãnh.

Người Đức không khôn lõi, dối trá hay xảo quyệt. Người Đức tôn trọng pháp luật và những qui ước đã thỏa thuận cùng nhau. Người Đức không tìm cách nói trắng thành đen. Tóm lại, những gì chính quyền Đức tuyên bố, Việt Kiều đều hết sức tin tưởng. Và khi họ nói là "bắt cóc", thì sẽ không có nghĩa là "ra đầu thú".

Chính vì vậy mà phía Việt Nam phải ngậm đắng nuốt cay, khi phía Đức trục xuất 2 nhà ngoại giao, vì họ phát hiện có những dấu hiệu dính dáng trực tiếp đến bắt cóc.

Họ tạm dừng quan hệ đối tác chiến lược đã ký kết tại Hà Nội, từ năm 2011, giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và bà Angela Merkel.

Họ yêu cầu nhà nước Việt Nam có lời xin lỗi nước Đức, hứa không tái phạm những phi vụ bắt cóc như vậy nữa trên nước Đức. Họ bảo lưu những biện pháp trừng phạt khác trong thời gian tới, nếu phía Việt Nam vẫn khư khư với ý kiến bảo thủ rằng, ông TXT đã về nước đầu thú và bị bắt tại Việt Nam.

Họ cũng yêu cầu có giám sát viên quốc tế, tham gia vào việc xét xử TXT.

Họ cho rằng, còn có thêm vài nhân viên tại Đại Sứ Quán dính líu dến vụ này. Nhưng mục đích của họ không phải là đuổi hết người về rồi đóng cửa cơ quan ngoại giao. Họ chỉ muốn phía Việt Nam thực hiện những điều cần thiết, để khôi phục lại niềm tin đã mất, và nối lại bang giao tốt đẹp như lúc ban đầu.

Thế là, Việt kiều tại Đức đang từ giai đoạn hoang mang, chuyển qua giai đoạn bị bàng hoàng. Nhất là 2 ngày sau bầu cử, thái độ Đức càng quyết liệt hơn. Ngưng cấp Visa cho một phái đoàn Việt Nam muốn đến Đức làm việc. Đóng các lịch hẹn xin cấp Visa trên 90 ngày cho sinh viên, học nghề. Tuyên bố của Đức được sự hưởng ứng của vài thành viên khác thuộc Liên minh Âu Châu, như Pháp, Ý, Thụy Điển, Hà Lan...

Ngày lễ Quốc khánh năm nay, Đại Sứ Quán Việt Nam không tổ chức hoành tráng như những lần trước, mà chỉ làm cho có lệ. Với một nhóm chừng 40 người, ngồi trong một căn phòng nhỏ hẹp. Nhân viên ngoại giao và người thân của họ, đã chiếm một phần không ít. Một vài gương mặt doanh nhân quen thuộc, chỉ đại diện cho một thiểu số nhỏ kiều bào. Dư luận cho rằng, đây là một buổi tổ chức nhằm đối phó với truyền thông báo chí, đối phó với tình thế lưỡng nan: Tổ chức to thì phía Đức không đi, không tổ chức thì mất thể diện.

Nghe đến đó, cô bạn tôi tiếp lời: "Hiện nay ngoài việc bàng hoàng như anh nhận định, Kiều bào ta tại Đức còn cảm thấy bất an và nguy hiểm, bởi sự lộng hành của các điệp viên Việt Nam trên nước Đức."

Tôi cũng thêm vào: "Chẳng những thế mà họ còn cảm thấy bị xúc phạm. Vì sau mấy mươi năm sống và làm việc trên nước Đức, phần lớn đã hội nhập hay nhập quốc tịch, con cái đã có cuộc sống vững vàng, đa số Việt kiều xem đây là quê hương đã che chở và cưu mang mình, nên rất biết ơn. Bất cứ nước nào, chứ không riêng gì Việt Nam, nếu xâm phạm vào lãnh thổ Đức, hay vi phạm pháp luật nước Đức... cũng khiến cho mọi người phẫn nộ và đau lòng. Chỉ những người vô ơn mới có thái độ ngược lại."

Cô bạn ngước mắt nhìn tôi: "Anh nói đúng, người Việt tại Đức nên có thái độ đúng đắn kịp thời. Chúng ta mong nhà nước Việt Nam nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu rõ ràng và chính đáng của chính quyền Đức, nhằm khôi phục lại niềm tin. Nhằm bảo vệ những thành quả ngoại giao đã đạt được, mà trong đó, công lao đóng góp của bà con Việt kiều, cũng như của các hội đoàn người Việt tại Đức, là vô cùng to lớn, đáng quí và hiệu quả."

Tôi biểu lộ sự đồng tình: "Đó là mong ước và góp ý chân tình, rất hợp lý đối với nhà nước Việt Nam. Riêng đối với Đại Sứ Quán, dựa theo thông tin từ phía Đức, ai cũng nhận ra rằng, chính ngài Đại Sứ, là một trong những người chịu trách nhiệm lớn, trong... cơn lốc Trịnh Xuân Thanh. Cơn lốc này đã phá tan, trong thời gian ngắn, những nỗ lực của bà con. Tuy vậy, có lẽ bà con không cần một lời xin lỗi, nhưng nếu có một buổi đối thoại rộng rãi, trong tinh thần cởi mở, chân tình... sẽ giúp đôi bên thông cảm, đưa bà con xích lại gần như xưa.

Vì với tình hình hiện nay, niềm tin đã mất. Bà con nhìn ngôi nhà Đại Sứ Quán ở Berlin, như một nơi dung túng những điệp viên thô thiển, những thế lực đen tối, và những cố vấn thiếu trình độ nghiệp vụ, có thể gây cho họ sự bất an và lo sợ."

______

Vụ Trịnh Xuân Thanh: Đức đình chỉ đối tác chiến lược với Việt Nam và trục xuất tiếp cán bộ ngoại giao Việt Nam trong vòng 4 tuần
http://thoibao.de/tin-nuoc-duc/11421/vu-trinh-xuan-thanh%3A-duc-dinh-chi-doi-tac-chien-luoc-voi-viet-nam-va-truc-xuat-tiep-can-bo-ngoai-giao-viet-nam-trong-vong-4-tuan..htm

Đức từ chối cấp Visa cho đoàn công tác nhà nước, tạm ngừng cấp Visa cho du học sinh Việt Nam?
http://thoibao.de/tin-nuoc-duc/11428/duc-tu-choi-cap-visa-cho-doan-cong-tac-nha-nuoc%252c-tam-ngung-cap-visa-cho-du-hoc-sinh-viet-nam%3F.htm

Kỷ niệm 72 năm Quốc khánh 2/9 giữa một nhóm người Việt tụ tập với nhau tại Đại sứ quán Berlin:

http://thoibao.de/site/News/11385?title=ky-niem-72-nam-quoc-khanh-2%252f9-giua-mot-nhom-nguoi-viet-tu-tap-voi-nhau-tai-dai-su-quan-berlin

 Tướng Giáp, tài năng và số phận


Bộ phim tài liệu The Vietnam War của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick vừa được trình chiếu rộng rãi từ trung tuần tháng Chín. Có nhiều tin tức nói rằng Hà Nội không hài lòng với nội dung phim. Một trong các lý do là vì nhắc đến vai trò của Tổng bí thư Lê Duẩn, lấn át ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp mất ngày 4 tháng 10, 2013, ở tuổi 103. Sau đây là bài viết của nhà báo Bùi Tín, người từng có nhiều dịp gần gũi với tướng Giáp, nhân dịp công chiếu The Vietnam War.

Tướng Giáp trong một lần tiếp cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara.
Tướng Giáp trong một lần tiếp cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara.
Tướng Giáp đã đi vào huyền thoại trong lịch sử Việt Nam, trong lịch sử chiến tranh của thế giới. Đã có những bản tiểu sử chính thức của ông.

Cũng có những tin tức thêu dệt về ông, ví dụ có những bài báo, cuốn sách trong nước viết rằng ông từng được Hội đồng Hoàng gia Anh Quốc tuyên dương là một trong 10 thiên tài quân sự thế giới, được đúc tượng đặt trong bảo tàng quân sự Anh quốc. Tôi đã sang London, tìm hiểu, đây chỉ là tin vịt không có thật, nhưng bộ máy tuyên truyền của CHXHCN Việt Nam không hề cải chính.

Vậy tướng Giáp là con người ra sao trong cái cơ chế chính trị Việt Nam do đảng Cộng sản lãnh đạo theo chế độ toàn trị ?

Tôi có nhiều dịp tiếp cận ông, đôi lúc còn cùng ông tâm sự, do tin cậy quý mến nhau, vì cùng trưởng thành qua nền văn hóa học đường Pháp, tôn trọng quyền tư duy độc lập, theo luận lý. Hơn nữa ông sống kín đáo, ít tâm sự cùng ai, sống nội tâm rất mạnh, giàu suy nghĩ, không rượu chè, không thuốc lá, không bia bọt, giải trí hầu như duy nhất là đọc sách, suy ngẫm và chơi nhạc nhẹ piano, mà ông ưa nhất là bài «Sông Đa-núyp xanh» - Le Danube bleu.

Tôi nhiều lần được đi các chuyến xuất ngoại của ông, làm thư ký báo chí, giúp ông trả lời phỏng vấn của các nhà báo Pháp, Anh, Nga, Trung quốc, Ba lan, Đức, Hung… Chuyến đi lý thú nhất là vào năm 1977 ông cầm đầu phái đoàn quân sự đi cám ơn các nước sau khi chiến tranh kết thúc, trao huân chương cho nhiều chuyên gia quân sự từng giúp Việt Nam. Đoàn được mời nghỉ ở Sochi bên bờ Hắc hải, trong dinh thự nghỉ hè sang trọng của Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô. Tại đây, bên bờ biển, tôi có dịp hỏi chuyện ông, gợi ý dò hỏi nhiều chuyện ít ai biết, do bản tính tò mò của nhà báo. Sau đó có vài ngày thăm Berlin, tôi nhớ nhất là cuộc hội ngộ mật của 3 ông tướng 3 châu: Fidel Castro của Cuba, đại tướng Hoffman của CHDC Đức và tướng Giáp, sau khi Fidel rất cao hứng vừa đi thanh tra 20 ngàn quân tình nguyện Cuba ở các nước châu Phi như Angola, Congo, Mozambique… Ngày 1/5/1977, đoàn trở về Moscow, tướng Giáp là khách danh dự duy nhất đứng bên ông Brezhnev trên lễ đài cuộc duyệt binh hoành tráng.

Một kỷ niệm khó quên là hồi năm 1978 tôi có dịp nghe ông nói chuyện về những kinh nghiệm quân sự tại Học viện quân sự cao cấp do tướng Hoàng Minh Thảo làm hiệu trưởng. Nghe nói chuyện có các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hữu An rất gần ông Giáp. Ông từng nghiên cứu về Napoleon, Kutuzov, Zhukov, Frounzé, đọc Binh Gia Yếu lược, Vạn Kiếp Tông bí. Ông say sưa nói về «ngụ binh ư nông,» dân binh, dân quân, về chủ trương «đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung» thời đầu đến Đại Đoàn Công – pháo trước chiến dịch Điện Biên, thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 trước 30/4/1975. Ông giảng về nguyên lý «đánh chắc thắng,» về yếu tố nghi binh, bất ngờ - Pháp không bao giờ nghĩ đối phương có thể mang đủ lương thực từ đồng bằng lên vùng núi xa Điện Biên, cũng không bao giờ nghĩ đối phương có thể kéo pháo nặng lên sườn núi cao hiểm trở quanh Điện Biên; đánh Buôn Ma Thuật mở đầu chiến dịch cũng bất ngờ… Binh thư của ông là tổng hợp nhiều kinh nghiệm thực tế được đúc kết. Ông có năng khiếu của giáo sư sử học, lại có tư duy luận lý của một cử nhân Luật. Đúng là một trí thức toàn diện cầm quân, hiểu quy luật.

Ông Giáp có nhiều nỗi buồn dai dẳng. Tôi cố tìm hiểu vấn đề này.

Trước hết ông không được ông Trường Chinh đánh giá cao. Mà ông Đặng Xuân Khu – Trường Chinh - lại là Tổng bí thư. Ông Trường Chinh có xu thế thân Trung Quốc, sùng bái Trung Quốc. Cái bí danh ông chọn đã cho thấy điều đó, chỉ có Trung Cộng có cuộc vạn lý Trường chinh. Hai cuốn sách kinh điển của ông là «Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi» và «Nền dân chủ mới» đều là bản dịch 2 cuốn «Trì cửu chiến» và «Tân dân chủ chủ nghĩa» của ông Mao.

Ông Trường Chinh hồ hởi đón các đoàn chuyên gia Tàu của bác Mao gửi sang, một mực nghe theo họ trong Cải cách ruộng đất – tàn sát gần 170.000 trung nông yêu nước có học bị chụp mũ là địa chủ ác bá chui vào đảng. Trong lúc đó ông Giáp một mực chống lại ý kiến của La Quý Ba, Trần Canh và cả của Mao Trạch Đông là dùng chiến thuật biển người để tấn công ở Điện Biên Phủ, theo phương châm tác chiến «tốc chiến - tốc quyết» - đánh nhanh - giải quyết nhanh.

Ông Giáp đã suy nghĩ rất kỹ và quyết định thay hẳn phương châm trên thành «đánh chắc, tiến chắc», rút pháo ra, chuẩn bị kỹ, kéo pháo lên các sườn núi cao chĩa thẳng xuống vị trí địch (không bắn cầu vồng), đánh dũi, đánh lấn dần từng bước, từng trận nhỏ đến lớn, đánh chắc tiến chắc, mà ít tổn thất. Không thay đổi phương châm tác chiến thì có nguy cơ thất bại nặng nề cho cả cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự thay đổi phương châm có ý nghĩa quyết định.

Số phận tướng Giáp thật sự lâm nguy khi ngay sau đó vấp phải cặp Lê Duẩn - Lê Đức Thọ có ý định hạ bệ ông để giành quyền lãnh đạo trên cao nhất khi ông Hồ sức bắt đầu suy yếu. Sau khi phát hiện sai lầm kinh khủng trong Cải cảch ruộng đất, ông Trường Chinh chịu trách nhiệm chính mất chức tổng bí thư, ai sẽ là người thay? Thoạt đầu ông Hồ nghĩ đến ông Giáp, uy tín đang lên sau đại thắng Điện Biên. Ông Hồ chọn ông Giáp để thay mặt đảng nói chuyện với nhân dân đông đảo ở sân vận động Hàng Đẫy nhận sai lầm và hứa hẹn sửa sai, ổn định tình hình. Nhưng Lê Đức Thọ lại có ý đồ khác. Thọ rất thân thiết với Duẩn cùng ở lại miền Nam sau Hiệp định Geneva 1954, do có chung ý định phải ưu tiên đấu tranh bằng bạo lực để thống nhất đất nước, nên quyết gạt ông Giáp ra khỏi quyền lực tối cao. Lê Đức Thọ cùng Lê Duẩn tranh thủ Phạm Hùng, Lê Đức Anh, Võ Chí Công thực hiện âm mưu này, bằng cách phịa ra «vụ án xét lại chống đảng, làm tay sai cho nước ngoài», vu cáo tướng Giáp có mưu đồ đảo chính, lần lượt bắt giam hơn 30 cán bộ cao cấp, từ tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, đại tá Đỗ Đức Kiên, đại tá Lê Trọng Nghĩa, đại tá Lê Minh Nghĩa, viện trưởng triết học Hoàng Minh Chính, vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh, bộ trưởng Lê Liêm… Cậy thế là Trưởng ban Tổ chức TƯ đảng, Lê Đức Thọ dự định khai trừ tướng Giáp ra khỏi bộ Chính trị nhưng ông Phạm Văn Đồng không đồng tình, đặc biệt là ông Hồ lên tiếng bảo vệ ông Giáp khi ông Hồ nói rõ trong cuộc họp của Bộ Chính Trị khi ông Thọ tố cáo ông Giáp nhiều lần tiếp riêng đại sứ Liên Xô Serbatov, rằng «đó là các cuộc gặp xã giao, chú Văn (Giáp) đều báo cáo với bác.»

Sau chiến thắng Điện biên Phủ trong cuộc chỉnh huấn chính trị, chấn chỉnh tổ chức do các chuyên gia Trung Quốc điều khiển, phía Trung Quốc đã đưa ra danh sách cho 2 ông Trường Chinh và Lê Đức Thọ yêu cầu loại bỏ các cấp chỉ huy không có nguồn gốc công nông, nhất là bần cố nông, loại bỏ hết các sỹ quan gốc gác tiểu tư sản, cầu an hưởng lạc, bảo mạng, không thuần, trong đó có ông Giáp, nhưng ông Hồ đã kiên quyết tự mình xé bỏ, một thái độ rất sáng suốt.

Thế rồi nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Lê Đức Anh… ngày càng thắng thế, hạ thấp vai trò của ông Hồ - vin cớ rằng Bác cao tuổi, bát đầu lầm lẫn rồi, ốm đau cần nghỉ ngơi, hạ thấp vai trò chỉ huy quân sự của tướng Giáp, vin cớ là ông Giáp chưa hề vào miền Nam, nâng cao vai trò bao biện của Lê Đức Thọ, vừa cầm đầu cuộc đàm phán ở Paris, vừa trực tiếp vào chiến trường miền Nam để giành toàn thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

Trong một số lần tâm sự với tôi, tướng Giáp không bao giờ tỏ ra cay cú bực tức vì cá nhân mình bị đối xử bất công, nhưng ông luôn tỏ ra đau buồn khi nói đến sinh mạng binh sỹ bị hy sinh quá nhiều trong và sau cuộc tiến công Mậu Thân.

Theo báo cáo mật do Cục tác chiến báo cáo riêng cho tướng Giáp, trong năm 1968 sau các đợt tiến công tháng 1, tháng 5 rồi tháng 9, quân miền Bắc hy sinh ở miền Nam lên đến 170.000, cộng với 32.000 quân địa phương miền Nam và 30.000 cán bộ đảng viên của đảng bộ miền Nam. Những con số này tướng Giáp dặn tôi giữ kín vì chắc là chưa đầy đủ, nay tôi xin hé ra, vì là con số đã quá nửa thế kỷ để độc giả tham khảo. Theo ông Giáp, sau đợt 1 thất bại, chỉ có bề nổi là một nhóm vào được trong tòa Sứ quán Mỹ, không nên đánh thêm đợt 2, tháng 5 và đợt 3 tháng 8-1968, càng đánh càng thua to, lộ hết cơ sở.

Tôi cảm thấy rất rõ là tướng Giáp tỏ ra không mặn mà mà còn phản đối cuộc tấn công Mậu Thân, ông cho là mạo hiểm, không chắc thắng, khi ở miền Nam chưa có những quả đấm mạnh cỡ Sư đòan, cỡ Quân đoàn như về sau này. Qua cuộc mạo hiểm liều lĩnh vô trách nhiệm này, bao nhiêu vốn liếng quân sự ky cóp từ năm 1963 đến năm 1968 bị thủ tiêu gần hết, 17.000 quân nhân trai tráng miền Bắc bị chết oan «sinh Bắc tử Nam», phải 3, 4 năm sau mới tạm hồi phục, mà không hề có nổi dậy, không có tổng khởi nghĩa như mong muốn và kêu gọi.

Ông kể khi Mậu Thân nổ ra ông đang ở Hungary để mổ sỏi mật và ông Hồ thì sang Bắc Kinh dưỡng bệnh. Họ đã cố tình cách ly 2 vị để không có một trở ngại nào cho kế hoạch ngông cuồng vô trách nhiệm của họ.

Sau 30/4/1975, vị trí ông Giáp ngày càng lu mờ. Kể từ sau Mật ước Thành Đô (tháng 9/1990), 5 đời Tổng bí thư đều ngả hẳn về phía Trung Cộng, từ Nguyễn Văn Linh, qua Đỗ Mười rồi Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh cho đến Nguyễn Phú Trọng, cái thế của ông Giáp bị mất dần cho đến bị triệt tiêu hẳn.

Đầu năm 2004, nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Giáp cố làm một cuộc phản công cuối đời khi ông đã hơn 90 tuổi. Đó là một loạt kiến nghị tâm huyết gửi Bộ Chính trị, Ban chấp hành TƯ Đảng về «Vụ án siêu nghiêm trọng ở Tổng Cục 2,» về «Không nên khai thác mỏ bauxit ở Tây Nguyên,» nhưng không có một hồi âm nào, dù cho các lá thư tâm huyết của ông được hơn 30 tướng lĩnh đồng tình. Họ coi ông không còn tồn tại. Vì ông nói lên khá rõ là Vụ Tổng cục 2, vụ Bauxit đều có bàn tay lông lá của bành trướng Trung Cộng.

Điều những người quý mến đúng giá trị của tướng Giáp được an ủi nhiều là khi ông mất ở tuổi đại thọ cực hiếm 103, đông đảo người dân tiễn đưa, lưu luyến xót thương, vào tận gần Đèo Ngang để tiễn đưa ông về cõi vĩnh hằng, vượt qua tất cả các cuộc tiễn đưa ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Linh… Một sự công bằng đáng quý.

Bài báo này cũng là bó hương tôi thắp để tưởng nhớ một vị tướng tài ba, có tâm, có tầm nhưng không gặp thời thế, để vừa là anh hùng, vừa là nạn nhân bi thảm của một chế độ thiếu tình yêu thương, thiếu tôn trọng trí thức, lại thiếu vắng luật pháp và sự công bằng.

Bùi Tín

(Blog VOA)