21 tháng 9, 2017

Saddam Hussein và việc Iraq xóa nợ cho Việt Nam

 Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đương kim Chủ tịch Quỹ Hoà bình và Phát triển Việt Nam VPDF, trong cuốn hồi ký "Gia đình, Bạn bè, Đất nước" xuất bản năm 2012 có viết: 
"Saddam Hussein có sai lầm gì trong đối nội, đối ngoại, có tội lỗi gì với nhân dân của ông, lịch sử của Iraq sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta biết ơn sự giúp đỡ quý báu của ông trong những năm Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh".
Iraq là một trong những nước ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta chí tình nhất cả về tinh lẫn vật chất trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu này hoàn toàn vô tư, xuất phát từ cảm tình và yêu mến Việt Nam mà không kèm theo bất cứ điều kiện nào.
Năm 1973, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam mở Đại sứ quán tại Iraq. Lúc đó, miền Nam đang dốc sức tập trung chiến đấu, khả năng tài chính rất hạn hẹp. Chính phủ Iraq đã chi phí toàn bộ cho hoạt động của Đại sứ quán, từ trụ sở đến xe cộ và một khoản tiền mặt để trang trải các khoản chi tiêu hàng ngày.
Tôi còn nhớ, khi khai trương Đại sứ quán tại Thủ đô Baghdad, Tổng thống Iraq lúc đó là Ahmed Hassan Al-Bakr đã gửi đến tặng một chiếc xe Citroen mới tinh vào loại sang trọng nhất.
 Tổng thống Iraq Ahmed Hassan Al-Bakr (phải) và ông Saddam Hussein (trái). Ảnh: AP
Các tổ chức quần chúng như Uỷ ban Hoà bình và đoàn kết Iraq do ông Aziz Sharif làm chủ tịch, Hội Phụ nữ, Thanh niên... tổ chức quyên góp tiền, quần áo, chăn màn... gửi sang Việt Nam. 
Năm 1971, bà Bình, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại Hội nghị Paris sang thăm Iraq được đón tiếp hết sức trọng thị như một người anh hùng, quần chúng đứng hai bên đường vẫy cờ hoa...
Năm 1975, sau giải phóng miền Nam, chúng ta tiếp quản Sài Gòn với muôn vàn khó khăn. Tháng 10/1975, bà Bình trở lại thăm Iraq với nhiệm vụ vận động chính phủ Iraq cho vay dầu. Đây là nhiệm vụ không dễ dàng chút nào. Mặc dù bạn rất nhiệt tình giúp đỡ Việt Nam, nhưng khi đi vào những vấn đề kinh tế thì họ phải tính toán kỹ các mặt.
Phó Chủ tịch Hội đồng Chỉ huy Cách mạng lúc đó là Saddam Hussein đã tiếp bà Bình.
Khi nghe bà trình bày những khó khăn của Việt Nam sau giải phóng, ông đã trả lời ngay: "Chúng tôi đã quyết định tặng Việt Nam 400 ngàn tấn dầu, coi đây là món quà gửi nhân dân miền Nam nhân ngày chiến thắng và cho vay 1,5 triệu tấn nữa". Bà Bình không tin vào tai mình và hỏi lại người phiên dịch thì mới biết chắc chắn đó là sự thật.
Vào thời điểm này, ông Nguyễn Cơ Thạch là Thứ trưởng Ngoại giao của miền Bắc cũng thăm Iraq. Saddam Hussein cũng đã quyết định cho miền Bắc vay 2 triệu tấn dầu không tính lãi. 
Sau khi thống nhất đất nước năm 1976, ta chuẩn bị hợp tác với nước ngoài để thăm dò và khai thác dầu khí, còn rất thiếu kinh nghiệm đàm phán và ký kết hợp đồng, chính phủ Iraq đã cử các chuyên gia luật pháp và dầu khí giỏi nhất sang giúp ta, chỉ rõ những vấn để cần lưu ý, tránh bị hớ trong làm ăn với các công ty dầu khí nước ngoài.
Theo hiệp định vay nợ, năm 1979 ta bắt đầu phải trả đợt đầu tiên cho Iraq.
Lúc này đất nước vẫn chưa ra khỏi khó khăn, các vết thương chiến tranh chưa lành, kinh tế bị tàn phá nặng nề thì lại phải dồn sức vào một cuộc chiến tranh mới chống quân Pol Pot gây rối ở biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc. Việt Nam không trả được nợ cho Iraq theo hạn định.
Năm ấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thăm Iraq. Chính phủ của Tổng thống Saddam Hussein đã quyết định cho Việt Nam vay 100 triệu đô la để trả số nợ đến hạn cho chính Iraq. Một quyết định có một không hai trong quan hệ giữa các quốc gia.
 Những năm tiếp theo sau đó, nước ta vẫn bộn bề khó khăn, không trả được nợ cho Iraq. Trong tình hình như vậy, chính phủ ta đề nghị chính phủ Iraq cho hoãn nợ và nhận trả nợ bằng hàng hoá và lao động, một phần nợ khác được dùng để đầu tư trở lại Việt Nam.
Trong những năm 80 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do phải tiến hành cuộc chiến tranh với Iran, chính phủ Iraq vẫn đồng ý với đề nghị của ta.
Gạo, chè, quần áo và một số hàng hoá khác đã được xuất sang Iraq để trả nợ. Hàng ngàn lao động của ta đã lên đường sang Iraq làm việc, trích một nửa tiền lương để trả nợ cho bạn, một nửa còn lại gửi về giúp gia đình.
Những người bạn Iraq biết như vậy là không được tốt, nhưng việc làm này vừa giúp Việt Nam trả được một phần nợ, vừa giúp các gia đình lao động cải thiện được cuộc sống. Những người lao động Việt Nam được Iraq đối xử rất tử tế không khác gì công dân của họ.
Các công trình như đập thuỷ điện Al-Haditha gần cách thủ đô Baghdad khoảng 100 km, đập Al-Badush ở Mosul là những công trình tiêu biểu của tình hữu nghị Việt Nam-Iraq hiện nay vẫn phát huy tác dụng.
Liên doanh sản xuất chè Phú Đa (lấy chữ đầu của tỉnh Phú Thọ và chữ cuối của Bát-Đa để đặt tên cho liên doanh này) và liên doanh xay sát lúa Cần Thơ ra đời và bây giờ vẫn hoạt động hiệu quả.
 Bà Bình đánh giá rất cao sự giúp đỡ của chính phủ, nhân dân Iraq và trân trọng những tình cảm đặc biệt của ông Saddam Hussein dành cho Việt Nam. Đến năm 2002, mặc dù hết sức cố gắng nhưng ta vẫn chưa trả hết nợ cho Iraq.
Tháng 2/2002, bà Bình đề nghị chính phủ ta cho phép thăm Iraq với lý do bà sắp nghỉ hưu và trước khi nghỉ, bà muốn gặp lại ông Saddam Hussein để nói đôi lời với ông về món nợ chưa trả được này.
Lúc đó cũng có ý kiến cho rằng ta vừa ký Hiệp định thương mại BTA với Mỹ, quan hệ giữa Mỹ và Iraq hết sức căng thẳng, liệu chuyến đi có gây khó khăn cho quan hệ Việt Nam với Mỹ đang trên đường cải thiện hay không? Quyết định cuối cùng, bà Bình và đoàn đại biểu chính phủ ta lên đường.
Sau chuyến đi, việc thực hiện Hiệp định BTA vẫn tiến triển bình thường. Tôi nghĩ rằng, người Mỹ cũng hiểu được chuyến thăm Iraq của bà Bình là câu chuyện giữa Việt Nam và Iraq, thể hiện tính nhân văn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, biết ơn những người đã từng ủng hộ và giúp đỡ mình trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Đây cũng chính là văn hoá của người Mỹ.
Sau 22 năm trở lại thăm Iraq, bà Bình vẫn là thượng khách của chính phủ Iraq.
Sau khi đến Iraq, bà đã được Tổng thống Saddam tiếp đón thân mật tại toà lâu đài Al-Faw gần sân bay quốc tế Baghdad. Sau khi đánh chiếm Iraq năm 2003, Mỹ đã biến chính lâu đài này thành nhà tù giam giữ Saddam Hussein và các nhà lãnh đạo của chính quyền cũ, đổi tên thành doanh trại Camp Cropper.
Năm 2002 tôi là Đại sứ tại Iraq. Do tiếng Ả rập của tôi được mọi người tin tưởng, phía Iraq đề nghị tôi kiêm phiên dịch cho buổi gặp gỡ này.
Trong buổi trò chuyện thân mật bà Bình bộc bạch: "Năm 1975, tôi thăm Iraq, Tổng thống đã quyết định cho Việt Nam vay dầu, lúc đó chúng ta còn rất trẻ. Đến bây giờ chỉ còn vài tháng nữa là tôi nghỉ hưu mà chúng tôi vẫn chưa trả được hết nợ cho Iraq. Tôi cảm thấy trong lòng không vui."
 Nghe đến đây, Saddam nói ngay: "Mong bà về nghỉ bình yên, giữ gìn sức khoẻ và không phải suy nghĩ gì cả. Từ giờ phút này trở đi giữa chúng ta không có nợ nần gì với nhau nữa." Bà Bình một lần nữa lại không tin vào tai mình, quay sang tôi nói: "Khai, em hỏi lại xem có đúng Tổng thống Saddam Hussein nói như vậy không?"
Rất nhanh ý, biết bà Bình có thể chưa hiểu hết ý của mình, ông Saddam nói tiếp luôn: "Tôi không biết con số cụ thể Việt Nam còn nợ Iraq bao nhiêu, 5 giờ chiều nay, tôi sẽ cử Phó Tổng thống Taha Yassin Ramadan đến dinh thự bà đang ở để ký Biên bản thoả thuận xoá toàn bộ số nợ này".
Đúng 5 giờ chiều, Phó Tổng thống Taha Yassin Ramadan cùng một số quan chức trong chính phủ Iraq đem một Biên bản thoả thuận đã được đánh máy sẵn.
Tôi không nhớ nguyên văn, bản Thoả thuận chỉ có vài dòng với nội dung ngắn gọn đại ý thế này: Theo chỉ thị của Tổng thống Saddam Hussein, từ hôm nay, ngày ..... tháng 10 năm 2002 chính phủ Iraq quyết định xoá toàn bộ số nợ cho Việt Nam. Số tiền nợ trước ngày này chưa trả được sẽ dùng để đầu tư vào các dự án liên doanh giữa 2 nước tại Việt Nam.
Việc ký kết diễn ra hết sức đơn giản trên một chiếc bàn nhỏ trong phòng khách của dinh thự Saddam dành cho bà Bình ở trong thời gian thăm Iraq. Không có nghi lễ chính thức nào. Ký xong, Phó Tổng thống Taha Yassin Ramadan đã đích thân lái xe đưa bà Bình đi thăm thành phố Baghdad.
Việc xoá nợ như vậy chỉ có thể xảy ra giữa những người anh em hết sức thân thiết trong cùng một nhà. Việc chính phủ của ông Saddam quyết định xoá nợ cho Việt Nam trong lúc chính Iraq đang gặp nhiều khó khăn do bị cấm vận và có nước tìm cách gây sức ép các mặt đối với Việt Nam là hết sức quý báu.
Tôi định không kể lại câu chuyện này vì ở Iraq giờ đã có chính phủ mới nắm quyền. Nhưng đây là sự thật cần phải được thừa nhận. Năm 2003, Mỹ đánh Iraq lật đổ chính quyền của Tổng thống Saddam Hussein, chính quyền mới lên vẫn thừa nhận Thoả thuận này.
Cựu Tổng thống Mỹ George Bush và cựu Thủ tướng Anh Tony Blair là những người đi đầu trong việc phát động chiến tranh xâm lược Iraq với cái cớ giả tạo Saddam Hussein có quan hệ với lực lượng khủng bố Al-Qaida và tàng trữ vũ khí hủy diệt, mới đây đã thừa nhận sai lầm của mình.
Tháng 10/1975, tôi lại đi thăm một số nước Ả Rập với nhiệm vụ "vay dầu". Đoàn chỉ có ba người, tôi, đồng chí Trúc ở Văn phòng Chính phủ và đồng chí phiên dịch. Chúng tôi đi Algeria, Libi, Iraq. Kết quả là vay được một số dầu để sử dụng trước mắt với lãi suất ưu đãi. Tuy các bạn đều rất nhiệt tình với Việt Nam, nhưng đi vào kinh tế thì chuyện không phải dễ.
Chuyến đi Iraq để lại cho tôi một kỷ niệm sâu sắc. Lúc đó, Saddam Hussein (1937-2006; Tổng thống Iraq từ 1979-2003) mới là Phó Tổng thống, nhưng được dư luận coi là "người hùng" ở Iraq. Khi nghe chúng tôi trình bày yêu cầu bức xúc của Việt Nam, ông trả lời ngay: "Chúng tôi đã quyết định tặng Việt Nam 400 ngàn tấn dầu và cho vay 1.5 triệu tấn với lãi suất ưu đãi. Tôi nghe mà không tin ở tai mình, hỏi lại đồng chí phiên dịch mới chắc đó là sự thật. Chúng tôi rất xúc động trước tấm lòng của các bạn Iraq. Sau này khi Iraq bị cấm vận, phải đổi dầu để lấy lương thực, các bạn vẫn dành cho Việt Nam những hợp đồng trao đổi thương mại rất thuận lợi trong lúc chúng ta còn nhiều khó khăn về kinh tế.
Năm 2002, tôi đến Iraq lần cuối để giải quyết món nợ kéo dài hơn 20 năm ta còn chưa trả xong. Theo ý kiến của các đồng chí ở Chính phủ, chúng ta đề nghị chuyển số tiền nợ thành số vốn đầu tư vào một dự án kinh tế ở Việt Nam. Khi tôi gặp ông Saddam Hussein trình bày ý kiến này thì ông cười, nói ngay: "Các bạn Việt Nam không nên bận tâm. Tôi biết các bạn còn khó khăn, ta xem như số nợ này đã trả." Thật xúc động khi biết rằng trong thời điểm đó Iraq bị Mỹ cấm vận, khó khăn chồng chất về các mặt.
Tình hình Iraq đến nay diễn biến ra sao, chúng ta đều biết. Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush phát động chiến tranh đánh Iraq với lý do Saddam Hussein có quan hệ với lực lượng khủng bố Al-Queda và tàng trữ vũ khí hủy diệt. Thực tế đã chứng minh đó là những lời nói dối xấu xa, những cái cớ giả mạo Hoa Kỳ đã dựng lên để thực hiện mưu đồ ích kỷ của họ. Saddam Hussein có sai lầm gì trong đối nội, đối ngoại, có tội lỗi gì với nhân dân của ông, lịch sử của Iraq sẽ phán xét. Nhưng đối với Việt Nam, tôi nghĩ chúng ta biết ơn sự giúp đỡ quý báu của ông trong những năm Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh.

Trích hồi ký "Gia đình, Bạn bè và Đất nước" – Nguyễn Thị Bình
Nhà xuất bản Tri thức, tái bản năm 2015

Tỉnh Quảng Trị yêu cầu Chi cục trưởng Kiểm lâm báo cáo nguồn gốc 80 m3 gỗ để dựng căn nhà rường.

Một năm qua, xã Hải Ba (Hải Lăng, Quảng Trị) xuất hiện ngôi nhà rường bằng gỗ kết cấu ba gian hai chái bề thế. Nhà thuộc sở hữu của vợ chồng ông Khổng Trung, Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Quảng Trị.
Ông Khổng Trung, Chi cục trưởng Kiểm lâm Quảng Trị, cho hay căn nhà gỗ này là ước mơ, ấp ủ của ông bấy lâu nay.

Trước dư luận về nguồn gốc số gỗ để làm nhà, ông Nguyễn Đức Chính, 
Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị yêu cầu ông Trung báo cáo về quá trình xây dựng ngôi nhà gỗ này,
 để tỉnh thông báo rộng rãi và trả lời báo chí.
Ông Trung giới thiệu là con trưởng trong gia đình bốn anh em, là trưởng họ Khổng, 
nên ông dựng căn nhà gỗ vừa làm nơi thờ tự của gia đình, vừa là nơi vợ chồng ở khi về hưu.
Sơn son vào nên chụp ảnh lên nhìn rất đẹp như vậy, còn nhà làm từ nhiều loại gỗ, cả tốt, cả xấu,
 nhiều điểm nay xuất hiện mối mọt, nứt nẻ. Ai vào chứng kiến mới biết được”, ông Trung nói.
Nhà làm từ 80 m3 gỗ quy tròn các loại, từ gỗ quý nhóm một như hương, gõ cho đến nhóm bảy,
 tám như xoan. Ông nói phần lớn gỗ có giấy tờ, được mua từ nhiều doanh nghiệp kinh doanh gỗ,
 đấu giá, và một số ít mua lẻ nên không lấy giấy tờ.
32 cột gỗ gõ (hơn 12 m3) mua từ một người Việt Nam kinh doanh gỗ tại Lào, với giá 320 triệu đồng.
 Ngoài ra, ông cũng đấu giá được lô 24 m3 gỗ từ Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Quảng Trị.
 Nhiều lô gỗ được bạn bè bán với giá gốc, hoặc vừa bán vừa cho gia chủ.
Căn nhà kết cấu ba gian hai chái, rộng hơn 100 m2, trị giá khoảng 2 tỷ đồng, gồm 900 triệu tiền gỗ,
 số còn lại là tiền công và vật tư khác. Nhà được xây trên thửa đất 2.000 m2 tại xã Hải Ba, được ông mua
 với giá 300 triệu đồng từ nhiều năm trước. 

Sơn son vào nên chụp ảnh lên nhìn rất đẹp như vậy, còn nhà làm từ nhiều loại gỗ, cả tốt, cả xấu,
 nhiều điểm nay xuất hiện mối mọt, nứt nẻ. Ai vào chứng kiến mới biết được”, ông Trung nói.

Căn nhà khởi công tháng 4/2015, hoàn thành sau hơn một năm xây dựng. Năm 2016, trong kê khai tài sản, ông Khổng Trung có đề cập đến căn nhà này. Ông nói có nhiều nguồn thu nhập, gồm 43 ha rừng trồng, vợ kinh doanh xăng dầu và vườn ươm cây giống lâm nghiệp.

Sáu năm một lần, ông Trung thu hoạch rừng trồng, bình quân lãi bảy triệu đồng mỗi ha một năm.
 “Nhẩm tính, tôi thu từ rừng 3-4 tỷ đồng nhiều năm qua”, Chi cục trưởng nói và lý giải nguồn gốc
rừng có trước những năm 2000-2005, khi nhiều người chưa quan tâm đến trồng rừng.
Ông giới thiệu thêm mỗi năm cây xăng thu lợi khoảng 150 triệu đồng, vườn ươm thu 80-90 triệu đồng.
Với 19 năm làm Chi cục trưởng Kiểm lâm, ông Trung nói lương hiện 14 triệu đồng mỗi tháng,
 chưa kể phụ cấp khi làm các dự án liên quan đến lâm nghiệp. Vợ ông về hưu nhiều năm nay,
 hiện trông giữ ngôi nhà này. 8 tháng nữa, ông cũng nghỉ hưu.

“Gỗ tôi làm nhà có giấy tờ đầy đủ, hợp pháp, hoàn toàn không dựa vào vị trí công tác để gây áp lực, gian lận”,
 Chi cục trưởng nói. Hết tuần này, ông Trung có báo cáo về ngôi nhà này gửi UBND tỉnh Quảng Trị.
Hoàng Táo

18 tháng 9, 2017

Chuyện ra đời 3 kiệt tác của thế giới: 
Cầu Long Biên, tháp Eiffel và
 tượng Nữ Thần Tự Do huyền thoại (P.1)




Kiệt tác thế giới: 




Gian nan mới rõ mặt anh hùng...




Việt Nam chúng ta thật có lý do để tự hào khi cha đẻ của 3 công trình biểu tượng 3 miền là Cầu Long Biên (Hà Nội), Cầu Tràng Tiền (Huế) và Bưu Điện Sài Gòn cũng đồng thời là tác giả của hai niềm kiêu hãnh của hai đất nước hùng mạnh Mỹ và Pháp: Tượng Nữ Thần Tự Do và Tháp Eiffel… Ông là ai và sự ra đời của chúng đặc biệt như thế nào?
Cầu Long Biên đẹp long lanh về đêm, và cha đẻ của nó chính là công trình sư tài năng kiệt xuất: Gustave Eiffel (Ảnh: mytour.com)
Cầu Tràng Tiền (Huế) cũng đẹp không kém khi về đêm, và cha đẻ của nó chính là công trình sư tài năng kiệt xuất: Gustave Eiffel (Ảnh: mytour.com)



Bưu điện Sài Gòn, biểu tượng của “hòn ngọc viễn đông” (Ảnh: mytour.com)

Người cha của 3 công trình trường tồn trên chính là Gustave Eiffel, nhà công trình sư kiệt xuất thế giới.

Thi rớt: Trong “cái rủi có cái may” của chàng trai thông minh kiệt xuất và lãng mạn đa tài
Vốn là một cậu nhỏ  đặc biệt thông minh và tò mò, Gustave Eiffel không chuyên cần lắm ở trường Lycée Royal (Trung Học Hoàng Gia), vì cậu thấy các môn học là“nhàm chán, buồn tẻ, không khí nhà trường tù hãm…“, Gustave Eiffel chỉ thấy hứng thú ở hai năm cuối phổ thông với lịch sử và văn chương, chứ không phải kỹ thuật hay công nghệ mà ông thành danh sau này.
Sau khi tốt nghiệp trung học Eiffel lên Paris, theo học tại Collège Sainte Barbé để luyện thi vào École Polytechnique – trường Đại Học Bách Khoa nổi tiếng thế giới, nơi ông định theo đuổi chuyên ngành hóa học.
Nhưng chàng sinh viên bản tính lãng mạn không thể kìm nén được tình yêu say đắm đối với Paris hoa lệ. Anh dành hầu hết thì giờ rỗi để bơi lội trên Sông Seine, thăm Bảo Tàng Louvre, đi xem kịch tại Nhà Hát Opera.
Khi chàng thanh niên Gustave bơi lội trên dòng sông Seine, thì chưa có biểu tượng kiêu hãnh Eiffel kia tồn tại
Bảo tàng Louvre, Paris



L’Opera de Paris với kiến trúc và nội thất lộng lẫy

Kết quả là anh rớt Đại Học Bách Khoa. Tuy rớt, nhưng không hề lãng phí thì giờ vào việc buồn nản, mà lại thi ngay vào École Centrale des Arts et Manufactures, trường Nghệ Thuật & Sản Xuất, được đánh giá là một trong những trường đào tạo nghệ thuật, kỹ thuật và công nghệ hàng đầu Châu Âu thời bấy giờ. Từ đó mở ra con đường của Gustave Eiffel tới với những công trình có kết cấu vĩ đại.
Tượng nữ thần Tự Do: Biểu tượng của nước Mỹ hùng mạnh được tạo nên như thế nào?



Biểu tượng nước Mỹ có tên đầy đủ là Tự Do Soi Sáng Thế Giới

Tượng Nữ Thần Tự Do với tên đầy đủ là Tự Do Soi Sáng Thế Giới (La liberté éclairant le monde/Liberty Enlightening the World), là một món quà đặc biệt của nước Pháp dành tặng nước Mỹ nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày nước Mỹ tuyên bố độc lập.

Édouard René Lefèvre de Laboulaye, một nhà chính trị kiêm nhà văn chuyên viết về lịch sử Mỹ đã đề xuất ý tưởng tặng nước Mỹ một món quà để ca ngợi nền tự do. Ý tưởng của ông lập tức được chính phủ Pháp ủng hộ, và việc thiết kế mỹ thuật được giao cho nhà tạc tượng trứ danh Frédéric-Auguste Bartholdi.
Bartholdi đã thiết kế nên hình ảnh
“Nữ thần cao lớn có nét đẹp kinh điển như những bức tượng Hy Lạp cổ đại với kích thước khổng lồ ở tư thế đứng thẳng, đầu đội vương miện với 7 tia hào quang toả ra tượng trưng cho 7 biển và lục địa trên trái đấttay trái mang một phiến đá ghi dòng chữ “JULY IV MDCCLXXVI”, tức là “Tháng Bẩy, Ngày 4 Năm 1776” (ngày độc lập của Mỹ), tay phải giương cao bó đuốc của tự do, thân mặc tấm áo choàng phủ kín tới chân.”




Nữ thần Tự Do chính là hình ảnh nữ thần Hy Lạp dũng mãnh đầu đội vương miện tỏa ra 7 ánh hào quang tượng trưng cho 7 lục địa và biển




Bài toán nan giải: người giải được chỉ có Gustave Eiffel!
Nhưng ngay lập tức Bartholdi phải đối mặt với 2 bài toán nan giải:
  • Làm thế nào để bức tượng khổng lồ có thể tháo rời ra từng bộ phận để chuyên chở sang Mỹ?
  • Bức tượng sẽ được dựng trên Đảo Tự Do trong Cảng New York, vậy phải làm thế nào để nó chịu đựng được gió bão rất mạnh ngoài biển Đại Tây Dương?
Người thích hợp nhất có thể giúp Bartholdi giải 2 bài toán hóc búa đó không thể là ai khác Gustave Eiffel! Vào thời điểm này, tuy công trình tháp Eiffel nổi tiếng chưa ra đời, nhưng tên tuổi kiến trúc sư Gustave Eiffel lừng danh đã được rất nhiều người biết tới như một công trình sư tài ba xây dựng nên những công trình khổng lồ với kết cấu phức tạp và chắc chắn.
Vì thế ông đã được mời giúp Bartholdi xây dựng Tượng Nữ Thần Tự Do. Ngay lập tức Eiffel hưởng ứng và bắt tay vào việc: Xây dựng tượng Nữ Thần Tự Do trên Đảo Tự Do, Cảng New York, sau này trở thành biểu tượng của nước Mỹ.
Trước hết, bài toán thứ nhất được giải bằng cách “cắt rời thân thể” Nữ Thần Tự Do ra làm 350 mảnh rồi chất lên chiếc thuyền buồm mang tên Isère để chở sang Mỹ. Tới Mỹ, nó được đưa lên một hòn đảo có tên là Đảo Tự Do (Liberty Island) ở cửa sông Hudson nhìn ra cảng New York (New York Harbour).
Những con số ấn tượng
Để giải bài toán thứ hai, Eiffel xây dựng một hệ thống cốt sắt làm cốt lõi bên trong để lắp ghép 350 mảnh đồng, tạo nên một bức tượng cao 46m, nặng tổng cộng204 tấn, đứng trên một bệ cao 45,7m (bệ do người Mỹ xây dựng).



Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, và  vương miện là gian phòng rộng có tới 25 cửa sổ, các du khách từ đó mà ngó ra vẫy chào

Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, ngón trỏ dài 2,4m, cái đầu tính từ cằm tới vuơng miện cao 5m, riêng cái miệng rộng 1m.”
Ngày nay du khách tới thăm bức tượng sẽ phải leo 354 bậc thang để lên tới vương miện. Bản thân vương miện là một “gian phòng” rộng với 25 cửa sổ, trông từ xa như 25 viên đá quý cài trên vương miện. Tổng cộng bức tượng bao gồm 31 tấn đồng và 125 tấn thép.
Các tấm đồng làm bề mặt bức tượng có chiều dày 2,37 mm, được ghép với nhau sao cho cách ly với khung thép bằng những tấm cách điện để tránh hiệu ứng pin kim loại làm rỉ chỗ ghép do hơi nước biển gây nên.
Mặc dù được hai tài năng xuất chúng là Bartholdi và Eiffel phối hợp thực hiện, dự án này vẫn không thể nào hoàn thành kịp thời hạn kỷ niệm 100 năm nước Mỹ độc lập (1876), mà phải đợi tới mười năm sau, tức 1886, Tượng Nữ Thần Tự Do mới được tổng thống Mỹ Groover Cleveland chính thức cắt băng khánh thành.
Trong bài báo “Gustave Eiffel: The Man Behind The Masterpiece” (Gustave Eiffel: Người đứng sau các kiệt tác), ký giả Karen Plumley viết: “Eiffel dựng một khung thép để gắn các tấm kim loại vào đó, và đặt nhiều chùm thép thẳng đứng cắm sâu vào trong bệ đá granite của nền móng để giữ cho bức tượng khổng lồ đứng vững.



Eiffel dựng một khung thép để gắn các tấm kim loại vào đó, và đặt nhiều chùm thép thẳng đứng cắm sâu vào trong bệ đá granite của nền móng để giữ cho bức tượng khổng lồ đứng vững.

Kết quả là có một bức tượng nhẹ hơn (so với tượng đặc) nhưng vẫn đảm bảo chắc chắn, có khả năng chịu đựng được một tải trọng khổng lồ và hàng loạt tác động khắc nghiệt khác.




Tượng Nữ Thần Tự Do có khả năng chịu đựng được một tải trọng khổng lồ và hàng loạt tác động khắc nghiệt khác.

“Một lần nữa, Eiffel đã chứng minh khả năng của ông trong việc giải quyết những bài toán kỹ thuật phức tạp và khó khăn nhất, trong đó sử dụng những kỹ thuật mà trước đó không ai dám làm.”
Bách khoa toàn thư Wikipedia cho rằng thiết kế kết cấu của Eiffel là điều kiện không thể thiếu để biến dự án Tượng Nữ Thần Tự Do khổng lồ thành hiện thực.
Kể từ 1886, kiệt tác văn hóa này nhanh chóng trở thành biểu tượng quốc gia của nền tự do ở Mỹ, đem lại niềm kiêu hãnh cho người Mỹ, trở thành một tâm điểm thu hút khách du lịch và di dân từ khắp thế giới đến Mỹ, thúc đẩy nền kinh tế ở đây phát triển mạnh mẽ chưa từng có.”


Vốn ban đầu là một màu vàng đồng diễm lệ, tuy nhiên ngày nay tượng trở nên xanh do đồng đã bị o xy hóa, đây là điều ít người biết đến
Một số người Mỹ sống ở Pháp đã hài lòng với món quà mà người Pháp đã dành tặng cho đất nước họ, đến nỗi họ trả ơn người Pháp bằng cách xây dựng một phiên bản Tượng Nữ Thần Tự Do ở Pháp.
Phiên bản này cũng bằng đồng, cao 11m (khoảng ¼ bức tượng ở New York) đã được dựng lên tại hòn đảo Thiên Nga cách Tháp Eiffel khoảng 2km về phía bắc.
Họa vô đơn chí: Trong gian nan mới rõ mặt anh hùng



Trong gian nan mới rõ mặt anh hùng

Bước sang năm 1887, chưa kịp nghỉ ngơi sau vinh quang do Tượng Nữ Thần tự Do mang lại, Eiffel đã gặp cảnh “họa vô đơn chí”: Vợ ông mắc bệnh nặng và ra đi vĩnh viễn.

Nỗi đau chia tay người vợ yêu thương chưa kịp hồi phục thì một tai họa thứ hai giáng lên đầu ông, liên quan đến việc làm ăn với Công Ty Kênh Đào Panama của Pháp do Ferdinand de Lesseps lãnh đạo.
Theo hợp đồng ký kết với công ty Lesseps, Công ty Eiffel tiến hành thiết kế và xây dựng những chốt khóa đóng mở cho kênh đào này. Nhưng không may, do quản lý kém, công ty Lesseps bị vỡ nợ, làm trắng tay hàng trăm ngàn nhà đầu tư Pháp.
Một cuộc điều tra được mở ra, trong đó tất cả những ai dính líu đến việc sử dụng nguồn vốn đầu tư đều bị luật pháp hỏi thăm, Eiffel không phải là ngoại lệ… Nếu bị kết án, ông có thể sẽ phải đối mặt với một bản án tù ít nhất 2 năm.
Nhưng sau 5 năm điều tra, Eiffel được chứng minh là vô can. Tuy vậy, cuộc điều tra đã làm ông mệt mỏi, dẫn tới quyết định về hưu vào năm 1893, khi ông đương chức chủ tịch hội đồng quản trị công ty.
Nhưng trong hoạn nạn mới rõ mặt anh hùng: Chính trong những ngày tháng mệt mỏi nhất vì phải đối mặt với cuộc điều tra, Eiffel đã làm nên công trình huyền thoại của đời mình – Tháp Eiffel!”
Blog PVĐ