14 tháng 9, 2017

Khoác áo nào thì cũng vẫn là nó

Phạm Trần
14-9-2017

Giáo sư Tương Lai (tên thật là Nguyễn Phước Tương, sinh năm 1936 tại Thừa Thiên – Huế) là một nhà nghiên cứu xã hội học, văn hóa, sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1988 – 1999, ông là Viện trưởng, Viện Xã hội học Việt Nam. Từ năm 1990 – 2006, ông là thành viên nhóm tư vấn các thủ tướng Cộng sản Việt Nam là Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải.“Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.”
Số 1, báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng Lao Động VN, nay là đảng CSVN. Nguồn: ĐHQG Hà Nội.
Với các chức danh vừa kể, ông Tương Lai là một trí thức cao cấp trong ruột của đảng Cộng sản Việt Nam đương thời, hậu thân của đảng Lao Động. Nhưng cái gốc của đảng Lao Động, lại bắt rễ từ đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) đầu tiên do ông Hồ Chí Minh (còn mang tên Nguyễn Tất Thành) thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hồng Kông, theo chỉ đạo của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản. Sau đó ông Hồ lại thay áo thành đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 10/1930, theo lệnh của Đông Phương Bộ, một bộ phận của Đệ Tam Quốc tế Cộng sản.
Theo tài liệu của Bách khoa toàn thư mở (BKTT) thì Đệ tam Quốc tế Cộng sản được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin.
Như vậy, rõ ràng ông Hồ là cán bộ của Cộng sản Quốc tế và được sử dụng để nhiễm độc Cộng sản vào bán đảo Đông Dương gồm Việt Nam, Lào và Cao Miên, dưới danh nghĩa “chống thực dân, phong kiến và đấu tranh dành độc lập”.
TỪ CỘNG SẢN SANG ĐÔNG DƯƠNG
Quay ngược thời gian, theo tài liệu của Bách khoa Tòan thư mở (BKTT) thì: “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ thị của Đông Phương Bộ (là một bộ phận của Đệ Tam Quốc tế) yêu cầu Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ.”
Thành phần tham dự được kể: “Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh tại Đại hội II ghi ngày thành lập Đảng là 6 tháng 1 nhưng Nghị quyết tại Đại hội III năm 1960 đổi là ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Nhưng chỉ 8 tháng sau, tài liệu cho biết: “Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.”
Từ sau Đại hội này, đảng của ông Hồ rút vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa đảng Cộng sản Đông Dương.
Vì vậy, Luận cương Chính trị của đảng đã viết: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản.”
Sự lệ thuộc hoàn toàn vào Cộng sản Nga còn được ghi trong Điều lệ của Đảng Cộng sản Đông Dương, tại Đại hội lần thứ nhất ngày 29 tháng 3 năm 1935.
Điều này viết: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xôviết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản.”
Đối với đảng viên, Điều lệ đòi họ: “Phải tự nâng cao trình độ chánh trị của mình, phải học tập chủ nghĩa Mác – Lênin và hết thảy các nghị quyết quan trọng của Đảng và các vấn đề chánh trị và tổ chức, phải giải thích cho quần chúng không có chân Đảng những nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản.”
Nhưng ngoài mặt, ông Hồ lại phát động chiến tranh dưới chiếc áo giả mạo Mặt trận Việt Minh, ra đời ngày 19-5-1941 để gọi là “giải phóng, giành độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước.”
Sự giấu mặt Cộng sản của ông Hồ đã được tác giả Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Quân đội CSVN tiết lộ trong Chương 4 của cuốn “Đường Tới Điện Biên Phủ”, rằng: “Mặt trận Việt Minh là cách lựa chọn đúng đắn của Nguyễn Ai Quốc để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Ngày Tổng khởi nghĩa năm 1945 mới có 5.000 đảng viên, nay đã thành một đội ngũ đông đảo: 760.000 người. Trong kháng chiến, mọi hoạt động của Đảng, cũng như những sinh hoạt của đảng viên, vẫn tiến hành bí mật. Chỉ đôi khi những người cộng sản mới xuất hiện dưới danh nghĩa “hội viên Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác”.
Chính vì mưu mô lấy chiếc áo “Mặt trận Việt Minh” che mặt Cộng sản mà hàng chục ngàn người Việt Nam yêu nước, trong số có nhiều trí thức và thương gia đã mắc bẫy của Việt Minh để lao đầu vào lửa đạn hy sinh cho một lý tưởng, khi biết sai lầm thì đã qúa muộn.
Vì vậy điều được gọi là ông Hồ ra đi tìm được cứu nước chứa được bao nhiêu phầm trăm là sự thật?
LAO ĐỘNG RA ĐỜI
Nhưng tại sao Đông Dương lại đổi thành Lao Động?
Giải thích điều này, Tướng Giáp viết: “Đầu năm 1950, sau khi đi gặp các đảng bạn Liên Xô và Trung Quốc trở về, Bác bàn với Trung ương đã tới lúc Đảng ra hoạt động công khai. Tình hình cách mạng trong nước cũng như trên thế giới đã thay đổi nhiều. Qua những năm lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo kháng chiến, uy tín của Đảng trong nhân dân đã trở thành tuyệt đối. Các nước xã hội chủ nghĩa đã công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự xuất hiện công khai của Đảng sẽ mang lại một nguồn động viên mới trong nhân dân thúc đẩy cuộn kháng chiến sớm đi tới thắng lợi. Nhưng xét cả về bối cảnh quốc tế cũng như tình hình trong nước, để tập hợp quần chúng thật rộng rãi như chủ trương của Đảng nhiều năm qua, và hạn chế sự tuyên truyền xuyên tạc của kẻ thù, Đảng cần có một cái tên mới. Bác đề nghị lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Việc thay đổi tên Đảng không phải là vấn đề riêng của cách mạng Việt Nam mà còn liên quan đến cách mạng Lào và Campuhia.”
Sự ra đời của đảng Lao Động, con đẻ của Cộng sản Đông Dương, ngày 19 tháng 2 năm 1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang chẳng qua chỉ để xoá đi thất bại đòan kết toàn dân của ông Hồ, sau khi đảng CSVN đã phản bội những cam kết hợp tác chân chính với các đảng phái Quốc gia trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến năm 1946.
Đồng thời cũng đã được hai đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đồng ý.
Vì vậy Tuyên ngôn của đảng Lao Động phổ biến ngày ấy xác nhận:
“Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung.
Kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm ngặt và tự giác.
Chính sách của Đảng là chính sách ích quốc lợi dân.
Luật phát triển của Đảng là phê bình và tự phê bình.”
Nhiệm vụ chính của Đảng Lao động Việt Nam hiện nay là:
Đoàn kết, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc để tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh đổ bọn can thiệp Mỹ, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, làm cho nước nhà độc lập và thống nhất thực sự.
Đảng Lao động Việt Nam hết sức ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà, đoàn kết và cộng tác chặt chẽ với các đảng phái, các đoàn thể trong Mặt trận Liên-Việt, để thực hiện dân chủ nhân dân về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn hoá.
Trong Chính cương, đảng này còn cam đoan: “Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.”
CHỦ NGHĨA NGỌAI LAI
Về mặt tư tưởng chính trị, đảng của ông Hồ, dù có thay hình đổi dạng như con Tắc Kè từ ngày thành lập 3/2/1930, thì chủ nghĩa ngọai lai Cộng sản từng bị lên án đã giết chết hơn 100 triệu người trên thế giới, trong số này có cả ở Việt Nam, Trung Hoa và Nga Sô, vẫn được lãnh đạo Cộng sản Việt Nam nhắm mắt đội lên đấu tung hô và tôn thờ.
Bằng chứng như Điều lệ của đảng Lao Động Việt Nam đã xác nhận mối quan hệ mật thiết với Chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô (Liên bang Xô Viết) và tư tưởng Cộng sản của Mao Trạch Đông bên Tầu: “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Ǎngghen – Lênin – Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.”
Đàng viên thì phải: “Luôn luôn cố gắng nâng cao trình độ chính trị, trau dồi tư tưởng của mình bằng cách học tập chủ nghĩa Mác – Ǎngghen – Lênin – Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông.”
Tuy nhiên, đến Đại hội Đảng lần thứ 3 (1960) thì điều lệ đảng xóa bỏ chữ “Engels, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông”,và từ Đại hội Đảng lần thứ 7 (1991) thêm vào chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Do đó, đảng này đã viết lại rằng: “Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx – Lenin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng Lao động Việt Nam đi đường lối quần chúng trong mọi hoạt động của mình. Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có kỷ luật rất nghiêm minh. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cǎn bản của Đảng.”
Cương lĩnh của đảng năm 1991 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Marx – Engels – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 ghi tiếp: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử 87 năm có mặt trên đất nước Việt Nam, từ đảng Cộng sản đầu tiên cho đến Đông Dương,Lao Động rồi lại quay về với Cộng sản từ 1976, những người Cộng sản đã nhúng tay vào máu dân tộc dòng dã 30 năm từ 1945 đến 1975.
Riêng cái tên Lao Động, được rêu rao trá hình tổng cộng 24 năm cầm quyền từ 1951 đến 1975, đã làm tan hoang đất nước và gây ra rất nhiều tội ác đẫm máu trong các vụ án Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc từ 1953 đến 1956 với hàng chục ngàn nạn nhân bị xử oan. Con số người bị hành quyết được phỏng định từ 15,000 đến 25,000 người. Nổi tiếng và oan nghiệt nhất là Bà Nguyễn Thị Năm, hay Cát Hanh Long (tên một hiệu buôn do bà làm chủ ở Hải Phòng), một ân nhân của nhiều lãnh đạo hàng đầu của đảng CSVN khi còn kháng chiến như: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị.
Ngoài ra còn phải kể đến tội ác của Lao Động trong vụ án Nhân văn Giai Phẩm 1955-1958; Vụ án “Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”, hay còn gọi là vụ án Xét Lại Chống Đảng, bắt đầu từ 1963 cho mãi đến 1973.
Ở trong miền Nam của Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cái đảng Lao Động này đã mang quân xâm lược miền Nam từ 1954 đến 1975; là thủ phạm giết người trong cuộc được gọi là “tổng tiến công và nổi dậy” Tết Mậu Thân năm 1968 nói chung và thảm sát gần 8,000 người ở Huế nói riêng.
Tổn thất dân sự trong cuộc nội chiến do đảng Lao Động chủ động gây ra được ước tính từ 1,000,000 đến 4,000,000 người.
Ngoài ra, cũng cái đảng Lao Động này, sau đó lại mang tên Cộng sản từ năm 1976, sau khi chiến tranh kết thúc, còn nhúng tay vào các vụ làm chết hay mất tích của hàng chục ngàn quân và dân người miền Nam bị bắt vào các trại tù lao động giả danh cải tạo hay trên đường vuợt biển, vượt biên tìm tự do từ sau ngày quân Cộng sản miền Bắc chiếm miền Nam tháng 4/1975.
Như vậy, trong trường hợp Giáo sư Tương Lai, người đã dũng cảm tuyên “dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng (Cộng sản) của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh” thì có cán cân nào đo được quyêt định của ông?
Hay ta cũng cần phải gọi hồn nguyên lãnh tụ Trung Hoa Đặng Tiểu Bình để yêu cầu ông giải thích tại sao ông đã nói câu: “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột”?
Chuyện oái oăm của Giáo sư Tương Lai là liệu ông có sợ vỡ bình khi đánh chuột, hay chúng cũng cá mè một lứa vì đảng CSVN của ông Trọng cũng chỉ là hậu thân của đảng Lao Động do chính ông Hồ Chí Minh đổi tên thay cho Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 19 tháng 2 năm 1951?

Tiếng gọi hồn từ cõi ma

Báo Việt Nam và blogger, nhà báo Huy Đức, dồn dập đăng bài được cho là có mục tiêu “dọn đường” cho việc bắt ông Đinh La Thăng, cựu chủ tịch Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PetroVietnam), cựu ủy viên Bộ Chính Trị đảng CSVN, cựu bí thư Thành Ủy Sài Gòn.

Ông Đinh La Thăng. (Hình: Báo điện tử Zing)
Báo Tuổi Trẻ hôm 13 Tháng Chín đăng bài “800 tỷ đồng (hơn $35 triệu) của dầu khí ‘bốc hơi’ thế nào?” không nêu đích danh tên ông Thăng như ghi chú “Chủ Tịch Hội Đồng Thành Viên PetroVietnam ký văn bản trình thủ tướng cho phép PetroVietnam góp vốn vào OceanBank hôm 30 Tháng Chín, 2008.”

Trong phiên tòa “đại án” OceanBank, PetroVietnam tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự, được xác định mất 800 tỷ đồng trong vụ án này.

Trên trang Facebook cá nhân, nhà báo Huy Đức viết rõ hơn: “Đinh La Thăng cho phép góp 800 tỷ đồng triệu, tương đương 20% vốn điều lệ vào OceanBank. Ông Thăng đã biến ngân hàng này trở thành ‘dịch vụ nội bộ’ của PetroVietnam, các đơn vị thành viên đều phải mở tài khoản tại đây. Bản chất của vụ án này là ‘tham ô’ chứ không phải là ‘cố ý làm trái.’”

“…Chỉ vì xác định không chính xác tội danh, cơ quan điều tra đã mất rất nhiều thời gian với 35 cán bộ chi nhánh ngân hàng thay vì tập trung điều tra các quan tham ở PetroVietnam, đặc biệt là ông Đinh La Thăng. Nếu chỉ xử những người làm công ăn lương ở OceanBank mà không xử các quan chức PetroVietnam ăn chia tiền lãi suất ngoài sổ sách thì vụ án rất dễ bị đi lạc hướng,” ông viết tiếp.

“Nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự ông Đinh La Thăng thì trong vụ PetroVietnam, coi như các cơ quan chống tham nhũng chỉ ‘lượm củi khô,’ chỉ bắt đám thừa hành mà để lọt thủ phạm, để lọt kẻ cầm đầu; những đồng phạm như Nguyễn Xuân Sơn, Ninh Văn Quỳnh… ai hiểu nội tình PetroVietnam đều biết, họ không oan, nhưng ở một mức độ nào đó họ đều là nạn nhân của Thăng,” ông viết thêm.

Ông Huy Đức khiến người ta ngạc nhiên khi liên tiếp đăng các post về Đinh La Thăng trên mạng xã hội với những lời lẽ ngày càng gay gắt.

Một bài của ông Huy Đức gần đây viết: “Vô [tù] sớm đỡ đau tim, ông Thăng. ‘Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài’ nhưng một ngày thấp thỏm nằm chờ lại cũng bằng nghìn thu ở tù.”

“Coi kỹ hồ sơ, từ vụ 800 tỷ tới vụ Junin II, công nhận ông Thăng quả là rất gian manh. Từ gần chục năm trước mà ông đã toan tính, cài thế, đẩy tội cho đàn em. Nếu C46 làm tới nơi thì đối tượng bị khởi tố phải lên đến hàng trăm…,” ông viết.

“Chính sách một lựa chọn của ông Thăng, ‘tiền hoặc là một tờ A4,’ đã tha hóa nhiều thế hệ cán bộ. Có thể ông biết rõ, sắp sửa có những ‘tờ A4’ xướng tên mình. Đừng loay hoay ở ngoài để rồi nghe một tiếng còi xe cũng giật thót mình. Hãy nộp lại tiền và nhận tội để tìm một giấc ngủ không cần Macallan30, cho dù là trên sàn bê tông lạnh,” theo Facebook nhà báo Huy Đức.

Cũng trong hôm 13 Tháng Chín, hãng Reuters đăng bài nói họ tiếp cận được tài liệu cho thấy chính phủ thời ông Nguyễn Tấn Dũng “xóa tội” cho ông Trịnh Xuân Thanh, người được cho là nhân vật thân tín với ông Đinh La Thăng.

Theo một lá thư đề ngày 18 Tháng Năm, 2015, được cho là của Bộ Trưởng Thương Mại Vũ Huy Hoàng (thời điểm đó) gửi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông Thanh “nhận trách nhiệm” nhưng chính phủ “không thấy có dấu hiệu tiêu cực” liên quan đến ông ta.

“Do vậy, các cơ quan đồng ý không áp dụng biện pháp kỷ luật đối với ông Thanh,” bức thư viết.

Bài báo của Reuters cũng đề cập về những người đang bị điều tra liên quan đến hoạt động của PetroVietnam và nói rằng ông Đinh La Thăng là nhân vật chính trị cao cấp nhất “bị ngã ngựa” khi mất chức bí thư Thành Ủy Sài Gòn và bị loại khỏi Bộ Chính Trị.

“Các cuộc điều tra đang tiếp tục nhắm vào PetroVietnam và Bộ Thương Mại, cũng như Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.”

“Có trông đợi rằng có thêm nhiều thành viên của chính quyền thời ông Dũng sẽ bị truy tố,” theo Reuters.

PVĐ Blog


Điếm đực Sài thành
Bánh Mì ... Bánh Bao ...
Là tiếng "Lóng" mới tại VN ngày nay ...Hắn là sinh viên tốt nghiệp đại học, thất nghiệp dài dài, bèn ra nghề chạy xe ôm gần cả năm nay để kiếm cơm, sống qua ngày. Nhưng, so với những quái xế chuyên nghiệp tại thành Hồ,...hắn còn kém họ xa lơ xa lắc về mặt kiến thức giang hồ mà họ tích lũy được ngoài đường phố; vì vậy, có những trường hợp cần thỏa mãn nhu cầu của khách, nhất là những khách ở tỉnh khác lên Sài gòn, hắn đành chịu thua. Đôi khi hắn bị họ gọi ngược lại là “quái xế Hai Lúa” thế mới đau chớ! Hãy nghe hắn tâm sự về nghề lái xe ôm.
Lái xe ôm là một nghề kiếm sống thật đơn giản, đổ mồ hôi để đổi bát cơm, manh áo một cách lương thiện. Xe ôm phân chia làm 4 giai cấp: “cá tra” những người lái xe ôm được rước khách ngay tại các xa cảng miền Đông hoặc miền Tây, lực lượng nầy mặc đồng phục, áo thun màu xanh hoặc màu vàng, có ghi ký hiệu đàng hoàng.

Thí dụ tại bến xe Miền Đông: “Tài đêm BXMĐ P...QBT” thu nhập của họ rất cao và chịu sự quản lý chặc chẻ của đội bảo vệ xa cảng. Tập trung trước cổng số 2 là đội xe ôm “cá chốt”, chỉ được phép đón khách ở ngoài cổng xa cảng. Còn lái xe ôm hạng bét là “cá lòng tong”, hành nghề xe ôm tự do, chạy rong ngoài đường phố để bắt khách, nên thu nhập rất thấp. Sau khi trừ tiền xăng nhớt cho chiếc xe Suzuki cà tàng, cũng còn 5, 6 chục ngàn đủ tiền cơm, cà phê, thuốc lá cho một ngày. Tôi thuộc loại xe ôm “cá lòng tong”. Còn đội siêu xe ôm “hoàng gia”, họ ăn mặc rất lịch lãm, comlpe, cà vạt hẳn hoi, chơi toàn xe xịn đời mới như Honda, Dylan, Yamaha, Suzuki Avenis... chuyên phục vụ khách tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Chuyện buồn cười mới xảy ra ngoài hôm qua. Vào khoảng 10 giờ sáng, tôi đang xách xe không, chạy cầu âu trên đường Cách Mạng Tháng Tám gần miệt Ngã Tư Bảy Hiền thì gặp một thiếu phụ sồn sồn, béo tròn, vẫy tay gọi, nhờ tôi chở đi tìm mua “bánh mì”. Tưởng thật, tôi mời bà ta lên xe, chạy một lèo ra Chợ cũ Sài Gòn, vì bánh mì ở đây thơm ngon nổi tiếng nhất thành đô. Đến nơi, tôi mời bà ta xuống xe đi thì bà ta cười, nói: “Chị muốn đi tìm “bánh mì”, nhưng không phải bánh mì loại nầy,” vừa nói bàn tay phải của bà ta di động mất trật tự xuống “vùng cấm địa” của tôi, nói. “Chị muốn mua bánh mì loại nầy thôi hà!”


À, thì bây giờ tôi mới hiểu bà nầy thuộc loại bà già ham vui, tiếng lóng “bánh mì” là ám chỉ mại dâm nam; còn “bành bèo” ám chỉ mại dâm nữ. Tiếng lóng nầy xưa rồi, ít ai dùng tới. Tiếng lóng bây giờ, giới giang hồ dùng từ hiện đại hơn nhiều, bọn “mãi dâm nam” thì họ gọi là heo nọc. Heo nọc được chia ra làm ba hạng: “heo độc”, “heo bầy” và cuối cùng là “heo 4 Đ ”. Đây là một tệ nạn xã hội nhức nhối trong thời buổi “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Món ăn chơi gì mà cánh đàn ông hưởng thụ được thì đàn bà cũng đâu có chịu thua kém. Cụm từ “bán trôn nuôi miệng” dành cho giới chị em ta, còn bọn mãi dâm nam bán cái gì nuôi miệng đây? Nghĩ hoài mà không ra, chẳng lẽ dùng từ “bán ... nuôi miệng”? Mà “heo độc” khác với “heo bầy” và “heo 4 Đ” như thế nào? Khách mua dâm, đa số là mấy bà sồn sồn tuổi từ 50 trở lên, phần đông từ miền Tây lên Sài Gòn buôn bán chuyến, xa gia đình đi mua vui. Giới giang hồ đánh giá và phân loại bọn mãi dâm nam như sau:


HEO ĐỘC là heo đực giống thượng thặng, hoạt động độc lập, rất đắt giá, thường là các mệnh phụ phu nhân của “cán bộ gộc”, vợ các đại gia hoặc những tên tư bản đỏ mới dám đụng tới. Họ là những thanh niên khỏe mạnh, vai u, thịt bắp luôn luôn khoát lên mình bộ vó sang trọng, đắc tiền như: quần soóc, áo thun Adidas, giày Nike, đồng hồ Omega hay Rolex và cái điện thoại di động luôn luôn kè bên mình.... Bãi đáp thường trực của họ là mấy quán cà phê nằm trên đường Phạm Ngọc Thạch, quận 3.


Có vào thử nơi nầy mới biết hư thực ra sao! Không phải những “heo độc” là những chàng vai thịt bắp đâu nghen! Nhưng, đấy không phải là tiêu chuẩn cần thiết. Ngược lại, có những chàng đẹp trai, dáng người mảnh khảnh thư sinh như Alain Delon, cái tướng trói gà không chặc, cũng đắc khách như thường. Khi khách làng chơi là phụ nữ có tâm hồn lãng mạng, rất thích hạng người nầy để nhớ lại cái phút ban đầu lưu luyến ấy...Còn những mệnh phụ có máu Võ Tắc Thiên hay Từ Hy Thái Hậu thì khoái mấy anh chàng vai u thịt bắp như võ sĩ đô vật bên Mỹ. Khi khách hàng có nhu cầu cần thiết là liên lạc với nhau bằng điện thoại di động. Giá mỗi lần “xuất chuồng” đi nhảy sô có thể lên đến 4, 5 vé (400, 500 USD), bèo lắm thì cũng được 1 hoặc 2 vé.

HEO BẦY là những mãi dâm nam hoạt động trong đường dây, có tổ chức hẳn hòi. Theo sự đánh giá trong giới làng chơi phụ nữ thì “heo bầy” không thể nào so bì được với “heo độc” về hình thức bên ngoài cũng như mức thu nhập. Giá mỗi lần đi sô chỉ thu nhập được từ 6 xị (600.000 đồng) hoặc 1 chai (1 triệu). Hiện nay, “heo bầy” thường tập trung tại nhiều tại các công viên nằm ở trung tâm thành phố, các quán trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm quận 1. Điều kiện heo nào muốn nhập bầy cũng dễ dàng thôi: phải chịu khoảng chi phí bắt buộc 20% trên “tổng doanh thu” cho “tú ông”, số điện thoại di động, và hai tấm ảnh 10 X 15 cm để làm catologe có đánh mã số đàng hoàng. Có 3 loại mã số: Mã số đỏ là dạng “xông khói” (trẻ khỏe mạnh). Mã số xanh là “loại nướng” (phải sử dụng thuốc kích thích). Mã số vàng là “luộc” (cho mấy bà có thu nhập ít xài đỡ).

HEO 4Đ là “điếm đực đứng đường”. Bãi đáp thường xuyên từ góc đường Lê Thánh Tôn - Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước cửa Thảo Cầm Viên là “chợ tình” của họ. Hãy nghe một đoạn băng ghi âm tiếp thị của bọn ma cô là đủ thất kinh hồn vía: “Xin bảo đảm với quý bà, quý cô là hàng đúng tiêu chuẩn quốc tế không sida, sẵn sàng phục từ A đến Z, không hài lòng không lấy tiền. Tụi nầy là con nhà đàng hoàng đấy, vì ham vui nên ra đây chơi. Dùng thử một lần thì biết đá, biết vàng...” Bọn ma cô rao hàng theo kiểu “treo đầu heo bán thịt chó”, bọn 4 Đ nầy là loại vào tù ra khám như ăn cơm bữa, chớ con nhà đàng hoàng cái nỗi gì chớ!


Hồi tháng trước, tôi đến “chợ tình” trước cửa Thảo Cầm Viên để chứng kiến hoạt cảnh buôn bán thân xác của bọn 4 Đ. Không phải bà nào bà nấy da mặt dầy hơn gót chân đâu nghen. Bọn đàn ông đi tìm hoa tương đối dễ dàng khi chọn bãi đáp. Nhưng cánh mấy bà đều phải tuyệt đối kín đáo vì việc mua dâm của họ là chuyện làm khó có thể chấp nhận, vì thế họ phải theo một quy trình khép kín. Đã vậy mà quý bà còn phải hóa trang bằng cách đeo những mặt nạ, đeo kính đen như điệp viên 007, khẩu trang... cho chắc ăn, rồi đi taxi đến chợ tình tha hồ chọn hàng vừa ý.

Đêm đó, tôi quan sát một chiếc xe taxi màu xanh, chạy chầm chậm trước Thảo Cầm Viên để tìm “bò lạc”, ngồi trong xe là một người đàn bà đội nón rộng vành màu đen, kéo xệ xuống che gần hết khuôn mặt. Liền theo đó, một chiếc Honda màu đỏ phân khối lớn chở một thanh niên ngồi phía sau, ăn mặc bảnh bao, tướng tá không tệ lắm. Bà ta quay cửa xe taxi xuống để quan sát mặc hàng cho chính xác. Tôi liền bám sát phía sau chiếc Honda, nghe bà ta hỏi: “Bảo đảm hàng không có bệnh “sida” chớ?”. Tên lái Honda, tôi đoán không lầm là “tú ông”, nói: “Bảo đảm với chị là hàng sạch!” Bà ta hỏi: “Giá phục vụ over night mấy xị?” Hắn đáp: “Giá gì bèo thế? Cho xin một chai mới đủ sở hụi!” Bà ta nói: “Được, chất hàng lên xe taxi đi! Nếu phục vụ đúng mức, chị “bo” thêm để bồi dưỡng. Còn làng chàng là chị Hai “thiến” đó nghe!” Thường la cà khu vực nầy, còn có mấy tên “gay” tới lui để bày hàng.

Dưới chân cầu Đồng Nai thuộc quận 9 thành Hồ, có một tiệm chụp hình thời trang, mấy bà mệnh phụ phu nhân thường tới lui khu vực nầy để tìm “hàng son”, chọn mặt đặt hàng, có khi phải order mất mấy ngày mới có đấy nhá!


Trong cái thế giới mãi dâm nam ở thành Hồ cũng có quy luật riêng của nó, đôi khi cũng rất tàn nhẫn. Những chàng trai khỏe mạnh bán cái “vốn trời cho” không phải là sức voi hoài đâu, xài hoài cũng cạn kiệt. Đó là những bọn “cave nam” mà khách hàng của họ là những dân đồng tính nước ngoài giàu có như doanh gia, nghệ sĩ... Ngoài cái khoảng tiền đi khách phải chia cho chủ khách sạn 50% (ngoài trừ tiền bo), cave nam còn dành một khoảng tiền không nhỏ để tái tạo lại sức lao động, mới đủ sức trường kỳ kháng chiến. Ngoài dân đồng tính, các bà sồn sồn từ 40 đến 50 tuổi cùng thường tới lui vũ trường để tìm bướm. Một tên cave nam chuyên nghiệp tên Hoàng Lao Ái tâm sự: “Làm cái nghề nầy cũng cay nghiệt lắm, khi mà sức tàn lực kiệt sẽ bị đào thải ra đứng đường không thương tiếc,” hắn than thở. “Mỗi ngày phải “nhảy dù” 5, 7 sô với mấy bà sồn sồn thì chỉ có nước từ hết xí quách đến... liệt như chơi! Gặp nhiều bà chằng xấu như Chung Vô Diệm, cũng phải ráng nín thở qua sông.” Hắn còn cho biết, khu vực quanh Nhà máy Bia Sài Gòn, nhất là đường Nguyễn Kim và Lý Thường Kiệt thuộc quận 5 và 10 là nơi làm ăn của giới nầy và tương lai của hắn cũng sẽ ra đó kiếm sống.


Hiện tượng mãi dâm nam hay trai đứng đường có khuynh hướng phát triển “đại trà” ở cấp quốc gia, báo động về sự suy đồi đạo đức tột cùng của chế độ XHCN hiện nay. Nguyên nhân đưa đến tệ đoan xã hội nầy là do các phu nhân, mệnh phụ sồn sồn, đẻ năm sáu lứa hay đào nhí của cán bộ CS có chức, có quyền hoặc mấy đại gia, tư bản đỏ giàu có. Khi mà tài sản của họ lên đến hàng trăm triệu USD thì giàu đổi bạn, sang đổi vợ là chuyện thường tình, mà trâu già lại thích gặm cỏ non. Quý ngài thay đào nhí, người mẫu thời trang như thay áo, viện cớ đi họp Đảng vắng nhà thường xuyên, đến mức các bà chịu hết nổi phải “vùng lên”, ông ăn chả thì bà phải ăn nem. Đời là thế đấy!


Xin hãy lắng nghe tâm sự của một chàng “heo độc” trước khi chấm dứt phóng sự nầy: “Tôi nhờ cái mã trời cho đẹp trai, nhờ vậy mà tôi trở thành “trai bao” cho một số mệnh phụ phu nhân. Tôi sợ nhất là khi phục vụ cho mấy bà vợ sồn sồn của quí vị lãnh đạo cơ quan nhà nước hoặc các đại gia uy quyền thuộc loại “3G”, mà quí bạn có biết 3G là gì không? Đó là loại “gộc, già, giàu”. Mấy mụ nầy chuyên ăn no rửng mỡ, sung sức quá mạng. Có một lần, tôi được gọi phục vụ cho một bà sồn sồn, vợ của một đại gia khét tiếng ở Sài Gòn. Hôm đó, tôi chẳng may “khóc ngoài quan ải”, làm bà ta nỗi trận lôi đình, hét tướng lên: “Tao trả tiền bo đẹp cho mầy là để cho tao sướng, chớ đâu phải để cho mầy... sướng hả?

Đồ mắc dịch!” Mắng xong, bà ta vói tay lấy chiếc giày cao gót, nện vào đầu tôi mấy quả đến phun máu...” Làm đời trai bao, không phải lúc nào cũng được quý bà cưng chiều đâu nghen bà con. Mình mà out of control “tới bến” trước, thì dễ bị mấy bả nổi điên lên, giở trò bạo lực, nắm tóc, giựt chỏ, lên gối... sau cùng nện cho một trận, quần áo tơi tả, phù mỏ như chơi...

nguồn: internet

13 tháng 9, 2017

TÔN GIÁO


Đây là một mẫu đối thoại ngắn giữa Thần học gia người Brazil Leonardo Boff, và Đức Đạt Lai Lạt Ma…
Đức Đạt Lai Lạt Ma…
Tại một cuộc hội thảo bàn tròn về “Tôn giáo và tự do” có Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi cùng tham dự. Lúc tạm nghỉ, tôi hỏi ngài vừa tinh nghịch vừa tò mò:

“Thưa ngài, tôn giáo nào tốt nhất? ”

Tôi nghĩ ngài sẽ nói: “Phật giáo Tây tạng” hoặc “Các tôn giáo phương Đông, lâu đời hơn Ki-tô giáo nhiều”.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm giây lát, mỉm cười và nhìn vào mắt tôi…
Điều này làm tôi ngạc nhiên vì tôi biết đây là một câu hỏi ranh mãnh.
Ngài trả lời:
“Tôn giáo tốt nhất là tôn giáo đưa anh đến gần Đấng tối cao nhất. Là tôn giáo biến anh thành con người tốt hơn”.
Để giấu sự bối rối của tôi trước 1 câu trả lời đầy khôn ngoan như thế, tôi hỏi:
“Cái gì làm tôi tốt hơn? ”

Ngài trả lời:


“Tất cả cái gì làm anh

Biết thương cảm hơn
Biết theo lẽ phải hơn
Biết từ bỏ hơn
Dịu dàng hơn
Nhân hậu hơn
Có trách nhiệm hơn
Có đạo đức hơn”.
“Tôn giáo nào biến anh thành như vậy Là tôn giáo tốt nhất”.

Tôi thinh lặng giây lát, lòng đầy thán phục, ngay cả bây giờ, khi nghĩ đến câu trả lời đầy khôn ngoan và khó phản bác:

“Anh bạn tôi ơi! Tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh

Điều thật sự quan trọng đối với tôi là cách cư xử của anh đối với người đồng đẳng, gia đình, công việc, cộng đồng và đối với thế giới.


Hãy nhớ rằng vũ trụ dội lại hành động và tư tưởng của chúng ta. Quy luật của hành động và phản ứng không chỉ dành riêng cho vật lý.


Nó cũng được áp dụng cho tương quan con người.

Nếu tôi ở hiền, thì tôi gặp lành,
Nếu tôi gieo gió, thì tôi gặt bão.

Những gì ông bà nói với chúng ta là sự thật thuần túy.

Chúng ta luôn nhận được những gì chúng ta mong muốn cho người khác.

Hạnh phúc không phải là vấn đề số mệnh. Đó là vấn đề lựa chọn.”


Cuối cùng ngài nói:

“Hãy suy tư cẩn thận vì Tư tưởng sẽ biến thành Lời nói,
Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời nói sẽ biến thành Hành động,
Hãy hành xử cẩn thận vì Hành động sẽ biến thành Thói quen,
Hãy chú trọng Thói quen vì chúng hình thành Nhân cách,
Hãy chú trọng Nhân cách vì nó hình thành Số mệnh,
Và Số mệnh của anh sẽ là Cuộc đời của anh.
… và …
"Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự thật."


ST

NHỮNG TỬ HUYỆT CỦA TỔNG TRỌNG

  Nguyễn Tiến Dân

   1-Tôn Vua – phò Chúa, là một trong những truyền thống lâu đời nhất của đất nước Trung hoa. Từ quan – tới dân; từ nhỏ – tới lớn, ai cũng được nhồi sọ một cách bài bản và tinh vi. Để cuối cùng, nó ngấm vào máu một cách tự nhiên và ai cũng thành kính, mà tin rằng: Vua – Chúa, là những bậc Thánh nhân, mà Ngọc hoàng Thượng đế đã sai xuống, để trị vì Thiên hạ.

   Khác với lũ người trần – mắt thịt, Thánh nhân, tất phải có viễn kiến hơn người: 圣人其所始知其所. Thánh nhân kiến kì sở thủy, tắc tri kì sở chung. Tạm dịch: Thánh nhân, là những người khôn ngoan. Chỉ cần nhìn thấy khởi đầu của một sự vật hoặc một sự việc, người ta có thể minh định được cả quá trình phát triển, lẫn kết cục của nó (sách Lục thao – thiên Văn khải).

   Dĩ nhiên, người ta chỉ cần đến viễn kiến của bậc Thánh nhân, trong những pha khó nhằn. Chứ sự việc nó đã quá rõ ràng, cần gì phải hỏi ý kiến của các cụ. Tỷ như, cái sự hoang đường của Chủ nghĩa CS và cái sự sụp đổ tất yếu của nó.

   Nói vậy, chứ trên đời, vẫn thiếu gì những kẻ “dở hơi ăn cám lợn”. Chúng đã được nhìn tận mắt – đã được sờ tận tay, thậm chí, còn bị sống ở đó, mà vẫn mang trong mình niềm tin: “Chủ nghĩa CS, là mùa xuân của nhân loại(!)”. Có tai, như điếc – có mắt, như mù. Bởi thế, chúng cố tình không nhận ra bản chất của chế độ CS. Cái chế độ, chứa đầy hận thù – giả dối – bất công – bạo lực và cả vô nhân tính nữa. Những “đỉnh cao trí tuệ Nhân loại” của cái chế độ ấy, càng không thể không biết điều đó. Nhưng, chúng vẫn cố rước nó về và mang dân chúng ra làm chuột bạch. Hậu quả, cả Đất nước lầm than. Những kẻ đó, “phi khốn nạn, ắt thần kinh”. Chúng, là ác Quỷ – là lũ bịp bợm – là bọn ngụy Thánh nhân. Họ Mao ở Trung quốc và đệ tử Polpot của y ở Campuchia, chỉ là một trong muôn vàn ví dụ.

   Vẫn biết: bá nhân, bách tính – khôn hèn, lẫn lộn. Nhưng, có 2 hạng người, biết rõ người ta không phải là bậc Thánh nhân, mà vẫn dựng bia – đẽo tượng kẻ đó. Để rồi, hàng ngày, chổng mông trước chính cái tác phẩm do mình tạo ra và khấn vái xì xụp: Một, là cái bọn mê muội. Hai, là cái bọn lưu manh, chuyên buôn Thần – bán Thánh, để kiếm quyền và kiếm tiền.

   Trung hoa, thì như thế. Nước Nam mình, về độ mê muội, nào có kém gì. Đi đến đâu cũng thấy “muôn năm”, với lại “vạn tuế”. Cho dù, biết rõ mười mươi: Những thứ dở hơi đó, đi ngược với tất cả mọi quy luật của Tự nhiên.
2-Dân gian, đã từng tổng kết và đúc rút ra một Chân lý: “làm tớ thằng khôn, còn hơn làm thày thằng dại”. Biết là, như vậy. Nhưng thiếu gì lúc, Dân tộc mình, vẫn phải làm đầy tớ cho những thằng dại. Đơn giản, vì những thằng dại ấy, vừa điên khùng – vừa khát máu và chúng còn có cả súng nữa. Đã đành, Dân tộc nào cũng có khát vọng: Thống nhất – Độc lập và Tự do. Nhưng, nhân danh Độc lập – Tự do, để đánh đổi nó, với bất cứ giá nào: Từ nhiều triệu sinh linh của Dân tộc, cho đến, sự tàn phá đến mức tan hoang của Đất nước. Điều đó, không đáng. Đơn giản, vì còn có rất nhiều cách lựa chọn khác, để cũng đạt được cái mục tiêu ấy. Đâu nhất thiết, phải “ăn sống – nuốt tươi” và nôn nóng, để rồi phải trả bằng một cái giá quá đắt. Nền Độc lập thật sự của Đất nước Thái lan và qui chế Tự do của Nhân dân nước bạn, là những minh chứng, cho luận điểm này. Nó càng không đáng, nếu biết rằng: Dân tộc Việt, đã đánh đuổi và cuối cùng, không có cơ hội, để được làm đầy tớ cho 2 thằng khôn ngoan, là Pháp và Mỹ. Đau nhất, tránh được vỏ dưa, chúng ta lại gặp phải vỏ dừa. Kết thúc cuộc chiến, Đảng không đem đến cho chúng ta cơ hội: Được làm thày của cái thằng vừa ngu – vừa ác, là Tàu cộng. Trái lại, Đảng anh minh – vĩ đại và có kèm theo cả 1 tí sáng suốt nữa, bắt chúng ta, phải đem tấm thân ngọc ngà ra, để làm đầy tớ – làm nô lệ cho chúng và để chúng, tùy thích dày vò. Dĩ nhiên, Đảng được chúng ưu ái và thí cho cái vai trò của bọn “cai đầu dài”.

   Tổ tiên, nếu có linh thiêng, xin hãy về và vật chết hết những lũ khốn nạn nào, đã đẩy cả Dân tộc Việt chúng con, đến thảm cảnh này.

   3-Xét trường hợp của Cả Trọng – người đứng đầu của Đảng CS Việt nam. Đồng nghĩa với việc, ông ta phải chịu trách nhiệm cao nhất về cả những thành công hiếm hoi và cả những thảm bại tràn lan, đang xảy ra trên khắp Đất nước mình.

   Ông này, giỏi lắm. Học hàm Giáo sư – học vị Tiến sĩ, ông đều có đủ. Tính ông, đã cần kiệm, lại còn liêm khiết nữa. Ông không có thói quen “bạ cái gì, cũng va vào mồm”. Giống như, Tổng cựu Nông Đức Mạnh. Tiền bạc – gái gú, ông chẳng màng. Sự thật đó, hiển nhiên và là điểm sáng duy nhất, trên con người ông. Bù lại, ông chỉ nghiện có đúng mỗi món: quyền lực. Trăm mưu hèn – ngàn kế bẩn, ông chẳng từ. Miễn sao, đạt cho bằng được mục đích: Ngồi lên đầu của tất cả những người dân Việt còn lại. Để thỏa mãn cho cái ý nghĩ cá nhân – không thể nói là cao cả ấy, dẫu có bị cái gì đó, giống như Ceaușescu ở Rumani, ông cũng nguyện xin làm. Ngoài liêm khiết và nghiện quyền lực, ông không có bất cứ một phẩm chất nào khác, để có thể so sánh được với các bậc Thánh nhân.

   a-Trước hết, ông cũng như lũ đồng đảng, đều có cái gen “trơ trẽn” di truyền. Chỉ vì cái ghế Tổng Bí thư thấp hèn, ông sẵn sàng chà đạp lên luân thường – đạo lý. Ông cố tình đặt ra những tiêu chuẩn, để rồi, ngồi xổm lên chính những tiêu chuẩn đó. Cuối cùng, “một mình – một chợ”, thâu tóm sạch quyền lực. Tỷ như:

   -Ông đặt ra cái yếu tố tuổi tác, để chặn đường tiến của Đại Quang và Tư Sang. Trong khi, không chịu sờ tay vào gáy, để thấy rằng: ông là cái thằng già nhất trong số tất cả các đối thủ Chính trị của mình. Kể, cũng kì. Các đối thủ của ông, ai cũng bị át phân. Chẳng biết, họ sợ cái gì, mà nhất loạt, ai cũng cam chịu cảnh “cua nhìn thấy ếch”. Chẳng ai, dám ẳng lên. Cho dù, chỉ 1 tiếng. Nhắc các ông kia: Lễ nghĩa, cũng phải tùy từng người, mà định ra cách ứng xử, sao cho thích hợp. Đi với bụt, mới cần mặc áo cà sa. Chứ đi với lũ ma mọi, cần gì thứ ấy. Nó đã chơi trò mèo như thế, quân tử làm cái đếch gì, để thiên hạ cười cợt và cho ta vào cái bị, cùng hạng với lũ “ngu trung”.

   Trong thiên Hư – thực, Tôn tử có viết câu này: 故善者,致人而不致于人. Cố thiện chiến giả, trí nhân nhi bất trí vu nhân.  Tạm dịch: người giỏi tác chiến, họ luôn tìm cách khống chế đối phương. Không bao giờ, để cho đối phương làm được cái điều ngược lại. Nghĩa là, không để chúng dễ dàng áp đặt được lối chơi, lên mình.

   Cả Trọng, khống chế ông Chủ tịch, bằng cái Thông báo số 13 – TB/TW. Việc của ông Quang, là phải thoát ra khỏi cái bẫy ấy. Dĩ nhiên, không phải bằng cách cò cưa – kéo xẻ với Trọng, để ném được cái Thông báo dở hơi kia, vào trong sọt rác. Hãy dùng cách của Tôn tử: 以迂直,以患. Dĩ vu vi trực, dĩ hoạn vi lợi. Nôm na: đường vòng mà được việc, tốt hơn nhiều, so với đi đường thẳng. Bị dồn vào đường cùng, nào chắc gì đã xấu. Phải vào đó rồi, ta mới có động lực, để xông lên.

   Trường hợp của ông Quang, cần gì phải dùng “đao to – búa nhớn”. Chỉ cần, kẹp dao vào cạnh sườn của lão già và nói nhỏ với lão, như thế này:

   Thưa đ/c Trọng kính mến và khả ái. Dân gian, có câu: “Thầy già – con hát trẻ”. Đúng là, như vậy. Thầy, thì cần già. Vì người già, mới có nhiều kinh nghiệm. Con hát, thì cần trẻ. Vì người trẻ, giọng mới hay – tay mới dẻo – dáng mới đẹp. Từ đó, dễ làm mê đắm lòng người. Biết là như vậy, nhưng khi chọn Nguyên thủ, người ta không chỉ căn cứ vào mỗi tuổi tác. Thiếu gì kẻ, đầu đã bạc trắng, nhưng vẫn hành xử như lũ trẻ trâu và trong đầu của chúng, chỉ chứa toàn đất sét. Tuổi tác – sức khỏe và trí thông minh, cả ba tố chất ấy, phải kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, trong nội tại của mỗi người lãnh đạo. Từ đó, nó sẽ tạo ra bản sắc riêng cho họ. “Khôn đâu đến trẻ – khỏe đâu đến già”. Trong 3 nhân tố ấy, đ/c được mỗi vế đầu. Tức là, đã thuộc lớp người “xưa nay hiếm” và rất xứng đáng, để “đi vào dĩ vãng”. Tuổi tác càng cao, sức khỏe của đồng chí, ngày càng xuống dốc. Ngày nào, đ/c chẳng xơi hàng vốc Viagra. Cốt sao, khi đi tiểu, nước đái, không làm ướt mũi giày. Làm việc gì, đ/c cũng rề rà, như “xẩm sờ lìn”. Nói cho đ/c biết:

   Muốn diệt chuột, người khôn ngoan, có 3 cách để lựa chọn: Thứ nhất, đặt bẫy – thứ nhì, đánh bả – thứ 3, nuôi mèo. Chỉ những thằng điên, cứ nhìn thấy chuột, là nháo nhác đi tìm gậy và hùng hục đuổi theo, để đập nó. Đã điên lên rồi, người ta thường chẳng xá gì đến những chuyện còn lại. Riêng đ/c, “đánh chuột, mà vẫn đau đáu sợ vỡ bình”. Thế thì, xin lỗi đ/c Trọng, đuổi đánh nó làm cái đéo gì, cho tốn thời gian và công sức.

   Về nguyên tắc, khi nhóm lò, người ta chỉ chọn củi khô, để thảy vào. Như thế, bếp mới mau bén và lửa mới đượm. Cái đó, giải thích cho việc người ta phải phơi củi, cho thật nỏ. Xin lỗi đ/c, chỉ có cái loại “mặt nạc – đóm dày” và cái loại “ngu lâu – dốt bền”, mới nghĩ ra được cái chuyện: cho củi tươi vào lò. Lửa cháy lom dom, thì đã đành. Không những thế, bếp nhà ta, đầy khói. Ương ngạnh lao vào đấy, để nhóm lò: Hai con mắt của đ/c, mà không bị toét nhèm, chúng tôi, nguyện đi đằng đầu. Nhân cái chuyện nhóm lò, xin dẫn đ/c đến chỗ Quỷ Cốc tử. Để xem, ông ta bàn về cái chuyện củi khô – củi ưới, ở thiên Ma, nó như thế nào: 故物归类;抱薪火,燥者先燃;平地注水,湿者先濡. Cố vật quy loại: Bão tân xu hỏa, táo giả tiên nhiên. Bình địa chú thủy, thấp giả tiên nhu – Quy luật của tự nhiên: Ném bó củi vào lửa, cành khô sẽ cháy trước. Đổ nước ra mặt đất, dòng chảy, sẽ hướng nó đến chỗ trũng. Rõ ràng, không một dòng, nói về cái chuyện dùng củi tươi đun bếp. Nói chi đến cái chuyện: Đem củi tươi, đi làm cái chuyện “vạn sự khởi đầu nan”. Đó là, đi nhóm lò.

   Đất nước, đang đứng trên bờ của vực thẳm. Nhưng đ/c vẫn mê sảng, để nói lấy được rằng: “Thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất trong Lịch sử của Dân tộc(!)”. Nào, chỉ có vậy. Nói xong cái câu “đầu Ngô” ấy, đ/c lại tương mẹ nó cái “mình Sở” vào ngay được: “Đến hết thế kỷ này, không biết, đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam, hay chưa (!)”. Khắm đến mức, không thể chịu được.

   Nói ra những cái điều ấy, không phải, để moi móc đ/c. Mà, chỉ muốn nổi lên một vấn đề: Chỉ số IQ của đ/c, hơi thấp. Chúng tôi, hết sức xấu hổ, khi phải đội đ/c lên đầu.

   Đã đành, đ/c không tham tiền. Nhưng tham tiền, chưa là cái gì, so với chuyện: dốt nát, mà tham quyền. Làm gì mà đ/c không biết: Mình chỉ là cái loại “phận mỏng cánh chuồn” – là cái loại, đã “hết đát” và vô tích sự. Nhưng vẫn dùng kế “chó già giữ xương”, để ôm chặt quyền lực. Cả mấy khóa liền giữ trọng trách của Đảng và Nhà nước, ngoài cái món đánh võ mồm ra, đ/c chẳng làm được cái đếch gì. Chính đ/c, đã tự dẫn mình đến chỗ thân bại – danh liệt và chính đ/c, sẽ chôn vùi cái sự nghiệp “quang vinh” của Đảng ta.

   Đặt ra tiêu chí về tuổi tác, là rất đúng. Nhưng trước hết, hãy nhìn lại mình và hãy gương mẫu làm trước đi: Già, phải về – yếu, phải lượn và dốt, phải lủi đi. Cho, nước nó trong.

   -Ông lấy cái yếu tố “người miền Bắc và có lý luận”, để loại Ba X – một cái tay anh chị, người miền Nam và nghe cái bọn thối mồm, nó đồn thổi rằng: Ông chỉ có trình độ văn hóa lớp 3, trường làng.

   Đến lượt Ba X, không hiểu sao, cũng cắn răng – im lặng mà chịu trận. Để đến bây giờ, đám tay chân của ông, đã bị Tổng Trọng tỉa tót kĩ càng. Lớp thì bị bắt – kẻ thì bị tước sạch binh quyền. Những lời khai hoặc lời thú tội của chúng, là những cứ Pháp lí, không thể vững vàng hơn, để đưa ông, lên đoạn đầu đài. Dao, đã mài – thớt, đã rửa. Còn muối, đã được cho vào cái xoong nước lã và củ xả, đâu có đắt đến mức, không cho cả nắm vào trong đó. Nói thế để thấy, cái tình thế “mành chỉ treo chuông” của Ba X. Tay ông, không tấc sắt – Đằng sau ông, là vực thẳm – Phía trước ông, cừu thù, đang cầm dao và điên cuồng lao đến, với quyết tâm, không gì có thể son sắt hơn: ủi ông xuống vực. Ông không thể và cũng chẳng có con đường nào, để mà lùi. Nhắc với ông: Khi kẻ thù nó đã dí dao vào sườn mình, thì cũng phải biết đường mà rút khẩu súng trong túi ra, rồi chĩa thẳng vào cái bọng đái của nó:
Đã dư bốn chục năm, kể từ khi thống nhất Đất nước. Sao bây giờ, đ/c vẫn chia rẽ vùng miền ra, như thế. Chúng ta, đi làm Cách mạng, chứ có phải là đi ăn cỗ đâu, để chia phần rành mạch: Tổng Bí thư, phải là người miền Bắc – Thủ tướng, phải là người miền Nam... Nếu muốn rạch ròi, chúng ta, phải nói rõ ra với nhau, như thế này: Ai giỏi, thì làm – ai dốt, thì về. Đ/c vỗ ngực, tự nhận mình “có lí luận”. Nhưng tôi thấy, cái gọi là lí luận của đ/c, rặt một thứ “lí sự cùn”. Chưa có một luận điểm nào của đ/c, phù hợp với thực tế. Cho nên, quanh đi – quẩn lại, đ/c chỉ dám diễn thuyết cho cái đám ẩm ương, nửa điếc – nửa nghễnh ngãng, nó nghe. Chứ nếu đã giỏi đến mức, có thể “đổi trắng – thay đen”, xin đ/c: Hãy lên một cái diễn đàn mở, mời “các thế lực thù địch và phản động” đến. Sau đó, tranh luận công khai và thẳng thắn, với “các luận điệu Tuyên truyền xuyên tạc và bậy bạ” của chúng. Ở đó, liệu đ/c, có thể vặn được cổ, cho dù, chỉ là 1 con tép riu. Tỷ như, lão Dân già ? Không dám làm việc ấy, hãy câm cái mồm đi và đừng có mà nói với tôi: đ/c là loại người “có lí luận” và biết lí sự.

   Đây là tử huyệt thứ nhất của ông Tổng: Thực lực không có, nhưng vẫn tham quyền – cố vị. Từ đó, kích động cuộc đấu đá nội bộ. Khiến đồng đội của ông, phải trở mặt và phải phá ông, theo cái cách “từ trong phá ra”.

   Hình ảnh nội tuyến 1

   Bạn đọc, xin hãy ngắm cái vòm đá kia. Nó không dễ sập, nếu bị đè, từ trên xuống. Nhưng mọi chuyện, sẽ đơn giản hơn nhiều, nếu lực tác động ấy, lại được đặt theo hướng, từ dưới lên trên.

   b-Hành xử với đồng đội như thế, chưa đủ. Ông chăm sóc quần chúng, còn tận tâm hơn.

-Xưa nay, ông nổi tiếng là người ham học. Trên giời – dưới biển, cái gì ông cũng biết – cái gì ông cũng hay. Ông chỉ không biết câu nói của Đức Thánh Trần: “Khoan thư sức dân, ấy là kế sâu rễ - bền gốc. Là thượng sách, để giữ Nước”. Chính vì thế, nên ông bóc lột Nhân dân thậm tệ. Dĩ nhiên, qua sưu cao và thuế nặng. “Các thức thuế các làng thêm mãi”. Nhưng Tổng đây, vẫn chẳng muốn dừng.  Ông làm ngơ, khi lũ lâu la đi cướp đất của dân nghèo. Chuyện đó, nào phải là cá biệt. Hang cùng – ngõ hẻm trên đất nước này, ở đâu mà chẳng có. Chỉ cần ra ngõ, là chạm tay vào nó. Mục đích cuối cùng của ông: “Làm cho thập thất cửu không/ Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi”. Của đáng tội, ông không tham nhiều trong cái đống của ăn cướp ấy. Ông dùng nó, để chia cho lũ lâu la. Hiển nhiên, đó là cái giá, để mua lòng trung thành mù quáng của chúng. Ngu như ông, sao biết rằng: Để dân đói, cái gì đến, nó tất sẽ đến.

   Và, lúc đó, sẽ không có ôn hòa. Như, sự việc đã từng xảy ra, ở cái trạm thu phí Cai Lậy nữa đâu. Tổng Trọng và cả cái Đảng CS Việt nam, hãy nhớ cho kĩ điều đó.

   -Miếng ăn của dân, ông giành. Môi trường sống của dân, ông đầu độc. Chỉ vì mấy lời phỉnh phờ của thằng bạn đểu, ông cho nhập công nghệ bãi rác của chúng về. Khoan hãy nói đến chuyện đắt – rẻ và hiệu quả kinh tế của chúng. Chỉ cần biết, với những dây chuyền và công nghệ ấy: Biển của nước mình, đang hấp hối. Các dòng sông của nước mình, đang dần chết. Không khí của nước mình, hôi thối và đầy bụi. Nguồn nước ngầm, đang cạn kiệt và ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. “Thập diện, mai phục”. Ông Tổng làm thế, dân mình:

Nỗi diệt giống, bề lo – bề sợ,
Người giống ta, biết có còn không?
Nói ra sởn gáy – động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
                                Á Tế Á Ca – Phan Bội Châu

   -Sống trong một cái môi trường như thế, dân mình, không giành được giải quán quân về ung thư của Thế giới, ấy mới là chuyện lạ. Dân mắc bệnh, không xót thương cho họ thì chớ. Trên cương vị của mình, con quỷ cái Kim Tiến, còn đang tâm cho nhập thuốc giả về, để bán cho họ với giá cắt cổ. Không treo cổ nó lên, chứng tỏ, ông Tổng cũng là tòng phạm.

   -Cuộc sống vật chất, là như thế. Cuộc sống tinh thần, trăm vạn lần, còn khổ hơn. Những gì về Tự do và Dân chủ, mà Hồ Chí Minh đã long trọng hứa trước Quốc dân – đồng bào, đều bị ông xù. Nói một cách không ngoa: Ông đang vạch đường và chỉ đạo lũ lâu la thực thi chiến lược: Đưa nước Việt, quay trở lại với thời kì nô lệ. Và, có vẻ như, ông đã thành công.
“Tức nước, sẽ vỡ bở”. Cố tình đặt mình vào vị trí đối lập với Nhân dân. Đó là tử huyệt thứ 2 của ông Tổng.

   c-Từ những luận điểm trên, ta có thể thấy: ông Tổng, hoàn toàn không biết cách trị Quốc – an Dân. Vậy mà, đến giờ này, ông ta vẫn còn đứng được. Phải chăng, ông ta có cái tài trong lĩnh vực đối ngoại, để kéo lại? Không hề, có cái chuyện đó.

   -Sách Lục thao – thiên Thiểu chúng, chép rằng: 以弱击强者,必得大国之与,国之助. Dĩ nhược kích cường giả, tất đắc đại quốc chi dữ - lân quốc chi trợ. Áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt nam: Chúng ta là một nước nhỏ và yếu. Muốn chống được thằng khổng lồ Trung cộng, tất phải hội đủ hai điều kiện tiên quyết: Thứ nhất, phải có đại quốc chống lưng và thứ nhì, phải được các nước lân bang phù trợ. Chưa có nó, thì bằng mọi cách, phải tạo ra nó. Ngây ngô như Trọng, sao biết được điều này. Chính vì thê, y đề xướng và ra sức cổ vũ cho cái chiến lước đối ngoại “ba không” của mình: “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia”. Hậu quả nhãn tiền, các nước lớn, ngãng ra bằng hết. Cái vế thứ nhất: “có đại quốc chống lưng”, đã không xuất hiện. Ai được lợi ở đây, ngoài Tàu cộng.

   Trung cộng, lộng quyền ở Biển Đông. Philippines, đã gứi đơn kiện chúng, tại Tòa án Trọng tài thường trực (PCA). Họ, mời Việt nam tham gia. Cả Đẫn, chỉ đạo cho Bộ Ngoại giao, đứng ngoài. Chung cuộc, Philippines thắng. Còn chúng ta, mất đi một cơ hội vàng, từ trên trời rơi xuống: liên minh với lân quốc, để chống kẻ thù chung. Ngoài ra, với chính sách hai mặt: Trong nước, đàn áp khốc liệt các cuộc biểu tình của dân chúng, khi họ đòi bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác, lại phỉnh phờ và ve vãn nhờ Quốc tế, làm giúp cho cái việc này. Chỉ có loại ấm đầu, mới đi đánh bạn và giúp đỡ bọn thần kinh. Hệ quả, cái chuyện “lân quốc chi trợ”, cũng không có nốt. Thân cô – thế cô, lại đứng trước một thằng khổng lồ. Ai thắng – ai thua, chẳng cần nói, ai cũng rõ.

   Quen thói ngông nghênh với thần dân của mình, ông Tổng còn mang cái thứ Luật rừng của mình ra, để “giao thiệp” với Thế giới. Ông mà không gật, hỏi có thằng mật vụ nào, dám to gan tới mức: Giữa thanh thiên – bạch nhật, sang tận nước Đức, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, để mà bắt người? Dĩ nhiên, ông không phải là Thánh nhân. Bởi thế, đâu có lường trước được phản ứng quyết liệt của một nước văn minh và có chủ quyền. Cũng như, đâu có lường trước được, những hậu quả thê thảm của nó.

   -“Âm dương hòa hợp”. Cho nên, cái loại chuyên đi bắt nạt dân lành, tất luôn khiếp sợ trước cường quyền. Nhìn thấy Tàu cộng, ông run lên như chó nhìn thấy Sư tử. Vũ khí – khí tài, toàn mua về những đồ xịn nhất. Nhưng, chưa bao giờ, có ý định: Sẽ đem dùng nó. Bằng chứng, đó là sự hi sinh một cách hết sức vô nghĩa của 64 cán bộ và chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt nam, ở đảo Gạc ma. Thân thể của các anh, đã hòa tan vào trong nước biển. Nhưng nỗi oan khiên của các anh, không thể mất đi. Nó sẽ tích tụ, thành một khối và sẽ có lúc, nó sẽ được đặt lên mặt bàn: Trong phiên tòa của Nhân dân, xét xử tội ác của chế độ CS. Gần đây nhất, là vụ ươn hèn rút giàn khoan ra khỏi bãi Tư chính. Bãi này, nằm sâu trong Hải phận của Việt nam. Việc rút giàn khoan này, có thể so sánh với sai lầm chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Việt nam Cộng hòa. Khi ông ra lệnh: rút lui chiến lược, sau khi thất thủ Buôn mê thuột, vào tháng 3 năm 1975.

   Không có tâm – không đủ tầm và hoàn toàn không có kinh nghiệm trong việc đối ngoại. Dẫn đến, sự cô lập và khinh ghét của cộng đồng Quốc tế. Đó là tử huyệt thứ 3 của ông Tổng.

   d-Người xưa, có câu: 智者不为谋,社稷危;者不使,使不通;勇者不,则边境侵.Trí giả bất vi mưu, tắc xã tắc nguy – Biện giả bất vi sứ, tắc sứ bất thông – Dũng giả bất vi đấu, tắc biên cảnh xâm. Tạm dịch: Không tận dụng người giỏi, để bày mưu: Xã tắc, tránh sao khỏi thảm họa. Kẻ phân biệt rạch ròi mọi mâu thuẫn và biết khéo ăn – khéo nói, mà không sai đi sứ: Sứ mệnh của Chúa, sao có thể được thực thi. Người dũng cảm, bị ngồi chơi – xơi nước: Biên cảnh, ắt bị lân bang xâm.

   Người thường, có Trí – Biện – Dũng thì tốt. Không có, chẳng sao. Nhưng đã là Chúa, phải hội tụ đủ cả 3 nhân tố này. Không những thế, phải ở tầm cỡ thượng thặng. Tiếc thay, Chúa Trọng, chẳng có nổi một. Thế nên, vận Nước, như con tàu giữa thác ghềnh, mà trên đó, không hề có bóng dáng của một ông thuyền trưởng giỏi.

   -Về cái gọi là Trí của ông Tổng, phần trên đã phân tích tương đối kĩ. Xin được phép, không nhắc lại. Chỉ xin, bàn về cái Biện của ông Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng. Qua đó, độc giả sẽ thấy, cái bộ mặt thật và cái ánh hào quang giả tạo của ông ta, nó đẹp, đến mức như thế nào.

   Không thể phủ nhận: ông Tổng, chỉ là cái dạng gà mờ. Mắc bệnh tiền đình bẩm sinh. Do đó, chẳng có khả năng, phân biệt được đúng – sai và không có khả năng phân biệt được phương hướng. Chỉ cần một và chỉ một bằng chứng duy nhất, cũng thừa đủ để minh chứng cho cái luận điểm này: Ông không minh định được kẻ thù. Không minh định được kẻ thù, sao có thể lập ra được phương án phòng thủ Đất nước ? Không có phương án phòng thủ, Đất nước, như một cái nhà không nóc. Chưa bao giờ, ông coi cái thằng “bạn đểu” Trung cộng, là thù và chẳng khi nào, ông coi Hoa kì, là bạn. “Ý Đảng”, luôn đi ngược và xung đột lợi ích với “lòng Dân”. Điều đơn giản nhất ấy, mà ông còn không nhận ra. Nói chi đến những cái chuyện “công to – việc nhớn”. Cái “biện” của ông (nếu có), suy cho cùng, cũng chỉ là cái loại bao biện – là cái thứ biện biệt của lũ trẻ trâu và nếu có cao hơn nữa, cũng là cái loại lí sự cùn. Lũ lâu la của ông, thường giải trình rằng: Những lâu đài – những khối tiền của mà chúng có được, là do tích lũy từ việc “chạy xe ôm” – “buôn rượu lậu” hoặc bán “chổi chít”. Nghe chúng trơ trẽn nói ra những điều phi lí đến như thế, ông cũng im lặng, để biểu lộ thái độ đồng tình. Chẳng biết, ông nhu nhược – ông ngu hay cùng lúc, có cả 2 thứ ấy?

   -Nói về cái Dũng của ông, càng thêm buồn. Trong những năm cả nước đánh Mỹ, bao người đã tình nguyện và hăng hái cầm súng lên đường ra mặt trận. Trong số đó, thiếu gì người mới 12, 13 cái tuổi đầu. Ba X, chẳng hạn. Ông ta đánh trận, từ khi, “chim” của mình, vẫn còn chưa thèm mở mắt. Dĩ nhiên, không có cái chuyện: Đường ra mặt trận, “mùa này đẹp lắm” và chỉ gồm toàn những người tình nguyện. Ai không tình nguyện, tất sẽ bị cưỡng bức. Riêng ông Tổng, xin hỏi: đã trốn chui – trốn nhủi ở nơi đâu và bằng cách nào, mà không phải đi bộ đội? Các bác “xấu bụng”, còn bôi bác rằng: Người mẹ yêu quý của ông, không muốn dòng họ nhà mình, tuyệt tự. Cho nên, bà đã đánh đổi việc ấy, bằng 2 con gà mái cùng với mấy chục quả trứng. Thực – hư của câu chuyện đó, như thế nào ? Ông có dám thanh minh, trước bàn dân – thiên hạ ?

   Sợ chết, suy cho cùng, chưa phải là những cái gì tồi tệ nhất ở một con người. Có điều, đã nhát gan thì nên trốn kĩ ở nhà – chỉ nên bám váy mẹ và rúc đầu vào nách vợ và chỉ nên ăn quẩn xung quanh cái cối xay cùn. Giống như, lũ gà què. Ngo ngoe ra chỗ ba quân làm chi, cho hổ thẹn với chí làm trai. Đến chốn quan trường làm chi, để rước họa diệt thân vào người.


   Hèn như thế, cho nên, mới chỉ nhìn thấy con ngáo ộp Trung hoa, đã xun hết cả vòi. Để rồi, chưa bị chúng đánh, mà đã đầu hàng vô điều kiện.

   Tài hèn – chí cùn và nhát như thỏ đế. Đó là tử huyệt thứ 4 của ông Tổng.
Bốn cái tử huyệt ấy của ông Tổng, đánh từ ngả nào vào, cũng chết. Những cái khác, xin phép cả nhà, cho Dân già giữ lại một ít, để giắt lưng. Phòng khi, ông Tổng lên cơn, đến sờ đít lão Dân già, lão còn có vũ khí, để mà “giao thiệp nghiêm khắc” với ông ta.

   5-Ông Tổng, là con người như thế. Cho nên, còn ông Tổng, Nước Việt còn điêu linh. Chúng ta, còn mất mặt trên trường Quốc tế  – chúng ta, còn bị Tàu ép và chúng ta, càng bị lệ thuộc sâu vào chúng. Những sự việc này, rồi sẽ để lại di hại không dễ gì khắc phục, cho các thế hệ con cháu của chúng ta.

Phải thay đổi. Đó là mệnh lệnh của cả con tim và khối óc.

   Giữa cái xấu và cái tồi tệ, người thông minh, không chọn phương án 2. Mong rằng, các thành viên trong Hội nghị TW 6 lần này: hãy bừng tỉnh – hãy hành động và hãy tống cổ lão già: Tuổi cao – sức yếu; mắt mờ – chân chậm; ương ngạnh – dốt nát và bảo thủ về vườn. Theo “đúng quy trình” và đúng cái lộ trình, mà Đại hội Đảng lần thứ XII của quý vị, đã định ra.

Nguyễn Tiến Dân
Tel:  0168 – 50 – 56 – 430

Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ CS đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây – mai đó, chưa có nơi ở cố định.